Hỏi : Tham thiền cần tụng kinh bái sám không ?
Đáp : Kỳ thật, nếu suốt ngày tham thiền chẳng gián đoạn tức là suốt ngày tụng kinh, hành trì kinh vậy. Như cha mẹ bảo con đi nấu cơm thì phải vâng lời đi nấu cơm, nay không chịu đi nấu mà chỉ miệng niệm "nấu cơm, nấu cơm." lập lại cho cha mẹ nghe, cha mẹ đâu cần nghe lại lệnh của mình ! Cũng vậy, Phật dạy chúng sanh tu hành là muốn chúng sanh thực hành lời dạy bảo của Phật , Kinh là lời dạy của Phật bảo mình y kinh tu hành, nếu có hiếu với Phật là phải thực hành, nay chẳng chịu thực hành mà chỉ niệm trước mặt Phật hai chữ "Nấu Cơm", niệm mãi chắc phải đói thôi.
Hỏi : Trong kinh nào nói "Đại nghi đại ngộ"?
Đáp : Câu nói này không có ở trong kinh mà là trong lịch sử thiền tông, là lời của Tổ sư. Ở Trung Quốc, Truyền Đăng Lục rất nhiều, trước nhất là Cảnh Đức Truyền đăng Lục, ghi lại lịch sử của một ngàn bảy trăm tổ, sau đó có Ngũ Đăng Hội Nguyên, Ngũ Đăng Nguyên Thống, NguÕ Đăng Truyền Thơ, Chỉ Nguyệt Lục v.v.tất cả đều ghi lại lịch sử của Tổ Sư Thiền, từng đời từng đời truyền xuống, thầy đối với đệ tử như thế nào, đệ tử ngộ đạo như thế nào, quá trình ngộ đạo v.v. đều ghi rõ ràng.
Hỏi : Tiểu ngộ rồi phải ra sao ? Vẫn tham câu thoại đầu cũ hoặc phải đổi qua câu thoại đầu mới để khởi nghi tình ?
Đáp : Tiểu ngộ chưa phải là phá bổn tham, tiểu ngộ chỉ là giải ngộ thôi, câu thoại đầu vẫn còn nguyên, vẫn tiếp tục tham câu thoại đầu đó đến khi nào kiến tánh mới thôi, không được đổi câu khác.
Hỏi : Tham thiền mỗi ngày phải sám hối không ?
Đáp : Tham thiền sẽ được kiến tánh thành Phật, Tổ sư có dạy :" Ngoài nghi tình ra không được khởi một niệm khác, cho dù chơn lý cao hơn Phật cũng là biệt niệm, chướng ngại sự tham thiền của mình, nên chỉ cần luôn luôn giữ nghi tình không gián đoạn. Lúc bắt đầu thì gián đoạn nhiều, một ngày hết hai mươi ba tiếng, rồi dần dần hai mươi hai tiếng, hai mươi mốt tiếng. cứ tham mãi, sự gián đoạn sẽ rút bớt, chứ không được sanh tâm muốn làm một cái gì.
Như trên đã nêu, bất cứ buông bỏ vọng tưởng, trừ vọng tưởng, đè nén vọng tưởng còn không được, huống là sanh tâm nghĩ chuyện khác ! Sở dĩ tạo tội là vì có vọng tưởng khởi lên, cần có nghi tình miên mật, thành khối rồi tự nhiên sẽ có thiền giới. Bậc cư sĩ mặc dù chưa thọ giới xuất gia, nếu công phu thành khối tất cả giới luật xuất gia đều trì hết. Vọng niệm chẳng khởi lên, thiện niệm chẳng khởi lên thì nói chi ác niệm ! Nên trong giới luật gọi là Thiền giới, cũng gọi Định-Cộng-Giới. Nay công phu còn có gián đoạn thì phải tập cho đến không gián đoạn, chứ đừng nên suy nghĩ lúc gián đoạn phải làm sao.
Hỏi : Làm thế nào khỏi lọt vào vô ký không ?
Đáp : Tham thiền luôn phải có nghi tình, nếu không có nghi tình cũng không có vọng tưởng là lọt vào vô ký không, thuộc thiền bệnh rất nặng. Tổ sư gọi là "Ngâm nước chết", vĩnh viễn không được kiến tánh. Mặc dù cảm thấy thanh thanh tịnh tịnh, thấy chẳng có gì, trong người êm dịu, nhưng đó là thiền bệnh. Chẳng thà có vọng tưởng có nghi tình, còn hơn là chẳng có vọng tưởng cũng chẳng có nghi tình. Bởi thế, nghi tình là điều rất cần thiết, không được đánh mất nghi tình. Đã có nghi tình nhưng bỏ câu thoại là không được; chưa đến thoại đầu mà bỏ câu thoại ắt sẽ gián đoạn, lọt vào vô ký không. Khi đến được thoại đầu rồi câu thoại tự mất. Cho nên, bất kể có nghi tình hay không có nghi tình, câu thoại vẫn để trong tâm hỏi tới hoài, chớ cho gián đoạn, lâu ngày sẽ thành tự động không gián đoạn.
Hỏi : Về tư thế tham Thiền như thế nào ?
Đáp : Ở trong Thiền thất, theo đoàn thể phải có giờ giấc; đi nửa tiếng ngồi nửa tiếng. Còn ở nhà thì bất kể đang làm việc hay rảnh rỗi, cứ ngồi đến mỏi thì đi, đi đến mỏi thì ngồi, không cần coi giờ, không được nghiêng về ngồi. Hễ cảm thấy khi ngồi có nghi tình hơn, đi thì không có, ấy cũng chẳng được; ngược lại, nếu cảm thấy đi có nghi tình hơn ngồi cũng không được. Vì đi là động, ngồi là tịnh, lúc tịnh cảm thấy nghi tình nhiều, ham ngồi là bị tịnh trói buộc; lúc đi cảm thấy nghi tình nhiều hơn cũng bị "động" trói buộc, phải khiến cho công phu động cũng chướng ngại không được, tịnh cũng chướng ngại không được, động chẳng biết là động, tịnh chẳng biết là tịnh, động tịnh bằng nhau, quên cả động tịnh mới được.
Hỏi : Khi ngồi thiền thấy đủ thứ cảnh giới phải làm sao ?
Đáp : Bất cứ thấy điều gì : Thấy ánh sáng, thấy hoa, thấy Phật, Bồ tát. tất cả đều là cảnh giới. Trong Kinh Lăng Nghiêm nói :" Nếu như chẳng chấp là thánh ấy là cảnh giới tốt, hễ chấp liền lọt vào tà". ( Bất tác thánh tâm, nhơn thiên cảnh giới, nhược tác thánh tâm, tức thọ quần tà) ". Nay hễ thấy cảnh giới tốt, thấy Phật đến xoa đầu mình , cũng phải coi là cảnh giới hư vọng; thấy cảnh giới địa ngục khủng bố cũng đừng sợ hải, bất kể thấy cảnh giới gì cũng không để ý tới, chỉ đề câu thoại đầu khởi lên nghi tình mà tham.
Hỏi : Vì sao lịch đại Tổ sư, chư hộ pháp long thiên phải bận rộn khi đả thiền thất ?
Đáp : Trong cuốn "Thiền Thất Khai Thị Lục" của Lai Quả Thiền Sư nói :" Khi đả thất, chẳng những trong chùa ngoài chùa, kể cả chư Phật chư Tổ đều rất bận rộn để cho đại chúng yên tâm đả thất. Bận rộn việc gì ? Bận rộn làm hộ pháp cho chúng, che chở cho chúng được phương tiện để tham Thiền. Bởi vì tham Thiền sẽ được kiến tánh thành Phật, sẽ độ cho vô lượng vô biên chúng sanh". Nếu như trong một - hai trăm người chúng ta có một người thành Phật cũng đủ lấy vốn lại rồi !
Có một câu chuyện về Đạo Tuyên Luật sư đời nhà Đường : Ngài là sơ tổ của Luật Tông, trì giới rất trong sạch nghiêm chỉnh, nên cảm hóa được cõi Trời mỗi ngày đem cơm và thức ăn đến cúng dường. Như thế trải qua mấy tháng, được nhiều người hay biết . Có một vị Thiền sư nghe nói, muốn biết hình tướng của Thiên nhơn cõi Trời, một ngày kia đến thăm ngài Đạo Tuyên, ở lại đợi đến giờ ngọ, chẳng thấy có ai đến cúng dường, rồi 12 giờ, 01 giờ, vẫn không thấy, mới từ giã ra về.
Một lát sau, thiên nhơn cõi Trời đi vào, Luật Sư bảo :
- Ông biết tôi chỉ ăn ngọ, sao giờ này mới đến ? Hôm nay sao trễ thế ?
Thiên nhơn nói :" Con vẫn đi đúng giờ, nhưng vì căn nhà bị hào quang của vị Thiền sư che khuất, khiến con vào không được, nay hào quang đã tan đi, con mới vào được căn phòng này."
Đạo Tuyên Luật sư mới biết là do ánh sáng hào quang của vị Thiền sư kia, nhưng chính bản thân vị ấy cũng không hay biết điều này. Bởi do Luật sư ngày thường khinh khi Thiền sư không đủ oai nghi bề ngoài, không nghiêm chỉnh giới luật, nhưng từ đó về sau chẳng dám khinh khi nữa.
Hỏi : Thật tướng của các pháp là gì ? Tại sao kiến tánh rồi lại tiêu diệt thân tâm thế giới ?
Đáp : Tại có tâm chấp nên có câu hỏi này, do có chấp tâm nên thấy đủ thứ hiện tượng thế giới, ví như trong Kinh Lăng Nghiêm nói :"Do con mắt bệnh". Nhưng lời nói của Phật chỉ là phương tiện, chẳng phải thực tế. Nay nói "Khi kiến tánh tất cả hiện tượng thân tâm thế giới đều tan nát" vẫn còn chưa đúng; hễ có sanh mới có diệt, nếu vốn chẳng sanh, làm sao có diệt !
Kinh Pháp Hoa nói :" Chư pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng", tịch diệt tướng tức Niết bàn tướng, vốn chẳng sanh diệt. Tấùt cả pháp từ vô thỉ đến nay vốn không sanh diệt thì làm sao khi thức tỉnh rồi liền tiêu diệt ! Lấy cái gì để tiêu diệt ? __Chỉ là tiêu diệt những vọng tâm, những chấp tâm thôi. Tức các bệnh chấp thật đã trị hết , như Kinh Pháp Hoa nói : " Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ". Thế gian tướng thường trụ, đâu có tiêu diệt !
Kinh Kim Cang nói đến ngũ nhãn : Nhục nhãn, thiên nhãn, pháp nhãn, huệ nhãn, Phật nhãn. Phàm phu chỉ có nhục nhãn, cõi Trời có thiên nhãn, những người có định lực rồi cũng phát được thiên nhãn. Phật thì đầy đủ ngũ nhãn, nên có thể dùng nhục nhãn để thấy ngũ uẩn của thế gian. Nếu chẳng thấy thì lấy gì để dạy chúng sanh ? Chỗ thấy của Phật, phàm phu chẳng thể thấy, Bồ tát cũng chẳng thể thấy, Phật thì thấy đủ cả.
Hỏi : Phú Lâu Na hỏi Phật : Thân tâm thanh tịnh bổn nhiên, sao lại thình lình sanh khởi sơn hà đại địa ?
Đáp : Chính Phật ở trong Kinh Lăng Nghiêm có trả lời :" Do vọng tâm chấp thật nên mới sanh ra, do con mắt bệnh từ vô thỉ đến nay nên mới thấy sơn hà đại địa, thấy có chúng sanh. ấy là con mắt bệnh khiến tâm Bồ đề bị lao nhọc, ví như con mắt ngó hẳn một chỗ, ngó lâu mỏi mệt , thấy có hoa đốm trên không. Tâm Bồ đề của chúng ta cũng vậy, do mỏi mệt nên thấy sơn hà đại địa, đủ thứ hiện tượng.
Phú Lâu Na hỏi tiếp : "Tại sao có vọng tâm đó ? Sao khi không vọng tâm khởi lên ? sao gọi là vọng ?"
Phật đáp :" Đã gọi là vọng thì làm sao có lý do ? Vọng vốn chẳng nguyên do, hễ có nguyên do tức chẳng gọi là vọng " ( Ký danh vi vọng, vân hà hữu nhân ? Nhược hữu sở nhân, vân hà danh vọng ).
Ở trong Kinh Viên Giác, Phật đưa ra bốn thí dụ, ở đây chỉ gom lại một : Do vọng tâm ngày đêm hoạt động không ngừng nên thấy rõ ràng có sanh tử luân hồi, nhưng trong Bát Nhã Tâm Kinh lại nói là "Vô lão tử diệt vô lão tử tận" (Chẳng có sanh tử, cũng chẳng có sự hết sanh tử ), chúng ta nói "Nay thì có sanh tử, khi nào kiến tánh sẽ hết sanh tử", ấy là do bệnh chấp thật. Kỳ thật chẳng phải có sanh tử và sanh tử diệt rồi gọi là Niết Bàn. Theo ý của Đức Phật, thí dụ vọng tâm ngày đêm hoạt động chẳng ngừng thì tất nhiên phải thấy có sanh tử, khi nào vọng tâm ngưng hoạt động thì sanh tử luân hồi cũng ngưng, lúc đó gọi là Cứu cánh Niết bàn.
Cũng vậy, thân xoay thấy căn nhà xoay, nay muốn tìm cách để cho căn nhà ngưng xoay mà thân chẳng chịu ngưng thì làm sao được ? Phải thân mình ngưng xoay rồi tự nhiên căn nhà ngưng xoay. Căn nhà xoay tức sanh tử luân hồi, căn nhà ngưng xoay tức cứu cánh Niết bàn; Căn nhà có xoay đâu mà nói căn nhà ngưng xoay ? Căn nhà có xoay đâu mà nói sanh tử luân hồi ! Tất cả đều là hư vọng, do thân xoay mới có cảm giác sai lầm, chỉ cần cái thân ngưng xoay, như Kinh Pháp Hoa nói "Thường tự tịch diệt tướng" vậy.
Hỏi : Tất cả Phật, Tổ, Thiền sư đều kiến tánh bởi pháp môn tham Thiền khởi nghi tình, phải không ? Nếu phải, tại sao Phật lại thuyết nhiều kinh điển làm chi ?
Đáp : Theo lời của Lai Quả Thiền sư, tất cả Phật quá khứ, Phật hiện tại và vị lai đều phải do tham Thiền kiến tánh thành Phật, Phật Thích Ca cũng vậy. Thế thì tại sao Phật lại giảng kinh thuyết pháp ? Lúc Phật mới thành đạo, tự đóng cửa lại trong ba tuần lễ định không ra thuyết pháp, vì Phật nghĩ rằng "Bệnh chấp của chúng sanh quá nặng, nếu ta ra thuyết pháp, e rằng sau này sẽ chấp thật lời nói của ta, có hại thì nhiều, lợi thì ít; hễ không ra thuyết pháp thì tất cả chúng sanh đều không có cơ hội giải thoát". Sau đó nghĩ rằng :" Quá khứ chư Phật đều phải thuyết pháp, chẳng có Tam thừa mà nói Tam thừa, chẳng phải Phật mà nói có Phật, vì phải hóa độ chúng sanh nên không thể không nói".
Bởi tánh của chúng sanh trong thế giới Ta Bà này ham tri kiến, nên mới dùng lời nói thuyết pháp làm Phật sự hóa độ.
Kinh Duy Ma Cật nói :" Thế giới khác chẳng có lời nói, ăn cơm cũng là Phật sự độ chúng sanh, đủ thứ chẳng dùng lời nói để độ chúng sanh. Ở Cõi Ta Ba thì phải dùng lời nói để độ chúng sanh, nên Đức Phật mới giảng kinh thuyết pháp".
Thời Phật Thích Ca chẳng có kinh, Phật chỉ trực tiếp dạy pháp tu hành. Sau khi Phật nhập Niết bàn, hàng đệ tử mới kết tập lại thành các bộ kinh; hồi đời Phật cũng chẳng chia thành Đại thừa, Trung thừa, Tiểu thừa, sau kết tập lại thành có Tam thừa. Pháp tham Thiền này là Tối thượng thừa, vì không ở trong giáo lý của Tam thừa, nên cũng gọi là giáo ngoại biệt truyền.
Tại sao Phật thuyết Tam thừa ? Vì lòng từ bi hóa độ chúng sanh , nếu không thuyết thì chúng sanh chẳng thể giải thoát, nên phải đặt ra để nói, nói xong liền quét. Ví như trong Bát Nhã Tâm Kinh, quét từ phàm phu đến Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, và quét luôn cả Phật, rồi mới được chứng quả Phật. Tất cả kinh Đại thừa liễu nghĩa như Kinh Kim Cang, Kinh Lăng Nghiêm, Lăng Già. đều như thế. Nói tóm lại tức là xác định sự quét như một cây chổi thôi : Phật nói ra kiến lập liền quét; kiến lập thừa Thanh văn quét Thanh văn, kiến lập thừa Duyên giác quét Duyên giác, kiến lập thừa Bồ tát quét Bồ tát, kiến lập Phật thừa quét Phật. Do bệnh chấp của chúng sanh rất khó trị, nên Phật nói xong liền quét, vì sợ chúng sanh chấp theo lời Phật vậy.
Đức Phật thuyết pháp 49 năm, tự nói chẳng thuyết một chữ, vì hễ nói ra là chẳng phải rồi. Trong Kinh Lăng Già, Phật bảo :" Lời nói của ta chỉ là vọng tưởng, chớ nên chấp thật". Lời nói của Phật, của Tổ là muốn phá chấp thật của chúng ta, nếu còn chấp vào lời nói của Phật, của Tổ thì bệnh chấp vẫn còn nguyên, làm sao có thể kiến tánh thành Phật ? Kinh Đại thừa liễu nghĩa cũng dạy chúng ta quét, nay tham Thiền là quét bằng cách automatic, chẳng cần khởi niệm muốn quét, cũng chẳng cần khởi niệm không quét, vì sự quét đó tự động.
Phật Thích Ca thuyết pháp 49 năm, sau cùng đưa lên một cành bông, truyền pháp môn Thiền này đến ngày hôm nay, ấy mới hợp với ý của Phật.
Ở Ấn Độ, ngài Ma Ha Ca Diếp là Sơ Tổ, truyền sang Trung Quốc do ngài Đạt Ma là Sơ Tổ, đến đời nhà Thanh, đã có hơn bảy ngàn Tổ ghi trong "Ngũ Đăng Truyền Thư". Về Giáo môn, người được chứng ngộ rất ít, còn đối với những người ham cầu tri kiến, chỉ được gieo trồng thiện căn, sau này thiện căn được chín muồi rồi ( hoặc một kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp sau ) mới có thể do tham thiền rồi chứng ngộ.
Hỏi : Sao Sư phụ nói không có nhân quả ?
Đáp : Ông vừa bảo tôi nói "Không có nhân quả" ấy là sai, tôi nói "không có nhân duyên", là do trong Kinh Lăng Nghiêm nói "Phi nhân duyên, phi tự nhiên" chứ chẳng phải không có nhân quả. Nói "không có nhân quả", chấp vào một bên là tà kiến, là tội địa ngục, thuộc tà kiến trong năm thứ ác kiến. Nếu pháp sư nào chỉ giảng được nghĩa hai câu thì pháp sư đó phải đọa địa ngục; hễ pháp sư giảng thấu nghĩa ba câu mà người nghe hiểu lầm, thì người nghe có lỗi chứ chẳng phải lỗi tại pháp sư. Trong cuốn Niên Phổ của ngài Hư Vân Thiền sư, có trường hợp chỉ trả lời sai một chữ, phải đọa làm con chồn năm trăm kiếp, chẳng phải chuyện chơi. Tôi đã từng nói là không được chấp thật, nếu chấp CÓ là thật có bệnh còn nhẹ, hễ chấp cái KHÔNG cho là thật không, thì bệnh rất khó trị.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks