NGÀY THỨ HAI
Lama Pabongka Rinpoche mở đầu:
Ðức Tsongkapa vĩ đại (trong lời Dẫn nhập tác phẩm Ba Nòng Cốt Của Ðạo Lộ) đã viết:
Tôi sẽ cố giải thích ý nghĩa
Tinh túy của tất cả kinh điển
Của Ðấng Chiến Thắng
Ðạo lộ được tán dương
Bởi tất cả chư Phật và những pháp tử của ngài
Ðó là cửa vào cho những người may mắn muốn đạt giải thoát.
Giáo lý này là tinh túy của tất cả kinh điển Phật thuyết. Trong phần Phạm Vi Nhỏ bạn được thúc dục phải từ bỏ những cõi xấu ác, trong phần Phạm Vi Trung Bình, bạn được thúc dục phải từ bỏ toàn bộ vòng sinh tử luân hồi, vân vân. Nhưng bạn sẽ không làm nổi những việc ấy nếu không dựa vào Lam-rim. Tâm bồ đề tôn quý là con đường mà tất cả chư Phật và các đấng Pháp vương tử (Bồ tát) đều ca ngợi. Cửa vào cho những người mong đạt giải thoát chính là chánh kiến về Tánh không, xa lìa hai cực đoan thường kiến và đoạn kiến. Bạn cũng không thành tựu được điều này nếu không dựa vào hệ thống giáo lý Lam-rim. Bởi thế để đạt thành Phật quả, bạn cần phải phát triển ba nòng cốt ấy của đạo lộ ở trong lòng tâm thức bạn.
Muốn phát sinh ba nòng cốt này trong tâm thức, bạn phải dựa vào Lam-rim. Bởi thế mà ngay từ đầu, bạn hãy khởi động lực như sau: “Tôi sẽ đạt Phật quả vì lợi lạc cho tất cả hữu tình - và lý do ấy tôi sẽ tham dự buổi nói chuyện thân mật này về Ba phạm vi khác nhau của Lam-rim.” Hãy tập trung tất cả những động lực và hành động của bạn theo chiều hướng những ý tưởng ấy, rồi hãy lắng nghe.
Và pháp mà các bạn sắp nghe là pháp gì? Ðó là pháp Tối thượng thừa, giáo lý đưa người may mắn đến Phật quả. Ðó là con đường truyền thống của hai vị tiên phong vĩ đại là Long Thụ và Vô Trước. Ðó là tinh hoa tư tưởng của đức Atisha vô song và đức Tsongkapa, Pháp vương của ba cõi. Giáo lý này sâu xa là như vậy đó. Nó có mọi điểm then chốt được tìm thấy trong tinh hoa của tám vạn bốn ngàn kinh điển, nó tổ chức những thực tập tuần tự đưa ta đến giác ngộ.
Những “câu chuyện thân mật” về những giai đoạn của con đường đến giác ngộ có thể nằm dưới một tiêu đề căn bản: “Giáo lý thực thụ.” Nhưng có những tiêu đề được đưa thêm vào để ấn định bản chất của Lam-rim, những bản kê khác nhau về nó, và thứ tự giảng dạy giáo lý này. Bạn phải quen thuộc với những tiêu đề này để biết chắc cái nào đi với đề mục thiền đặc biệt nào, chúng được giải thích như thế nào, những trích dẫn đưa ra trong những tiêu đề ấy, hệ giáo lý khẩu truyền về chúng, và những chỉ dẫn mà chúng hàm chứa. Nếu không, nghĩa là nếu bạn nghe một giáo lý khơi khơi không có tiêu đề nào cả, thì sẽ khó làm cho những thiền quán trở thành lợi lạc cho dòng tâm thức bạn. Nó sẽ giống như là bạn cố lấy riêng ra xài hoặc trà, hoặc bơ, muối, soda... sau khi chúng đã được bỏ chung một bình. Có nhiều loạt tiêu đề khác nhau - một số dùng cho những Lam-rim ngắn gọn, một số dành cho những bản dài hơn. Bạn nên theo những tiêu đề của giáo lý mà bạn đã hấp thụ.
Bây giờ tôi sẽ theo phần lớn sự thực hành của tôn sư tôi áp dụng tiêu đề Con Ðường Nhanh. Loạt tiêu đề đặc biệt này được trang điểm bằng nhiều chỉ giáo khẩu truyền. Trước đây nó chưa từng được bút ký, nhưng ngài hết sức cẩn thận khi giảng dạy chúng một cách công khai; và tôi cũng đã được thụ giáo những tiêu đề ấy một mình với thầy. Tôi đã hết sức cẩn thận thu thập chúng lại và viết lên giấy. Những tiêu đề ấy không quá ngắn cũng không quá dài, và có nhiều dáng vẻ độc đáo đã được cho là rất công hiệu.
Những học giả tu viện Nalanda ưa nói đến ba sự thanh tịnh trước khi giảng pháp:sự thanh tịnh giáo lý khẩu truyền của vị thầy, sự thanh tịnh của dòng tâm thức nơi môn sinh, và sự thanh tịnh của Pháp đang được trình bày. Những học giả của Vikramashìla trong những phần dẫn nhập thường nói đến tính vĩ đại của tác giả, tính vĩ đại của Pháp, và cách lắng nghe giáo lý ấy. Tôi sẽ theo truyền thống sau cùng này.
Bài giảng về những giai đoạn của con đường đến Giác ngộ có bốn phần chính:
1. Sự vĩ đại của các tác giả, được nói lên để chứng minh rằng giáo lý này có một nguồn gốc trong sạch.
2. Sự vĩ đại của Pháp, được nói để tăng niềm tin tưởng đối với giáo lý.
3. Cách chân chính để giảng và nghe nền giáo lý có hai sự vĩ đại này.
4. Trình tự theo đó các môn đệ phải được dạy những chỉ dẫn thực thụ.
Bốn tiêu đề này được tìm thấy trong tác phẩm (của Tsongkapa) Những Giai Ðoạn Lớn Của Con Ðường. Bất kỳ loại Lam-rim nào được trình bày - Con Ðường Dễ, Con Ðường Nhanh, vân vân - bất kể nó được giảng chi tiết đến đâu, truyền thống khẩu truyền nói bạn phải khởi bằng những tiêu đề ấy, nếu không người ta sẽ không phất sinh đầy đủ niềm tin.
I. TÍNH CÁCH VĨ ÐẠI CỦA NHỮNG TÁC GIẢ NÓI LÊN ÐỂ CHỨNG TỎ NỀN GIÁO LÝ NÀY CÓ MỘT NGUỒN GỐC TRONG SẠCH.
Như lần trước tôi đã nói, theo truyền thống những học giả Ấn, thì Pháp mà bạn sẽ thực hành phải là do Phật dạy, được giảng giải bởi những bậc học giả hiền trí, và được xử dụng để thiền quán bởi những hành giả uyên bác có thể phát sinh những thực chứng về thần thông và tuệ giác trong dòng tâm thức họ.
Về phần chúng ta, chúng ta cần nhiều hơn là đức tin, trí tuệ, và kiên trì tinh tấn; nếu ta thực hành một Pháp mà chỉ có vẻ hữu lý, thì ta sẽ không đạt được kết quả nào. Ta đã thấy tận mắt nhiều người vừa trí tuệ vừa kiên nhẫn đã lãng phí thì giờ vô ích kiểu ấy. Hơn nữa, dù một giáo lý có được cho là phát xuất từ những linh kiến sâu xa đến đâu, thì Ba Nòng Cốt Của Ðạo Lộ như tôi đã nói với bạn, vẫn quan trọng hơn các Sàdhanas (những phương pháp đắc quả) và những giáo lý dạy cách chứng các thần thông, bởi vì những thứ này còn không hơn được cả đến một dẫn nhập vào ba quy y.
Muốn tìm về nguồn của một con sông, bạn cần hải đi trở ngược về lằn ranh tuyết. Cũng thế bạn phải truy tầm một pháp trở lui về Ðức Phật, bậc Thầy của chúng ta. Nếu có thì giờ để bàn chi tiết điều này, tôi sẽ khởi sự bằng đời Ðức Phật và những tiểu sử của những bậc thầy thuộc tất cả các hệ phái, làm thế nào các ngài đã sử dụng con đường này để đạt đến những quả vị cao siêu. Nhưng tôi không đủ thì giờ để bàn dài dòng như thế. Tôi chỉ kể cho các bạn nghe một ít chuyện mà thôi.
( Khi ấy Pabongka Dorje Chang (Kim cương trì) kể sơ cho chúng tôi nghe làm thế nào mà có hai hệ truyền thừa từ đức Phật xuống Atìsha; và làm thế nào Atìsha đã phối hợp hai hệ phái thành một dòng. Ngai tiếp:)
Atìsha viết Ngọn Ðèn Soi Ðường tại Tây Tạng; từ ngữ “Lam-rim” về sau mới xuất hiện. Trong tất cả những tác phẩm về giáo lý Lam-rim như Con Ðường Tối Thượng, Giáo lý Tuần Tự, vân vân, tác phẩm chính về đề tài này - Ngọn Ðèn Soi Ðường - là kiệt tác của ngài. Bởi thế Atìsha gần như là tác giả của những pháp môn ấy. Ngay cả Tsongkapa vĩ đại cũng viết: “Tác giả sách này kỳ thực chính là Atìsha.” Bởi thế đáng tôi phải kể cho các bạn nghe lịch sử chi tiết cuộc đời ngài, song vì ít thì giờ tôi chỉ nói sơ lược.
Tiểu sử này có ba tiêu đề:
1. Ngài sinh vào một trong những gia đình quý tộc.
2. Ngài đã có được những kỳ đức từ thuở ấu thơ.
3. Sau khi có được những đức ấy, ngài đã làm những việc gì.
A. ATÌSHA SINH VÀO MỘT GIA ÐÌNH QUÝ TỘC
Atìsha sinh tại miền đất nổi tiếng đông Ấn bây giờ là Bengal, tại một đô thị lớn có một trăm ngàn hộ dân cư, tổng số dân là ba triệu năm trăm ngàn. Lâu đài của thân phụ ngài được gọi là “Lâu đài của những lá cờ vàng chiến thắng.” Có mười ba ngôi chùa vàng, và hai mươi lăm tràng phan chiến thắng bằng vàng. Gia đình ngài rất giàu có và có thế lực. Thân phụ ngài là vua Kalyànashrì; thân mẫu là Prabhàvatì. Lúc ngài ra đời có nhiều điềm lạ.
B. NGÀI ÐÃ ÐẠT ÐƯỢC NHỮNG KỲ ÐỨC NGAY TRONG ÐỜI NÀY NHƯ THẾ NÀO
Khi vị thái tử hài nhi mới mười tám tháng tuỏi, song thân ngài viếng thăm một ngôi đền ở Vikramapuri. Dân chúng sắp hàng hai bên đường để xen thái tử. Ngài trông thấy đám đông và hỏi cha mẹ: “Những người này là ai thế?” Họ trả lời: “Ðấy là thần dân của con.” Hài nhi nhìn mọi người với vẻ thương xót và thốt ra lời kệ:
Ước gì họ đều như tôi:
Giàu có, nhiều công đức sáng chói,
Thừa kế ngai vàng, một thái tử đầy quyền lực.
Ước sao tất cả họ đều tin theo Diệu Pháp!
Mọi người rất đỗi kinh ngạc. Khi vào đền, mọi người kể cả cha mẹ ngài đều cầu nguyện không bệnh, sống lâu, giàu có, khỏi sa vào đọa xứ, được sanh lên thượng giới, vân vân. Riêng thái tử lại cầu nguyện như sau:
Tôi đã được tái sanh làm người
Một người được ưu đãi
Giác quan tôi không tì vết
Tôi gặp được Ba ngôi báu
Mong sao con luôn luôn kính cẩn
Ðội trên đầu con Ba ngôi báu
Kể từ hôm nay, xin Ba ngôi báu làm chỗ nương của con
Mong sao con đừng bao giờ bị công việc gia đình trói buộc
Mong sao con có năng khiếu về Pháp
Ở giữa đại chúng Tăng già.
Mong sao con cúng dường Tam bảo
Mà lòng không một chút kiêu căng
Mong sao con nhìn mọi hữu tình với lòng thương xót.
Mới mười tám tháng tuổi, vị thái tử hài nhi đã nói đến chuyện quy y và phát tâm bồ đề. Ngài đã làm cho chúng ta tin tưởng ngay từ điểm này trong tiểu sử đời ngài.
Tác phẩm “Quyển sách của hệ phái Kadampas” cho chúng ta biết về sự phát triển sớm của ngài:
Khi thái tử lên ba
Ngài đã giỏi về toán,
Văn chương và thi phú.
Khi lên sáu tuổi
Ngài có thể phân biệt
Phật pháp, phi Phật pháp.
Phân biệt Phật pháp với không phải Phật pháp thật là chuyện vô cùng khó khăn. Có lẽ chuyện sau đây sẽ cho bạn vài khái niệm. Có lần Atìsha đã nói: “Ở Ấn Ðộ chỉ có ba người biết phân biệt Phật pháp và phi Phật pháp là Nàropa, Shàntipa và tôi. Naropa đã chết, còn tôi đã đi Tây Tạng. Có thời nào mà xứ Ấn lâm vào một tình thế tệ hơn không?”
Chính sự kiện Atìsha có thể phân biệt như vậy vào lúc lên sáu, đối với tôi dường như là dấu hiệu chứng tỏ ngài đã uyên bác ngay từ lúc nhỏ.
Khi ngài mười một tuổi, nhiều công nương công chúa xứng đôi vừa lứa đã tìm đủ nghệ thuật múa hát để quyến rũ ngài; nhưng những cảnh tượng ấy chỉ gợi cho ngài sự gớm ghiếc và xuất ly. Có một cô gái làn da ngăm đen vốn là hóa thân của Tara, đã nói với ngài.
Thái tử, chớ bị vướng mắc
Hỡi người diễm phúc, đừng bị vướng
Nếu một anh hùng như ngươi
Mà bị tóm trong vũng lầy dục vọng
Thì cũng như con voi sa lầy.
Nhưng người mặc áo giáp giới đức thì không chìm đắm.
Ta hãy suy xét rộng rãi lời nói của nàng. Nàng bảo thái tử đừng vướng mắc trước hết là vào đời này, và thứ đến là vào sinh tử luân hồi nói chung. Ví dụ nàng dùng về con voi sa lầy có nghĩa rằng, vì con voi có thân xác khổng lồ, nên còn khó gỡ mình ra khỏi sình lầy hơn những con vật khác. Nếu những người thông thường mà phạm vài điều quấy, thì chỉ có hại cho bản thân họ chứ không thể phương hại đến sự lan truyền giáo lý. Nhưng nếu tu sĩ vĩ đại hoặc những tái sanh của Lamas mà hành xử sai trái, thì sẽ làm cho sự giảng dạy giáo lý trong vùng ấy mất ảnh hưởng. Nếu những vị này hành xử thích đáng, thì giáo lý ở vùng ấy sẽ thịnh. Lại nữa, với tôi dường như điều ấy muốn nói rằng điều quan trọng nhất là những người lớn như quý vị cần phải đa văn, có đạo dức, từ bi, và quý vị nên giữ gìn những truyền thống Gelugpa thuần tịnh.
Vị thái tử trả lời rằng những lời yêu cầu của nàng làm cho thái tử rất hài lòng.
Không lâu sau đó, vua cho một trăm ba mươi kỵ sĩ vây quanh thái tử. Thái tử giả vờ đi thám hiểm núi rừng ở vùng lân cận. Mục đích thực thụ của ngài là tìm một bậc đạo sư. Ngài gặp bà la môn Jitarì đang sống trong một ngọn núi, ông cho thái tử quy y và thọ giới Bồ tát, và cho thái tử biết về Bodhibhàdra ở Nalanda, người có duyên nghiệp với thái tử đời quá khứ. Thái tử liền đi gặp bậc thầy ấy và dâng cúng ngài nhiều ngọc ngà châu báu. Bodhibhàdra rất hoan hỉ. Bậc thầy nhập định và làm phép tịnh hóa ba cửa (thân khẩu ý) cho thái tử. Ngài cũng cho thái tử nhiều lời chỉ giáo liên hệ đến sự phát tâm bồ đề, đoạn giới thiệu thái tử đến bậc thầy Vidyakokila, vị này cũng dạy thái tử về sự phát bồ đề tâm rồi gởi thái tử đến một bậc thầy từ đời trước của thái tử là Avadhutipà.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks