Giáo sư Trần Quốc Vượng và mối tình qua hai thế kỷ
Tên tuổi của ông là niềm tự hào không chỉ của giới sử học Việt Nam mà còn trên nhiều giảng đường quốc tế. Đang bước vào tuổi “cổ lai hy”, nhưng thiên tình sử tuyệt vời của ông đã khiến nhiều người cảm động. Hôm nay, ông lên xe hoa... lần thứ hai, đúng ngày kỷ niệm 10 năm hai người quen nhau.
Giáo sư Trần Quốc Vượng và mối tình qua hai thế kỷ
Giáo sư Trần Quốc Vượng.
Nhiều người vẫn xếp ông là một trong “tứ trụ huyền thoại” của giới sử học hiện nay: Lâm - Lê - Tấn - Vượng, (Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng). Ông không chỉ là bậc học giả uyên bác trong nhiều lĩnh vực mà còn là một người chẳng giống ai: Đã Chơi thì phải chịu chơi chớ đừng chơi chịu. Và cố gắng chơi đẹp (fair play) - như ông từng viết.
Ngày 22/9/1993, chuông điện thoại tại nhà riêng của giáo sư Trần Quốc Vượng reo vang. Từ đầu dây bên kia, giọng một cô gái trẻ vang lên:
- Xin lỗi thày, em tên là Bẩy ở Viện Văn hóa. Em có việc rất cần muốn gặp và nhờ thày. Em đến nhà thày ngay bây giờ được không ạ?
Vốn là người kỹ tính, ít khi tiếp khách mà không có chuẩn bị (thậm chí, mấy người con đẻ của ông đến thăm mà không điện thoại báo trước, ông cũng kêu “đang bận” và không chịu ra mở cửa; họ đứng ngoài mãi, mỏi chân đành quay về...); nhưng hôm đó, như một định mệnh, giáo sư Trần Quốc Vượng đồng ý ngay. Thậm chí, ông còn nhiệt tình hướng dẫn đường đi, địa chỉ cho cô gái lạ kia.
Mười lăm phút sau, người đã gọi điện xuất hiện tại nhà ông với một túi cam trên tay. Cô trạc tuổi 30, trông không quá xinh, nhưng mặn mà và rất có duyên
- Thưa thày, em muốn thắp hương cho cô...
Không hiểu tại cô gái đã thành kính chắp tay trước bàn thờ người vợ quá cố của mình, hay còn vì một lý do nào đó, mà Trần Quốc Vượng thực sự xúc động. Ông hỏi giọng như lạc đi:
- Cô đến với tôi có mục đích gì?
- Em có một người anh trai ở bên Mỹ, rất muốn em sang đó lấy chồng và kinh doanh cùng anh ấy. Nhưng em chỉ quen làm nghiên cứu, công việc của em ở Hà Nội đã ổn định rồi. Thầy thử xem giúp em là có nên đi Mỹ không?
- Tôi đồng ý giúp. Nhưng cô phải cho tôi biết họ tên và ngày sinh tháng đẻ đã chứ.
Chị Nguyễn Thị Bẩy.
- Dạ, Nguyễn Thị Bẩy, sinh vào đêm mồng 9 tháng 9 năm 1963.
- Thế lá số tử vi của cô đâu?
- Thưa, em chưa lập lá số, em muốn nhờ thầy...
- Vậy thì cô phải về lấy lá số mang đến cho tôi đã.
Hai ngày sau, cô gái lại đến với một lá số tử vi được in bằng vi tính trong tay. Chẳng cần chờ đợi lâu, sau phút trầm ngâm, lúc lắc cái đầu hói, vị giáo sư phán rằng:
- Cuộc đời em sẽ có nhiều lần xuất ngoại. Em cứ đi Mỹ đi. Nếu mà em không đi Mỹ được, thì tôi sẽ chính thức... cầu hôn em!
Nếu câu nói ấy từ miệng một người đàn ông bình thường nói ra, rất có thể sẽ làm cho cô gái bị “sốc”, vì lời tỏ tình quá đường đột. Nhưng Trần Quốc Vượng vốn nổi tiếng là người hay hài hước, nên cô cho rằng đó là một câu đùa, liền nói đế theo:
- Tất nhiên! Nếu “bắn súng” không nên thì thầy phải “đền đạn” cho em thôi!
Cứ ngỡ chuyện đến thế và sẽ qua đi... Nhưng không! Hình như khi đã yêu thì trái tim của một chàng trai 18 tuổi hay của một ông lão 80 cũng đều run rẩy và khát khao như nhau... cho nên một ngày mà không nhìn thấy mặt, không nghe được tiếng người mình yêu là không chịu nổi.
Hồi ấy, nhà của cha mẹ đẻ của Nguyễn Thị Bẩy ở số 7 phố Đoàn Nhữ Hài (Hà Nội). Cả phố này mới có mỗi gia đình nhà văn Tô Hoài ở số nhà 21 là có thuê bao điện thoại. Trần Quốc Vượng thường gọi điện thoại nhờ qua máy của gia đình Tô Hoài để liên lạc với Bẩy. Mà oái oăm là ông toàn gọi điện vào lúc đêm khuya. Trần Quốc Vượng đã phịa ra đủ thứ lý do để gặp “cô Bẩy” bằng được: “có việc rất cần”, “cần trao đổi công việc gấp”; thậm chí là: “vừa bị cảm”, “mới bị... tai nạn giao thông”!... Khổ nhất là bà vợ của nhà văn Tô Hoài thường phải xách đèn, lọ mọ sang gõ cửa nhà của Bẩy gọi đi nghe điện thoại.
Một ngày nọ, “chàng và nàng” gặp nhau. Đang lúc say chuyện, Trần Quốc Vượng tuyên bố một câu như “đinh đóng cột”:
- Anh mà không lấy em, sẽ chẳng có một... “thằng chó” nào lấy em đâu!
Bẩy tức lắm, chỉ vào mặt Trần Quốc Vượng nói như quát:
- Này, anh nhớ nhé! Rồi sẽ có một “thằng chó” lấy em cho mà xem!
Đêm ấy trở về nhà, Bẩy nằm khóc một mình. Để “trả thù hắn”, cô đã sàng lọc trong các bạn trai, và quyết định chọn lấy một người và lấy làm chồng cho... bõ tức.
Mấy hôm sau, Bẩy đến hỏi Trần Quốc Vượng:
- Một đứa bạn gái của em tuổi Quý Mão, muốn chọn ngày cưới trong năm nay. Theo anh, ngày tháng nào nó tổ chức là đẹp nhất?
Trần Quốc Vượng không hề biết và không ngờ là Bẩy lại hỏi cho chính cô. Ông bấm đốt ngón tay, lẩm bẩm tính toán, rồi thủng thẳng bảo:
- Chỉ có mỗi ngày mồng Bẩy tháng Bẩy là được! Nhưng tuổi Quý Mão à? Trai Đinh - Nhâm - Quý thì tài, gái Đinh - Nhâm - Quý... phải “hai lần đò” đấy!
Mặc kệ những lời của vị giáo sư nổi tiếng về tử vi nói ra, Bẩy vẫn quyết định lấy chồng. Chàng là một họa sĩ, khá nổi tiếng. Gia đình khá giả, có nhà ở ngay mặt tiền phố Bà Triệu.
Đúng ngày Nguyễn Thị Bẩy lên xe hoa, thì Trần Quốc Vượng đang đi giảng bài ở Huế. Một người bạn đã điện thoại báo tin cho ông biết. Lúc đầu, vị Giáo sư không tin, chỉ cho rằng người bạn kia đã đùa ác ý. Nhưng bán tín bán nghi, ông điện thoại ra Hà Nội xác minh... Đó thực sự là một tin “sét đánh ngang tai”. Mặc dù là người có thần kinh thép, nhưng “cú sốc” quá mạnh đã khiến cho Trần Quốc Vượng ngất xỉu. Người ta phải vội khênh ông vào bệnh viện cấp cứu... Nhưng không một vị bác sĩ tài giỏi nào chẩn đoán đúng bệnh của Trần Quốc Vượng. Người duy nhất trên thế gian này có thể cứu ông, đó là Nguyễn Thị Bẩy. Sau này, Bẩy đã được đọc lại những dòng chữ đầy đau khổ, bày tỏ nỗi thất vọng và cả tình yêu nồng nàn mà chính tay giáo sư Trần Quốc Vượng đã viết cho cô.
Một đêm khuya sau ngày Nguyễn Thị Bẩy lên xe hoa không lâu, gia đình bố mẹ đẻ của cô ở phố Đoàn Nhữ Hài nhận được cú điện thoại của một người đàn ông lạ. Ông ta tự giới thiệu là người của Tòa án nhân dân Hà Nội, rồi tuyên bố rằng: Đám cưới của “cô Bẩy” vừa diễn ra là không... hợp pháp; rằng nhất định ông ta sẽ yêu cầu “cô Bẩy” phải... ly hôn!
Người anh trai của Bẩy vừa từ Mỹ về nước, nhận điện thoại đã hết sức lo lắng. Bố mẹ của cô cũng rất ngạc nhiên, vì gia đình họ vừa lắp đặt điện thoại, không hiểu sao lại có “ông Tòa án” biết được số máy này? Chỉ có điều, giọng của người đàn ông kia cứ lè nhè, nói câu nọ, lẫn câu kia. Và họ kết luận: Đó có thể là một gã say rượu, hoặc một thằng điên!
Rất may là khi đó, Nguyễn Thị Bẩy đã về nhà chồng và đang hưởng tuần trăng mật.
Không bao lâu, đến lượt chuông điện thoại trong căn phòng hạnh phúc của Bẩy ở phố Bà Triệu réo lên vào mỗi đêm khuya. Người gọi cho cô không ai khác là giáo sư Trần Quốc Vượng... Lúc đầu, chồng của cô hơi ngạc nhiên, bởi không hiểu có ông nào lại cứ điện thoại cho vợ mình vào lúc nửa đêm và nói dai đến vậy! Sau biết đó là vị giáo sư khả kính, thì chàng họa sĩ đoán rằng hai người trao đổi với nhau về công việc, và một đề tài nghiên cứu khoa học gì đó. Chẳng là, ông Vượng có thói quen ngủ lúc chập tối và gần sáng, thức dậy làm việc giữa đêm khuya... Trước đó, một lần nghe tin Bẩy bị ốm nghén, ông đã nhờ người đèo đến tận phòng tranh của chàng họa sĩ để thăm mà không gặp, đành chọn mua một bức tranh rẻ tiền và thông báo việc mình đồng ý hướng dẫn “cô Bẩy” làm luận án tiến sĩ về đề tài “Văn hóa ẩm thực Hà Nội”...
Nhưng rồi, việc gì đến, cuối cùng đã phải đến: Nguyễn Thị Bẩy đã chia tay với chàng họa sĩ. Họ đã tới với nhau nhẹ nhàng và chia tay cũng như vậy. Nó giống như một chuyến đò ngang số mệnh, buộc cô phải ngồi lên sang sông để tới bến bờ hạnh phúc.
Chị Nguyễn Thị Bẩy tâm sự: "Tôi định sẽ viết một cuốn tiểu thuyết kể lại toàn bộ mối tình kéo dài hai thế kỷ của mình với cụ Vượng, nhưng cụ ấy lại khuyên Tốt nhất là hãy chọn một nhà văn có tài, hay nhà báo giỏi nào đó, viết hộ mình cho khách quan và hay hơn”.
Chị Bẩy thổ lộ: "Có lần cụ Vượng nói với tôi đại ý là: Có nhiều phụ nữ thích cụ, nhưng cụ ấy chỉ yêu mình tôi và muốn cưới tôi làm vợ... Tôi nói ngay rằng: Em biết “cụ” là một người rất nổi tiếng. Nhưng em chỉ lấy người đàn ông Trần Quốc Vượng làm chồng, chứ không muốn lấy cái danh Giáo sư Sử học để cho oai. Vì thế, xin “cụ” cũng đừng có mà... “tinh tướng”!
Sau ngày cưới, đôi vợ chồng dự tính sẽ chuyển nhà từ khu tập thể Kim Liên về đường Huỳnh Thúc Kháng. Đó là một căn hộ cao cấp trên tầng 10, rộng rãi và tiện nghi hơn... “Cụ” Vượng đã có một con trai đang ở nước ngoài và hai con gái cùng lứa tuổi với chị Bẩy. Họ vẫn coi nhau như bạn bè, kể cả sau khi đã kết hôn. Chị Bẩy cũng đã có một cháu gái 5 tuổi... Chị thổ lộ: "Còn chuyện có nên sinh thêm em bé? Cho tôi được bí mật... à, mà tốt nhất là hãy dành câu trả lời này cho... cụ Vượng".
Đặng Vương Hưng-------------------------------------------------------------------
GS Trần Quốc Vượng: Người thầy thông tuệ
Cập nhật lúc 13:47, Thứ Hai, 08/08/2005 (GMT+7)
,
(VietNamNet) - Bao nhiêu dự định của thầy chưa hoàn kết? Bao nhiêu lứa học trò trông chờ ý kiến nhận xét của thầy về những công trình văn hoá học, dân tộc học, nhân học hoặc chỉ một vài chi tiết thuộc về sử liệu trong một bài báo nhỏ? Tất cả đã trở thành dang dở, người thầy thông kim bác cổ có tên gọi giản dị, quen thuộc là Trần Quốc Vượng đã nhẹ gót trần ai bước vào cõi tĩnh mịch vĩnh hằng vào lúc 2h55' sáng , 8/8/2005
Sinh thời, có lần ông nói: "Theo khoa Tử vi học, số phận tôi là “ngọn lửa đầu non” (Sơn đầu hoả) và thân phận tôi là dịch chuyển (Thân cư thiên di ). Tôi xuất thân trong một gia đình công chức, bố tốt nghiệp cao đẳng Canh nông, mẹ là nội trợ, tôi đứng cuối của hơn một chục anh chị em.
Do mẹ và bố có trục trặc nên mẹ thường đem tôi về quê ngoại và rong chơi khắp nơi, một tuổi tôi đã có mặt ở Sài Gòn và Nam Vang. Phải chăng, vì thời thơ ấu tôi đã rong chơi như thế mà cho đến hôm nay cuối mùa Thu của cuộc đời, tôi luôn thích và phải suốt tháng suốt năm rong ruổi khắp nước từ Cao Bằng - Lạng Sơn biên giới Việt - Hoa phía bắc đến Cà Mau, Côn Đảo phía nam và lang thang khắp Á - Âu - Mỹ - Úc. Một người bạn đồng nghiệp trẻ đã phác tính rằng, trong một năm tôi chỉ ở Thủ đô Hà Nội khoảng trăm ngày, còn hai trăm rưởi ngày khác tôi đi...”
GS Trần Quốc Vượng:
Sinh ngày 12/12/1934 tại Kinh Môn, Hải Dương. Năm 1956, ông tốt nghiệp thủ khoa cử nhân Sử - Địa trường Đại học Văn khoa Hà Nội, được giữ lại làm cán bộ giảng dạy Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội.Ông đã học một khoá học về khảo cổ vào 1959-60, và cùng với GS Hà Văn Tấn (Viện trưởng Viện Khảo cổ học hiện nay), trở thành những người khởi nguồn cho lịch sử khảo cổ học VN. Năm 1980 ông được phong hàm Giáo sư. Ông đã đảm nhiệm nhiều chức vụ: Chủ nhiệm bộ môn Khảo cổ học; giám đốc Trung tâm liên văn hoá ĐH Tổng hợp Hà Nội; Trưởng môn Văn hoá học, ĐH Quốc gia Hà Nội. Đồng thời từ năm 1989 ông đảm nhiệm chức vụ Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, chủ nhiệm CLB Văn hoá ẩm thực Việt Nam, Phó chủ nhiệm CLB Nghề truyền thống Viêt Nam, Tổng Thư ký Hội Văn nghệ dân gian Hà Nội từ năm 1976. GS Vượng còn là Chủ tịch đầu tiên của Hội Sử học Hà Nội.
Những điều mắt thấy tai nghe và những chuyến điền dã sâu sát trên thực địa đã tạo thêm sự phong phú sinh động cho những trang viết của ông. Hơn 40 năm qua ông đã viết hàng trăm bài nghiên cứu đăng ở các báo và tạp chí trong và ngoài nước, và xuất bản chừng hơn 30 đầu sách gồm đủ các thể loại: từ giáo trình sử, khảo cổ học, sách nghiên cứu văn hoá, con người thú vui...
Năm 1960, ông phiên dịch, chú giải Việt sử lược - bộ sách lịch sử vào loại xưa nhất do người Việt Nam viết còn lưu truyền được đến ngày nay; năm 1973 chủ biên bộ Danh nhân Hà Nội 2 tập; năm 1975 cùng Vũ Tuân Sán viết Hà Nội ngàn xưa; năm 1976 cùng Lê Văn Hảo, Dương Tất Từ viết Mùa xuân và phong tục Việt Nam.
Ngoài ra ông còn biên soạn các sách giáo khoa: Cơ sở khảo cổ học, Cơ sở văn hoá học, Lịch sử Việt Nam và một số sách chuyên môn như: Theo dòng lịch sử (1995); Việt Nam, cáí nhìn địa văn hoá (1998). Năm 2000 NXB Văn học in Văn hoá Việt Nam- tìm tòi và suy ngẫm của Trần Quốc Vượng. Tập sách 1.000 trang tập hợp 74 bài viết của ông đã được tái bản năm 2003.
Bệnh trọng đã lâu nhưng những ai gặp thầy trong những bước chậm chạp cuối cùng đến trước tử thần cũng đều nhận thấy ý thức của thầy vẫn thông tuệ và nụ cười vẫn hóm hỉnh, kiêu bạc như biết rõ mình sẽ đi đến đâu trong vòng trời đất chật hẹp này. Tri túc, Tri thiên mệnhlà thế chăng? Thế gian nhược đại mộng là thế chăng? Một cõi phù sinh nhưng nhờ có nó mà con người trở nên cao lớn hơn, gần với sự thật vĩnh cửu hơn.
Lại nói về sự thật, thầy Trần Quốc Vượng thường khai tâm đám học trò bằng câu nói kinh điển rất tây học: Sự thật không làm vinh dự cho bất cứ ai, kể cả những vĩ nhân của nhân loại. Ngay sau đó thầy giảng thêm bằng một câu ca dao nhặt được qua những chuyến đi điền dã:
Chân mình dính phẩn dề dề
Lại toan đốt đuốc mà rê chân người.
Học biết sự thật không phải là để lên mặt cao ngạo với đời.
Không hài lòng với lối nói hươu nói vượn, nói như sách mà không hiểu bản chất vấn đề của lũ học trò quen thói gạo bài lấy điểm, thầy Vượng mắng ngay: Không cần viết nhiều, nói nhiều đâm ra lải nhải cả lũ. Các ông, các bà hãy cho tôi biết các ông, các bà định nói về cái gì? Tại sao nó là thế này mà không phải là thế kia? ý nghĩa của nó là gì vậy?. Nói đúng, tôi cấp bằng cho các ông, các bà ngay, nói sai thì...về mà đi cày!
Dường như nói thế chưa đủ độ, thầy còn cho thêm một ít sự thật nữa để lũ học trò mở rộng tầm mắt. "Tôi hỏi các ông, các bà rằng, thì, mà, là như sau: Đem cái đề tài ngôn ngữ văn học Mường sang tít bên Gruzia để bảo vệ luận án tiến sĩ thì sao mà không đỗ cho được? Tiếng Mường nói không tròn, tiếng Nga thì nhí nhố, hai thứ hầm bà lằng đó có ma nó hiểu! Bố ai mà phản biện được?".
Đám học trò thích thầy Vượng không chỉ bởi khối lượng kiến thức uyên bác, những kiến giải độc đáo, bất ngờ mà chủ yếu thích nghe cách thầy giảng bài vượt ra khỏi mọi quy phạm. Uống vài chén rượu ngang nút lá chuối khô, mặt đỏ chuếnh choáng lên rồi là lúc thầy nói hay nhất, nhiều sự thật nhất từ chuyện kỳ thư ngoại thuyết, dã sử, tử vi tướng pháp đến chính sử, văn học sử, văn hoá địa vv...
Có lần đến nhà Thầy xin một lời nhận xét về cái cổng làng, vợ trẻ của thầy đi vắng nên thầy vui lắm. Thầy hỏi: Mày có hút thuốc không, mày có biết uống rượu không? Món nào trò cũng thạo, thế là hai thầy trò thi nhau nhả khói, thi nhau nâng chén...Thầy bảo: Bọn bác sĩ nói bậy cả đấy! Nói sai sử, nói sai sự thật còn...chưa chết thì uống rượu, hút thuốc chết thế đếch nào được?..."
Con người vốn lớn tiếng bậc nhất trong nhiều vấn đề khoa học, từng tự nhận mình là "mõ làng" trong giới khoa học ở HN, sau cùng lại gục ngã vì căn bệnh quái ác, ung thư thực quản.Vào thời điểm đó, con gái của GS cũng qua đời vì căn bệnh ung thư; nỗi đau đó đã khiến ông suy sụp nhanh hơn.
- Diễm Huyền - Quang Hải
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)








Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks