Phóng sanh:


Pháp môn được Ngài coi trọng bậc nhất và chỉ thị cho môn đồ, Phật tử các nơi phải luôn thực hành là pháp phóng sanh. Theo Lamasang, chiến tranh bùng nổ là do con người đã phạm nghiệp sát nặng nề do tâm bất tịnh điều khiển. Ngài thuật lại rằng trước đây do điều kiện sinh tồn, các tăng sĩ Tây Tạng buộc phải ăn thịt trừu do những người Muslim mang đến bán. Ngày nay, do vận chuyển dễ dàng hơn, các tăng sĩ ở tu viện đã được khích lệ chuyển qua ăn chay, và hàng năm tu viện tổ chức lế hội Shambala để cầu nguyện, hồi hướng cho chúng sanh, đắc biệt là những linh hồn của những con vật đã bị hy sinh để nuôi mạng sống con người được siêu thoát, sinh về cực lạc quốc.

Nếu thực hành phóng sanh với tâm niệm thanh tịnh để hồi hướng chân thành đến an lạc của thế giới, công đức này có thể làm giảm thiểu ảnh hưởng tàn hại của chiến tranh và còn làm tăng tuổi thọ của người phóng sanh hay người mà họ hồi hướng công đức cho.
Để cứu độ và tạo phước duyên cho nhứng chúng sanh mang tâm cao ngạo, ngoan cố, khó điều phục, việc hoằng pháp của Đại sư được thể hiện qua những phong cách khác thường, môn đồ và tín hữu các nơi thường gọi Ngài là “ Vị Bồ Tát với hành vi không thể nghĩ bàn” hoặc “Tế Điên Đại Sư thế kỷ 21”.
Qua Ngài, người ta có thể chiêm nghiệm, thẩm thấu được lời dạy sâu sắc của Phật Thích Ca trong Kinh Duy Ma Cật, chương 6 phẩm bất tư nghì, với phong độ phiêu hốt, bằng phương tiện trí huệ của Bồ Tát đã trụ giải thoát bất khả tư nghì, các hành năng của Ngài đôi lúc rất khác thường nhưng đều nhằm để giáo hoá, làm lợi ích cho chúng sinh, chẳng chút dư, thừa.

Hiện Thân Kim cang phẫn nộ:

Các môn đồ thân cận thường kinh nghiệm được điều này. Đại sư không ngừng hoằng pháp cứu độ trong mọi thời khắc hoàn cảnh. Tới địa phương nào, Ngài thường ra lệnh các môn đồ đưa đi mua sắm. Vào tiệm nào Ngài cũng tìm một người để gây gỗ và có khi đánh cả họ. Điểm đặc biệt là không bao giờ những người bị la mắng hay đánh vào tay, chân lại phản ứng hay tỏ bất mãn lại Ngài. Vừa quay sang mắng người bán hàng rầm rĩ, Ngài đã quay lại nhìn các học trò đi theo đang rất ái ngại, và nở nụ cười thản nhiên như xem đó là một trò đùa. Sau nhiều lần các môn đồ mới hiểu được rằng từng hành năng thuận nghịch của Ngài cũng để tạo quan hệ với kẻ hữu duyên cầu Ngài có thể độ cho họ.

Một lần vào cuối năm 2004, tại Berkley, California Ngài dẫn một số môn đồ thân thiết vào 1 tiệm bán chim. Qua đoạn nói về tiền thân của Ngài đã từng là chim thì chúng ta có thể hiểu được lòng yêu mến của Ngài với loài chim. Trong khi đang đứng chọn mua một số chim con để tặng cho các đệ tử thân thiết, khi người bán hàng đang quỳ xuống đất để bắt và chuyển những con chim từ lồng lớn ở tiệm vào lông nhỏ để chúng tôi mang về. đột nhiên Ngài đổi mặt giận dữ, đập mạnh lên đầu người bán chim. Trong lúc Alberto, Peter, có mặt đang sửng sốt, đột ngột người Mỹ này đứng lên chắp tay và cúi đầu xin lỗi Ngài. Không nói một lời, Ngài lẳng lặng quay đi. Đến lúc trả tiền, người bị đánh mới hỏi chúng tôi phải chăng Ngài là vị lạt ma cao cấp của Tây Tạng.

Trong cơn ngạc nhiên của chúng tôi, anh này cho biết anh là một Yogi đã nhiều năm tên là Boddhi, đã từng theo học nhiều nơi, nhiều thầy, nhung tu mãi vẫn không thấy tiến. Anh tin rằng do nhân duyên tốt đời trước anh được gặp Ngài, và cú đánh trên đầu này là cái đập kim cang trí huệ của bậc đại giác với lòng từ bi đã đạp vỡ vô minh, cao ngạo để hướng dẫn anh về trí huệ bổn nguyên của tính giác. Sau đó anh xin địa chỉ liên lạc để được tiếp tục theo học cùng Ngài.

Quyên góp mạnh mẽ để giáo hoá và giải nạn cho người khác:

Bằng trí huệ ngời sáng, Ngài thường cảm nhận được linh kiến về các sự việc sắp tới của người đối diện; nên những gì Ngài dạy Bảo đều hàm chứa một thông điệp mật cùng phương thức giải quyết do lòng từ bi vô lượng và cứu độ của Ngài. Ngài thường khích lệ môn đồ đóng góp, cúng dường tài chính mạnh mẽ để giúp họ có cơ hội tạo phước báu hầu giải nghiệp đời này, hoặc tạo công đức đời sau. Thường tự chế diễu mình là kẻ hành khất lớn (Big Beggar), ngài thị hiện giáo hoá môn đồ thực hiện đức khiêm cung và xả mình thực hành pháp cúng dường, bố thí.

Mới đây, khi đang hướng dẫn đệ tử thực hành phóng sanh tại bờ biển Berkley, ngài đột nhiên gọi một đệ tử thân cận và bảo phải cúng dường ngay một số tịnh tài tại chỗ. Số tiền không nhỏ, và ngay tại bờ biển vị này làm sao chuẩn bị nổi. Nhưng do lòng thành và sự tin tưởng tuyệt đối và minh sư, vị này quay ra mượn bạn bè chung quanh. Kỳ diệu thay, cuối cùng số tiền vay được cộng với số tiền còn lại trong ví ra đúng số ngài đã hỏi.
Sau khi Tôn Giả trở lại Tây Tạng, vị này đi khám bệnh và được biết mình có bướu độc phải giải phẫu. Gia đình gọi qua Tây Tạng thỉnh ý ngài và được phán rằng vị cư sĩ này sẽ bình yên vì nghiệp xấu này đã được hoá giải qua hàng năng và thiện ý trước đó của họ cùng gia trì trực tiếp của Tôn giả.

Tiên tri của chính Ngài:

Ngài thường có linh kiến về những vấn đề của thế giới hay cả những việc xảy ra trong đời sống cá nhân của các môn đồ.
Cách đây hơn mười năm, Ngài đã từng tiên tri về những thiên tai, tham hoạ lớn và cuộc chiến hiện nay của Thế giới vào đầu thế kỷ 21 này.
Tiên tri của ngài về biến cố 11 tháng 9 năm 2001 tại World Trade center New York, cùng cuộc chiến giữa Hoa kỳ và Taliban, Iraq cũng như một số biến động quan trọng về nhiều lĩnh vực khác nhau trên thế giới đã được các đệ tử thân cận của ngài ghi lại và cất giữ tại nhiều trung tâm trước khi sự việc xảy ra.

Ngày 16 tháng 10, năm 2004 sau khi ban lễ quán đảnh Vajrakilaya tại Hungkar Ling, Oakland Ngài đã tiết lộ tiên tri về thảm hoạ Katrina và chỉ thị cho môn đồ nỗ lực tu, trì Pháp môn Vajrkilaya trong thời đại dữ dội này để hộ thân và hộ trì cho thế giới.

Công trình:


Nói đến huyền diệu và gia trì nhiệm mầu của ngài thì không bút mực nào tả xiết. Chính người viết là nhân chứng của bao sự việc, trong đó có cả việc ngài cứu người ra khỏi ngục tù và độ cho những kẻ trước đây thường theo tà kiến, làm những việc bất thiện, hại người này bỏ sai lầm, tập làm việc thiện và sống theo chánh pháp.

Ngài không ngừng truyền pháp Quán Đảnh, giảng dạy giáo lý Tối Thượng thừa của pháp thiền quán Đại Viên Mãn cho hàng trăm tín đồ tại gia cũng như xuất gia và các hành giải Kim Cang thừa ở khắp nơi trên thế giới.

Đúng lời tiên tri của các chư tổ mấy trăm năm trước về các hành vi giác ngộ của ngài.
Năm 1984, nhân chính sách rộng mở của chính quyền Trung Quốc sau vụ Tứ Nhân Bang; Ngài đã xây dựng tu viện tại Golok để quảng bá, hướng dẫn tu tập chân lý của Như Lai. Trước đó, Tu viện này chỉ được trong lều trại và không cố định hệt như đời sống người du mục.
Biết trước thế giới sẽ đi vào thời điểm đầy gian nan, khổ nạn Ngài đã vận động các Phật tử và môn đồ trên khắp thế giới để xây dựng Đại Bảo tháp tại Linh Địa Golok nơi được mệnh danh là mái nhà của thế giới "roof top of the world". Vào năm 2000, Đại Bảo Tháp đã được hình thành theo đúng nghi quỹ của đàn pháp Kim Cang nhằm trấn áp bớt các lực tà ác hoành hành, và để mang thêm phúc lợi đến cho mọi sinh linh ở hành tinh địa cầu này. Bảo tháp này được xem như lớn nhất hiện nay trên thế giới.

Sau đó, ngài tiếp tục thực hiện nhiều bảo tháp khác cùng trong khu vực như bảo tháp phỏng theo mô hình Bồ Đề Đạo Tràng, Bảo tháp Milarepa và Bảo tháp Thích Ca Mâu Ni.

Với nhân duyên nhiệm mầu từ tiền kiếp, Ngài đã thực hiện xây dựng chùa Samye tại Golok phỏng đúng theo quy cách của tu viện Samye cổ tức tu viện đầu tiên của Tây Tạng với Mạn Đà La vũ trụ của Guru Rinponche, tức Liên Hoa Sanh đại sĩ, tôn sư của dòng Cổ Mật, người được dân Tây Tạng gọi là vị Phật thứ hai của thời hiền kiếp. Được hỏi tại sao lại thực hiện nhiều công trình xây dựng chùa, tháp như vây, ngài đã nhân cơ hội này giảng dạy về lợi ích cho nhân loại khi tháp báo được thực hiện đúng theo quy cách và mật chỉ Kim Cang, cùng phước báu nhiều đời cho kẻ góp công xây tháp, người lễ lạy tháp cũng như kẻ gián tiếp được lợi ích qua lực gia trì của chư Phật, chư Bồ Tát và hàng Thiện Thần hộ trì tháp báu.

Trên khắp thế giới biết bao nhiêu trung tâm Vajrakilaya đã được Ngài đặt tên và ban phước thành lập. Theo truyền thuyết, trong đời này Ngài sẽ thực hiện 108 Trung Tâm Vajrakilaya, phước báu này sẽ giúp cho Pháp thêm nở rộ cùng thế giới.

Người viết bài này ngày hôm nay còn giữ được thân mạng để tiếp tục học hỏi, tu tập, triển khai và thực hành Bồ Tát đạo cũng do nhờ hồng ân Chư Phật và gia trì, ơn phước của ân sư. Nguyện mỗi một chữ, từng dòng gieo được mầm cho chủng tử Phật ươm trồng và tạo tín thành cho người đọc hầu mang lại lợi ích cho họ đời này cùng các kiếp tương lai.

5.10 sáng ngày 3, tháng 3, năm 2007, viết tại California

Jampal Dolma

Theo truyền thống Phật giáo, Tiền sử về thầy mình thường do các môn đồ thân cận ghi lại... Người viết bài này đã được gia trì và chấp thuận của ân sư cùng hỗ trợ của các vị tôn sư, hộ pháp của dòng phái để thực hiện bản tiểu sử Tôn giả Kusum Lingpa trong dịp Ngài viếng thăm nước Mỹ mùa Xuân 2007. Vì thời gian quá khẩn cấp, chúng tôi sẽ bổ túc và sửa chữa trong tương lai gần để thêm hoàn chỉnh.

Trân trọng cảm tạ và biết ơn sự giúp đỡ của Hungkar Dorje Rinpoche, Dorje Trangpo, Rob McGann của Sun Entertainment, Michelle Thuỷ, Peter cùng tất cả các vị đã tạo điều kiện, cho tin tức hoặc giúp đỡ chúng tôi hoàn thành việc này trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Saigon42