Kim cương thừa còn được gọi là Mật thừa, Mật chú thừa, hay Quả thừa. Ðược gọi là Mật thừa, vì giáo lý bí mật này không thể truyền trao cho những người không có căn cơ thích hợp, và vì luôn luôn được thực hành trong sự bí mật. Người tu không được phép phô bày Mạn Đà La và các vị hộ thần (Yidam) cho những người chưa nhập môn hay người đã từ bỏ không còn tu tập Kim cương thừa nữa. Hành giả Kim cương thừa phải phát nguyện không được tiết lộ các bí mật của phương pháp luyện tập thân thể cũng như các pháp liên quan khác, cũng không được phô bày các pháp khí như chày Kim cương và chuông Kim cương của mình. Nếu không giữ được các bí mật này thời sẽ không đạt được các quyền năng thông thường và tối thượng.
Gọi là Mật chú thừa, vì thần chú có công năng “bảo hộ tâm thức”. Theo pháp tu tập ở giai đoạn phát sinh của Nghi quỹ đệ nhất Du già tối thượng, thì khi quán tưởng mình là vị thần với sự kiêu hãnh Kim cương, tâm của hành giả sẽ được bảo vệ chống lại ảnh hưởng của sắc tướng thế gian và tạp niệm. Theo pháp tu tập ở giai đoạn thành tựu thì tâm đại lạc sẽ bảo hộ hành giả không bị ảnh hưởng bởi tâm sắc trắng, tâm sắc đỏ gia tăng và tâm sắc đen gần đạt, bằng cách làm cho chúng tan nhập vào Tịnh quang.
Mật thừa được gọi là Quả thừa, còn Ba La Mật thừa được gọi là Nguyên Nhân thừa. Trước khi bước vào ngưỡng cửa của Kim cương thừa, việc tiên khởi là hành giả phải tu tập thuần thục các pháp thuộc Ba La Mật thừa, như hạnh xả ly, Bồ đề tâm, và bát chánh đạo, v.v... nếu không, họ chớ mong đạt được sự giác ngộ của Ba La Mật thừa, nói gì đến việc đạt vô lậu học đạo của Kim cương thừa. Vì vậy, Ba La Mật thừa được gọi là Thừa Nguyên Nhân và Kim cương thừa được gọi là Thừa Kết Quả hay Quả thừa. Một lý do nữa là ở giai đoạn tu tập phát sinh của Kim cương thừa, hành giả quán tưởng Mạn Đà La và vị thần bản mệnh của mình (Yidam) trong trạng thái giác ngộ. Ngoài ra, hành giả cũng thực hành quán tưởng một vị minh phi (consort), cúng dường, hóa hiện và làm tan biến các loại ánh sáng, mang lại lợi ích cho chúng sinh giống như mình đã đạt giác ngộ rồi.
Ðạo pháp này được gọi là Kim cương thừa, vì hành giả đồng thời quán tưởng hình ảnh vị thần và tánh không của hình ảnh quán chiếu đó. Quán tưởng rõ rệt hình ảnh của vị thần là pháp phương tiện. Thiền quán về tánh không là pháp trí huệ. Gom cả hai pháp này trong một tâm độc nhất thì gọi là Kim cương thừa, vì một tâm như vậy có thể tiêu diệt được vô minh phiền não, chứ phiền não không thể bức hại được, giống như Kim cương có thể cắt được các vật khác, còn các vật khác thì không thể cắt được Kim cương. Ðạo sư Khedrup Je nói rằng tâm quán tưởng vị thần sẽ tích lũy được nhiều công đức, và chính tâm đó giác ngộ sự vô tự tính của hình ảnh vị thần, như vậy sẽ tích lũy được nhiều trí huệ. Ngài cũng nói rằng tâm giác ngộ tánh không, bằng cách trụ vào hình ảnh của vị thần sẽ chống lại tánh ngã chấp trăm lần mạnh hơn tâm giác ngộ tánh không bằng cách Thiền quán trụ vào đối tượng khác, như một cây non, chẳng hạn.
* Ðịnh Nghĩa Bốn Loại Nghi quỹ
Quyển Mật giáo Ðại Cương nói:
"Trong bốn hạng hành giả phát nguyện giải thoát của ta,
Với tất cả những ai đặt niềm tin vào Ðại thừa.
Như Lai sẽ dạy thêm,
Bằng việc tiết lộ mật chú"
Giáo pháp bí mật của đức Phật được truyền trao cho những người nào trong bốn nhóm hành giả phát nguyện giải thoát có niềm tin vào Ðại thừa. Kim cương thừa sẽ không được truyền cho những người cũng thuộc trong bốn nhóm nhưng không có niềm tin vào Ðại thừa. Bốn nhóm này gồm Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Sa di và Sa di ni.
Có bốn pháp mật chú:
1. Nghi quỹ Hành động (Kriya tantra)
2. Nghi quỹ Thực hành (Charya tantra)
3. Nghi quỹ Du già (Yoga tantra)
4. Nghi quỹ Du già Tối thượng (Maha anuttarayayoga tantra)
Nghi quỹ Hành động là loại mật điển chủ yếu dạy về các oai nghi và các hoạt động bên ngoài như tẩy tịnh, thọ thực và các việc khác.
Nghi quỹ Thực hành là loại mật điển chú trọng đồng đều các hoạt động bên ngoài lẫn bên trong. Các hoạt động bên trong như pháp Thiền quán có đề mục hoặc không đề mục. Vì nhiều người có khuynh hướng tu tập cùng lúc cả hai loại hoạt động bên trong lẫn bên ngoài nên Ðức Phật dạy Nghi quỹ Thực hành.
Nghi quỹ Du già là loại mật điển chủ yếu nói về các hoạt động bên trong. Vì lợi ích của những đệ tử có khuynh hướng tu tập các hoạt động bên trong mà Ðức Phật giảng giải các Nghi quỹ Du già.
Nghi quỹ Du già tối thượng là mật điển dạy bất nhị đại lạc cùng lúc với trí huệ chứng ngộ tánh không. Ba Nghi quỹ thấp không có pháp đại lạc đồng thời, và dù có trí huệ chứng ngộ tánh không thì trí này vẫn là một tâm thức thô kệch, không phải là loại thức trí tinh tế của Nghi quỹ đệ nhất Du già tối thượng.
Vì các đệ tử có khuynh hướng tu tập pháp bất nhị đồng thời đạt đại lạc và trí huệ chứng ngộ tánh không mà Ðức Phật dạy các Nghi quỹ Du già tối thượng.
Bốn loại Nghi quỹ khác nhau ở cách tiếp cận các hoạt động thì cũng khác nhau ở cách dùng ái dục làm pháp tu tập.
Bốn cách dùng ái dục làm pháp tu tập được giải thích trong mật điển "Samputa Tantra" như sau:
"Cười, ngắm, nắm tay,
Và hai người ôm là bốn điều
Ðược giảng trong bốn Nghi quỹ theo cách côn trùng"
Trong Mật giáo, việc dùng ái dục làm pháp tu tập được ví với loài côn trùng sinh ra trong gỗ, và ăn chính gỗ đã sinh ra chúng. Cũng vậy, ái dục được dùng để làm phát sinh những tâm thái có khả năng tiêu diệt chính loại ái dục đã phát sinh ra chúng.
Bốn cách khác nhau của bốn loại Nghi quỹ để tiếp cận với pháp dùng ái dục phù hợp với bốn hạng hành giả sau đây. Trong "Ðại Diễn Giải Mật giáo", Ngài Tsongkhapa nói rằng những người căn cơ thấp có thể dùng ái dục làm pháp tu tập khi chỉ ngắm hình quán tưởng của một người phối ngẫu, và họ là những hành giả của Nghi quỹ hành động.
Những người có căn cơ cao hơn, có khả năng chuyển hóa ái dục khi cười với hình quán tưởng của người phối ngẫu, là những hành giả của Nghi quỹ thực hành. Những người lợi căn hơn nữa, có khả năng chuyển hóa ái dục khi quán tưởng mình nắm tay người phối ngẫu, là những hành giả của Nghi quỹ Du già. Những người lợi căn nhất, có khả năng chuyển hóa ái dục bằng sự kết hợp hai bộ phận sinh dục, là những hành giả của Nghi quỹ Du già tối thượng.
Bốn loại Nghi quỹ này cũng khác nhau ở nghi thức truyền pháp và giới nguyện.
Nghi quỹ hành động có lễ truyền pháp "nước" và lễ truyền pháp "vương niệm". Nghi quỹ thực hành có thêm "chày kim cương" và "chuông". Nghi quỹ Du già gồm các lễ truyền pháp "nước", "vương niệm", "chày kim cương", "chuông", và "Kim cương sư". Tất cả những nghi thức nói trên là lễ truyền pháp "bình", và như vậy ba Nghi quỹ thấp chỉ có ba loại nghi thức truyền pháp "bình", chứ không có các lễ truyền pháp cao cấp hơn của Nghi quỹ Du già tối thượng, đó là các lễ truyền pháp "bí mật", "trí huệ" và "lời".
Về giới nguyện, thì hai loại Nghi quỹ hành động và thực hành chỉ cần có Bồ đề tâm nguyện trong lễ truyền pháp. Trong lễ nhập môn của hai Nghi quỹ Du già và Du già tối thượng, các đệ tử phát Bồ đề tâm nguyện cũng như giới nguyện Kim cương thừa.
Bồ đề tâm nguyện được coi là giới nguyện thông thường vì đều có trong Ba La Mật thừa và Kim cương thừa, cũng như trong tất cả các loại Nghi quỹ. Giới nguyện Kim cương thừa thì chỉ có trong Mật giáo, và đối với bốn loại Nghi quỹ, thì chỉ có trong hai Nghi quỹ cao, tức Nghi quỹ Du già và Nghi quỹ Du già tối thượng. Ðệ tử phát nguyện Kim cương thừa trong lễ truyền pháp Kim cương sư.
Các pháp tu tập thuộc hai giai giai đoạn phát sinh và thành tựu của Nghi quỹ Du già tối thượng cũng khác vơí ba Nghi quỹ thấp. Ba Nghi quỹ thấp có các pháp Du già có đề mục và các pháp Du già không đề mục, giống giai đoạn thành tựu, nhưng ba Nghi quỹ này không có giai đoạn phát sinh và giai đoạn thành tựu thực sự của Nghi quỹ Du già tối thượng.
Có điểm khác biệt lớn giữa sự chứng ngộ tánh không của Bồ tát Ba La Mật thừa và sự chứng ngộ tánh không của một Bồ tát tu tập Nghi quỹ Du già tối thượng. Bồ tát Ba La Mật thừa chứng ngộ tánh không với tâm thức thô, trong khi Bồ tát Nghi quỹ Du già tối thượng chứng ngộ tánh không với tâm thức rất tinh tế, tức tâm Tịnh quang. Trong tác phẩm “Tinh yếu của năm giai đoạn tu tập”, đạo sư Panchen Losang Chokyi Gyaltsan cũng so sánh ba Nghi quỹ thấp với nhau. Ngài nói rằng trí huệ của các Bồ tát thực hành ba Nghi quỹ thấp phát sinh từ pháp thần linh quán thì còn thô kệch hơn trí huệ đại lạc chứng ngộ tánh không rất tinh tế của một Bồ tát thực hành Nghi quỹ Du già tối thượng. Các Bồ tát của ba Nghi quỹ thấp dùng hoan lạc phát xuất từ ngắm, cười, hay nắm tay với hình quán tưởng của vị thần để chứng ngộ tánh không. Dù thô kệch hơn Nghi quỹ Du già cao nhất, nhưng đây cũng là tâm chứng ngộ tánh không tinh tế hơn tâm của các Bồ tát Ba La Mật thừa.
* Các Loại Nghi Quỹ Du Già Tối Thượng
Nghi quỹ Du già tối thượng có thể được chia thành hai giòng chính: Nghi quỹ cha và Nghi quỹ mẹ. Hai loại này giống nhau ở pháp tu tập hợp nhất phương tiện đại lạc và trí huệ chứng ngộ tánh không. Nếu các pháp phương tiện và trí huệ không được phối hợp với nhau, thì hành giả không thể chứng đắc, cũng như con chim không thể bay bằng một cánh. Còn khi phương tiện và trí huệ được kết hợp với nhau thì hành giả sẽ đạt giác ngộ, như con chim vươn hai cánh bay cao. Trong Nghi quỹ Du già tối thượng, nhất thiết phải có sự hợp nhất giữa phương tiện và trí huệ, đó là đại lạc xuất hiện cùng lúc với trí huệ chứng ngộ tánh không.
Tất cả các Nghi quỹ Du già tối thượng đều có các pháp ảo thân và Tịnh quang. Nghi quỹ cha là một Nghi quỹ Du già tối thượng, chủ yếu giảng về pháp ảo thân. Các Nghi quỹ cha trình bày ảo thân thực thụ, nguyên nhân của ảo thân và kết quả của pháp ảo thân. Ảo thân thực thụ có hai loại: ảo thân bất tịnh và ảo thân thanh tịnh.
Ảo thân bất tịnh là ảo thân chưa gạt bỏ được vô minh tiến tới giải thoát. Ảo thân thanh tịnh là ảo thân đã gạt bỏ được vô minh tiến tới giác ngộ. Các luồng khí cực vi tế, vốn là vật cưỡi của các Tịnh quang trong các pháp cô lập thân, cô lập khẩu và cô lập ý, là nguyên nhân của ảo thân bất tịnh. Còn khí nguyên thủy vốn là vật cưỡi của Tịnh quang là nguyên nhân của ảo thân thanh tịnh. Panchen Losang Chokyi Gyaltsan nói rằng Nghi quỹ Guhyasamaja và Nghi quỹ Yamantaka thuộc loại Nghi quỹ cha, Nghi quỹ phương pháp và Nghi quỹ của nam hành giả. Nghi quỹ phương pháp là một Nghi quỹ Du già tối thượng, chủ yếu nói về phương pháp đắc ảo thân. Các Nghi quỹ thấp cũng có nói về các pháp thực hành nhưng không có pháp ảo thân. Nghi quỹ phương pháp có ba loại: Nghi quỹ phương pháp "ưa", Nghi quỹ phương pháp "ghét", và Nghi quỹ phương pháp "không biết ưa hay ghét". Guhyasamaja là một Nghi quỹ phương pháp "ưa", Yamantaka là một Nghi quỹ phương pháp "ghét", và Vajraarala là một Nghi quỹ "không biết ưa hay ghét". Có ba Nghi quỹ phương pháp "ghét", đó là Dạ Ma Ta Ka (Yamantaka) Ðỏ, Dạ Ma Ta Ka Ðen, và Ðộc Giác Dạ Ma Ta Ka.
Nghi quỹ mẹ là một loại Nghi quỹ Du già tối thượng, chủ yếu nói về Tịnh quang Trí. Có hai loại: Tịnh quang Mô phỏng và Tịnh quang Nghĩa. Tịnh quang Mô phỏng là loại tâm thức cực tinh tế gián tiếp chứng ngộ tánh không, tức sự vô tự tánh của các pháp. Tịnh quang mô phỏng được chia làm bốn loại: Tịnh quang mô phỏng của pháp cô lập thân, Tịnh quang mô phỏng của pháp cô lập khẩu, Tịnh quang mô phỏng của pháp cô lập ý, và Tịnh quang mô phỏng của giai đoạn thứ ba (tức pháp thứ ba trong năm giai đoạn. Xem chương 14). Tịnh quang nghĩa cũng là loại tâm thức cực tinh tế trực tiếp chứng ngộ tánh không. Tịnh quang nghĩa cũng có bốn loại: Tịnh quang nghĩa trực trừ vô minh chướng ngại đi tới giải thoát, Tịnh quang nghĩa đã đoạn lìa vô minh đi tới giải thoát, Tịnh quang nghĩa trực trừ vô minh chướng ngại đi tới toàn giác, Tịnh quang nghĩa đã đoạn lìa vô minh chướng ngại đi tới toàn giác. Cả Tịnh quang mô phỏng lẫn Tịnh quang nghĩa nhất thiết đều là trí huệ về đại lạc và tánh không hợp nhất. Các Nghi quỹ Diệm nhiên vương (Heruka), Kim cương Du già nữ (Vajrayogini) và Hắc Luân (Kalachakra) là những Nghi quỹ mẹ, Nghi quỹ trí huệ và Nghi quỹ của nữ hành giả.
Các học giả cho rằng Nghi quỹ cha là pháp về nam thần, còn Nghi quỹ mẹ là pháp về nữ thần. Nói như vậy là không đúng, vì Kalachakra và Heruka là những nam thần nhưng vẫn là thần của các Nghi quỹ mẹ.
Tất cả các Nghi quỹ Du già tối thượng đều là những Nghi quỹ bất nhị, là đề tài chính của chúng là sự hợp nhất phương tiện và trí huệ, tức đại lạc xuất hiện đồng thời với trí huệ chứng ngộ tánh không. Nhưng “phương tiện” của Nghi quỹ bất nhị khác với "phương tiện" của Nghi quỹ phương tiện, là thân giả ảo hay ảo thân. Tương tự như vậy, "trí huệ" của Nghi quỹ bất nhị khác với "trí huệ" của Nghi quỹ trí huệ. "Trí huệ" của Nghi quỹ bất nhị là trí huệ chứng ngộ tánh không, còn trí huệ của Nghi quỹ trí huệ là trí huệ về Tịnh quang.
* Tất Cả Các Nghi Quỹ Ðược Bao Gồm Trong Năm Giai Ðoạn Tu Tập Như Thế Nào?
Có nhiều cách phân loại các pháp tu tập thuộc hai giai đoạn phát sinh và thành tựu của Nghi quỹ Du già tối thượng. Giai đoạn phát sinh có những cách phân loại như sáu nhánh thuộc giai đoạn phát sinh trong Nghi quỹ Guhyasamaja và mười một pháp trong hệ thống Vajrayogini được liệt kê ở Chương 7. Trường Mật giáo Gyumay có một hệ thống gồm tám nhóm các kỹ thuật tu luyện ở giai đoạn thành tựu. Cũng có những cách phân loại các giai đoạn thành tựu của Nghi quỹ Guhyasamaja thành sáu, năm, và bốn, được liệt kê ở chương 14.
Saigon42
Bookmarks