CÂU CHUYỆN THẬT VỀ CUỘC ĐỜI MỘT HÀNH GIẢ THÀNH TỰU THẦN CHÚ ĐẠO SƯ KIM CƯƠNG TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
Người thuật lại: Jamyang Dorje Rinpoche của hội Padmakara Đài Bắc
Ghi âm: Pema Tsering ngày 22/8/2007
Dịch từ tiếng Trung quốc sang tiếng Anh và biên tập: Jigme Sherab
Quy y Đức Padmasambhava và Pema Norbu Rinpoche Tháng 5 năm 2006 – Trên miền đất thiêng của đức Padmasambhava, xứ Bhutan, một bậc thầy mù lòa thành tựu biết trước ngày chết của mình, đã đi vào Niết bàn trong tư thế kiết già.
Tôi e rằng thời gian trôi qua sẽ dần quên lãng những chi tiết của câu chuyện giải thoát phi thường này, thế là mọi tình tiết tuyệt vời của nó được ghi lên giấy với vốn liếng văn chương kém cõi của mình. Hy vọng rằng những ai thấy, nghe và biết về câu chuyện chân thực này sẽ tràn đầy niềm tin và lòng sùng mộ sâu xa vào đức Padmasambhava, nhờ đó nhận được nhiều ân sủng và thành tựu.
Vị thành tựu giả này là một người Bhutan. Sinh thời, mọi người thường gọi ông là ‘Drubtop’ nghĩa là người đã giác ngộ. Hơn nữa, vì ông đã thành tựu và giải thoát nhờ trì tụng thần chú Đạo sư Kim Cương, nên cũng được gọi là ‘Benza Guru Drubtop’, nghĩa là ‘Thành tựu giả Đạo sư Kim cương’. Vẻ ngoài của vị này tuy dơ dáy và nhếch nhác nhưng ẩn bên trong là tự do và giải thoát phi thường, trước đây vốn là người hành khất tàn tật sống trong những khu nhà ổ chuột của Bhutan. Sau đó, nhờ sự giúp đỡ của Lama Urgyen thuộc tu viện Sangngak Thegchog Osel Ling và Jamyang Dorje Rinpoche, ông đã được mời đến tu viện, ở đây họ đã chăm sóc ông như một sự cúng dường ruộng phước không khác. Nhờ đó mười năm cuối đời của ông tương đối an nhàn.
‘Benza Guru Drubtop’ vốn không phải mù bẩm sinh. Người ta nói rằng thị lực bị mất đi là do tai họa mà ông phải gánh chịu bởi những thần chú mà các kẻ thù của ông gây ra. Trước khi bị mù, ông chỉ là một nông dân bình thường theo đạo Bon. Vào lúc đó, ông không biết những phẩm tính vĩ đại của đức Padmasambhava và thậm chí còn thốt ra những lời báng bổ đối với Đức Guru Rinpoche.
Để chữa mắt, người nông dân đã tìm đến nhiều bác sĩ nhưng họ đều bó tay. Không còn cách nào khác, ông đã yêu cầu vài người bạn pháp và các vị thầy cho lời khuyên nên thực hành cái gì để khôi phục lại thị lực.
Cuối cùng, ông nghe theo lời khuyên của một vài vị thầy và quyết định khởi sự trì tụng thần chú Đạo sư Kim cương (OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG), đặt niềm tin vào đó như sự thực hành duy nhất và rốt cuộc ông đã đạt đến cấp độ thật đáng kinh ngạc của giác ngộ. Khi ‘Drubtop’ bắt đầu tụng chú, đức tin vào Padmasambhava dần chín muồi và tăng trưởng. Vì mù, ngày cũng như đêm không khác nhiều đối với ông và ông đã cần cù trì tụng cả ngày lẫn đêm.
Khi ông hoàn thành một trăm triệu biến, kinh luân của ông thường quay khi trì tụng thần chú, kỳ lạ thay bắt đầu nhỏ ra những giọt cam lồ. Nên nhớ kinh luân thường là một cuộn giấy khô và không thể có nước chảy ra từ đó. Điều này minh chứng chân thực cho kết quả thực hành của ‘Benza Guru Drubtop’ cũng như ân phước của Đức Padmasambhava kỳ diệu như thế nào. Sau đó, ông không những không giảm đi mà vẫn tiếp tục trì tụng không ngừng nghỉ, cầu nguyện đức Guru Rinpoche với niềm tin lớn lao.
Khi ông hoàn thành 300 triệu biến, trong tình trạng như mơ, ông đã gặp đấng Sinh trong hoa sen và nhận một tiên tri, nhờ đó đạt một cấp độ chứng ngộ đáng kinh ngạc.
Đức Padmasambhava bảo với ‘Benza Guru Drubtop’, “Nếu con sống thêm 7 năm nữa, mắt con sẽ sáng trở lại. Nguyên nhân bị mù cả hai mắt chính là trước đây con tin theo đạo Bon và nhất là, con đã nhạo báng và xem thường những đấng tôn quý. Dù bây giờ con đã nhìn thấy ta, nhưng do nghiệp chướng đó, con sẽ không thể ngay tức thì sáng mắt trở lại.”
Trong trạng thái kỳ diệu đó, Đức Guru Rinpoche cũng yêu cầu ‘Benza Guru Drubtop’ làm một chiếc mũ pháp đặc biệt như một nhân duyên cát tường, và người mù ‘Benza Guru Drubtop’ đích thân làm ra chiếc mũ từ những mảnh đồng mà không có bất kỳ sự trợ giúp của ai.
Bất chấp sự chứng ngộ bên trong và huệ nhãn phi thường nhờ ân phước của Đức Guru Rinpoche, do bề ngoài tàn tật của ông, không ai sẵn lòng chăm sóc ông đúng nghĩa. Vì vậy ông lang thang trong vùng ‘Chim’ ở Bhutan. Người vùng đó gọi ông là ‘Benza Guru Drubtop’.
‘Benza Guru Drubtop’ biết một phương pháp bí mật để tịnh hóa chướng ngại mà bậc Sinh trong hoa sen đã truyền riêng cho ông. Nó có thể nhanh chóng hóa giải tất cả mọi bệnh nan y hay tai ương giáng xuống con người. Nó đặc biệt nhưng không hề tao nhã. ‘Benza Guru Drubtop’ cần phải làm một cái bánh torma đặc biệt và thực hành một nghi lễ ngắn, những chi tiết của nó chỉ mình ông biết, và rồi ông phải cởi trần và trong lúc hoàn toàn trần trụi như thế ông phải đem torma đến một ngã ba đường gần đó. Phương pháp này vô cùng công hiệu, tất cả những người được ông cử hành nghi lễ này đều thoát khỏi hoạn nạn không trừ một ai.
Bên cạnh đó, mỗi khi ai đó thỉnh cầu ‘Benza Guru Drubtop’ giúp đỡ, cái cách bói toán của ông cũng khác người. Ông không cần dùng một dụng cụ bói toán nào, cũng không yêu cầu họ nói nhiều, nhưng đều biết mục đích của người thỉnh cầu và có thể nói ra những điều riêng tư của ngôi nhà người đó, khu vực chung quanh và cả mọi điều khác, kể cả những bí mật cá nhân mà người ta không muốn bị tiết lộ. Rõ ràng, ‘Benza Guru Drubtop’ đã đạt được huệ nhãn phi thường thấu suốt tâm của người khác nhờ sự ban phước của Đức Guru Rinpoche. Vì thế người đời gọi ông là ‘Drubtop’.
Chứng ngộ ẩn mật của ‘Benza Guru Drubtop’ không làm ông cố gắng cải thiện đời sống của chính mình thay vào đó ông quan tâm đến người nghèo và hoạn nạn một cách tự nhiên không ngăn ngại.
Có một điều không đổi là ông vẫn tiếp tục cầu khẩn Guru Rinpoche cả ngày lẫn đêm, chân thành trì tụng thần chú Đạo sư Kim cương và vì thế đến khi ông mất ít nhất số lượng thần chú mà ông trì tụng suốt cuộc đời cũng vượt qua 600 triệu biến. Không như người khác, ông không màng giới thiệu những nỗ lực thực hành hay những dấu hiệu kỳ diệu của mình, thay vào đó ông làm lợi lạc cho chúng sinh một cách tự nhiên và đáp ứng tức thì. Vì thế, mọi người dù biết ông nhưng không ai hiểu sự chứng ngộ thâm sâu của ông như thế nào. Hầu hết mọi người chỉ quan tâm cách thức bên ngoài và những nghi lễ bạt trừ chướng ngại của ông như một dấu hiệu rằng ông đơn thuần là một hành giả có chút thành tựu. Mọi công hạnh bí mật của mình, ông chỉ kể với Lama Urgyen và một vài thân hữu có đức tin.
Mặc dù là một thành tựu giả, ông không thay đổi áo quần hay vẻ ngoài, mà vẫn như một kẻ hành khất, cho phép người khác cúng dường và khoác lên người bất cứ thứ gì người ta dâng cúng. Dầu ông được mời ở trong tu viện Sangngak Thegchog Osel Ling và có thể lựa chọn chỗ ở và tiện nghi sống, ông vẫn ưa thích sống trong một góc dột nát của tu viện và ngủ trên những tấm trải cũ kỹ, dùng chiếc gối và tấm chăn thủng lỗ chỗ. ‘Benza Guru Drubtop’ chỉ dùng thức ăn và áo quần cũ của người khác. Nếu ai cúng dường tiền bạc, ông sẽ trì tụng thần chú và thổi vào chúng như ban phước, trước khi trả lại cho người cúng, nói với họ rằng đừng tiêu tiền đó mà hãy giữ trong người như một vật đã được ban phước để hộ thân. Khi ai đó dâng khăn khata, thì cũng tương tự như thế. Điều đó cho thấy rằng ‘Benza Guru Drubtop’ đã biết rõ phú quý như hư không, không tham muốn bất cứ thứ gì.
Một lần nọ tác giả thỉnh cầu một trong những người đứng đầu tu viện, Jamyang Dorje Rinpoche, để cúng dường một ít tịnh tài, những thay vì cho gặp ông Rinpoche cười lớn, người nói: “ ‘Benza Guru Drubtop’ không cần tiền, làm thế nào mà cúng cho ông ấy ? Nếu ông muốn cúng áo quần hay thứ gì khác, ông ấy cũng không chịu nhận, hay chỉ ban phước cho chúng và trả lại cho ông. Nếu muốn dâng thực phẩm, thì nay ông ấy đang được tu viện chu cấp, vì thế ông ấy không hoan hỉ bất cứ cái gì ông cúng dường đâu. Ngoài trừ bữa ăn của mình, ông ấy thực sự không chấp nhận thêm thức ăn nào khác”. Nghe điều này, tôi cảm nhận sâu sắc rằng đây thực sự là một bậc thầy chứng ngộ không sở cầu hay ước muốn điều gì thật xứng đáng nhận sự tôn kính.
Bảy ngày trước khi ông biểu lộ sự vô thường, ‘Benza Guru Drubtop’ thông báo với tu viện trưởng Lama Urgyen, “Ta sẽ rời bỏ thế giới này để đi gặp Đức Padmasambhava”. Lúc đó, tu viện trưởng nhận thấy Drubtop vẫn còn khỏe và nghĩ rằng ông chỉ đùa. Lama không chú ý lắm đến dấu hiệu này. ‘Benza Guru Drubtop’ thì tự tin bảo với vài người bạn tu sĩ rằng, “Lama Urgyen không tự do sống và chết, nhưng ta thì có. Ông ta sẽ không hiểu ý ta… Pháp thân vượt lên cái chết, bởi lẽ ta đã đạt được Pháp thân, với ta không có cái chết thực sự nào cả!” Hoàn toàn thất học và chưa từng học hỏi bất cứ giáo pháp nào, kinh điển hay luận giải nào, nhưng lúc đó, ‘Benza Guru Drubtop’ có nhiều câu nói chứng tỏ đã đạt đến chứng ngộ Dzogpa Chenpo. Không có gì đặc biệt xảy ra, ngoại trừ vài người bạn tu sĩ biết và lo buồn vì ‘Benza Guru Drubtop’ sắp ra đi, những người khác không cảm thấy rằng Drubtop thực sự biết trước giờ chết của mình, và có thể từ bỏ thế giới này một cách dễ dàng và giải thoát như thế. Bảy ngày sau, vào lúc những tia sáng trong trẻo của bình mình ló dạng, ‘Benza Guru Drubtop’ ngồi trong tư thế kiết già và an nhiên hòa nhập vào tánh không. Vào giây phút đó, mặt đất xuất hiện chấn động nhỏ có thể cảm nhận được. Sau khi ông mất, tu viện thường ngày vắng lặng trở nên đông đúc bởi hơn 3000 người đến viếng để tỏ lòng tôn kính của họ. Hàng ngày vào lúc bình minh, có ba con chim xuất hiện bay vòng quanh nhục thân ông 3 vòng trước khi bay đi. Người ta bảo rằng đó là những vị dakini đến bày tỏ lòng tôn kính của họ. ‘Benza Guru Drubtop’ đã qua đời chính xác 7 năm từ lúc ông có thị kiến về Đức Padmasambhava, thật phù hợp với tiên tri rằng ông sẽ “sáng mắt trở lại”. Vì giờ đây, ông không còn bị thân tứ đại ngăn ngại ông đến cõi tịnh thổ Sangdok Palri (núi Huy hoàng màu đồng đỏ) để gặp Đức Guru Rinpoche.
Ước nguyện của tác giả là câu chuyện phi thường này về cuộc đời của vị thành tựu giả Guru Rinpoche thời nay sẽ khích lệ mọi chúng sinh phát sinh tín tâm và cầu khẩn Guru Rinpoche, cuối cùng đạt được giác ngộ như ông.
Chú thích: Vì dịch giả Anh ngữ được thôi thúc bởi chính câu chuyện chân thật này, ông đã quyết định dịch nó sang tiếng Anh để nó đến được với nhiều người hơn. Ước nguyện chân thành của ông là nếu có ai đọc được câu chuyện này và thấy rằng nó lợi lạc cho họ, xin hoan hỉ chuyển nó cho người khác và hãy trì tụng 100,000 biến chú Đạo sư Kim cương vì lợi lạc của vô lượng chúng sanh. Nhờ công đức dịch thuật này, nguyện cho nhiều người biết đến lợi lạc của việc trì tụng thần chú Đạo sư Kim cương, thực hành nó và mau chóng đạt được giác ngộ.
*************************************
Mọi người vào đường link mediafire mày để tải cách đọc Thần Chú Kim Cương Đạo Sư bằng tiếng phạn Sanskrit: http://www.mediafire.com/file/zyhwzz...5A1ng.mp3/file
MẬT ĐIỂN DẠY VỀ LỢI ÍCH KHI TRÌ THẦN CHÚ KIM CƯƠNG ĐẠO SƯ
Việt Dịch: Thanh Liên
Thần chú Đạo Sư Kim Cương (Vajra Guru Mantra) là thần chú được kết hợp với Guru Rinpoche - cũng được gọi là Đức Padmasambhava (Liên Hoa Sanh). Đây là một bản phác dịch của một bản văn kho tàng (terma) giải thích thần chú Đạo Sư Kim Cương. Lúc ban đầu nó được khám phá trong thời gian Đức Padmasambhava đang ở Tây Tạng và về sau được Karma Lingpa (thế kỷ 14) khám phá lại. Vị này lấy nó từ nơi được chôn dấu và sao chép nó trên giấy bằng vàng. Nó được gọi một cách đơn giản là “Âm tiết theo sự Chú giải Âm tiết Giải thích những Lợi ích và Thuận lợi của Thần chú Đạo Sư Kim Cương.” Nó bắt đầu với một lời khẩn cầu và sau đó trở thành một cuộc đối thoại giữa Yeshe Tsogyal - vị phối ngẫu tâm linh của Đức Padmasambhava – và chính Đức Padmasambhava.
Và như thế, Yeshe Tsogyal bắt đầu:
“Con, Yeshe Tsogyal, sau khi cúng dường Ngài mạn đà la trong và ngoài trên một phạm vi rộng lớn, con có khẩn cầu tiếp theo. Ôi Pema Jungne, Đạo Sư vĩ đại, Ngài đã cực kỳ tốt lành đối với chúng con, dân chúng Tây Tạng, khi để lại cho chúng con một di sản sẽ mang lại lợi lạc cho chúng con bây giờ và trong những đời sau. Thiện tâm của Ngài vĩ đại tới nỗi chúng con chưa từng kinh nghiệm bất kỳ điều gì như thế trước đây. Đặc biệt là Ngài đã ban cho con những giáo lý cốt tuỷ cho việc thực hành của con khiến cho giờ đây, mặc dù con chỉ là một kẻ tầm thường, nhưng con không nghi ngờ gì về việc con sẽ đạt được giác ngộ.
Trong tương lai, những khoảng thời gian chú tâm của chúng sinh sẽ rất ngắn ngủi và rất nhiều sự việc sẽ phủ chụp và chiếm cứ tâm thức họ. Tính khí họ sẽ thô tháo và khó điều phục. Họ sẽ phát triển nhiều tà kiến đối với Thánh Pháp. Đặc biệt, sẽ tới lúc nhân loại sẽ truyền bá giáo lý Mật thừa thuộc những cấp độ tantra vô song. Vào lúc này, tất cả chúng sinh sẽ hết sức đau khổ bởi bệnh tật, nạn đói và chiến tranh. Do sự lan rộng của ba tai ương này mà cụ thể là Trung Hoa, Tây Tạng và Mông Cổ sẽ phải trải qua cùng một loại hỗn loạn như một tổ kiến khi bị huỷ diệt, vàsẽ tới lúc dân chúng Tây Tạng phải chịu đau khổ ghê gớm. Mặc dù Ngài đã từng nói rất chi tiết về nhiều phương tiện thiện xảo để cứu thoát những gì có thể ra khỏi tình huống đó, chúng sinh trong tương lai sẽ không có thì giờ để thực hành. Mặc dù họ có thể có chút khuynh hướng nhợt nhạt để thực hành, nhưng họ sẽ gặp nhiều trở ngại to lớn. Chúng sinh sẽ trải nghiệm rất nhiều sự bất hoà. Họ sẽ không thể hoà thuận hay đạt được bất kỳ loại hoà hợp nào, và theo sau điều này, hành vi của họ sẽ trở nên rất bất tịnh. Những thời đại tồi tệ như thế này sẽ rất khó tránh khỏi. Trong tình thế này, chúng sinh trong tương lai nương tựa duy nhất nơi Thần chú Đạo Sư Kim Cương như thực hành của họ sẽ có được những lợi ích và thuận lợi nào? Con xin Ngài thuyết giảng về vấn đề này vì lợi ích của những cá nhân trong tương lai, là những người không thể nhận thức điều này và vì thế cần phải giảng cho họ rõ.”
Khi đó Đạo Sư vĩ đại Pema Jungne trả lời:
“Ôi người phụ nữ trung thành, những gì con nói thì hết sưc chân thực. Trong tương lai, những thời đại như thế sẽ xảy tới với chúng sinh và trong một sự tri giác nhất thời lẫn phạm vi dài hạn, những lợi ích của Thần chú Kim Cương Đạo Sư có thể được cảm nhận một cách rõ ràng. Bởi những giáo huấn tâm linh và những phương pháp thực hành mà ta ban tặng thì vô biên nên ta đã cất dấu một số lượng rất lớn những giáo lý kho tàng (terma) trong nước, đá, không gian và v.v.. Trong những thời đại xấu ác đó, ngay cả những cá nhân với nghiệp may mắn cũng sẽ khó gặp được những giáo lý này. Sẽ khó hội đủ những hoàn cảnh cần thiết để khám phá được những giáo lý này. Đây là một dấu hiệu cho thấy công đức tập thể của chúng sinh đang bị suy hoại.
Tuy nhiên, vào những thời đại như thế, nếu thần chú-cốt tuỷ này, thần chú Kim Cương Đạo Sư, được trì tụng càng nhiều càng tốt, một trăm lần, một ngàn lần, mười ngàn lần, một trăm ngàn lần, một triệu, mười triệu, một trăm triệu lần và v..v.., nếu nó được trì tụng ở những thánh địa, trong những đền chùa, cạnh những con sông lớn, trong những miền nơi có rất nhiều chư thiên và quỷ ma, nếu nó được trì tụng ở những nơi chốn này bởi những hành giả Kim Cương thừa có samaya (giới nguyện) trong sạch, bởi những người xuất gia giữ nguyện thật thanh tịnh, bởi những người nam và nữ có đức tin nơi giáo lý, nếu họ phát khởi Bồ Đề tâm ở một mức độ rộng lớn và trì tụng thần chú này, thì những lợi ích, thuận lợi và năng lực của thực hành như thế thì thật sự không thể nghĩ bàn. Thần chú này sẽ ngăn ngừa mọi thế lực tiêu cực của bệnh tật, nạn đói, sự náo động, những mùa thu hoạch kém và tất cả những điềm triệu và dấu hiệu xấu trong mọi quốc gia trên thế giới, chẳng hạn như mưa sẽ đổ xuống đúng lúc để luôn luôn cung cấp đủ nước cho nông nghiệp và đời sống của người và thú vật, và mọi miền sẽ được thịnh vượng và hưởng những điều kiện tốt lành.
Trong đời này, những đời sau, và trong trạng thái trung ấm giữa sự chết và tái sinh, những cá nhân thực hành theo cách này sẽ liên tục gặp lại ta. Người xuất sắc nhất trong những cá nhân này sẽ thực sự gặp ta trong ý thức tỉnh giác của họ. Những người thuộc cấp độ trung bình sẽ gặp ta trong những linh kiến thiền định, và ít nhất, họ sẽ luôn gặp ta trong những giấc mộng. Dần dần khi hoàn thiện những con đường và những cấp độ khác nhau của sự thực hành, họ sẽ đạt được hàng ngũ của những bậc nam và nữ trì giữ giác tánh nội tại (Trì Minh Vương) trong cõi tịnh độ của ta tại đại lục Ngayab. Chớ nghi ngờ điều đó.
Nếu thần chú này được tụng một trăm lần một ngày, chỉ đơn thuần một trăm lần một ngày mà không gián đoạn, hành giả sẽ trở nên thu hút người khác và sẽ có thực phẩm, của cải và những thứ cần thiết của cuộc sống mà không cần nỗ lực.
Nếu hành giả tụng thần chú này một ngàn hay mười ngàn lần mỗi ngày, hành giả sẽ thực sự có thể trổi vượt người khác bằng sự chói sáng của mình, trở nên rất uy tín và có sức thuyết phục trong việc gây một ảnh hưởng tích cực trên những người khác, và hành giả sẽ có được sức mạnh của những ân phước và năng lực tâm linh mà không bị ngăn trở.
Nếu hành giả trì tụng một trăm ngàn hay một triệu lần trên cơ sở đều đặn, hành giả sẽ có thể có khả năng thực hiện vô lượng lợi lạc vĩ đại cho chúng sinh, hoàn toàn như ước nguyện của hành giả.
Nếu hành giả trì tụng thần chú ba hay bảy triệu lần, hành giả sẽ không bao giờ xa rời chư Phật ba thời và sẽ trở nên bất khả phân với ta. Tất cả các vị trời và quỷ ma sẽ chú tâm tới hành giả và dâng cho hành giả những lời tán thán của họ.
Trong trường hợp tốt nhất, hành giả sẽ đạt được thân cầu vồng, cấp độ cuối cùng của sự thành tựu trong đời này. Ở cấp độ trung bình, vào lúc chết, tịnh quang mẹ và con sẽ gặp gỡ nhau. Ở cấp độ thấp nhất, hành giả sẽ nhìn thấy mặt ta trong trạng thái bardo và mọi sự xuất hiện trong bardo sẽ được giải thoát trong nền tảng của riêng chúng chẳng hạn như những hành giả này sẽ được tái sinh trong đại lục Ngayab và từ vị trí thuận lợi đó, có thể thành tựu vô số lợi lạc cho chúng sinh. Đức Guru đã trả lời Yeshe Tsogyal như thế.”
Bà đáp lại:
“Ôi Đạo sư vĩ đại, Ngài đã hết sức tốt lành khi tuyên thuyết về vô lượng lợi ích và thuận lợi to lớn này của năng lực tâm linh của thần chú này. Tuy nhiên đối với lợi ích của chúng sinh trong tương lai, một sự giải thích chi tiết vể Thần chú Kim Cưong Đạo Sư sẽ có lợi ích lớn lao, và vì thế con khẩn cầu Ngài nói vắn tắt về những âm tiết (chữ) khác nhau của thần chú này.”
Đạo sư vĩ đại trả lời về điều đó như sau:
“Ôi con gái của gia đình tốt lành, thần chú Kim Cương Đạo Sư không chỉ là thần chú cốt tuỷ duy nhất của ta, nó là tinh yếu hay sinh lực của tất cả các Bổn Tôn của bốn cấp tantra, của tất cả chín thừa, và của tất cả 84.000 pháp môn . Cốt tuỷ của tất cả chư Phật trong ba thời, của tất cả những guru, yidam (Bổn Tôn), những daka và dakini, những Hộ Pháp v.v.. cốt tuỷ của tất cả những vị này được chứa đựng và đầy đủ trong thần chú này. Con có thể hỏi cốt tuỷ này ra sao. Đâu là lý do để tất cả những điều này được đầy đủ trong thần chú này. Hãy đọc đi đọc lại nó. Hãy viết nó ra vì lợi ích của người khác, và giảng dạy hay biểu thị nó cho chúng sinh trong tương lai.
OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG
OM AH HUNG là tinh tuý siêu phàm của những nguyên lý của thân, khẩu và ý giác ngộ
VAJRA là tinh tuý siêu phàm của Bất Hoại (Kim Cương) bộ
GURU là tinh tuý siêu phàm của Bảo Sanh bộ
PADMA là tinh tuý siêu phàm của Liên Hoa bộ
SIDDHI là tinh tuý siêu phàm của Nghiệp bộ
HUNG là tinh tuý siêu phàm của Phật bộ.
OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG
OM là sự tráng lệ và giàu có toàn hảo của Báo Thân, thân hiển lộ của sự tráng lệ
AH là sự viên mãn bất biến tuyệt đối của Pháp Thân, thân hiển lộ của thực tại tuyệt đối
HUNG làm toàn thiện sự hiện diện của Guru Padmasambhava như Hoá Thân, thân hiển lộ của sự hoá hiện
VAJRA làm toàn thiện tất cả những Bổn Tôn Heruka của các mạn đà la
GURU ám chỉ cội gốc và những guru truyền thừa và những bậc trì giữ giác tánh nội tại (Trì Minh Vương)
PADMA làm toàn thiện tập hội các daka và dakini
SIDDHI là sinh lực của mọi Bổn Tôn tài bảo và những vị bảo vệ kho tàng giáo lý
HUNG là sinh lực của các Hộ Pháp, những Bổn Tôn bảo hộ.
OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG
OM AH HUNG là sinh lực của ba cấp bậc tantra
VAJRA là sinh lực của giới luật tu viện và Kinh thừa của giáo lý
GURU là sinh lực của Luận và kriya (hành động) yoga, cấp bậc thứ nhất của tantra
PADMA là sinh lực của charya (hành vi, hạnh kiểm) tantra, cấp bậc thứ hai của tantra, và yoga (hợp nhất) tantra, cấp bậc thứ ba của tantra
SIDDHI là sinh lực của những cấp bậc giáo lý mahayoga và anuyoga
HUNG là sinh lực của ati yoga, Đại Viên mãn Tự nhiên (Dzogchen).
OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG
OM AH HUNG tịnh hoá những che chướng phát sinh từ ba độc trong tâm – tham, sân, và si
VAJRA tịnh hoá những che chướng bắt nguồn từ sự sân hận
GURU tịnh hoá những che chướng bắt nguồn từ sự kiêu ngạo
PADMA tịnh hoá những che chướng bắt nguồn từ sự khát khao và tham muốn
SIDDHI tịnh hoá những che chướng bắt nguồn từ sự thèm muốn và ganh tị
HUNG là một phương cách chung tịnh hoá những che chướng bắt nguồn từ tất cả những đau khổ thuộc cảm xúc.
OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG
Nhờ OM AH HUNG hành giả đạt được ba Thân (kaya)
Nhờ VAJRA hành giả chứng ngộ giác tánh nguyên sơ như-gương (Đại viên cảnh trí)
Nhờ GURU hành giả chứng ngộ Bình đẳng tánh trí
Nhờ PADMA hành giả chứng ngộ Diệu quan sát trí
Nhờ SIDDHI hành giả chứng ngộ Thành sở tác trí
Nhờ HUNG hành giả chứng ngộ Pháp giới thể tánh trí.
OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG
Nhờ OM AH HUNG những vị trời, quỷ ma và loài người được điều phục
Nhờ VAJRA hành giả có quyền năng đối với những thế lực ác ý của những vị trời và quỷ ma nào đó
Nhờ GURU hành giả kiểm soát được những thế lực ác ý của Thần Chết và những quỷ ma ăn thịt người
Nhờ PADMA hành giả kiểm soát được những ảnh hưởng xấu của yếu tố nước và gió (thủy đại và phong đại)
Nhờ SIDDHI hành giả kiểm soát được những ảnh hưởng xấu của các thế lực phi-nhân và tinh linh mang lại họa hại và sử dụng sự khống chế tiêu cực sinh mạng của hành giả
Nhờ HUNG hành giả kiểm soát được những ảnh hưởng xấu của các hành tinh và những tinh linh đất.
OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG
OM AH HUNG thành tựu sáu đức hạnh tâm linh
VAJRA thành tựu việc làm hoạt động làm an bình (tức tai)
GURU thành tựu hoạt động làm giàu có (nhiêu ích)
PADMA thành tựu hoạt động lôi cuốn (kính ái)
SIDDHI thành tựu hoạt động giác ngộ nói chung
HUNG thành tựu hoạt động giác ngộ phẫn nộ (hàng phục).
OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG
OM AH HUNG ngăn ngừa mọi sự nguyền rủa và tai họa
VAJRA ngăn ngừa những hậu quả tiêu cực của việc làm gãy bể samaya với những Bổn Tôn của giác tánh nguyên sơ
GURU ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của tám loại trời và quỷ ma trong luân hồi sinh tử
PADMA ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của những vị trời thế tục và quỷ ma
SIDDHI ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của các vị rồng và tinh linh đất
HUNG ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của các vị trời, quỷ ma, con người, những vị trời trong luân hồi sinh tử.
OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG
OM AH HUNG đánh bại đội quân của năm độc trong tâm.
VAJRA đánh bại sự sân hận.
PADMA đánh bại sự khát khao-tham muốn.
SIDDHI đánh bại sự thèm muốn và ganh tị.
HUNG đánh bại đội quân của các vị trời, quỷ ma và con người.
OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG
OM AH HUNG đem lại những thành tựu tâm linh hay các siddhi.
VAJRA đem lại siddhi (thành tựu) của những Bổn Tôn an bình và phẫn nộ.
GURU đem lại siddhi của những vị trì giữ giác tánh (Trì Minh Vương) và các guru truyền thừa.
PADMA đem lại siddhi của những daka, dakini và những Hộ Pháp.
SIDDHI đem lại những siddhi thông thường và siêu việt.
HUNG đem lại siddhi của việc hoàn thành bất kỳ điều gì hành giả mong muốn.
OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG
OM AH HUNG chuyển di tâm thức tới các cõi Tịnh Độ của sự kinh nghiệm.
VAJRA chuyển di tâm thức tới Tịnh Độ Hỉ Lạc Hiển Lộ phương đông.
GURU chuyển di tâm thức tới Tịnh Độ Vinh Quang và Tráng Lệ phương nam.
PADMA chuyển di tâm thức tới Tịnh Độ Cực Lạc phương tây.
SIDDHI chuyển di tâm thức tới Tịnh Độ Hoạt Động Xuất Sắc phương bắc.
HUNG chuyển di tâm thức tới cõi Tịnh Độ Bất Động ở trung tâm.
Nếu một hình tướng vật lý có thể biểu lộ sự lợi lạc của ngay cả một lần trì tụng OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG, thì toàn thể trái đất sẽ không chứa nổi những công đức. Tất cả những chúng sinh nhìn, nghe hay tưởng nhớ thần chú này sẽ dứt khoát được củng cố trong hàng ngũ những bậc trì giữ giác tánh (Trì Minh Vương) nam và nữ. Nếu đúng là những lời chân thực này của thần chú Kim Cương Đạo Sư không thực hiện cho chúng sinh những gì họ mong ước thành tựu giống như ta đã hứa, thì ta, Pema, đích thực là một kẻ lừa dối. Nhưng ta không dối gạt quý vị, vì thế quý vị nên thực hành phù hợp với những giáo huấn của ta.
Cho dù quý vị không thể trì tụng thần chú vì bất kỳ lý do gì, quý vị nên treo nó trên đỉnh một ngọn cờ chiến thắng, ngay cả khi gió chạm vào nó, và làn gió đó chạm vào những chúng sinh, thì không còn nghi ngờ gì nữa, làn gió sẽ giải thoát họ. Quý vị cũng có thể viết nó trên đất sét hay khắc chạm trên đá. Thần chú này cũng sẽ bảo vệ con đường trên đó những chữ này được bố trí và canh giữ miền đất không bị những tác động xấu. Quý vị cũng có thể viết thần chú này bằng mực vàng trên giấy xanh dương đậm và mang nó như một bùa hộ mạng. Khi quý vị chết, nếu bùa này được đốt cùng tử thi của quý vị, những cầu vồng sẽ xuất hiện và tâm thức quý vị sẽ được chuyển di tới các cõi Cực Lạc. Không có cách đo đạc chính xác nào hay không tiêu chuẩn đo lường nào có thể xác định được những lợi lạc của việc viết ra hay đọc hoặc trì tụng thần chú này. Sau khi biên soạn bản văn này vì lợi ích của chúng sinh trong tương lai, ta cất dấu kho tàng này. Cầu mong nó gặp được một đứa con may mắn có thiện nghiệp của ta trong tương lai. Samaya. Đã niêm phong. Đã niêm phong. Đã niêm phong.”
*********************************
Ngoài ra trong Kinh Điển Mật Tông có nói về thần chú OM AH HUM như sau:
TAM TỰ TỔNG TRÌ CHƠN NGÔN
OM AH HUM
Du Già Đại giá Vương kinh nói: Chữ OM là Đại Biến Chiếu Như Lai tức Phật Tỳ Lô Giá Na. Chữ AH là Vô Lượng Thọ Như Lai, tức Phật A Di Đà. Chữ HUM là A Súc Như Lai, tức Bất Động Phật. Đức Như Lai nhơn ở trong nhiều năm tu trì hành đạo không đắc Bồ đề, sau tu tập quán tưởng này, trong khoảng nửa đêm liền thành Chánh giác. Nghĩa là chữ OM gồm đủ vô lượng pháp môn, là mẫu của tất cả Chơn ngôn (Thần chú). Tất cả Như Lai đều nhơn quán tưởng chữ này mà được thành Phật. Chữ AH là Tỳ Lô Phật thân, cũng là pháp giới, cũng là Bồ đề tâm. Nếu người tưởng niệm, hay sanh vô lượng công đức. Chữ HUM tổng nhiếp Kim Cang bộ, tất cả Chơn ngôn (Thần chú) là chủ thân Kim Cang bộ, cũng là ba môn giải thoát. Nếu thường tưởng niệm, hay trừ tất cả tội chướng, thành tựu tất cả công đức. Ba giải thoát môn: 1- Không giải thoát môn, 2- Vô tướng giải thoát môn, 3- Vô nguyện giải thoát môn. Căn bản các hạnh của đại Bồ Tát từ sơ phát tâm đến “Nhứt thiết trí”.
Chư Giáo Quyết Định Danh Nghĩa Luận nói: Chữ HUM tức Pháp thân, chữ AH tức Báo thân, chữ OM tức Hóa thân. Ba chữ như vậy nhiếp cả ba thân này, để phân biệt nói tam thừa và đạo giải thoát, ấy là nhơn chánh thuyết, nói có Thanh Văn, Duyên Giác và Nhứt thiết trí. Do trí xuất hiện nói tất cả pháp, tức ba chữ kia cũng là Kim Cang tam nghiệp, như thật an trụ; nghĩa là OM AH HUM. Trong chữ OM này, là Kim Cang thân nghiệp, chữ AH Kim Cang ngữ nghiệp, chữ HUM Kim Cang tâm nghiệp. Lại nữa, chữ HUM là tâm trí giác liễu (rõ thấu tất cả) tất cả pháp như trên đã nói. Phải biết tất cả văn tự đều từ chữ OM AH HUM ba chữ mà ra, do đó nên các pháp khởi lên các tướng phân biệt tất cả pháp kia, đều cùng OM AH hai chữ trước sau nhiếp nhau. Chữ HUM trong đây, xuất sanh tất cả, ở trong ba cõi, xuất hiện các sắc; nghĩa là có Thiên, Nhơn, Long, A tu la, Ca lầu la, Khẩn Na La, Càn thác bà. Thành tựu Trì Minh Thiên, Cát Tường Thiên, Biện Tài Thiên, Ô Ma Thiên, Đế Thích Thiên, Phạm Vương Thiên, Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, những trời như vậy, và Thiên hậu đã có tất cả trong cõi hữu tình kẻ nam tử, người nữ nhơn cho đến hết thảy các Phật, Bồ Tát đều từ chữ HUM này xuất sanh biến hóa, kia mỗi một tâm, trụ tướng chữ này, nếu khi tâm tưởng chữ này, phải trụ nơi hư không, xuất sanh ra vô ngại, nghĩa là tâm ba cõi, đồng một tâm này, được nhập vào tâm rồi, tức được gọi là hiện chứng Bồ đề, phải biết tâm này là vô đẳng, vô thủ, vô trước, vô trụ, vô biểu, vô tướng, tức là hư không bình đẳng tất cả trí vô sở đắc, tương ưng không tự, không tha, tương ưng chánh hạnh. Thế gian đã có Chiên đà la tối hạ chủng tộc v.v… các loại kia cũng bình đẳng các hạnh cho đến các loại súc sanh, kia đã có hạnh, các hạnh sai khác. Các hạnh như vậy, tuy lại sai khác, đều cũng không lìa nhứt thiết trí, trí tương ưng chánh hạnh v.v…
Thành Phật Nghi Quỹ tụng rằng:
Do tụng chữ OM này, gia trì oai lực vậy.
Dù quán tưởng không thành, nơi các Phật hải hội.
Các cúng dường mây biển, chơn thật đủ thành tựu.
Do chư Phật chắc thật, pháp nhĩ đã thành vậy.
Do vừa tụng chữ AH, diệt sạch các tội chướng.
Được các vui ý lạc, đồng đẳng tất cả Phật.
Vượt hơn các chúng ma, không thể làm chướng ngại.
Đáng thọ các thế gian, rộng nhiều thứ cúng dường.
Do gia trì chữ HUM, cọp sói các trùng độc,
Ác tâm người chẳng người, không còn thể khuấy phá.
Như Lai mới thành đạo. Nơi dưới cội Bồ đề.
Dùng Ấn Mật ngôn này, phá dẹp chúng Thiên ma.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)





Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks