Theo các truyền thống khác, khi ta đang đến gần kinh nghiệm tịnh quang, có thể các dấu hiệu hay thị kiến như khói, một huyễn tượng, lửa cuồn cuộn, sương mù hay một không gian trong trẻo thanh tịnh. Các thị kiến này cũng có thể xuất hiện trong thực hành tsalung. Trong thực hành Dzogchen, mặc dù các dấu hiệu xảy ra và là những kinh nghiệm có giá trị trên con đường, chúng tuyệt nhiên không phải là kinh nghiệm về tịnh quang và cần được để qua một bên. Theo truyền thống Dzogchen về sự tri giác tịnh quang, có thể có các dấu hiệu tốt nào đó như một giấc mơ kỳ diệu ngay trước kinh nghiệm về tịnh quang hay có thể nghe âm thanh của một con rồng hay thấy mặt trời mọc. Sau cùng, tất cả những điều này chỉ là những kinh nghiệm trên con đường. Những sự xuất hiện này phát sinh từ chính không gian tịnh quang nhưng ta nên cố gắng tập trung vào việc tri giác kinh nghiệm tịnh quang. Khi kinh nghiệm này xuất hiện, thân thể ta sẽ không còn nữa thậm chí trong tri giác của các bạn. Ta sẽ không tri giác điều gì khác hơn là tịnh quang con đường này nó giống như màu xanh ngắt của không gian và tuy thế nó không giống như việc chỉ kinh nghiệm không gian. Thân xác và không gian sẽ bất khả phân. Sẽ chỉ đơn giản là một sự tỉnh giác về tánh Không như không gian hoàn toàn rộng mở, nó chói lọi và trong sáng. Nếu ta không nhận ra điều này, thì ta không nhận ra ánh sáng căn bản.

Kinh nghiệm về ánh sáng căn bản thì giống như một đại dương xanh dương bao la. Ánh sáng căn bản là Pháp Thân Phổ Hiền. Thấu suốt trạng thái tỉnh giác đó là lên tới cấp bậc thứ mười ba của một bậc nắm giữ kim cương (Kim Cương Trì) và trên cấp bậc đó ta sẽ được giải thoát, ngay cả trước sự phô diễn của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ xuất hiện trong bardo. Nếu ta không được giải thoát trên cấp bậc đó, ta được giải thoát ngay khi sự phô diễn của các bổn tôn hòa bình bắt đầu xuất hiện trong Bardo Pháp tánh, khởi đầu với Đức Vajrasattva. Đối với các hành giả của tantra Kalachakra, do bởi họ quen thuộc với Vajra Heruka (Heruka Kim Cương) ở phương Đông, khi bổn tôn xuất hiện, nếu họ đã nhận các giáo huấn về sự giải thoát nhờ sự nghe thì sự nhận ra và giải thoát sẽ đồng thời. Tương tự như vậy, các hành giả của Yamataka sẽ được giải thoát khi bổn tôn xuất hiện từ phương Nam. Những người quen thuộc với Đức Phật Heruka ở trung ương, Hayagriva ở phương Tây, và Vajrakilaya ở phương Bắc sẽ có khả năng được giải thoát khi vị bổn tôn bảo trợ của họ hiển lộ và họ nhận ra bản tánh của sự hiển lộ đó. Khi ấy các hành giả của Vajrakilaya sẽ được giải thoát trong cõi thuần tịnh của Đức Phật Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu). Những người đã từng thực hành sự hiển lộ về thân của giác tánh giác ngộ, Đức Manjushri (Văn Thù), sẽ được giải thoát một cách tương ứng. Những người thực hành Ratnasam-bhava Heruka (Heruka Bảo Sanh) sẽ được giải thoát trong cõi thuần tịnh của sự Vinh quang Hiển lộ của Đức Phật Ratnasambhava (Bảo Sanh).

Trong bất cứ trường hợp nào, nếu ta không nhận ra ánh sáng căn bản thì ta sẽ tiếp tục kinh nghiệm sự phô diễn của các bổn tôn hòa bình và phẫn nộ trong Bardo Pháp tánh. Nếu ta đã từng thực hành trong đời và đã có những ấn tượng nghiệp mạnh mẽ đó, thì trong Bardo Pháp tánh khi những bổn tôn và Heruka này xuất hiện, các ngài sẽ được nhận ra và ta sẽ được giải thoát ở cấp bậc thứ mười ba của một vị Kim Cương Trì. Nếu không, ta sẽ đi xa hơn nữa trong bardo và kinh nghiệm đang ở trong hai mươi hai nơi đầy năng lực và ba mươi hai chốn linh thánh ở đó các vị Phật hóa thân an trụ. Ta sẽ thực sự kinh nghiệm đang ở trong Núi Huy Hoàng màu Đồng Đỏ của Đức Padmasambhava, các cõi thanh tịnh của Đức Tara hay Đức Quán Thế Âm và sẽ có thể đạt được giải thoát trong Bardo Trở thành, đó là sẽ giải thoát như một Hóa Thân. Nếu không điều gì trong những sự xuất hiện này được nhận ra thì ta sẽ tiếp tục luân hồi trong ba cõi sinh tử, nhận lấy vô số tái sinh trong một trạng thái hoang mang, là điều các bạn từng làm từ vô thủy. Điều đó đáng kinh sợ biết bao!

Rất quan trọng khi nhận lãnh các giáo lý về giai đoạn thành tựu sáu Bardo. Không có giáo lý nào tốt hơn vì nó giải thoát các bạn khỏi vòng sinh tử. Pháp phải là cái gì làm lợi lạc các bạn vào lúc các bạn chết. Nếu nó làm lợi lạc thì nó là Pháp hoàn hảo và nếu nó không làm lợi lạc cho các bạn vào lúc chết thì nó là Pháp không tốt đẹp.

Giáo Pháp của Mantra bí mật là con đường nhanh nhất để giải thoát trong bardo vì ta quá quen thuộc với các bổn tôn và nhận ra các ngài khi các ngài xuất hiện. Tùy theo các khuynh hướng quen thuộc của ta, các ngài sẽ xuất hiện tràn đầy năng lực. Vajra Heruka là một hiển lộ phẫn nộ của Đức Vajrasattva nhưng cả hai chỉ là một. Những người thực hành phái tân dịch sẽ nhận thấy Vajrasattva trong hình tướng hòa bình hay phẫn nộ dù họ là những hành giả của Kalachakra, Chakrasam-vara, Guhyasamaya hay Hevajra. Suốt trong bốn tantra lớn, hiển lộ hòa bình của Vajrasattva chiếm ưu thế. Vì thế, các hành giả của tất cả các tantra này sẽ rất quen thuộc với hiển lộ hòa bình. Không có gì khác biệt giữa Đức Vajrasattva của phái cựu dịch và của phái tân dịch. Họ sẽ nhìn Vajrasattva phù hợp với khả năng của riêng họ. Những người đã thực hành những bổn tôn này sẽ nhìn thấy các ngài khi các ngài xuất hiện trong bardo và sẽ nhận ra các ngài và được giải thoát. Bất luận Đức Vajrasattva được thực hành như thế nào trong bất cứ dòng truyền thừa đặc biệt nào, bản chất của ngài thì vẫn thế. Vajrasattva là hiện thể hiển lộ của trí huệ nguyên thủy như-gương (đại viên cảnh trí). Ngài là Akshobhya và xuất hiện như Akshobhya hay Vajrasattva như một hiển lộ của trí huệ như-gương. Nếu ta đã từng thực hành Yamantaka, sự hiển lộ của sắc tướng giác ngộ – là Đức Manjushri (Văn Thù) – thì ta sẽ gặp được Đức Phật Vairo-cana trong bardo và được giải thoát. Điều này tương ứng với sự tịnh hóa mê lầm (si). Trong thực tế, Đức Manjushri thuộc về tầng cấp thân giác ngộ, trong khi Đức Avaloki-tesvara thuộc về tầng cấp ngữ giác ngộ là sự tịnh hóa tham muốn. Đức Vajrapani thuộc tầng cấp tâm giác ngộ là sự tịnh hóa sân hận. Bất kỳ bổn tôn nào trong các bổn tôn thuộc về tầng cấp hoạt động giác ngộ chẳng hạn như Vajrakilaya tương ứng với sự tịnh hóa ganh tị như tất cả các bổn tôn Tara đã làm. Các ngài là hiện thân của sự tịnh hóa chất độc ganh tị. Đức Phật Ratnasambhava là hiện thân của sự tịnh hóa kiêu ngạo.

Về các yếu tố (đại), tham tương ứng với lửa; sân tương ứng với nước; si tương ứng với đất; kiêu ngạo tương ứng với các hình thành của đất chẳng hạn như các núi non; ganh tị tương ứng với gió. Khi thảo luận về mối tương quan giữa các yếu tố (đại) và các cảm xúc, điều này không có nghĩa là bằng cách thành tựu bổn tôn đó các bạn sắp trở nên được nối kết với một độc hay yếu tố (đại) đặc biệt, mà nó có nghĩa là bổn tôn là sự biểu lộ được tịnh hóa của khuynh hướng đó, nó tồn tại trong các bạn rất lâu khi các bạn ở trong vòng sinh tử. Sự giải thích này về mối tương quan giữa các đại, vô minh và những phẩm tính của giác tánh trí huệ, những diễn tả thì chung nhất cho cả phái cựu dịch lẫn tân dịch.

Trong phái cựu dịch, giai đoạn thành tựu của anu yoga bao gồm sự thực hành về sự hợp nhất đại lạc và tánh Không bằng cách khám phá bốn hỉ lạc, nhưng sự khám phá này vẫn còn là một kinh nghiệm về tịnh quang được minh họa. Nó là sự hiển lộ của kinh nghiệm trí huệ nguyên thủy như bốn hỉ lạc và vẫn còn là sự minh họa. Trong khi các bạn ở trên con đường thì kinh nghiệm tượng trưng cho kinh nghiệm tuyệt đối chỉ xảy ra vào lúc kết quả. Đây là sự hiển lộ của trí huệ nguyên thủy tuyệt đối được liên kết với kinh nghiệm tối hậu về tịnh quang hay tịnh quang tuyệt đối như đối nghịch với tịnh quang minh họa, nó giống như một đứa trẻ với một mô hình (bản sao) về một cái tháp (stupa) và sau đó là cái tháp thực sự. Sự minh họa thì giống như mô hình trong khi sự vật thực sự thì tuyệt đối.

Nếu các bạn có thể nghỉ ngơi trong tỉnh giác nội tại và muốn chuyển hóa nó thành kinh nghiệm về ánh sáng trong trạng thái mộng, các bạn hãy giữ tư thế sư tử nằm như đã giảng trước đây. Rồi các bạn cố rơi vào giấc ngủ trong một trạng thái tỉnh giác nơi mà ánh sáng và tánh Không được hợp nhất, cho phép tỉnh giác nội tại trong trạng thái của tánh Không chói sáng đó được tập trung trong trái tim. Các bạn sẽ cố rơi vào giấc ngủ một cách thình lình mà không mất sự tỉnh giác về sự trong sáng và tánh Không. Trong bản văn có dạy rằng những người sẽ có thể rơi vào ánh sáng thay vì ngủ và sẽ không có các hiện tượng mộng bởi vì các giấc mộng chỉ là sự xuất hiện của các lề thói quen thuộc. Thay vào đó sự tương tục của định quân bình của họ trong giác tánh nội tại sẽ được kinh nghiệm.

Có những giai đoạn tan rã xảy ra khi các bạn rơi vào giấc ngủ và đây cũng là giai đoạn tan rã xảy ra tương tự vào lúc chết. Nếu các bạn có thể nhận ra tịnh quang này thì nó cũng là kinh nghiệm mà các bạn có vào lúc chết, tuy nhiên sẽ không có các giai đoạn tan rã. Nó sẽ giống như một đứa trẻ nhận ra mẹ nó và nhảy vào lòng bà. Ánh sáng con, là cái được minh họa, là sự tu tập mà ta đã trải qua trong tiến trình của cuộc đời ta. Khi ánh sáng căn bản ló rạng vào lúc chết thì ánh sáng con sẽ hợp nhất với ánh sáng căn bản và sự giải thoát sẽ xảy ra. Để đạt được sự giải thoát vào lúc chết, các bạn nương nhờ vào các thực hành mà các bạn đã thực hiện trong Bardo Đời Này, gặp gỡ giác tánh nội tại, và trong Bardo Trạng thái Mộng.

Về phần những giai đoạn tan rã này, chúng đến vào lúc chết và trong khi các bạn ngủ, thì trước tiên, địa đại tan vào thủy đại và vào lúc đó các bạn sẽ cảm thấy một cảm giác nóng ấm trong trung tâm trán. Sẽ rất cần thiết phải duy trì sự trong sáng trống không. Rồi trong giai đoạn tan rã kế tiếp, thủy đại tan vào hỏa đại và vào lúc đó rất cần duy trì sự trong sáng trống không và sự tỉnh giác về sự quân bình thiền định. Ví dụ như các bạn nên cố giữ sự trong sáng chói ngời của tâm như thể chăm chú vào một ngọn đèn bơ chiếu sáng một căn phòng tối. Nếu các bạn có khuynh hướng đánh mất sự tỉnh giác thì hãy tăng cường sự tập trung của các bạn vào tỉnh giác nội tại hơn trước. Sau đó hỏa đại tan vào phong đại và vào lúc này rất cần duy trì sự tu tập trong quân bình thiền định để cuối cùng ngay khi các bạn rơi vào giấc ngủ phong đại tan vào thức. Nếu các bạn có thể ở trong một trạng thái trong sáng trống không ngay khi phong đại tan vào thức, ngay đúng lúc rơi vào giấc ngủ, thì có nói rằng không còn nghi ngờ gì nữa, kinh nghiệm tịnh quang sẽ ló rạng. Sự ánh sáng sẽ ló rạng thay vì trạng thái của giấc ngủ thông thường được đặt nền trên sự mê lầm (si). Sẽ không có Bardo giấc mộng vào lúc này. Nó sẽ trở thành kinh nghiệm về ánh sáng, hoàn toàn trong sáng và trống không, cùng việc không nắm giữ điều gì ngoài sự nhận biết đơn thuần của việc thấy nó như nó là và an trụ ở đó. Điều này tương ứng với Bardo Vào lúc Chết khi ánh sáng được minh họa trở thành ánh sáng căn bản và ta có thể đạt được giải thoát. Các bạn nên tự quen thuộc với các giai đoạn tan rã này bởi khi mỗi đại tan rã vào đại kế tiếp, kinh nghiệm sẽ mạnh mẽ hơn. Nếu chưa từng có sự tu tập thì điều này sẽ chỉ đưa các bạn tới một trạng thái ngủ sâu hơn nữa. Nếu đã có tu tập, nó dẫn các bạn đến gần ánh sáng căn bản hơn. Nếu nhờ năng lực của cái thấy và sự thiền định của các bạn, các bạn có thể duy trì sự trong sáng trong tâm vào lúc đó, giống như có một ngọn đèn bơ được thắp lên trong một căn nhà tối, kinh nghiệm về ánh sáng sẽ xuất hiện. Các bạn sẽ có thể tan vào ánh sáng đó, nó là bản tánh căn bản của tâm. Các bạn sẽ thành công trong việc tan hòa vào kinh nghiệm ánh sáng căn bản, kinh nghiệm tịnh quang trong khi các bạn ngủ, hay tan hòa vào ánh sáng căn bản vào lúc chết.

Saigon42