Văn chương thường gặp hai chữ hiếu thảo, chứ ít thấy hiếu thuận. Hiếu thảo thuộc dạng nghĩa khác hiếu thuận.
Hiếu thì dễ hiểu, còn chữ thuận thì bao la quá, định nghĩa sao hết. Đồng ý chữ thì mênh mông, nhưng trước nhất cần nêu điểm quan trọng nhất là thuận gì trước? Đức Phật hỏi hàng đệ tử cả hai giới Tăng Tín: “Các con thương ai trước nhất?”. Nhiều câu trả lời, nhưng đều chưa chính xác. Đức Phật dạy tiếp: “Đồng ý với các con, là thương mọi người, mọi loài, nhưng muốn tình thương bao la kia đạt hiệu quả thì chính mình phải thương mình trước”.
Thường thường đề cập về chữ hiếu thì đa phần đều nghĩ đến việc hiếu thảo với cha mẹ, kế đến là ông bà tộc họ. Nhưng muốn hiếu thảo với ông bà cha mẹ thì trước nhất bản thân mình phải hiếu thuận với chính mình trước.
Nho gia đề cập: “Tiên tu kỳ thân, hậu tề kỳ gia...”. Nhưng Nho giáo chỉ đại cương chứ không chi tiết.
Mỗi người muốn tròn hiếu đạo với Tổ phụ thì trước nhất phải biết hiếu thuận với chính mình. Vậy thế nào là hiếu thuận với chính mình?
Dù giáo pháp Đức Phật bao la, cả vạn pháp môn tu, nhưng khởi đầu đều từ Tam quy Ngũ giới. Nếu ba pháp quy y chưa thành tựu, năm nghi giới chưa tròn đầy thì hàng vạn pháp môn khác xem như gió thoảng qua mành. Muốn tròn ba pháp quy y và năm nghi giới thì việc đầu tiên phải kiểm soát lại bản thân mình đã thuận nhau chưa. Thế nào là thuận nhau? Con người tuy chia nhiều phần, nhưng bao gồm có sáu căn, tám thức. Nếu sáu căn tám thức không thuận hợp thì tất cả cuộc đời mình bềnh bồng nào khác bọt xà phòng.
Sáu căn là mắt tai mũi lưỡi thân và ý. Khi tập luyện, sáu căn này thuận hợp cùng nhau là một. Thế nào là thuận hợp? Không trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược. Mắt nhìn thế nào thì tai nghe thế ấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân chạm xúc và ý tư duy, tất cả sáu giác quan đồng nhất quán thành một, lúc ấy pháp mới thành tựu; nhược bằng bất cứ có một giác quan nào còn nghi vấn là cả năm giác quan kia phải rà soát trở lại. Nhìn tới, nghe lui, tức là thấy nghe sờ ngửi nếm và chuyển về ý chờ duyệt, khi nào tất cả đồng ưng nhất quán là đã thành tựu giai đoạn một. Nếu một giác quan chưa đồng ưng thì xem như sáu anh em của nhà giác quan chưa thuận. Không thuận mà hấp tấp thì pháp ấy không thành tựu. Sau khi sáu giác quan đã đồng ưng mới chuyển sang nhường quyền cho thành viên thứ bảy, đó là “Mạc na”. Tuy Mạc na lúc nào cũng hiện diện, nhưng khi có ý ở đó thì nó không hề xen vào; khi ý vắng nhà lúc đó nó mới quyết định. Mạc na là thành viên vô cùng lợi hại của con người. Ấy thế mà đa phần chúng ta thường bỏ quên nó, nhiều lúc ý lấn hoặc chiếm quyền của nó, vì vậy mà bị thất bại. Vì tầm mức quan trọng của nó nên Duy thức định nghĩa Mạc na là “Ý+Ý”. Tức là cái ý thứ hai, hoặc là người anh của ý. Mạc na quyết định tối hậu, mặc dù nó câm lặng nhưng nó có quyền loại bỏ, hoặc nhận đưa vào thức thứ tám, thức A lại da - thức này y học đặt tên là bộ nhớ. Luân hồi hay siêu thoát đều do thức Mạc na.
Truyện Tây du của Ngô Thừa Ân, con ngựa đóng vai Mạc na, Đường Tam Tạng đóng vai A lại da, Tề Thiên đóng vai Ý, Sa Tăng-Bát giới đóng vai Tiền ngũ thức.
Khi sáu giác quan đã lọc kỹ và nhất quán thì tức khắc nó biến thành sáu thức. Sáu thức phải đưa về tổng tham mưu là A lại da, tức thức thứ tám, nhờ thức thứ bảy là Mạc na chuyển giao, cho nên thức thứ bảy còn gọi là Truyền tống thức, thức thứ tám còn gọi là Tạng thức. Cộng cả sáu và hai thành tám thức.
Người thành tựu giữa dòng đời, chỉ cần hợp nhất tám thức là đủ, nhưng bậc trí muốn nhập vào dòng đời, phải chuyển tám thức sang vô thức, biến vô thức thành tứ trí và chuyển hóa bừng khai, tỏa chiếu tuệ, ngộ đẳng đẳng, tối hậu là chánh giác.
Khi sáu căn tám thức thuận hợp thành một thì việc báo hiếu mới có hiệu quả.
Khi sáu căn tám thức thuận hợp thì mới trở về với tự tánh ba quy y.
Khi hiểu ba “Tự tánh” quy y, mới dẫn nhập “Sự tướng” quy y.
Khi tánh tướng viên dung mới trở thành đệ tử Phật và lúc ấy mới hành đúng đạo hiếu mà Đức Phật đã hướng dẫn. Dù hiếu với dân hay hiếu với tổ tông cũng vậy.
TTB
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks