Tại sơ thiền, hành giả đã cảm nhận được các chi thiền: TẦM TỨ HỶ LẠC NHẤT TÂM, nhưng chưa thực sự hiểu rõ được HỶ là gì, NHẤT TÂM là gì. Cũng như chưa thực sự nhìn thấu sự sinh diệt của nó.

Tại nhị thiền, hành giả đã có HỶ GIÁC CHI, hiểu rõ sự sinh diệt của HỶ.
HỶ: translate Sự vui sướng. Trong thiền định nó cũng theo đúng nghĩa đen vậy.
" như một người đi đường dài trong sa mạc, nhìn xa xa thấy thôn làng, thấy hồ nước, người đó phát sinh niềm vui sướng HOAN HỶ".
Nhờ có HỶ, bước chân của kẻ lữ hành trở nên thanh thoát, không nặng nề như trước ".
- Với người hành thiền: Nhờ nhìn thấy Đức PHẬT - chân lý ở đây ngay bên trong chính mình, nhìn thấy PHÁP, thấy bản chất của các vấn đề, sự vật, hiện tượng. Do đó HỶ phát sinh.
Nhờ có HỶ mà quá trình hành thiền trở nên thoải mái, phát sinh LẠC, không còn gò bó, o ép, phải thế này, thế kia nữa.
- Nhờ có HỶ GIÁC CHI này mà làm tiền đề để tiến lên tầng thiền thứ 3.
- NHẤT TÂM:
Tại sơ thiền hành giả cảm nhận được nhất tâm nhưng nó không rõ ràng, sinh diệt mau chóng, chỉ biết nó khi mà chạm đến nó thì nó phát sinh lạc nên khó định nghĩa.

NHẤT TÂM tại NHỊ THIỀN nó rõ ràng hơn: NHĂT TÂM là TÂM KHÔNG, Vì là TÂM KHÔNG nên nhất tâm.

TÂM KHÔNG là gì? Không TẦM, Không TỨ.
Tầm: Các suy nghĩ miên man như dòng nước chảy, tại đây, NHỊ THIỀN này nó trở nên đứng yên, dòng nước chảy đã đứng yên.
Một sự KHÔNG rõ ràng không mù mờ gì hết. Rõ ràng bởi vì có THỨC nhận biết.
THỨC nhận biết cái KHẨU HÀNH (TẦM TỨ) trước khi vẫn cháy, nay do duyên lửa hết, đã ngừng cháy, thấy được sự vụt tắt của TẦM và TỨ. (Tại NHỊ THIỀN SƠ KHỞI, vẫn phải giữ cho TÂM KHÔNG TẦM được duy trì nên có TỨ) sau nó trở thành tự nhiên, TẦM, TỨ thực sự vụt tắt.

Khi đó cái KHẨU HÀNH đã "diệt". Thiền định trong cái tỉnh giác KHÔNG SUY NGHĨ, KHÔNG VỌNG NIỆM, thỉnh thoảng cái THÂN HÀNH (Hơi thở), hoặc TÂM HÀNH (cảm thọ lạc, thọ đau khổ), hay các thọ do tiếp xúc các cử động của các bộ phận cơ thể, chúng rủ cái THỨC đi chơi: Nghĩa là tâm KHÔNG, vắng lặng, thỉnh thoảng nhận biết các cảm giác của cơ thể.
Trong kinh sa môn quả, Đức Phật diễn tả trạng thái này như sau: "
ví như một hồ nước, nước tự trong dâng lên, phương Ðông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, này Ðại vương, Tỷ-kheo thấm nhuần tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân, không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.
Tại sơ thiền THỨC chỉ nhận biết được một lúc rồi Diệt do các vọng niệm, các SUY TẦM xen vào, làm cho THẤT NIỆM, nên cái hồ nước NHẤT TÂM- TÂM KHÔNG này bị thủng nhiều chỗ, nước có bao nhiêu chảy đi hết.
Nhưng tại nhị thiền. THỨC luôn hiện hữu,như một hồ nước tĩnh lặng, không một chỗ chảy ra