Viên Mộc lấy ví dụ cụ thể pháp quán hơi thở mà Đức Phật dạy La-hầu-la để so sánh với pháp TỨ NIỆM XỨ.
i. PHÁP QUÁN HƠI THỞ ĐỨC PHẬT DẠY LA- HẦU - LA(trong kinh ĐẠI GIÁO GIỚI LA HẦU LA).

- Bối cảnh: Sau khi được Tôn giả Xá Lợi Phất khuyên nên đến gốc cây thực hành pháp Quán hơi thở, sẽ được lợi ích lớn, quả vị lớn, La Hầu La đã đến và hỏi Đức Phật: Pháp Quán niệm hơi thở : Hành như thế nào, được lợi ích lớn gì? quả vị lớn gì?. Đức Phật đã trả lời như sau:

- Trước hết Đức Phật quán xét thấy La Hầu La còn nhỏ tuổi, tâm còn nhỏ nhen chưa quảng đại, Ham muốn (thần thông, chứng đắc" lợi ích lớn, quả vị lớn). Do đó trước khi Đức Phật trả lời vào câu hỏi, Đức Phật dạy La-Hầu-La về pháp tu tập tâm, học theo 5 GIỚI (ĐẤT -NƯỚC - GIÓ - LỬA -KHÔNG) và phápTỨ VÔ LƯỢNG TÂM: TỪ -BI-HỶ-XẢ, Để La-Hầu-La phát triển tâm vô thượng, đối trị tâm nhỏ hẹp. Sau đó ngài dạy pháp quán hơi thở bao gồm hai pháp: TỨC HÀNH NIỆM - DỤC NHƯ Ý TÚC"

TỨC HÀNH NIỆM- Là Pháp Nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào, một pháp nhỏ trong pháp THÂN HÀNH NIỆM, trong TỨ NIỆM XỨ: Tôi biết tôi đang thở vào, tôi BIẾT tôi đang thở ra...
DỤC NHƯ Ý TÚC: Là pháp hướng tâm thay đổi hướng của DỤC từ ban đầu quay ra ngoài hướng đến LỢI ÍCH, QUẢ VỊ, thì cái dục này hướng vào trong tâm: DỤC LY THAM, DỤC LY SÂN, DỤC LY SI, cụ thể bằng các pháp...
Quán Đoạn diệt tôi sẽ thở vào/ra
, Quán Từ bỏ, Quán vô thường, quán ly tham, quán ly sân.....
Đó là tác ý, hướng tâm muốn cho đoạn dứt KIẾT SỬ, cho từ bỏ nó đi.
Và kết luận lại Kinh Đức Phật có dạy
Này Rahula, tu tập niệm hơi thở vô hơi thở ra như vậy, làm cho sung mãn như vậy, thời khi những hơi thở vô, hơi thở ra tối hậu chấm dứt, chứng được giác tri, không phải không được giác tri.
II. PHÁP TỨ NIỆM XỨ:
Đối tượng của Pháp-Đó là sự Tỉnh thức, NIỆM BIẾT mọi lúc mọi nơi, mọi đối tượng từ thô tới vi tế của THÂN VÀ TÂM.
- Nhận ra rõ BIẾT sự sinh khởi, đoạn diệt, trạng thái hiện tại của đối tượng của cái BIẾT đó là : THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP.
- Miên mật, không gián đoạn nhận biết các trạng thái đó từ chân lông kẽ tóc, ruột gan NỘI THÂN cho đến ngoại thân, các cảm giác vui sướng lạc buồn, tham lam, sân hận (các trạng thái thô) đến những cái vi tế về PHÁP. cái BIẾT về sự sinh khởi, đoạn diệt các NIỆM khởi. Biết đặc tính chúng thuộc lục căn, hay các dạng khác, biết nó là nguyên nhân của khổ, dẫn đến khổ, hay dẫn đến giải thoát, niết bàn.
Nghĩa là khi miên mật hành pháp đến thành tựu, Hành giả hiểu rõ sự vận hành của THÂN VÀ TÂM này, từ THỰC SỰ LÀM CHỦ CÁI THÂN VÀ CÁI TÂM, đồng thời với sự miên mật nhận biết mà không tác ý như thế, hành giả sẽ lìa được cái TỰ NGÃ của mình.
Do đó tổng kết kinh Đức Phật mới nói:
Này các Tỷ-kheo, không cần gì 7 năm/bảy tháng/1 tháng/nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.