NGUYÊN TỬ KHÍ.
Từ buổi phân Lưỡng Nghi, khí dương là nơi phát sanh của Dương Quang tiếp dẫn bởi ngôi Thái Cực. Nơi Dương Quang hằng sản xuất biết bao điểm linh mà có nên cõi vô hình. Những điểm linh ấy sau một thời gian trải bước trên trường thi công quả mà tạo nên ngôi vị.
Nơi cõi vô hình chia ra Tam Thập lục Thiên mà từng cao nhứt là ngôi Chúa Tể cả Càn Khôn Vũ Trụ, 36 từng Trời ấy chia ra làm 3000 Thế Giới đẳng lập nên võ trụ hửu hình tức các Cung, các động mà ta đã thấy hằng đêm khi nhìn lên Trời gọi là hằng hà sa số vì sao.
Những sao mà Khoa Học gọi là định tinh ấy là nơi của Chư Đại Tiên Trưởng hằng ngự để điều khiển Thế Giới của mình, còn các sao gọi là hành tinh là nơi của các Chơn Linh đang thi hành phận sự. Trong 3.000 Thế Giới lại chia ra Tứ Đại Bộ Châu đặng Chưởng Quản về Thất Thập Nhị Địa.
Nơi cõi Hư Vô là cõi vô hình theo sắc tướng, song đối lại với dương quang vô tướng thì nó lại là hửu hình. Khí Dương Quang là những nguyên tử cấu tạo, vậy thì các Chơn Linh cũng là sự kết hợp của tế bào Dương Quang đó vậy. Do đó mà trong cõi hửu hình loài người đã tìm ra những luồng sóng điện vô hình. Vậy cho nên những vị đắc Pháp có huệ nhãn thì thấy được, có huệ tỷ thì ngửi được, có huệ tâm thì ứng được.
Khi loài người đã lộ hết lẽ huyền vi cho nhau đặng hiểu rõ thì cớ bí mật chẳng còn nữa do đó mà sự qui cổ phải trở lại đặng cho các nguyên nhân thấy rõ mọi đường học hỏi về sự biến chuyển là lẽ nào.
Ngày nay các nguyên nhân xuống thế mà hiện còn ở tại thế đã chuyển kiếp mấy lần 90.000 kiếp rồi, bởi đó mà CHÍ TÔN xây cơ chuyển thế cho các Nguyên Nhân thấy rõ sự huyền vi bất khả xâm phạm của Thiên Điều, là dù cho tay phàm kiếm đặng sự bí mật của Tạo Hóa mà họ có thể kiếm đặng sự sanh của Đức CHÍ TÔN hằng dể hay chăng?
Ngày nay các Nguyên Nhân đã thấy rõ sự tiến hóa của họ về vật chất là mầm tiêu diệt nên tự họ phải nhường bước trước hình phạt Thiêng Liêng. Họ đã hiểu đặng huyền vi bí mật của vũ trụ mà họ không hiểu lẽ sanh tồn do đâu mà có. Vì vậy mà lần hồi họ chỉ nhờ học hỏi nơi đạo đức mới hiểu lẽ ấy do đâu.
Lần nầy vì các Chơn Linh xuống phàm quá lâu, nên Đức CHÍ TÔN muốn đem về hết một lượt rồi cho trở xuống học lại lớp khác. Bởi cớ, tam ngươn tận mãn thì nhứt ngươn kế tiếp là vậy.
Để mở kỷ nguyên Thánh Đức, Đức CHÍ TÔN đã cho các Bác Học, Khoa Học Gia thu dụng được nguyên tử khí, nhưng sự hằng sống do đâu? Đó là một đề tài không phải đơn giản. Nếu Đức CHÍ TÔN không cho các Đấng Thiêng Liêng chỉ dạy trong cơ đại ân xá nầy, thì sự tìm tàng của thế gian chỉ là chuyện mò trăng đáy nước.
Từ hổn độn sơ khai, Ngôi Thái cực phân âm dương biến hóa thì trong khí hư vô đã có sẵn các tế bào. Sau tiếng nổ âm dương phân tách, khí Dương Quang là khí nhẹ nhàng bay lên trên, còn khí âm là khí chất chứa các tế bào nên lóng xuống dưới.
Các khí chất trên liên đới với tế bào mà tựu lại thành chất khí và biến thành vạn vật; khi chưa thành hình thể hửu vi thì chất khí quyện tựu lại là một cục lửa do khí Dương Quang đốt cháy. Sau đó, nơi Diêu Trì Cung thâu Thập Nhị Địa Chi mà biến khí Dương Quang và chất khí làm Ngũ Hành. Vậy cho nên: Đất, Nước, Sắt, Đá và Lửa được nảy sanh trước hết đó là Kim Thạch Hồn.
Còn Vật Chất Hồn thì nguyên thỉ của nó cũng là tế bào, nhưng nó ở chung lộn cùng nhau chẳng phân tách riêng một thứ gì. Sau một thời gian biến chuyển chịu dưới sự điều động của khí âm dương mà biến nên hình tướng đặng tạo thành Ngũ Khí. Nó tuy không cử động, không tri giác, nhưng thật sự thì nó có sự biến đổi hình dạng. Đó là hồn của nó vậy.
Sự vận hành của âm dương trong vòng cương tỏa của ánh Dương Quang tức sanh quang, khi thành hình cả khí chất đều trở nên những hột liên kết lẫn nhau mà mỗi hột vẫn có dương tử làm nhân và âm tử làm bao và có những từ trường chạy vòng theo các dương tử và âm tử. Từ Trường đó là năng lực của hột âm dương.
Tất cả đều vận chuyển do sự truyền dẫn của ngôi Thái Cực để cho cơ Tạo Hóa hấp thụ lấy chơn dương mà luân truyền khắp không gian.
Mặc dù đã thành khối thể chất, các hột âm dương cũng vẫn vận hành tùy theo năng lực gọi là biến chuyển tử năng mà các từ trường của các hột âm dương vẫn là yếu tố chánh yếu cho các sự kết cấu thành hình trạng của mỗi thể chất. Khối từ trường đó là sanh hồn.
Sanh hồn phát sanh do cơ tấn hóa của khí đến hình chất, rồi hoàn nguyên trở lại khí.
Cuộc vận chuyển như vậy vận hành mãi mãi.
Trải qua thời gian vận chuyển, hơi nóng được phân chất do quyền năng Tạo Hóa, Đức PHẬT MẪU vận hành trục giao điểm âm dương, tức nhiên Chơn Pháp xuất phát tại Kim Bàn làm cho các hột âm dương được chọn định cương vị nên hơi nóng lần hồi trở thành chất lỏng. Đó là những khối lửa nước vĩ đại rải rác khắp không gian.Trong chất lỏng đã có sẵn các tế bào vật thể.
Khi mới thành hình thể thì nó chỉ là một cục lửa, cực độ của dương quang trụ lại, lần lần khối lửa ấy bị âm quang rưới hơi lạnh mà nguội dần. Trong khí ấy mới phân tách Ngũ Hành riêng biệt. Như Đất thì tế bào là một (1) điện tử dương bao bọc bởi bảy mươi hai (72) điện từ âm. Loại kim khí thì một dương với chín mươi hai (92) điện tử âm. Các loại kim khác nhau là do thứ có lẫn lộn tế bào của thảo mộc, thứ thì lẫn lộn tế bào của nước. Có thứ lẫn lộn nhiều thứ tế bào mà có nước thì tế bào là một (1) dương với sáu mươi bảy âm (67). Lửa là tế bào của dương quang tức là chỉ có điện tử dương mà thôi, hiệp với tế bào của loại kim mà có.
Những tế bào của đất ngày ngày biến chuyển theo thời gian mà thay đổi hình tướng thành: Sắt, Đá, Cây, Cỏ. Sự biến chuyển ấy là cơ tấn hóa của Kim Thạch Hồn. Ấy là thời kỳ Khai Thiên Lập Địa và các tinh cầu xuất hiện. Từ các tế bào cho đến các tinh cầu đều phải vận chuyển xoay tròn hòa đồng với sự chuyển vận của các hột âm dương để phát tiết từ trường mà tạo lấy năng lực của mỗi hột.Năng lực đó là sức sống của mỗi vật thể, khoáng thể.
Các tinh cầu lần hồi nguội lại và những địa cầu xuất hiện. KHOÁNG CHẤT Kim Thạch vận hành tiết ra chất hơi khác hòa hợp với khí Ngủ Hành và từ trường của địa cầu mà hóa khí quyển và quỉ đạo, Kim Thạch Hồn được phát sanh và tiết ra khí Ngủ Hành. Do nơi khí Ngủ hành ung luyện mà các tế bào vật thể lần hồi quy tựu đông đặc thành hình thể, phân loại thể chất và biến hóa.
Sức sống của Kim Thạch phát tiết ra ngoài để tấn hóa, được Thái Cực chiếu ánh dương quang nên các vi ti tế bào được sống mạnh mẽ hơn mà trở thành sự sống hiện minh.
Từ Kim Thạch Hồn, các tế bào thâu khí âm dương mà liên đới lại tạo nên Thảo Mộc. Các Thảo Mộc đều chung một thứ tế bào, song tùy theo giống: Có thứ mình nước như loại Thảo, thứ mình cứng, có 3 phần tế bào của Thảo Mộc và một phần nước là cây tạp, còn thứ chỉ một phần tám nước là gổ quí.
Trong các thứ cây đều có tế bào của Kim Thạch, tùy theo mỗi giống mà có những tánh chất khác nhau: Chất ngọt do đạm khí và Lân chất, chất đắng do Kim khí, chất mặn do Kim và Thạch khí lẫn lộn với đạm và lân khí, chất chua do Thạch khí và Thổ khí lộn với Thủy khí.
Còn các sắc màu của hoa lá là do nơi Khí Dương Quang chiếu vào chất khí của nó tiết ra mà có.Các tế bào đến Thảo Mộc Hồn tức là bước lên trường thi công quả rồi đó. Bởi do nơi Thảo Mộc tự mình thâu các tế bào của âm dương khí làm món thực dụng cho thú cầm và nhân loại. Sự nuôi dưỡng đặng là các tế bào đã liên đới mà tạo thành sanh khí.
Bởi cớ, lẽ sống của đệ nhị xác thân đã có bởi khí tiết của Thảo Mộc Hồn. Do đó mà sau một sự biến chuyển, các tế bào của Thảo Mộc liên đới với tế bào của Kim Thạch mà biến hóa ra Thú Cầm.
Khi đã thành Thú cầm rồi thì các Linh đã bước vào con đường tấn hóa vì nó được hưởng chút ít ân huệ của PHẬT MẪU ban cho Chơn Thần hay là Giác Hồn đó vậy.
Nhờ nơi đặc tánh của Thú Cầm Hồn mà CHÍ TÔN đã tạo nên loài người bằng phương cho thêm đệ tam xác thân đặng khai đường tấn hóa cho các hồn thuộc về hạ đẳng hồn.
Trong Thú Cầm Hồn, những vật đã đủ (…?……) những vật đã đi được trên đường tấn hóa.
Từ Kim Thạch vật đã đi được trên đường tấn hóa.
Từ Kim Thạch đến Thú Cầm là qua lớp học biến chuyển tạo nên lần vũ trụ trong buổi lập địa, tức là Sửu Thời địa tịch. Bây giờ qua Nhơn Sanh Dần Chi.
Khi các Thú Cầm đã hóa sanh đầy đủ thì các sanh hồn và giác hồn đã đến lúc huệ khai vì đó Đức CHÍ TÔN rưới Linh Quang ban cho một thể thứ ba là Chơn Linh. Giống Hầu là giống đã được tấn hóa hơn nên vì cớ La Hầu đã được Chơn Linh điểm trí mà tạo nên Thỉ Tổ loài người.
Từ tạo ra nhơn hồn cho đến tạo được sự uy linh của nó phải trải qua hai chuyển. Đến cuối nhị chuyển thì các Chơn Linh tức là nguyên nhân mới bước vào trường thi công quả và mở Thượng Ngươn tam chuyển. Từ ấy đến nay đã đến Thượng Ngươn Tứ Chuyển, nhơn hồn còn thêm phần tấn hóa nữa.
Trong Nhơn Hồn, từ buổi tam chuyển được tấn hóa thêm bốn phẩm nữa là: Thần, Thánh, Tiên, Phật Hồn. Như vậy các hình chất hửu vi từ Kim Thạch Hồn đến Nhơn Hồn đều do PHẬT MẪU đem âm quang hiệp với dương quang mà liên đới tế bào (đã có sẵn trong âm khí).
Bây giờ nói về Nhơn Hồn.
-Mỗi thể xác đều do những tế bào mà trong nguyên tử tinh trùng cấu tạo bởi những hột nguyên tử trong đó có một dương và chín (9) điện tử âm. Thể xác là nguyên tinh của Thảo Mộc và Vật Chất tạo nên, khi thể xác đã trở về đất thì trở nên đất. Nó là đệ nhứt xác thân.
-Đệ nhị xác thân: Do Chơn Khí (một dương ba âm) là sự tiết khí của chơn tinh bốc ra hiệp với chơn thần (một dương hai âm) là điểm linh của PHẬT MẪU ban cho, nên nó thuộc về âm (gọi âm khí hay âm quang).
-Đệ tam xác thân: là dương khí hay dương quang do nơi ngôi Thái Cực, tức là CHÍ TÔN chiếu xuống. Gọi Chơn Linh, tế bào nguyên tử: Một dương, một âm.
Về tam thể xác thân cấu tạo bởi nguyên lý ấy. Nói cho thật hửu vi thêm nữa thì ngôi Thái Cực là một khí chơn dương, chỉ có thanh khí mới có thể tiếp được linh quang chiếu rọi,
Đệ nhứt xác thân là vật thể hửu hình, nó nuôi dưỡng bởi chơn tinh, do đó có bốc ra chất hơi gọi là chơn khí.
Chơn khí có một ánh sáng riêng của nó, nhờ hào quang đó biến đổi hình sắc mà nơi cõi Hư Linh thấu triệt hành tàng tâm ý của mỗi người. Chơn khí là một điểm quang của thể xác bốc ra nên nó dung hợp với điện âm dương trong thể xác. Nó là trung gian tiếp điển của Chơn Thần là của PHẬT MẪU và Chơn Linh của CHÍ TÔN.
Do nơi Chơn Thần diêu động mà phát hiện ra một linh quang vi chủ ấy là Nê-Hườn-Cung. Nói rõ hơn là bộ óc. Nhờ điển linh quang vận hành mà các thể phách được vận hành phát tiết áp lực nuôi sống và gầy thêm trí não cùng sự sống của con người.
Chơn Linh do nơi Thái Cực chiết ra. Vì đó, sự sáng suốt của đệ tam xác thân tức là sự sáng suốt của CHÍ TÔN
Nguyên hình của đệ tam xác thân là một luồng điện do tế bào cấu tạo, luồng điện ấy vẫn hằng ở nơi Tam Thập Lục Thiên và đến hiệp với Chơn Thần đặng giúp cho đệ nhị xác thân vi chủ lấy đệ nhứt xác thân của nó.
Nói rõ là Linh Hồn điều khiển Giác Hồn đặng chế ngự Sanh Hồn đó vậy.
Khi được trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống cả Chơn Linh và Chơn Thần được hiệp một mà ngự trên đài sen tức là công nghiệp của Sanh Hồn tạo nên. Lúc ấy gọi là hiệp nhứt qui bổn hay là đắc vị đó vậy. Mà sự hiệp nhứt Nhơn Hồn cũng do chính bàn tay của Đức CHÍ TÔN tác thành Chơn Pháp cho vạn linh nương theo cơ siêu việt tấn hóa mà tạo nên hư vô thanh khí, tức là cơ tạo đoan tấn hóa đến chỗ tận thiện, tận mỹ vậy.
Trong đệ nhứt xác thân đã có ngũ quan biết xúc động và các tế bào để cho đệ nhứt xác thân cử động, đi đứng, làm cho con người có cái sống thực tế theo con mắt thấy hằng ngày của loài người. Nhưng đến khi gọi là chết, không lẽ nó bị tiêu diệt? Vì nó đã có cái sống sẵn trong bản thể của nó.
Ấy là nó phải chịu luật tiến hóa của Tạo Đoan thay cũ đổi mới để cho đệ nhứt xác thân trở nên đẹp đẻ đặng phù hạp với linh quang sáng suốt của Đức CHÍ TÔN ban cho nơi mặt thế nầy, để thay thế cho Ngài đặng bảo vệ cơ sanh hóa tồn tại.
Như trước kia, con người mới được sanh ra thì thân thể xấu xa, ăn lông ở lỗ chẳng khác chi hình tượng con vật.Với thân hình ấy, mặc dù Đức CHÍ TÔN đã ban cho một Chơn Linh thánh đức cũng khó mà tạo nên một xã hội văn minh hay cơ khí được.
Ngày nay loài người đã phải có sự thay đổi xác thân để cho con người học hỏi cho tinh vi và đoạt được cơ sanh hóa của Tạo Đoan. Càng ngày mới khai thác, phát kiến, phát minh và tổ chức một xã hội văn minh, từ cách ăn, thói ở cũng đoan trang hơn khi xưa. Rồi lần hồi loài người sẽ đạt đặng cả sự bí mật của Tạo Đoan mà thay thế cho Đức CHÍ TÔN làm chủ cơ sanh hóa của Ngài.
Đệ nhứt xác thân phải bị luật thay đổi chớ không phải chết đâu. Khi xác thân nầy bị luật thay đổi của Tạo Đoan thì nó không khi nào hoàn hình lại được, mà nó phải lộn với đất để nuôi dưỡng chất sanh như là Thảo Mộc, rồi từ Thảo Mộc sẽ nuôi đến Thú Cầm, rồi cũng từ Thú Cầm nó lại nuôi cho loài người, cũng như người ta bón phân đó. Nó vẫn ở lộn cùng đất mà thôi, chớ không thể bay đi đâu được. Đã nói rằng xác thân nó lộn với đất thì lẽ dĩ nhiên nó là đất rồi. Cái xác nào cũng phải biến thành đất cả, chỉ có lâu hay mau do sự chôn cất nó kín hay hở hoặc chắc hay không chắc đó thôi.
Ở mặt thế nầy không chi là bền cả, vì nó là vật chất biến sanh thì nó phải chịu luật tiêu diệt hay là luật thay đổi của Tạo Đoan.
Đến như sắt hoặc đá chắc là bao, nhưng nó còn có giới hạn thời gian mà tiêu mòn.
Luật thay đổi và luật luân hồi rất có ích cho cơ sanh hóa của Tạo Đoan, vì mỗi lần thay đổi hoặc luân chuyển là mỗi lần tiến hóa cao lên. Nên luận về Bí Pháp thì không có gì là mất hay chết cả, mà nó còn mãi mãi với vạn vật.
Đối với đệ nhị xác thân là một thể vô hình bất tiêu, bất diệt, luôn luôn tiến hóa hay ngưng trệ do mỗi lần tái kiếp được dày công hay đắc tội. Nói cho rõ hơn nữa thì nó là lục dục thất tình. Vậy khi lục dục thất tình được điều độ là nhờ đệ tam xác thân điều khiển nỗi, bằng không thì nó vì đệ nhứt xác thân tức là hình vật sai biểu theo bản chất của nó.
Đệ nhị xác thân là hình bóng đi lập công bồi đức, thoảng như nó trọn nghe lời của đệ tam xác thân thì được trọn lành mà về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà chúng ta gọi là đắc quả.
Trong tam thể xác thân, chỉ có đệ tam xác thân là có phận sự quan trọng hơn cả, vì nó phải chịu trách nhiệm đối với CHÍ TÔN khi trở về ngôi vị của mình.
Đệ tam xác thân là nền tảng cho sự tiến hóa của nhơn loại, thì lẽ dĩ nhiên nó phải chịu khảo thí trong trường thi của Đức CHÍ TÔN lập nơi mặt thế nầy, nếu một Chơn Linh thắng được cái thể thứ nhứt và chế ngự được những dục vọng của nó thì được thăng vị, còn thắng không được thì phải chịu hình phạt. Đó là luật công bình của Đức CHÍ TÔN: Công thưởng tội trừng. Như Đức CHÍ TÔN không dùng phương pháp ấy để lọc lừa các hành động của Chơn Linh thì làm sao mà phân biệt được hàng phẩm cao hay thấp, tùy theo công nghiệp của đệ tam xác thân cho đặng.
Để thu ngắn hơn thì trong vũ trụ, vạn vật thảy đều hửu hình, nhưng trong hửu hình lại là vô vi biến tướng. Mỗi hình thể là một sự cấu tạo của những tế bào, những tế bào ấy lại kết tụ bởi khí ngủ hành, khí ngủ hành biến chuyển bởi âm dương, âm dương ấy lại diêu động được là nhờ khí hư vô vận chuyển. Vì cớ trong mỗi xác thân dù vật chất, thảo mộc, thú cầm hay loài người thảy đều do sự biến chuyển của khí hư vô.
Vậy thì mỗi hình vật hửu vi đã phải chịu nơi quyền năng vô biên của khí Thái cực mà được trở nên hình tướng. Những tế bào là những hột điển quang của âm dương chi khí.
Trong mỗi tế bào đều có hột điện âm và điện dương vận chuyển. Do sự khác nhau chỗ hột điện âm nhiều hay ít mà sự sáng suốt của khối linh quang được tỏ rõ cùng không. Hễ âm nhiều thì phải nặng trịu, còn về mặt vô hình thì chỉ là lưỡng nghi biến hóa mà thôi, không phải là hình tướng hửu vi của vũ trụ được.
Trong hửu hình có vô vi vận chuyển, còn vô hình lại là khí điển quang mà thôi.
Vậy thì vô vi là cơ biến hóa, còn hửu hình lại là sự biến chuyển. Hai đàng là hình bóng, hễ hình đã mất tức là các tế bào đã tan rả, thì khí lưỡng nghi trở lại cõi hư vô.
Còn như những tế bào khi tan rả lại lẫn lộn điển âm dương, khiến cho khí lưỡng nghi ở trong thể xác không hiệp được với khí lưỡng nghi của khí hư vô, thì những nhơn hồn đó phải chịu trầm luân khổ hải.
Nhơn hồn là gồm cả tam bửu, đều là tế bào âm dương mà nguyên thỉ là khối Thái Cực.
Từ vật chất, thảo mộc, thú cầm đến loài người đều hửu hình, phải do thời gian biến chuyển hình sắc tấn hóa, đều phải chịu dưới luật thay đổi. Mỗi lần thay đổi thì các tế bào tan rả dần trong đất. Các tế bào lẫn lộn trong đất mà làm chất dưỡng sinh, rồi lần theo thời gian để bước dần trong cơ tấn hóa.
Chơn Thần, Chơn Linh nhờ khí sanh quang mà sống, mỗi lần tái kiếp là đến giáo hóa, kềm thúc cho đệ nhứt xác thân. Khi mãn kiếp sanh của Nhơn Hồn thì nó là tử khí bất tiêu, bất diệt.
Dù cho sanh hóa hay qui cổ cũng do năng lực nguyên tử mà cội nguồn là khí Hư Vô.
Nguyên tử khí do khoa học tìm ra cũng từ nơi đó. Nhưng thay vì, Đức CHÍ TÔN ban cho họ có khối óc thông minh có thể dám sánh với các bậc Địa Tiên, khối óc sáng suốt đó tìm tàng thấu đáo bí mật của cơ Tạo Hóa rồi để tâm thánh thiện mà tạo hạnh phúc và phụng sự nhơn loại cùng tấn hóa, nhưng đã trái ngược lại. Họ đã lợi dụng sức mạnh nguyên tử để tàn hại lẫn nhau.
Nếu chiến tranh thế giới thứ ba bùng nổ thì nguyên tử khí sẽ tiêu diệt toàn nhơn loại trên mặt địa cầu, trong đó có cả Đức CHÍ TÔN nữa đó vậy! Phải chăng những ác tính đó đã dành lấy chủ quyền nắm cơ tiêu diệt? Ngay cả Chơn Linh của một nhơn hồn, nếu không kềm thúc chế ngự tinh thần lẫn thể xác của nó được còn phải chịu hình phạt của Đức CHÍ TÔN thay huống hồ là mở đường diệt sanh cơ Tạo Hóa.
Chỉ có Đức CHÍ TÔN, chính Ngài mới có chủ quyền đó. Vì Đấng ấy đã tạo hóa mới có quyền diệt hóa. Nhưng khối Thái Cực là một khối bác ái, công bình, nên trước vực thẳm mà nhơn loại đang chờ chực đã buộc lòng Đức CHÍ TÔN phải đến, đến để qui bổn thiện, cứu rổi và siêu rổi con cái của Người cho qua cơn nước lửa.
Trong Thiêng Liêng Hằng sống có đoạn: “Nơi Bạch Ngọc Kinh nó là Hổn Ngươn Khí biến hình nó ra, Hổn Ngươn Khí là khí sanh quang của chúng ta đã thở và hô hấp, khí đã nuôi cả sanh vật sống, ta sống cũng do nơi nó xuất hiện mà biểu làm sao không sống?”
Còn Đức CHUẨN ĐỀ BỒ TÁT, Chưởng Quản Hạo Nhiên Pháp Thiên đã để lời hiệu triệu cùng nhơn loại:
“Thiên cơ chuyển pháp, Thiên Điều phục nguyên Thánh Thể lại, lập triều Đức DI LẠC Vương Phật tức là Hổn Ngươn Thượng Thiên.
Cung Hổn Ngươn Khí để cho loài người và vạn vật hằng sống. Từ Hổn Ngươn Khí đến Hư Vô Khí, đến Huyền Ảnh Khí, tức là NGUYÊN TỬ Khí mà khoa học đoạt đặng nhưng họ không biết, cái gốc nó ở đâu và tánh chất nó ra sao?
Nó là thuốc trường sanh bất tử để phục nguyên Thánh Thể lại, Vạn Linh hiệp Chí Linh. Đức DI LẠC ngồi trên Kim Tự Tháp khối Nguyên Tử là chủ của Nguyên Tử Khí đó vậy”.
Hạnh phúc thay cho nhơn loại, Đức CHÍ TÔN đã ban cho con cái của Ngài sự khôn ngoan siêu việt để đoạt được và sử dụng với năng lực Nguyên Tử Khí. Đó là Ngài muốn lột trần cơ Tạo Hóa, vận hành cho con cái của Ngài thấy rõ mà thức tỉnh, để biết lẽ đồng sanh, nhìn nhau và hiệp một trên con đường hằng sống.
Vì vậy mà Ngài phải đến ngự tại Hổn Ngươn Thượng Thiên chuyển Pháp, phục nguyên Thánh Thể và chế ngự trên khối Nguyên Tử Khí ngỏ hầu tái tạo hòa bình, hạnh phúc cho nhơn loại./.
Bookmarks