Linh nhiệt thành tựu pháp

(Cái thứ nhất của Lục thành tựu pháp)
Linh nhiệt thành tựu pháp là bộ pháp thứ nhất của Tạng mật Lục thành tựu pháp, cũng là cơ sở của lục thành tựu pháp, cũng tức là Chuyết hoá định trứ danh của Tạng mật, là cái sáng tác của Tây tạng Cát cử phái (Bạch giáo) tổ sư đời thứ 24 Phách mã ca nhĩ ba lạt ma. Do bất đan nặc phô thượng sư công khai. Tích kim đạt ngỏ tang đổ cách tây thượng sư truyền dịch ra Anh văn. Biên giả đã từng đem pháp này vào quyển "Mật tông bí pháp" trong đó chọn lọc tinh yếu của linh nhiệt lục thành tựu pháp tức là tư pháp đã đơn giản hoá.
Theo sự truyền thừa của bạch giáo, thế ngồi nên dùng thấtchí toạ pháp tức là Già phu toạ, đơn bàn hay song bàn ngồi thẳng xương sống duỗi lơi cách mô, hoàn toàn phóng túng (lơi lỏng), đầu cúi phía trước cằm áp vào hầu kết (trái cổ) cũng có thể không cúi đầu vào phía trước lưới chạm nóc, tay tay đặt ở dưới rốn, lòng bàn tay hướng lên, cánh tay đặt ở trên đùi, hai ngón cái chạm nhau, nhắm hoặc chẳng nhắm mắt, tâm duyệt theo hơi thở.
Trước quán tưởng vị truyền thừa căn bản thượng sư cũng * đại các tổ sư, cùng cầu nguyện đức thượng sư gia trì cho . Các vị thượng sư mỗi mỗi đều dung hoá làm điểm ánh sáng nhiếp nhập vào trong thân ta, cùng với ta hợp thành thể không hai. Nhưng các vị thượng sư thành tựu bạch giáo một đời khó gặp, có thẻ lấy Nặc phô thượng sư làm thượng sư căn bản vì ngài công khai pháp này, chắp tay niệm: "Na mô Nặc phô lạt ma" ít nhất 3 biến.
1. Tam tam cửu phong sương thức hô hấp pháp
Tập tam tam cửu phong sương thức hô hấp là khinh điều phong tức điều phong tức lại gọi là "phật phong" nên pháp này và cửu tiết phật phong về cơ bản giống nhau.
Trước khi hành tam tam cửu phong sương thức hô hấp là Khinh điều phong tức điều phong tức lại gọi là "phật phong" nên pháp này và cửu tiết phật phong về cơ bản giống nhau.
Trước khi hành tam tam cửu phong sương thức hô hấp, trước nên quán tưởng thân mình trong suốt sáng, trong thân có ba mạch, tức là trung mạch hữu mạch và tả mạch. Trung mạch là căn bản của tất cả cáclinh mạch đều thẳng trong suốt màu đỏ rỗng bốn đặc tính trên thì đến đỉnh môn, dưới thì đạt đến vùng dưới rốn bốn ngón là hai đến luân (tương đương với hôi âm). Trung mạch hai đầu đều bằng, trên lớn dưới nhỏ. Dựa hai bên trung mạch có tả hữu hai mạch, gầy nhỏ như ruột dê, đi lên nhiều quanh đảo đỉnh, từ phía trước nảo bẻ cong xuống, thông vào hai rườn mui. Mạch trái thông với lỗ mũi trái, mạch phạt thông với lỗ mũi phải. Phần dưới rốn ngón tay là chỗ giao hội của ba mạch.
Tam tam cửu phong sương thức hô hấp pháp.
Thứ nhất ba lần hô hấp trước dùng mũi phải hít, lỗ mũi trái thở, lúc hít đầu chuyển từ trái sang phải. Thứ ba ba lần hô hấp, đầu chẳng động, hai mũi đều đồng dùng hô hấp ba lần. Đây là lần ba sự hô hấp, làm ba biến, tức là ba lần chín 27 lần hô hấp. Lúc dùng mũi phải thì lấy ngón áp út trái bịt mũi trái, lúc dùng lỗ mũi trái thì dùng ngón áp út phải bịt lỗ mũi phải. Lúc chẳng dùng lỗ mũi thì ngón áp út bịt chặt, lúc dùng thì bỏ ra.
Biến thứ nhất cửu tức, cực nhẹ và nhỏ (khinh tế), như chẳng còn nghe được hơi thở. Biến thứ thì cửu tức, có thể hơi nghe hơi thở. Biến thứ ba cửu tức, chẳng những có thể nghe hơi thở lại lúc hít vào nên lắc động thân thể.
Lúc hô hấp cùng có thể quán tưởng, vào lỗ mũi là ánh sáng trắng khi vào tả mạch hay hữu mạch thì biến thành màu đỏ, thuận dọc theo mạch trái hay phải mà đi, lúc từ lỗ mũi ra thì biến thành khí đen, tức là khí bất thanh khiết trong thân.
2. Linh nhiệt quán tưởng pháp
Trước khi tu quán tưởng Linh nhiệt, cần đơn giản biến trúc trung mạch trong thân có bảy cái luân, tức là Hải đế luân (Vùng hội âm). Sinh thực luân (ở góc của bộ sinh thực khí). Tề luân (ở vùng rún), tâm luân ở vùng tâm, hầu luân (ở vùng họng), mi gian luân (ở giữa hai mi). Đỉnh luân (ở đỉnh đầu còn có tên là Thiên diệp liên hoa đài).
Linh nhiệt quán tưởng như bài kệ nói :"A tự bán thể làm điểm quán, phát sinh linh nhiệt bí mật pháp". ở vùng dưới rốn bốn ngón tay là nơi trung mạch và tả, hữu mạch hội họp, quán tưởng chữ A nhỏ như sợi lông tóc, cao khoảng nửa ngón tay, theo tạng văn thì nó khoảng 1cm, dựng đứng sắc màu đỏ khói, nét như bút vẽ, nhỏ mà sáng ánh, phiêu động, phát ra cảm giác nóng, phát ra âm thanh băng băng như gió thổi qua cọng dây.
Ở trong trung mạch ở đỉnh luân thiên diệp liên dài, quán tưởng chũ HÙM màu trắng, như dạng muốn giáng xuống chất cam lộ. Như thế nhập vào linh tức (khí hít vào) rồi nhiếp linh tức vào trong đường của tả hữu mạch. Linh tức này đi xuống bành trướng từ phần đáy của trung mạch cổ nhập rồi đi lên chạm vào chữ A làm cho tràn đầy các phần bên ngoài, chữ A toàn bộ biến thành màu đỏ. Lúc bấy giờ nên tập trung tinh thần quán tưởng.
Ngay lúc thở ra, thực tế lỗ mũi xuất khí, song đồng thời nên quang tưởng trong trung mạch, có linh lực lưu chảy màu lam, cùng theo ra với hơi thở.
Lại ở lúc hít khí rồi bế trụ, quán tưởng từ chữ A màu đỏ phát sinh rahoả diệm, dài khoảng nửa ngón tay, đầu trên nhọn, hừng nóng bốc ánh sáng. Quán tưởng ngọn lửa này, có đặc tính của trung mạch tức là thẳng, sáng, rỗng không và ngọn này chuyển động lung linh dử.
Lại mỗi sau khi hít hí vào thân ngọn lửa này thăng lên nửa ngón, sau khi trải qua tám lần hô hấp thì thăng đến tề luân.
Lại trải qua 10 hô hấp, từ tề luân trung mạch phân ra cho các đường mạch đều tràn đầy linh nhiệt.
Lại tải qua 10 hô hấp linh nhiệt này hạ hành làm tràn đầy các bộ phận bên dưới cơ thể, tức đẩy cho đến ngón chân, làm cho được thông suốt.
Từ chỗ này lại trải 10 hô hấp, ngọn lửa thăng lên, sung đầy toàn thân, đạt đến tâm luân
Lại trải 10 hô hấp, ngọn lửa thăng lên, đạt đến hầu luân.
Lại trải hô hấp, ngọn lửa thăng đến đỉnh luân
Như thế rồi nhập định
Như khẩu quyết có nói: "Dần được thần ngưu giáng thành nhủ"Thần ngu là cái Mật xưng của chữ HÙM , A biểu thị cho âm HÙM biểu thị dương, thánh dương hợp với thánh âm, như giáng sửa của Thánh.
Nói trái lại, lại trải 10 hô hấp, chữ Hùm trong trung mạch đỉnh luân, bị linh nhiệt nấu tan, biến thành BỒ đề "Nguyệt dịch", nhỏ giáng xuống, tràn đầy cho các mạch của đỉnh luận.
Lại trải 10 hô hấp, nguyệt dịch sang đầy Hầu luân.
Lại trải 10 hô hấp, nguyệt dịch sang đầy tâm luân.
Lại trải 10 hô hấp, nguyệt dịch sang đầy tề luân.
Lại trải 10 hô hấp, nguyệt dịch tràn đầy toàn thân, tức là cho đến các đầu ngón tay, chân đều thông suốt.
Dẩu linh nhiệt nhu diệu pháp, tóm lại cần làm 108 lần hô hấp.
Người mới tu tập trong khoảng 1 ngày đêm, nên tu tập như thế 6 lần. Từ đó về sau tập cho thưòi gian hô hấp được kéo dài ra. Thời gian tu tập giảm mỗi ngày còn 4 lần. Sau thời gian tu tập khoảng 30 ngày, một lần hô hấp chiếm cứ khaỏng thời gian tăng lên 50*100
Tập điều nhiếp thân tâm linh lực, để phát sinh linh nhiệt gọi là "Linh nhiệt thực thi pháp"
3. Kinh nghiêm về linh nhiệt
Kinh nhiệm về linh nhiệt có hai: Phổ thông và đặc thù
Kinh nghiệm về phổ thông linh nhiệt chia làm ba kỳ
Thời kỳ mới đầu: cảnh giới của tâm và linh lực bình tinh, linh nhiệt cuồn cuộn phát sinh, ngay lúc linh nhiệt mới bừng nóng, tất cả các luân trên luân nhất thì đều khai mở, linh lực đạo nhập nguyệt dịch, các luân đều cảm thấy đau như cảm giác hơi đau của sự giao cấu, đây gọi là thời kinh nghiệm về cái đau, hoặc gọ là thời kỳ noản kinh.
Thời kỳ hai: Từ đây về sau các luân trải qua một độ thấm nhuần, trao đổi khắp với linh lực và nguyệt dịch đều mở ra, nguyệt dịch tăng thêm nhiều, rót đầy bên trong nó, khiến cho thành thục, chẳng bao lâu liền sinh cảnh giới vô số cứu lạc hửu lậu, kỳ này hoặc gọi là thời kỳ kinh nghiệm cực lạc sinh khởi.
Thời kỳ thứ 3: từ đây về sau chẳng bao lâu tâm được cái lắng định an lạc bên trong, từ đấy quán về các hiện tượng của ngoại giới không gì không đượcan lạc, đấy là kỳ chính kinh nghiệm của cực lạc. Từ đây sóng vọng tưởng, tự nhiên tịch tỉnh, mà tâm được cảnh giới bản tự tại, tức là chính an chỉ, hoặc cảnh giới của Tam ma địa, hoặc gọi là cảnh giới Vô phân biệt.
Song từ cảnh giới an chỉ, cùng cảnh giới phi nhất vô giác thọ. Lúc bấy giờ, cần có các cảnh gíc như mây khói, như ảo thành, như ánh mặt trời, như ánh sáng ấm, như ánh đèn sáng, như buổi sớm, như trời không trong tạnh, cho đến vô số các cảnh giới không thể nói trước được, thì hệin ra ở trước mặt của người học.
Ngay trong thời kỳ bồ đề nguyệt dịch ba lần chuyển, các điểm lành hoặc cảnh tượng thấy được , người học chẳng thể nhìn nhận, nhưng lại chẳng thể cho những người chưa được thấy biết, hay móng vọng mong muốn cho nó hiện ra thấy, nên lấy phương thức chính là thường tu tập linh nhiệt.
Lúc tác dụng linh nhiệt của người học sinh ra hiệu năng thì người học có thể miến trừ tật bệnh già suy, hay các loại suy tồn của các sinh lý khác và cũng có thể bao lâu chứng được ngủ thông và vô số thắng quả hữu lậu. Ngủ thông là: thiên nhản thông. Thiên nhỉ thông. Tha tâm thông. Thần cảnh thông và túc mệnh thông.
Sự thù thắng của kinh nghiệm linh nhiệt phát sinh ở chỗ hội hợp của ba mạch, từ chỗ này rót vào linh lực.
Có 5 loại hiện tượng: như ánh sáng của ánh lửa bạo phát như ánh sáng tăng, như mặt trời, như ánh sáng của thổ tin, như ánh sáng điện chớp, ánh sáng lửa bạo phát màu vàng ánh sáng tăng màu trắng, ánh mặt trời màu đỏ, ánh thổ tinh màu lam, ánh điện chớp màu đỏ lợt, các loại ánh sáng này hợp lại thành ánh sáng màu cầu vồng, bao quanh thân người học.
Từ ở sự thu hoạch được các thành tựu nêu ở trên, thì chín cửa khiếu của thân (7 khiếu ở trên đầu và cửa đường, tiện, đường tiểu, hợp lại là 9 khiếu). Bốn cửa khiếu của miệng (hầu, lưỡi, môi, nóc giọng) đều đóng thì chẳng thọ chịu các sự kích thích ở bên ngoài và 2 khiếu của tâm (ý chí và ký ức) thì mở. Đây là cảnh nội tại chứng đắc an lạc bên ngoài thì kinh nghiệm được về kiến văn giác tri nhất thiết thời xứ (thấy hiểu biết được ở tất mọi thời mọi nơi), không gì chẳng ph; ải là giòng liên tục của Tam ma địa, nên cái gọi là Thắng an chỉ cánh tức là dây, hoàn toàn an chỉ cảnh tức là đây.

LANFRANCE