Tiếp Theo Phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ Tát Thứ Hai Mươi Lăm.....
Chơn quán thanh tịnh quán
Trí huệ quán rộng lớn
Bi quán và Từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.
Chơn quán thanh tịnh quán: Thế nào là "chơn quán?" Tức là quán Chơn không. Chơn không tức là không tướng nhân, ngã, chúng sanh, và thọ giả. Tuy không ngã tướng, không nhân tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả tướng, mà cũng không rời nhân tướng, ngã tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Cho nên "vô tướng" không có nghĩa là phải lìa ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, mà là ở ngay tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả ấy không thấy có tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Ðó gọi là ngay nơi tướng mà lìa tướng. Cũng như ở trước tôi đã nói:
Mắt xem hình sắc, trong không có;
Tai nghe thanh sự, tâm như không.
Rõ ràng có hình có sắc, tại sao lại "trong không có?" Ðó là vì không có chấp trước. "Không quán" này cũng giống như Ðại viên kính trí. Ở Ðại viên kính trí tuy có vật thì hiện, có tướng thì ứng, có cảnh giới gì thì hiện cảnh giới đó, nhưng nó không lưu lại dấu vết. Chơn không quán của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng như thế.
Thế nào là "thanh tịnh quán?" Vì đối với nhiễm ô mà nói là thanh tịnh. Sao gọi là nhiễm ô? Hễ có chấp trước tức là nhiễm ô, có ái trước cũng là nhiễm ô, có tham trước cũng là nhiễm ô. Sức thanh tịnh thì không có tất cả tham, sân, si; néáu có tham sân si thì không thanh tịnh. Ví dụ như việc bố thí. Thông thường người ta bố thí hay có những tư tưởng này: "Người ấy có quan hệ với ta, người ấy là bạn bè thân thích với ta, hoặc ở cùng xóm với ta. Ta phải bố thí cho họ, giúp đỡ họ." Ða số bố thí cho những người gần gũi mình, có quan hệ với mình, rồi sau mới bố thí cho những người xa hơn. Ðã có tâm phân biệt thân sơ xa gần là có tâm trước tướng, thì không thể nào bố thí một cách bình đẳng vô tư được. Ðó gọi là "bất thanh tịnh quán."
Bồ Tát Quán Thế Âm không phân biệt nhân ngã, thân sơ, xa gần, Ngài chỉ vì bố thí mà bố thí. Bố thí có chia làm tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí lại có nội tài thí và ngoại tài thí. Ngoại tài là tài sản ở ngoài thân, nội tài là tài sản ở trong thân. Tài thí là đem những thứ mình có bố thí cho người khác - như đem quốc gia thành trì bố thí cho người, đem vợ con bố thí cho chúng sanh. Quý vị xem thế mới là chân thí chân xả! Cho đến tất cả mọi thứ ruộng vườn, nhà cửa, tài sản đều đem bố thí cho cơ sở từ thiện, hoặc bố thí cho người có đạo đức. Ðó gọi là bố thí ngoại tài. Nội tài thí là đem thân, tâm, tánh mạng, đầu, mắt, não, tủy cho đến tứ chi xương cốt đều đem bố thí cả.
"Nếu có thể đem thân này để cứu vớt tất cả chúng sanh trên đời, thì tôi xin đem thân thể này bố thí, cống hiến cho thế giới, cho đến tim tôi cũng xin bố thí cho người, sanh mạng tôi cũng xin bố thí cho người. Giả như có người nào cần đầu tôi, tôi sẽ chặt đầu đem đưa cho họ."
Cũng như Ngài Xá-lợi-phất khi tu hạnh Bồ-tát, có người đến xin một con mắt, Ngài bèn móc ngay một con mắt cho người đó. Nào ngờ người ấy nói: "Ngài lộn rồi! Không phải tôi xin con mắt này, con mắt kia kìa!"
Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất thối tâm Bồ-đề, nghĩ thầm: "A, Bồ-tát đạo khó tu thiệt!" Ngài Xá-lợi-phất chỉ xả được một nửa nội tài, còn một nửa xả không được. Nhưng Bồ-tát thì nghĩ như vầy: "Nếu có thể đem óc tôi, xương tôi làm thuốc cứu người, thì tôi xin nguyện bố thí hết." Ðó là nội tài thí. Phàm những thứ gì thuộc về trí huệ, tinh thần của bản thân mình đều gọi là Nội tài.
Lại còn có Pháp thí, là nói pháp giáo hóa chúng sanh. Thứ bố thí này là bố thí lớn nhất. Ấy là: "Trong các bố thí, pháp thí là hơn hết." Pháp bố thí là trọng yếu nhất, vì thế chúng ta hiện nay (1969) ở Phật Giáo Giảng Ðường, Giảng Ðường tuy không rộng lắm, nhưng pháp lực cũng không phải nhỏ. Thứ năm thì có Quả Ðịa giảng, thứ sáu thì Quả Phổ giảng, thứ bảy thì Quả Toàn giảng, và chủ nhật thì giảng phẩm Phổ Môn. Phật Giáo Giảng Ðường này mỗi ngày đều bận rộn túi bụi như thế, tất cả vì pháp quên mình. Vì Phật pháp, quên cả thân tâm tánh mạng, ngay đến sức khỏe của chính mình cũng không để ý tới.
Mỗi cá nhân suốt ngày đều phải làm việc, tôi là Sư phụ giảng kinh cho quý vị, nhưng cũng phải làm việc như mọi người. Vì quá nhiều công việc phải làm nên mấy hôm nay gân cốt trên thân đều đau nhức cả. Tối hôm qua tôi hơi mệt một chút, không đến nghe giảng được, tại vì làm việc nhiều quá nên mỏi mệt. Nhưng tôi làm Sư phụ có mỏi mệt, lười biếng một chút cũng không sao, vì tôi học tập quá nhiều năm rồi, lười biếng một chút cũng có thể tha thứ, còn quý vị là học trò thì không thể lười biếng được. Bất luận là ai giảng kinh đều phải đến dự nghe. Ðến nghe pháp là biểu hiện hộ trì đạo tràng. Người đến nghe càng đông, không khí giảng kinh càng phấn khởi hơn. Nếu ai cũng không đến nghe thì không còn phấn khởi nữa. Cho nên muốn hộ trì Phật Giáo Giảng Ðường thì phải đến nghe thuyết pháp, không phải bỏ ra rất nhiều tiền mới là hộ pháp ủng hộ đạo tràng.
Trong quý vị có Hộ giáo sứ, Bố giáo sĩ, Tuyên giáo sư. Tuyên giáo sư thì giảng kinh thuyết pháp. Bố giáo sĩ phải đến khắp nơi bố cáo, quảng bá. Hộ giáo sứ thì phải hết lòng ủng hộ đạo tràng khiến cho đạo tràng ngày càng phát triển tốt đẹp hơn. Hộ pháp đạo tràng chính là hộ trì Phật giáo; hộ trì Phật giáo chính là hộ trì Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Ðó là trách nhiệm của mỗi cá nhân quý vị. Người phương Tây, đối với Phật pháp, trước kia và cho tới bây giờ, có thể nói là hiểu biết quá ấu trĩ, thực sự không hiểu Phật pháp. Như có một vài vị ở Mỹ, tự xưng là Trưởng lão, Pháp sư mà hiện nay chúng ta đều biết! Một khi hỏi đến kiến thức Phật pháp của họ thì sao? Ngay cả chính họ cũng không hiểu thế nào là Phật giáo! Hiện nay quý vị đã nghe giảng Kinh Lăng Nghiêm, có thể nói quý vị đã hiểu khá nhiều về Phật giáo. Hiện đang giảng về pháp bố thí, quý vị hãy đem chỗ hiểu biết về Phật giáo của mình giới thiệu cho tất cả chúng sanh và truyền bá cho từng cá nhân một. Vì truyền bá Phật pháp mà quên cả ăn ngủ cũng không sao. Tôi ngày xưa vì quảng bá Phật pháp mà có tình trạng như thế: Có ai muốn học Phật pháp thì tôi giảng giải cho họ quên cả ăn ngủ. Phải giải bày rõ ràng cho họ nghe mới hết trách nhiệm của mình.
Tôi hy vọng các vị cũng làm giống như tôi vậy, làm hóa thân của tôi để hoằng dương Phật pháp, làm bố thí pháp. Bố thí pháp có giá trị hơn là quý vị bỏ nhiều tiền của ra bố thí. Hiện nay quý vị tích cực học tập Phật pháp, có mấy vị muốn xuất gia, đó là việc làm ít có, có thể nói là phá kỷ lục ở nước Mỹ. Có nhiều người như thế muốn xuất gia, muốn làm Tỳ-kheo, làm Tỳ-kheo-ni, đó thật là việc không thể nghĩ bàn. Quý vị phải xây dựng cơ sở và quy củ và đối với tiền đồ của Phật giáo nước Mỹ, mỗi một cá nhân đều nên gánh lấy trách nhiệm.
Phải nghĩ rằng: " Nếu ta còn một hơi thở, thì công việc hoằng dương Phật giáo này còn là trách nhiệm của ta!"
Nếu có người nói họ cũng muốn gánh vác một chút trách nhiệm, thì nên tùy hỷ; không nên nói là tôi gánh lấy trách nhiệm, anh không thể gánh lấy được.
Cho nên nói: Trách nhiệm hoằng dương Phật giáo là bổn phận của mọi người. Không nên thoái thác, quý vị hãy đứng lên, lấy việc hoằng dương Phật pháp làm nhiệm vụ của mình, đó là điều kiện cơ bản của pháp thí.
Ngoài ra, lại còn có Vô úy thí. Như Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng hai cầu, đều là Vô úy thí. Vô úy thí tức là lúc người khác có sự kinh hoàng sợ hãi, sắp phải thiệt mạng mà quý vị có thể hiện thân vô úy, thực hành hạnh vô úy để an ủi họ. Thế nào gọi là hiện thân vô úy? Ví như có người đang kẹt trong nạn lửa, suýt bị chết cháy, nhân bị khói mù vây hãm không biết đông tây nam bắc là đâu, không biết theo con đường nào để có thể thoát ra khỏi đám lửa. Ngay lúc đó quý vị không kể gì đến thân mạng, ra sức nhảy vào đám lửa kéo người ấy ra. Việc này có thể nói là chẳng dễ gì làm được. Ðó gọi là xả thân mạng cứu chúng sanh, cũng tức là Vô úy thí.
Hoặc giả có người bị rớt xuống biển, sắp bị chết chìm. Quý vị thấy thế, cũng không kể gì đến tánh mạng mình, liền hăng hái quyết tâm nhảy xuống nước kéo người ấy lên bờ. Chẳng phải chỉ có nước lửa, cho đến trong nạn đao binh, súng đạn, có người bị bắn hoặc bị thương nơi trận địa, tánh mạng như ngàn cân treo sợi tóc. Trong lúc đó, quý vị hăng hái không nghĩ gì đến thân mình, không quản gì đến sanh mạng chính mình, nhảy vào chỗ nguy hiểm như thế để cứu người ra. Ðó đều gọi là Vô úy thí.
Lại nữa, nếu có người gặp phải các tai ách nguy hiểm như tù tội, giặc cướp..., sinh mạng sắp đến hồi nguy kịch, hoặc đã mê man bất tĩnh, quý vị có thể dùng các phương tiện khéo léo cứu họ thoát khỏi hiểm nguy, đó cũng là Vô úy thí. Tóm lại, ngay khi người ta đang ở hoàn cảnh lo sợ khốn cùng, quý vị dùng tâm từ bi, lòng dũng cảm, phát huy tinh thần đại vô úy, tinh thần không sợ bất cứ thứ gì để cứu giúp tất cả chúng sanh.
Quý vị cũng có thể thực hành Vô úy thí một cách gián tiếp. Cũng giống như Trì Ðịa Bồ Tát, ngài tuy không phải trực tiếp tu Vô úy thí mà là tu gián tiếp. Ngài tu như thế nào? Ngài biết phàm muốn qua sông thì phải cần có cầu, không có cầu thì qua sông không được, nếu qua liều thì sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Bấy giờ ngài dùng sức mình, bắt chước người xưa, dùng một ít ván hoặc cây gỗ bắc thành một chiếc cầu, khiến người qua sông không bị nguy hiểm.
Tuy có cầu không bị nguy hiểm, nhưng nếu gặp nước lũ, thì thế nào cũng có nguy hiểm đến tánh mạng. Giống như Hư Vân lão hòa thượng khi xuống núi Cửu Hoa để đến chùa Cao Mân dự thiền thất, ngài nhớ ở Ðịnh Cảng có bắc một cây cầu gỗ, bèn dò theo lối cũ đi đến đó định qua sông, nào ngờ chiếc cầu ấy vừa mới bị nước lũ cuốn đi rồi. Kết quả là ngài bị rớt xuống sông, ở dưới sông đến một ngày một đêm, sau 24 tiếng đồng hồ mới được ngư ông vớt lên bờ. Lúc bấy giờ ngư ông nghĩ bụng:
-"A, phen này phát tài rồi đa! Kéo được một con cá to nặng ơi là nặng."
Nhưng khi kéo lưới lên xem lại, té ra là con cá hòa thượng! Lúc xem kỹ lại, thì không phải là cá hòa thượng mà là Hòa thượng thiệt, có choàng tăng y hẳn hòi nhưng đã hết thở rồi. Gần đó có một ngôi chùa nhỏ, vị ngư ông ấy liền chạy đến báo với vị thầy trong chùa:
-"Này Hòa thượng! Hòa thượng! Hôm nay tôi đi lưới cá, lưới được một vị Hòa thượng, xin cùng tôi đến đó xem sao." Vị thầy trong chùa nghĩ: "Thiệt là lạ! Tại sao lưới cá lại lưới được vị Hòa thượng kia chứ?" Vị ấy cùng ngư ông đến xem thì ra đó là Lão hòa thượng Ðức Thanh! Tiếp đó họ làm cho nước trong bụng ngài ọc hết ra, Lão hòa thượng mới sống lại được. Thật như là sinh mạng có được lần thứ hai.
Sau khi Hư Vân lão hòa thượng bị nước cuốn suýt chết, ngài đi đến chùa Cao Mân dự thiền thất, rồi lâm bịnh nặng. Nhưng Nguyệt Lãng phương trượng không hay biết nên bảo ngài làm đại diện Phương trượng. Hư Lão tự nghĩ: "Ta bịnh như thế này, làm sao có thể thay mặt cho Phương trượng được?" Vì thế ngài không vâng lời. Gia phong của chùa Cao Mân rất nghiêm nhặt - nếu được đề cử mà khước từ thì bị tội khinh mạn tăng chúng. Kết quả ngài bị Nguyệt Lãng hòa thượng phạt đánh bằng hương bảng, từ sáng đến tối phải nhịn đói. Quý vị xem Hư Lão có thể nói là vị đại Thiện tri thức bậc nhất của Trung Hoa mà còn bị khổ sở không biết bao nhiêu, ở chùa Cao Mân, đi đâu cũng bị người ta coi thường, đối xử rất lạnh nhạt.
Ngài Trì Ðịa Bồ-tát chuyên môn sửa cầu đắp lộ. Khi ngài Hư Vân sắp tới Vân Nam, trên đường đi gặp một vị Hòa thượng mỗi ngày từ sáng đến tối cầm cuốc sửa đường, không nói một lời nào. Ðó cũng là hóa thân của Trì Ðịa Bồ-tát. Hễ thấy trên đường có miếng ngói hay miểng chai ngài đều nhặt để sang một bên, làm cho con đường được sạch sẽ. Ngài làm cực nhọc suốt ngày như thế mà có ai trả tiền công cho đâu! Không ai trả công mà cứ làm, quý vị có thấy là ngu si không? Nhưng chính vì làm công không như thế ngài mới tu thành Trì Ðịa Bồ-tát, chứng được cảnh giới Vị bất thối, Niệm bất thối và Hạnh bất thối. Ðó cũng là tu Vô úy thí. Pháp môn vô úy thật là rất rộnglớn. Tóm lại, lúc người đang sợ hãi, quý vị nên bố thí sự vô úy.
Một ví dụ gần nhất, như có người đã mấy ngày không có gì để ăn, sắp phải chết đói, trong lòng rất hoang mang sợ sệt! Nghĩ rằng:
-"Chắc là phải chết đói mất! Không tiền mua thức ăn, đi ăn trộm chăng? Ðể tù tội à!"
Ðang lúc họ ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan ấy, quý vị gặp họ, thấy họ mặt vàng gầy ốm, hai chân mềm nhũn, bước đi không nổi. Lúc đó quý vị hỏi họ:
-"Anh sao thế? Bị bịnh phải không?"
Nhất định họ sẽ trả lời: "Bốn, năm ngày nay tôi không có hột cơm nào trong bụng cả."
Quý vị nói: "Ðược, hãy đến nhà tôi ăn cơm nhé!"
Ðừng như người Thiên Tân, hễ sáng sớm thức dậy gặp ai đều hỏi: "Anh ăn cơm chưa?"
Người ta đáp: "Chưa!"
Bèn hỏi tiếp: "Chưa à? Vậy về nhà ăn cơm đi!"
Câu "về nhà" của họ không rõ ràng, không biết là về nhà họ? Hay là về nhà mình? Tóm lại, chỗ nào cũng được. Ðến nhà tôi ăn cũng được, đến nhà anh ăn cũng được. Vì vậy người chưa ăn cơm cũng không dám chắc là người ta mời mình, bèn nói:
-"Ờ phải, tôi sẽ về nhà ăn cơm."
Người không có y phục để mặc, chịu khổ lạnh lẽo, quý vị cho họ một ít quần áo; người không có nhà để ở, quý vị cho họ nơi ăn chốn ở, đó cũng gọi là Vô úy thí. Nhưng một ngày, hai ngày còn có thể được, chớ không thể ở mãi được. Trung Hoa có câu:
"Có thể cho một lần đỡ đói, không thể cho trăm bữa ăn no."
Cho một bữa cơm thì có thể được, chớ đòi mỗi ngày phải nuôi cơm thì không ai gánh vác nổi. Vì trên thế giới này ai ai cũng phải làm việc, chẳng thể sanh tâm ỷ lại được. Nếu quý vị có ý nghĩ này:
"Tôi hy vọng có người tu Bồ-tát đạo để tôi khỏi phải làm việc, tới bữa cơm chỉ cần đến nhà một vị Phật tử nào đó kể khổ: Tôi nay không có cơm ăn, xin quý vị cho tôi một ít 'vô úy thí ' khiến tôi không còn lo sợ vì đói ăn, không bị đau khổ vì đói khát nữa!"
Thế là không hợp quy củ rồi. Người ta ngẫu nhiên bị rơi vào hoàn cảnh bất đắc dĩ mới cầu sự trợ giúp nơi người khác thì được, nhưng quý vị còn hơi sức, thì phải cố gắng tự cường, mưu cầu hạnh phúc cho thế giới, chớ không nên tiêu hao vật chất trên thế giới này. Mọi người đều nên giúp đỡ thế giới này, chớ nên ỷ lại vào nó. Giúp đỡ thế giới này là thế nào? Chính là làm tốt cho mọi người, chớ không đòi mọi người làm tốt cho cá nhân mình. Tức là tôi muốn làm lợi ích người khác mà không muốn người khác làm lợi ích cho cá nhân tôi. Quý vị có ý tưởng hy vọng người khác làm lợi ích cho chính mình, đó chính là tâm ỷ lại mà không có tâm tự cường.
Mọi người phải nên cố làm việc, cố gắng tự cường, và không nên ỷ lại vào người khác. Ðây là tông chỉ của tôi.
"Thanh tịnh quán" chính là sức quán thanh tịnh, cũng tức là ở tất cả mọi mặt bố thí, không trụ trước tướng bố thí. Ðó chính là thanh tịnh quán mà không có pháp nhiễm ô. Bồ Tát Quán Thế Âm bố thí mà không chấp lấy tướng, tất cả lìa tướng, cho nên thanh tịnh. Nếu còn trước tướng thì không thanh tịnh.
Trí huệ quán rộng lớn: Rộng là to rộng, lớn là không có thứ gì so sánh bằng. Bồ Tát Quán Thế Âm có sức quán trí huệ rộng lớn, độ khắp tất cả, giáo hóa chúng sanh.
Bi quán và Từ quán: Ngài lại còn Bi quán. Có người hiểu lầm nghĩa kinh, bèn nói: "Quán Thế Âm Bồ Tát cũng thường hay khóc, không vui, vì ngài Bi quán."
Câu nói này quá lầm lạc! Bi ở đây không phải là bi ai sầu thảm, mà có nghĩa là thương xót. Bồ-tát đối với tất cả chúng sanh có lòng thương xót chân chánh. Tâm thương xót là thế nào? Ngài thường nghĩ như thế này:
-"Những người này thật là đáng thương xót! Ta dùng mọi cách để giáo hóa họ, mà họ vẫn không giác ngộ, vẫn mê muội, nên vẫn điên đảo mãi."
Ngài thương xót chúng sanh như thế, gọi là Bi quán. Vì Ngài thương xót chúng sanh nên luôn luôn muốn cứu độ họ. Giống như quý vị thấy một đứa bé rất là kháu khỉnh lanh lợi, ai thấy cũng thương. Tại sao nó được người ta thích? Vì đứa bé đáng được thương. Thứ tình thương đó gọi là Bi quán. Chớ chẳng phải Bồ Tát Quán Thế Âm không vui, thậm chí suốt ngày khóc lóc buồn bã. Quý vị nếu muốn học theo Bồ Tát Quán Thế Âm thì không nên cả ngày khóc lóc, buồn bã não nuột, mà phải "Luôn sanh hoan hỷ chẳng lo rầu" mới được. Bi quán của Ngài chẳng phải là thứ khóc lóc bi quan ếm thế, vì thế không nên nhầm lẫn.
Từ hay ban vui, Bi hay cứu khổ. "Bi quán" chính là dứt trừ đau khổ cho chúng sanh. "Từ quán" là cho chúng sanh sự vui thích. Thứ vui ban cho này chẳng phải là thứ vui tạm thời mà là thứ vui vĩnh viễn; nó là thứ vui chân chánh, không phải là thứ vui của thế gian. Thứ vui ấy như thế nào? Tức là ban cho tất cả pháp, khiến cho chúng sanh thực sự hiểu rõ Phật pháp mà không còn làm những việc điên đảo, gây khổ nữa. Ðó gọi là ban vui. Thế nào là việc điên đảo? Như người thích uống rượu, uống đến say mèm, cảm thấy như mình biến thành thần tiên. Hiển lộ cái "thần" của mình, đi đứng loạng choạng, ngả xiêu ngả nghiêng, lại cho như thế là hay lắm! Trí óc bị lụt đi, thậm chí không biết gì cả. Quý vị thấy như thế có điên đảo không? Một người khá thông minh, nếu bị sâu rượu chi phối, thì việc gì cũng có thể làm được - giết người, đốt nhà đều dám làm cả.
Có một hôm ở trạm xe bus, có một gã nghiện rượu đến xin tôi tiền để mua rượu uống. Tôi lại nhớ ra một việc cũng xảy ra ở một trạm xe bus. Bấy giờ, có một người da đen đi qua, tôi và anh ta không quen biết nhau. Không biết thế nào mà anh ta chạy đến đảnh lễ tôi, không nói một lời nào, lễ xong anh ta đứng dậy bước đi. Người này không phải lạy tôi để xin tiền, mà chỉ quỳ lại tôi trước mặt bao nhiêu người, lạy xong rồi đi. Cũng không biết anh ta là quỷ hay là thần? Thật là kỳ lạ! Tôi xem anh ta không phải là say rượu, không biết có phải là do một thứ linh cảm mà anh ta đến đảnh lễ tôi hay không? Ða số các quỷ thần thấy tôi đều cúi lạy. Mà anh ta, một người da đen lại cung kính quỳ lạy tôi, lạy xong liền đi, không dám nhìn thẳng tôi. Tôi nghĩ chắc có quỷ nhập vào người anh ta.
Uống rượu là như thế, hút thuốc lại càng điên đảo hơn. Tại sao? Lâu nay trong bụng quý vị vốn sạch sẽ, nhưng quý vị lại làm cho nó dơ bẩn đi. Có người nói:
-"Thưa Pháp sư, ngài nói sai rồi. Trong bụng tôi toàn là phân và nước tiểu, không sạch sẽ đâu."
Phải rồi, trong bụng quý vị không sạch sẽ. Song, sự không sạch sẽ đó cũng không hề chi. Một khi quý vị hút thuốc, bên trong cơ thể sẽ có chất nhựa thuốc giống như chất bợn đen xì bám trong ống khói vậy. Quý vị hút vào bụng rồi nhả khói ra, nhưng trong bụng vẫn còn thứ đó, chỉ vì quý vị không thấy nên không biết đấy thôi. Nếu thấy được, quý vị sẽ biết rằng hễ hút vào một hơi thuốc, thì như phun một lớp khói mờ trên mặt gương; hút thêm một hơi, lại dày thêm một lớp. Xưa nay trong bụng đang sạch trơn nhưng quý vị lại rắc lên một lớp khói bụi. Ðó không phải là điên đảo sao? Lại còn hút thuốc phiện nữa, khi hút cảm thấy tinh thần phấn chấn, thậm chí một bước có thể lên trời, như là đằng vân vậy. Ðến khi tác dụng của khói thuốc qua rồi, toàn thân cảm thấy uể oải, khắp người khó chịu, không biết phải để cái thân này ở đâu mới thấy dễ chịu! Nhưng lại để đâu cho được? Một nỗi khó chịu khiến họ muốn bò xuống địa ngục cho xong, bởi họ nghĩ ở địa ngục cũng chưa khó chịu bằng như thế. Cho nên quý vị xem, mắc bịnh ghiền rồi, ngay đến địa ngục cũng muốn đâm đầu vào, khổ sở đến thế là cùng. Ngoài ra, vấn đề điên đảo còn rất nhiều. Tôi hy vọng người hút thuốc hãy mau chóng cai đi, người uống rượu mau mau chừa rượu đi; người biếng lười nên siêng năng một tí, chẳng nên biếng lười nữa; những người chăm chỉ cần kiệm không nên học thói lười biếng, mà nên làm nhiều việc tốt, nhiều việc thiện hơn nữa. Quý vị nếu không làm việc thiện, thì rốt cuộc không có công đức. Quý vị phải làm mới có. Ðức là do thiện mà có. Bất cứ làm việc thiện gì, tự nhiên sẽ có đức, tự nhiên không điên đảo. Quý vị chẳng làm việc thiện, lại còn đem tiền đi chơi bời hoang phí, hoặc mua sắm đồ vật không cần thiết, đó là điên đảo. Quý vị đem đồng tiền hữu dụng dùng vào chỗ hữu dụng, gọi là không điên đảo; quý vị đem tiền hữu dụng dùng vào chỗ vô dụng, đó là điên đảo. Vì thế, điên đảo có rất nhiều thứ.
Bồ Tát Quán Thế Âm có thể chỉ cho chúng ta rõ các hành vi điên đảo để chúng ta không còn điên đảo nữa, khiến cho chúng ta đạt được niềm vui chân chính, vĩnh hằng. Ðó gọi là "Từ." Bi là hay cứu khổ, không những là cứu quý vị thoát cái khổ tạm thời mà còn cứu thoát cái khổ từ đời đời kiếp kiếp. Chỉ cần quý vị sanh khởi lòng tin. Khi quý vị có lòng tin thì Bồ Tát Quán Thế Âm mới có từ quán, bi quán quý vị. Nếu quý vị không có lòng tin, thì Từ quán và Bi quán của Bồ Tát Quán Thế Âm đối với quý vị chẳng khác nào như nước với lửa, không thể hòa hợp được. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng lòng từ bi bao la đối đãi với quý vị mà quý vị lại lạnh lùng, thờ ơ thì không thể cùng Ngài hòa hợĩp. Thờ ơ, lãnh đạm tức là không có lòng tin. Nếu quý vị có lòng tin thì sẽ được tương hợp với Từ quán và Bi quán của Bồ Tát Quán Thế Âm. Khi đã hợp thì quý vị lìa khổ được vui.
Thế nào là chân khổ (cái khổ thực sự)? Có phiền não là chân khổ. Nếu quý vị không có phiền não thì được an lạc. Tại sao quý vị không an lạc? Tại vì quý vị có phiền não. Bồ Tát Quán Thế Âm có thể tiêu trừ phiền não của quý vị, khiến cho quý vị đạt được sự an lạc chân chính.
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng: Chúng ta đều muốn thường xuyên được chiêm ngưỡng dung mạo và đức tướng từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm. Chiêm ngưỡng là thường xuyên "quan chiêm ngưỡng vọng" lặng lẽ nghắm nhìn với lòng cung kính, càng nhìn càng ưa thích; đối trước tượng Bồ-tát, năm vóc gieo sát đất, nhất tâm cung kính đảnh lễ. Lạy Ðại Bi Sám chính là một hạnh biểu lộ sự cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu quý vị không lạy Ðại Bi Sám, thì cũng giống như người Mỹ không thích cúi đầu lạy vậy. Ngay đến đầu còn không chịu cúi thì làm sao gọi là tin Phật? Quý vị tin Phật là tin Phật nào? Có người nói: "Tôi tin Phật của chính tôi." Nếu quý vị tin ông Phật của chính mình thì không thể có "chính mình" được. Vì quý vị không tìm thấy ông Phật của chính mình, cho nên ông Phật ở bên ngoài quý vị cũng không nhận ra được. Nếu tin vào ông Phật của chính mình thì không thể không cúi đầu lạy. Cúi đầu lạy là biểu thị lòng cung kính thành khẩn nhất. Ngũ thể đầu địa cũng là một hạnh lễ phép. Quý vị ngay cả một phép tắc lễ độ còn không có, thì nói gì đến tin Phật ư? Trước đây có một ông bác sĩ, có nhiều tin tưởng ông ta, xem ông ta như Phật vậy. Ông ta lại bảo mọi người không nên lạy Phật. Người ta thì lễ Phật, còn ông thì đứng yên như khúc gỗ vậy, nhưng chính ông ta cũng không biết. Tại sao? Vì "ngã tướng chưa không." Người không lạy Phật, thứ nhất là do ngã mạn, cảm thấy mình rất vĩ đại, vĩ đại hơn cả Phật nữa, nên không cần phải lạy Phật. Vì ông ta cống cao ngã mạn nên thấy Phật cũng không lạy. Như vậy thì làm sao học Phật, tin Phật? Thực sự ông ta vốn không hiểu gì về Phật giáo, nhưng đi đến đâu ông ta cũng nói Phật pháp, thật là tai hại quá mức!
Sáng trong sạch không nhơ
Trời huệ phá tối tăm
Hay phục tai phong hỏa
Chiếu sáng khắp thế gian.
Bốn câu kệ này thật là kỳ diệu không thể nói! Kỳ diệu như thế nào? Bốn câu kệ này có thể trị được bịnh về mắt. Người nào mắt có bịnh, nếu có thể thường xuyên đọc bốn câu kệ tụng này, thì mắt có thể khá hơn. Nhưng bịnh mắt dù khá, mà quý vị cần phải chính mình phát sanh trí huệ mới có thể trị lành triệt để được. Nếu như chưa phát sanh trí huệ, thì dù cho tạm thời khỏi bịnh, tương lai có thể sẽ tái phát. Trong quyển "Quán Âm Dị Ký" có ghi chép việc trị lành bịnh mắt. Làm sao có thể trị bịnh mắt được? Ðó là cảnh giới không thể nghĩ bàn, do nhờ sức oai thần của Bồ-tát Quán Thế Âm gia hộ. Tóm lại, quý vị tin vào lời kinh thì ứng dụng vào bất cứ việc gì cũng đều có linh nghiệm, hiệu dụng phi thường. Nếu quý vị không tin thì sẽ không có công hiệu. Vì thế trong biển lớn Phật pháp, chỉ có lòng tin mới vào được. Ðại pháp của Phật giống như biển cả vô lượng vô biên, mênh mông không biết sâu rộng bao nhiêu? Nếu quý vị có lòng tin thì Phật có thể tiếp dẫn quý vị bước vào.
Sáng trong sạch không nhơ: Thế nào gọi là "không nhơ?" Nhơ là bụi nhơ, cũng là thứ không thanh tịnh. Quý vị không có thứ bụi nhơ không thanh tịnh ấy thì tự nhiên tỏa ra ánh sáng thanh tịnh. Thứ ánh sáng thanh tịnh này là đối với bụi nhơ mà nói. Không có bụi nhơ thì có ánh sáng thanh tịnh; ngược lại, có bụi nhơ thì không có ánh sáng thanh tịnh. Thế nào là không có bụi nhơ? Tức là không có vọng tưởng. Quý vị không có vọng tưởng tức là không có bụi nhơ. Nếu quý vị khởi một vọng tưởng thì có một lớp bụi nhơ, khởi hai vọng tưởng thì có hai lớp bụi nhơ, ba vọng tưởng thì có ba lớp bụi nhơ. Vọng tưởng càng nhiều thì bụi nhơ càng dày.
Người tham thiền thường nói "Minh tâm kiến tánh," minh tâm chính là không có bụi nhơ, kiến tánh chính là thấy được ánh sáng thanh tịnh. Phải không có bụi nhơ mới có thể thấy được ánh sáng thanh tịnh. Nếu có bụi nhơ thì không thể thấy được ánh sáng thanh tịnh. Cho nên "minh tâm kiến tánh" chính là minh bản tâm mình, kiến bản tánh của mình (minh tự bản tâm, kiến tự bản tánh). Tánh của bản tâm như trong Kinh Lăng Nghiêm nói:
"Chân tâm thường trụ, tánh tịnh minh thể."
Chân tâm thường trụ chính là minh tâm; tánh tịnh minh thể tức là thanh tịnh minh thể, cũng là tánh Như Lai Tạng. Minh tâm kiến tánh cũng là rõ biết tánh Như Lai Tạng sẵn có của chính mình. Ðó cũng gọi là "không nhơ."
Trời huệ phá tối tăm: Mặt trời huệ tức là trí huệ giống như mặt trời, chiếu tan tất cả hắc ám. Thế nào là hắc ám? Hắc ám rất nhiều, ví dụ: Quý vị không có lòng tin, là hắc ám; không có trí huệ, là hắc ám; không có nguyện tâm, là hắc ám; không có thật hành tâm, là hắc ám. Lại nữa, quý vị không giữ giới luật, chính là hắc ám; quý vị không tu Ðịnh lực, Huệ lực chính là hắc ám; quý vị tu hành không y chiếu theo Giới Ðịnh Huệ cũng chính là đi trên con đường hắc ám. Trái lại, quý vị tu hành theo Giới Ðịnh Huệ, chính là quang minh. Cho nên "Trời huệ phá tối tăm," mặt trời trí huệ phá tan tất cả mọi tối tăm. Quý vị muốn đi nghe Phật pháp, là quang minh. Quý vị nghĩ: "Mình nghe pháp đã mấy ngày rồi, cũng không thấy có gì hay. Vị Pháp sư này ngồi trên pháp tòa, giảng tới giảng lui chỉ có bao nhiêu đó. Mình nghe không biết mấy lần rồi, chỉ là dạy người ta dứt trừ tham sân si, tu giới định huệ mà thôi. Mình nghe chán cả tai."
Quý vị chán không muốn nghe chính là hắc ám hiện tiền đấy! Trái lại nghe không thấy chán: "Vị Pháp sư này giảng pháp, càng nghe càng có nghĩa lý, càng có ý vị. Thậm chí tiếng nói giọng cười của vị Pháp sư này, mình nghe kinh xong, vẫn còn đọng lại những lời thuyết pháp ở bên tai mình. Suốt ngày từ sáng đến tối, tiếng thuyết pháp của vị Pháp sư như còn vang bên tai." Ðó chính là quang minh đấy! Trái lại không muốn nghe pháp chính là hắc ám.
Giảng đến đây, tôi lại nhớ một chuyện. Lúc còn ở Hồng Kông, có một vị nữ cư sĩ đến gặp tôi. Sau khi gặp tôi, quý vị biết bà ta thế nào không? Bà ta đi đứng nằm ngồi đều thấy tôi đang thuyết pháp cả. Nhưng vị cư sĩ ấy nói thế nào? Bà ta nói: "Vị Pháp sư Ðộ Luân này chắc là ma quá! Tại sao tôi cứ luôn thấy ông ta thế?" Bà ta thường thấy Pháp sư nói pháp, lại cho là ma; thế thì nếu thấy ma hẳn bà lại cho là Phật! Vị cư sĩ ấy thường thấy tôi lại nói là thấy ma, còn mắng chửi, và đòi đánh tôi nữa. Không đầy mấy tháng sau, bà ta mắc bịnh ung thư mà chết. Thực ra tôi cũng muốn cứu bà ta, nhưng bà lại cứ cho tôi là ma, nên tôi cũng đành bó tay. Hôm nay tôi sực nhớ lại chuyện này nên kể cho quý vị nghe. Quý vị thử nghĩ xem, bà ta gặp Pháp sư lại cho là ma; nếu như gặp ma, bà ta sẽ nói như thế nào? Vì thế, ở đời có rất nhiều người nhận giả làm thật. Còn thật lại cho là giả. Khi gặp giả cứ bảo là thật. Thường thường là bị lầm lạc như thế!
Trí huệ của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng giống như mặt trời, phá tan tất cả mọi hắc ám. Chiếu phá những hắc ám gì? Bồ Tát Quán Thế Âm tu "Chân không quán," chiếu phá những hắc ám của Kiến hoặc, Tư hoặc, chứng được đức Bát-nhã. Kiến hoặc là gì? Là đối cảnh khởi tham ái. Tư hoặc là gì? Là mê lý khởi phân biệt. Bồ Tát Quán Thế Âm tu "Thanh tịnh quán," phá trừ hắc ám Trần sa hoặc, chứng được đức Giải thoát. Bồ Tát Quán Thế Âm tu "Trí huệ quán," phá trừ hắc ám Vô minh hoặc, chứng được đức Pháp thân. Ðó gọi là chứa đủủ ba đức (Tam Ðức Bí Tạng) - Bát nhã đức, Giải thoát đức và Pháp thân đức. Bồ Tát Quán Thế Âm do tu ba quán (Chân không quán, Thanh tịnh quán, Trí huệ quán) mà chứng được ba đức, đoạn trừ hắc ám Kiến Tư, Trần sa và Vô minh, cho nên nói là "Trời huệ phá tối tăm." Huệ đây chính là quán, và quán chính là Huệ.
Hay phục tai phong hỏa: Bồ Tát Quán Thế Âm có thể dập tắt tam tai. Tam tai là ba thứ tai họa - thủy tai, hỏa tai và phong tai. Nước ngập Sơ thiền thiên, lửa thiêu Nhị thiền thiên, gió quét Tam thiền thiên.
Khi có tam tai, thủy tai xảy ra trước nhất. Bấy giờ, nước không biết từ đâu tràn đến - chẳng rõ là từ tinh cầu, mặt trăng, hay là từ các thiên hà - mà cuồn cuộn dâng cao, sóng bủa ngập trời; chẳng những dìm chết nhân loại ở thế gian mà còn tràn ngập cả trời Sơ thiền. Trời Sơ thiền vì sao lại bị nước nhận chìm? Ðó là vì thiên nhân của Sơ thiền thiên có nước phiền não, nên mới khơi động nước ở thế gian. Ðây là tai họa thứ nhất.
Sau trận thủy tai trên, thế giới này, không rõ là nơi nào, chỉ còn ít người sống sót; nhưng về sau dân số gia tăng và thế giới gặp phải nạn nhân mãn. Nhân loại đông đúc quá thì càng phức tạp, số người tạo nghiệp cũng nhiều thêm. Bấy giờ, tai họa thứ nhì là hỏa tai xảy ra. Cơn hỏa tai này ngùn ngụt thiêu đốt đến tận trời Nhị thiền; thiên nhân ở trời Nhị thiền cũng không chịu đựng nổi ngọn lửa này.
Tại sao xảy ra trận hỏa tai này? Vì thiên nhân ở Nhị thiền thiên có lửa phiền não, cho nên lửa trong tự tánh của họ dẫn khởi lửa thế gian bên ngoài. Lúc đó, trên không trung bỗng xuất hiện bảy mặt trời. Một mặt trời mà người ta đã chịu không nổi; thế mà khi ấy bảy mặt trời xuất hiện cùng một lúc, khiến cả sơn hà đại địa đều bị nung đốt thành than, không có một nơi nào được mát mẻ, cho nên loài người đều bị chết cháy. Biển bị khô cạn, biến thành lục địa; lục địa biến thành núi cao; núi cao biến thành biển cả. Giữa trời và đất có những sự việc kỳ diệu như thế đấy! Ðó là "lửa thiêu Nhị thiền."
Sau trận hỏa tai, trải qua một thời gian rất lâu dài, dân số ở thế gian dần dần gia tăng, loài người đông đúc trở lại và đưa đến nạn nhân mãn. Bấy giờ, tai họa thứ ba là phong tai xảy ra. Không chỉ nhà cửa thành quách, sơn hà đại địa, cây cối thảo mộc ở nhân gian bị gió ào ạt càn quét, thổi cho tan tành, mà ngay cả trời Tam thiền cũng chẳng thoát được thứ tai họa này. Tam thiền thiên sở dĩ có phong tai là vì thiên nhân ở trời Tam thiền có gió phiền não. Do gió trong tự tánh của họ tiếp xúc với gió bão của thế gian, nên phát khởi phong tai. Sơ thiền thiên có thủy tai, Nhị thiền thiên có hỏa tai, Tam thiền thiên có phong tai - ngay cả thiên nhân cũng không thể tránh khỏi những tai họa này, do đó có bài kệ rằng:
Lục dục chư thiên đủ ngũ suy
Tam thiền cõi ấy vẫn phong tai
Dù tu đến trời Phi phi tưởng
Nào sánh Tây phương quy khứ lai.
Sao gọi là ngũ suy? Tướng suy thứ nhất là hoa trên đầu héo tàn. Hoa đây là đóa hoa đính trên mũ của hàng thiên chúng. Hoa này không phải là thứ do người ta trồng, mà là hoa tự nhiên dùng để trang sức trên mũ. Khi tướng ngũ suy chưa hiện thì hoa trang sức này tươi tốt mãi; khi tướng ngũ suy hiện ra thì hoa này héo úa, báo hiệu vị thiên nhân ấy sắp mạng chung.
Tướng suy thứ hai là quần áo dơ bẩn. Y phục của trời không giống như y phục ở thế gian, một tuần giặt một lần hoặc hai tuần giặt một lần. Nếu không giặt thì không sạch sẽ. Y phục của trời không cần phải giặt gì cả vì nó không bị lấm dơ. Khi tướng ngũ suy hiện ra, y phục vị trời ấy tự nhiên bị lấm bụi dơ, báo hiệu vị ấy sắp mạng chung. Cũng giống như chúng ta khi sắp chết, hơi thở chưa dứt mà trên thân có chỗ lại sanh dòi. Bình thời không thể sanh dòi được, tới chừng sắp chết, trên thân có rất nhiều chỗ sanh dòi. Người trên trời áo bị lấm bụi cũng là do nghiệp báo cảm vời ra. Thế giới chúng ta tại sao có quá nhiều bụi bặm như thế? Kinh Lăng Nghiêm nói, "nhân vì tâm chúng ta quá nhiều vọng tưởng nên bụi bặm của thế giới cũng biến ra nhiều." Vọng tưởng của chúng ta không khác nào bụi bặm, nên táát cả bụi bặm đều do tâm vọng tưởng của chúng ta tạo thành. Khi tướng ngũ suy của người trời hiện ra, y phục có bụi bặm là thế.
Tướng suy thứ ba là hai nách đổ mồ hôi. Người trên trời không giống như chúng ta thân thể thường tiết ra mồ hôi đâu. Họ không bao giờ có mồ hôi cả, nhưng khi tướng ngũ suy hiện ra thì hai nách lại tiết ra mồ hôi.
Tướng suy thứ tư là thân thể hôi hám. Người trên trời suốt ngày thân thể đều toát hương thơm. Họ không cần xức dầu thơm hay thoa phấn thơm mà vẫn có một mùi hương nơi thân tỏa ra. Khi tướng ngũ suy hiện ra, trên thân không còn mùi hương nữa mà tiết ra mùi hôi.
Tướng suy thứ năm là không thích chỗ ngồi của mình. Thiên nhân rất là tự tại, suốt ngày ngồi tham thiền và không có sự việc gì khác lạ xảy ra. Khi tướng ngũ suy hiện ra thì họ ngồi không yên nữa. Hễ vừa ngồi thì lại đứng lên, đứng lên lại ngồi xuống, cứ đứng đứng ngồi ngồi như vậy mãi, một niệm mất đi tri giác thì vị ấy mạng chung.
Sáu cõi trời Dục này có tướng ngũ suy hiện, nhưng ở trời Sơ thiền có hỏa tai, Nhị thiền có thủy tai, Tam thiền có phong tai. Vì thiên nhân Tam thiền có gió phiền não nên tiếp xúc với gió thế gian tạo thành phong tai. Vì thế mà nói:
Lục dục chư thiên đủ ngũ suy
Tam thiền cõi ấy vẫn phong tai
Dù tu đến trời Phi phi tưởng
Nào sánh Tây phương quy khứ lai.
Dù cho quý vị sanh lên trời Phi phi tưởng, hưởng thọ phước trời lâu đến tám vạn đại kiếp, nhưng khi phước trời hết lại bị đọa lạc xuống nhân gian, hoặc đọa vào địa ngục đạo, ngạ quỷ đạo hay súc sanh đạo. Ðiều đó không nhất định, nên rất nguy hiểm. Chẳng bằng tu vãng sanh về thế giới Cực Lạc, rồi quay thuyền Từ lại, giống như Bồ-tát Quán Thế Âm, để hóa độ chúng sanh, như vậy là ổn thỏa nhất.
Chiếu sáng khắp thế gian: Trí huệ sáng suốt của Bồ Tát Quán Thế Âm rực rỡ chiếu khắp cả thế giới Phàm thánh đồng cư. Cõi mà chúng ta hiện đang sống đây gọi là cõi Phàm thánh đồng cư, còn gọi là "Thế gian Phàm thánh đồng cư," tức là nơi mà phàm phu và thánh nhân cùng ở chung. Ðại trí đại huệ mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã tu, lại chiếu khắp đến thế giới Phương tiện hữu dư, cảnh giới mà hàng Nhị thừa an trụ. Phương tiện là phương tiện khéo léo. Hữu dư, là chỉ cho những phiền não của thế giới này còn dư thừa chưa dứt hết. Bồ Tát Quán Thế Âm đầy đủ đại trí đại bi, lại chiếu khắp thế giới Thật báo trang nghiêm, tức là thế giới mà Bồ-tát ở. Thế giới của Phật ở gọi là thế giới Thường tịch quang, còn gọi là Thường tịch quang tịnh độ. Ðại trí đại huệ của Bồ Tát Quán Thế Âm chiếu khắp cả tịnh độ Thường tịch quang, cõi Thật báo trang nghiêm, cõi Phương tiện hữu dư, cõi Phàm thánh đồng cư. Cho nên nói là: "Chiếu sáng khắp thế gian."
Thể Bi: giới sấm rền
Lòng Từ như mây lớn
Pháp cam lồ mưa xuống
Lửa phiền não diệt tan.
Bốn câu kệ này là khen ngợi đức từ bi của Bồ-tát Quán Thế Âm. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng từ bi làm Pháp thể. Pháp thể từ bi này từ đâu mà có? Từ "giới" mà phát sanh. Ban sơ Bồ Tát Quán Thế Âm tu hành, do chuyên tu giới luật mà sanh ra Pháp thể Từ bi, Vô duyên đại từ. Thứ Pháp thể này cũng giống như tiếng sấm rền vang, tất cả chúng sanh đều được Ngài cứu tỉnh, gọi là "phát tiếng vang rền," người điếc cũng nghe được, người ngu cũng nghe biết. Vì thế câu "Thể Bi: giới sấm rền" là khen ngợi thân nghiệp Bồ Tát Quán Thế Âm không thể nghĩ bàn.
Lòng Từ như mây lớn: Bồ-tát Quán Thế Âm dùng lòng Từ bi bình đẳng, mắt Từ nhìn chúng sanh. Trong phẩm này cũng có nói:
Mắt Từ nhìn chúng sanh
Biển phước chứa vô cùng.
Bồ-tát Quán Thế Âm đã tu phước đức rộng lớn vô biên như biển cả. Với ý niệm Từ bi, Ngài bình đẳng ban vui cho chúng sanh, cảnh giới bất tư nghì này giống như vầng mây lớn giữa hư không.
Pháp cam lồ mưa xuống: Mưa xuống nước pháp cam lồ. Sao gọi là cam lồ? Cam lồ là thứ thuốc trường sanh bất lão trên trời. Mạng sống của người cõi trời dài như thế, là nhờ uống thứ nước trường sanh bất lão này. Có người nói:
-"À, người trời cũng dùng thuốc, hèn chi bây giờ người ta muốn khai ngộ cũng dùng drugs."
Nhưng thuốc trên trời là thuốc tự nhiên, sẵn có, không cần phải qua giai đoạn bào chế. Uống thứ thuốc bất lão thì không già. Vầng mây mầu to lớn của Bồ Tát Quán Thế Âm mưa xuống pháp cam lồ, mưa xuống thuốc trường sanh bất lão, khiến cho mọi người lìa khổ sanh già bịnh chết.
Lửa phiền não diệt tan: Bồ Tát Quán Thế Âm diệt tan lửa dữ phiền não của mỗi cá nhân trên thế giới. Tại sao chẳng thành Phật? Tại vì có phiền não. Vì sao không khai ngộ? Tại vì có phiền não. Tại sao quý vị không được giải thoát, không được tự do chân chánh? Cũng tại quý vị có phiền não. Phiền não cũng chính là chấp trước. Chấp trước chính là tên khác của phiền não. Quý vị có chấp trước thì không được giải thoát, vì còn phiền não. Vậy chấp trước là từ đâu sanh ra? Chính là do lòng ích kỷ, tự tư tự lợi sanh ra. Quý vị nếu là người không có lòng tự tư tự lợi mà đại công vô tư, thì quý vị có gì để chấp trước? Nếu quý vị không có lòng ích kỷ thì cũng không có chấp trước. Không có chấp trước thì không có phiền não; không có phiền não thì giải thoát. Ðược giải thoát tức là khai ngộ, cũng chính là thành Phật. Cho nên phiền não của chúng ta là một thứ xấu xa, tệ hại nhất. Nhưng mọi người đều không rời bỏ được thứ xấu xa ấy, mà thường gắn bó với phiền não, đi đứng nằm ngồi luôn có nhau! Có người nói:
-"Tôi thường thường vui, không có phiền não." Nếu quý vị được niềm vui chân chánh, thì đương nhiên không có phiền não. Nếu không đạt được niềm vui chân chánh, lại miễn cưỡng dụng tâm tạo tác để làm nên sự vui vẻ ấy, thì đó không phải là niềm vui chân chánh, vì vẫn có phiền não tiềm ẩn bên trong, một ngày nào đó nó sẽ bộc phát, giống như dùng một tảng đá lớn đè lên cỏ, cỏ tuy không lớn được, nhưng đến khi dời tảng đá đi thì cỏ lại mọc lên còn tươi tốt hơn trước nữa!
Trong bốn hoằng thệ nguyện, nguyện thứ nhất là:
-"Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ."
Bồ Tát Quán Thế Âm tại sao lại muốn đến thế giới này? Ðó là vì "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ" đấy.
-"Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn."
Bồ Tát Quán Thế Âm có phiền não hay không? Phiền não của Ngài thì đã dứt hết rồi, nhưng Ngài lại coi phiền não của chúng sanh như là của Ngài. Ngài thấy phiền não của chúng sanh chưa dứt, bèn dùng mọi phương pháp để giáo hóa chúng sanh, khiến họ dứt trừ được phiền não. Phiền não thì vô cùng tận giống như sóng biển vậy, niệm trước diệt niệm sau lại sanh, niệm sau diệt, niệm sau nữa lại sanh, nối tiếp nhau không dứt.
-"Pháp môn vô lượng thệ nguyện học."
Phật pháp thật vô lượng vô biên. Có người mới đọc qua một hoặc hai bộ kinh đã tự mãn, cho rằng mình đã hiểu Phật pháp. Phật pháp mà họ hiểu đó không bằng một giọt nước biển, thế mà đã tưởng là quá đủ rồi! Chẳng khác nào con kiến vào biển uống nước đầy bụng rồi nói: "Tôi uống sạch cả nước biển." Nó cho rằng đã uống sạch cả nước biển, chớ đâu biết rằng nó chỉ mới uống no bụng nó mà thôi. Còn nước trong biển lớn kia, ngay đến một giọt nó uống cũng không hết!
-"Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành."
Không có gì cao quý hơn Phật đạo, vì thế mỗi cá nhân đều nên phát nguyện quyết định thành Phật, không nên tự xem mình là quá thấp kém, mà phải xem mình bản lai là Phật. Nhưng bản lai là Phật chớ không phải hiện đang là Phật. Thực ra chúng ta lúc đầu vốn đầy đủ Phật tánh, cùng Phật không hai không khác. Nhưng hiện tại vì chúng ta không biết tu hành nên không có bản lãnh Tam thân, Tứ trí, Ngũ nhãn, Lục thông như Phật đấy thôi. Vì thế phải phát bốn hoằng thệ nguyện. Bồ Tát Quán Thế Âm vốn y chiếu theo bốn hoằng thệ nguyện để giáo hóa chúng sanh, nên Ngài rưới mưa pháp cam lồ, khiến các chúng sanh đều được mát mẻ, không còn phiền não. Ðó gọi là "lửa phiền não diệt tan."
Tranh tụng đến cửa quan
Trong quân trận sợ hãi
Nhờ sức niệm Quán Âm
Các oán lùi tan ngay.
Tranh tụng đến cửa quan: "Tranh" là đấùu tranh. Thời Mạt pháp là đấu tranh kiên cố. Lúc Phật còn trụ thế là thời Chánh pháp. Sau khi Phật diệt độ, là thời Tượng pháp. Hai ngàn năm sau khi Phật diệt độ là thời Mạt pháp. Ở thời Chánh pháp là Thiền định kiên cố, mọi người đều ưa thích tham thiền, tập định, tu định lực. Thời đại Chánh pháp kéo dài một ngàn năm. Từ lúc Phật ra đời cho đến một ngàn năm sau khi Phật diệt độ là thời Chánh pháp. Qua thời kỳ Chánh pháp là thời kỳ Tượng pháp. Ðây là thời đại Tự miếu kiên cố. Người ta ưa thích xây dựng chùa chiền, làm Phật tượng, vì thế trên thế giới một số nước có rất nhiều chùa miếu. Thời Tượng pháp kéo dài một ngàn năm. Sau một ngàn năm này thì đến thời kỳ Mạt pháp, pháp đã đến hồi cuối rốt. Thời kỳ Mạt pháp là mười ngàn năm. Thời kỳ này không phải là Thiền định kiên cố, cũng không phải là Tự miếu kiên cố, mà là Ðấu tranh kiên cố. Nước này đấu tranh với nước kia, nhà này đấu tranh với nhà kia, người này đấu tranh với người kia, súc sanh đấu tranh với súc sanh, quỷ đấu tranh với quỷ, nơi nào cũng đều đấu tranh cả.
Tại sao lại đấu tranh? Vì đó là thời Mạt pháp, người ta chỉ biết đến đấu tranh. Nhưng trong thời kỳ Mạt pháp cũng có thời kỳ Chánh pháp, trong thời Tượng pháp cũng có thời kỳ Chánh pháp. Tại sao nói như thế? Vì mặc dù trong thời kỳ Mạt pháp, cũng không thể nói là không có ai tham thiền tĩnh tọa cả. Như chúng ta hiện nay tuy trong trăm ngàn bận rộn, song vẫn có thể thu xếp thì giờ, lúc sáng sớm, khi chiều tối, hoặc lúc giữa trưa để dụng công tu hành, tham thiền tĩnh tọa; đó chính là biểu hiện của thời kỳ Chánh pháp vậy. Chẳng qua là ở thời kỳ Mạt pháp, Chánh pháp chỉ là một thành phần nhỏ, ít lại càng ít. Cho nên, chúng ta vào thời Mạt pháp còn có thể giảng kinh thuyết pháp, còn có người thu xếp thì giờ trong bận rộn, trong trăm thứ rộn ràng, thậm chí bỏ ngủ quên ăn để nghe kinh, đó cũng gọi là Chánh pháp trong thời Mạt pháp. Hiện nay mọi người đều đề xướng việc cất chùa, xây dựng đạo tràng, đó cũng là công tác của thời Tượng pháp. Vì thế trong thời Mạt pháp cũng có thời kỳ Tượng pháp, cũng có thời kỳ Chánh pháp. Trong thời kỳ Tượng pháp cũng có thời kỳ Mạt pháp, cũng có thời kỳ Chánh pháp. Vì trong thời Tượng pháp có chỗ không lập chùa, có người không tin Phật pháp, như vậy có khác gì Mạt pháp đâu. Vậy thì trong thời kỳ Tượng pháp tại sao phải cất chùa? Cất chùa có thể khiến mọi người nhóm họp lại một chỗ để dụng công tu hành, nên đó cũng là thời kỳ Chánh pháp. Thế thì trong thời kỳ Chánh pháp cũng có thời kỳ Tượng pháp và Mạt pháp. Người ở thời đại Chánh pháp tham thiền tập định, cố nhiên là thời kỳ Chánh pháp rồi. Nhưng cũng có khi cất chùa lại giống như thời kỳ Tượng pháp. Ở thời kỳ Chánh pháp cũng không phải ai ai cũng học Phật pháp. Có người học chút ít Phật pháp rồi không chịu học nữa, lại cũng không để tâm nghiên cứu, đây chính là Mạt pháp trong thời Chánh pháp. Cho nên, trong mỗi thời kỳ đều đủ cả Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp.
Bây giờ là thời Mạt pháp đấu tranh kiên cố, mà chúng ta có thể tu trì Phật pháp, làm cho Phật pháp còn mãi ở đời, hành trì sự nghiệp của Chánh pháp, mỗi ngày tụng trì chú Lăng Nghiêm, như thế là chúng ta giúp đỡ cho toàụn thế giới này vậy! Tại sao thế? Bởi vì nếu thế giới này không còn một ai tụng chú Lăng Nghiêm cả, thì thế giới sẽ sớm đi đến chỗ hủy diệt. Bấy giờ tất cả yêu ma quỷ quái, ly mị vọng lượng, đều xuất hiện. Hiện tại vì sao chúng không dám xuất hiện? Vì ở thế giới này vẫn còn có người trì tụng chú Lăng Nghiêm, tu 42 Thủ Nhãn của chú Ðại Bi, tu pháp môn ngàn tay ngàn mắt, nên yêu ma quỷ quái kiêng sợ, không dám xuất hiện, hoành hành.
"Tụng" là tố tụng, thưa kiện. Tranh tụng tức là đưa nhau đến tòa án để tranh cãi cho ra lẽ. Tranh cãi thì cần phải mời luật sư. Có một số luật sư có thể đem việc có lý nói thành vô lý, việc vô lý nói thành có lý. Ấy gọi là thị phi điên đảo.
Mấy tháng trước đây, báo chí đăng tin có một người đàn bà mưu sát chồng, nhưng bà ta có quá nhiều tiền, mới hứa hẹn với vị luật sư rằng, nếu cãi cho bà được trắng án thì bà sẽ trả cho một khoản tiền rất hậu hỉ. Vị luật sư ấy biết rõ bà ta là người giết chồng, nhưng trước pháp đình dùng mọi lý lẽ biện hộ, bẻ cong sự thật khiến cho bà ta được miễn tội. Ôi! Quý vị nói như thế có công lý hay không? Chỉ có tiền thôi, dù giết người cũng không có tội! Ðó chính là tranh tụng đấy. Ðã không có tội, thì khỏi phải đền mạng. Như vậy há chẳng phải là trên thế giới không còn chân lý nữa hay sao? Xưa nay đến pháp đình là cốt tìm ra lẽ phải, nhưng đến đó có luật sư biện hộ cho, rồi có đạo lý cũng biến thành không đạo lý, không đạo lý cũng biến thành có đạo lý. Quý vị xem thế giới này phải chăng là thế giới tối tăm hắc ám?
"Ðến chỗ quan": Ðến chỗ quan chính là ra tòa, đến pháp đình tìm lẽ phải, xem lý do của ai đầy đủ, ai là người không có tội. Nhưng khi đến đó rồi, lý do của quý vị dù đầy đủ nhất, mà quý vị không tiền thì thành có tội. Còn lý do của quý vị không đầy đủ, quý vị không có đạo lý, mà quý vị có tiền thì là người vô tội. Cho nên thế giới này bị tiền bạc chi phối, vùi lấp lương tâm con người đi.
Trong quân trận sợ hãi: Sợ sệt và kinh hãi ở trước quân trận, như tình hình hiện giờ ở Việt Nam (1968). Tại nơi đó, tuy đầy dẫy hãi hùng, nhưng nhờ sức niệm Quán Âm, nếu quý vị tụng niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát," thì các oán đều lui tan, tất cả oán hận đều không còn nữa. Ðấu tranh chốn cửa quan và trong quân trận, đều là nhân vì đời đời kiếp kiếp kết oán rất nhiều, nên mới tụ hội lại một chỗ để đền trả quả báo cho nhau; nhưng quý vị nếu hay trì niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì những quả báo như thế đều có thể giảm bớt, nặng biến thành nhẹ, còn nhẹ trở thành không có. Nếu không niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì những vấn đề ấy sẽ trở thành nghiêm trọng, nếu niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì sẽ giảm nhẹ đi. Cho nên cảnh giới của Bồ Tát Quán Thế Âm không thể nghĩ bàn, không phải người thường có thể biết được.
Hồi đại chiến thế giới thứ hai, tại Thượng Hải có một vị cư sĩ tên là Phí Phàm Cảnh thường ngày niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Vào thời chiến tranh Trung Nhật, Thượng Hải thường bị phi cơ Nhật oanh tạc. Vị cư sĩ này thường hay dời nhà, một khi cảm thấy chỗ mình ở có nguy cơ bị oanh tạc bèn dời đi chỗ khác. Ông ta vừa dời đi thì nơi đó quả nhiên bị phi cơ Nhật dội bom. Ở chỗ thứ hai được bốn, năm hôm, ông ta lại cảm thấy bất an bèn dời vào Tô giới. Ở Thượng Hải có một khu vực của người Tây phương thuê của Trung Quốc, cho nên người Nhật không dám quấy phá Tô giới. Sau khi dời đến Tô giới, ông ta lại cảm thấy bất an bèn muốn dời đi nữa. Nhưng ngoại vi Tô giới có lưới điện bao quanh, ông ta không có cách nào dời ra khỏi được. Ðang lúc tiến thoái lưỡng nan, không thể quyết định được, bỗng có một đứa nhỏ nói với ông ta:
-Mau chạy đi, đàng sau có quân Nhật kéo đến đấy!
Bấy giờ ông ta thấy trên lưới điện có một lỗ hổng rộng độ hai thước vừa vặn một người chui qua lọt. Thấy đứa bé chui qua lỗ hổng đó, cả nhà ông ta: bà mẹ, vợ, con cái đều theo lỗ hổng đó thoát ra ngoài. Khi thấy họ, các binh lính Tây phương phòng thủ ở đó, cảm thấy rất lạ kỳ, không biết bọn họ tại sao lại chui ra được! Ðến chừng họ tìm lại đứa bé thì không thấy đâu nữa. Xem lại lưới điện vẫn nguyên vẹn, không có lỗ hổng hai thước vuông nào cả. Họ cảm thấy rất lạ kỳ! Từ đó họ đi một mạch đến Tô Châu, lánh khỏi tai nạn chiến tranh. Việc này chứng minh rằng cảnh giới của Bồ Tát Quán Thế Âm thật cao sâu khó nghĩ bàn, người đời không thể nào hiểu nổi. Trong mọi tình huống, Bồ Tát Quán Thế Âm luôn bảo hộ người niệm danh hiệu Ngài. Vì thế mỗi người chúng ta phải nên có lòng tin vững chắc, tha thiết niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.
"Các oán," như tôi đã nói ở trên, là quốc gia đấu tranh với quốc gia, gia đình đấu tranh với gia đình, cá nhân đấu tranh với cá nhân, quỷ đấu tranh với quỷ. Ðây là do nghiệp lực của chúng sanh chiêu cảm ra cục diện như thế. Hiện nay có nhiều quốc gia, nhưng quý vị đừng cho rằng dân chúng trong các quốc gia ấy vốn là người cả. Có nơi là chuột thành bầy kết đội thác sanh làm người mà thành ra một quốc gia. Có rất nhiều ễnh ương cũng thác sanh làm người, thành một quốc gia.
Mùa xuân năm nay (1968) có báo đăng tin rằng ở quốc gia nọ có mấy vạn con ễnh ương tự sát tập thể. Tại sao thế? Vì ở nước đó ễnh ương quá nhiều, chúng tự sát để có thể thác sanh làm người. Sự kiện này chứng tỏ rằng đa số dân chúng trong quốc gia này đều là ễnh ương chuyển sanh. Nhìn kỹ, quý vị sẽ thấy tướng mạo dánh dấp của họ có phần nào tương tự ễnh ương. Quý vị không chú ý nên không biết đó thôi! Dân chúng của mỗi quốc gia thường là đồng một chủng loại. Chủng loại ấy đa số đời trước là súc sanh, nay cùng nhau đầu thai làm dân trong một quốc gia. Mùa xuân năm nay tôi giảng về đạo lý này, thì có người hỏi:
-"Người Mỹ đa số là loài gì thác sanh? Là do chủng loại nào hình thành quốc gia này?"
Tôi đáp: "Người và súc sanh đều có cả, vì dân nước Mỹ là do người của các quốc gia di dân tới, nên là một tập hợp gồm người cùng súc sanh."
Thật đấy, không phải đùa đâu. Nếu chúng ta khai được Ngũ nhãn (Phật nhãn, Pháp nhãn, Huệ nhãn, Thiên nhãn và Nhục nhãn) thì biết rõ người trên thế giới này không hẳn đều là người, mà loài nào cũng có. Làm sao nhìn ra được? Quý vị nếu có Phật nhãn, khai mở được mắt trí huệ, mà muốn biết người ấy đời trước là gì hoặc đời trước đã làm gì, thì nhìn vào cái bóng (shadow) đằng sau của người ấy; bởi bóng của thân đời trước vẫn còn đi theo cho đến đời này. Ðời trước nếu họ là người thì đời này cái bóng của họ là người, nếu họ là súc sanh thì bóng của họ là súc sanh, nếu họ là yêu quái thì bóng của họ là yêu quái. Chỉ có người mở được Ngũ nhãn mới có thể nhìn thấy được rõ ràng. Nếu không mở được Ngũ nhãn thì sẽ không phân biệt ra được. Cho nên quý vị gặp một người nào đừng vội cho đó là người. Làm sao biết được vấn đề này? Nếu quý vị có được Thiên nhãn thông, thì dễ dàng biết rõ. Chỉ cần quý vị cố gắng dụng công tu hành, thì muốn biết việc gì cũng đều được cả.
Hiện tại ở nước kia (không phải tôi mắng chửi người), đa số dân chúng là chuột biến ra. Nhưng trong đó rất nhiều chuột, cũng có rất nhiều người, rất nhiều quỷ và súc sanh. Tóm lại, mỗi quốc gia đều có ngựa bò dê gà heo chó đủ loại sanh lên. Người ta cũng từ những chúng sanh này biến ra. Ðạo lý này nói ra thật là vi diệu. Người thường vì không chứng thật việc này nên không tin thôi. Nếu muốn chứng thật việc này cần phải thực sự dụng công tu hành chứng được thần thông. Tới lúc đó mới nói:
-"Trước kia có một vị Pháp sư nói về đạo lý này, thật không sai chút nào! Làm sao sự việc vi diệu như vầy ông ta lại nói ra hết như thế?"
Diệu âm, Quán thế âm
Phạm âm, Hải triều âm
Hơn các tiếng thế gian
Cho nên phải thường niệm.
Diệu âm, Quán thế âm: Bài kệ tụng trước: "Chơn quán thanh tịnh quán, Guán trí huệ rộng lớn, Bi quán và Từ quán, Thường nguyện thường chiêm ngưỡng" là nói về chữ "quán." Bây giờ nói về chữ "âm." Chữ "âm" này là diệu âm, quán thế âm. Chữ "âm" trong quán thế âm là "âm" thanh rất vi diệu, âm thanh vi diệu này chính là Quán thế âm.
Phạm âm, Hải triều âm: Thanh âm của Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng những vi diệu mà còn thanh tịnh nữa, cũng như tiếng con nước khi biển lặng yên. Biển vào những lúc nhất định, thì phát ra tiếng hải triều (nước triều dâng lên hay rút xuống). Âm thanh thanh tịnh của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng như Hải triều âm, âm thanh của hải triều.
Hơn các tiếng thế gian: Âm thanh của Bồ Tát Quán Thế Âm vượt hẳn tất cả âm thanh khác.
Cho nên phải thường niệm: Vì lẽ đó cho nên mỗi người chúng ta phải thường niệm Bồ Tát Quán Thế Âm.
Niệm niệm chớ sanh nghi
Bậc Tịnh thánh Quán Âm
Trong khổ não tử ách
Giúp đỡ, làm chỗ nương.
Niệm niệm chớ sanh nghi: Lúc chúng ta niệm Bồ-tát Quán Thế Âm thì đừng bao giờ sanh lòng nghi ngờ. Chớ nên nghĩ như thế này: "Niệm có ích gì không? Niệm Bồ-tát Quán Thế Âm há chẳng phải là không có ý nghĩa gì?" Mỗi ngày đều niệm Bồ Tát Quán Thế Âm và cần nhất là không nên có tâm hoài nghi. Dù chỉ trong một niệm cũng không nên sanh tâm hoài nghi, mà phải nên sanh lòng tin vững chắc.
Bậc Tịnh thánh Quán Âm: Bồ Tát Quán Thế Âm chính là bậc Thánh thanh tịnh.
Trong khổ não tử ách: Ách tức là ách nạn. Ðây là nói về lúc quý vị có phiền não khổ đau hoặc là gặp phải hiểm nguy, mạng sống như chỉ mành treo chuông.
Giúp đỡ, làm chỗ nương: Lúc bấy giờ, Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ làm người bảo hộ cho quý vị. Quý vị có thể đem thân tâm tánh mạng của mình giao cho Ngài, Ngài nhất định sẽ che chở, giúp đỡ quý vị.
Ðủ tất cả công đức
Mắt Từ trông chúng sanh
Biển phước lớn không lường
Cho nên phải đảnh lễ.
Ðủ tất cả công đức: Bồ Tát Quán Thế Âm đầy đủ tất cả thần thông diệu dụng, không có thứ công đức nào mà Ngài chẳng đầy đủ. Bao nhiêu thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn Ngài đều có đủ.
Mắt Từ trông chúng sanh: Bồ Tát Quán Thế Âm luôn luôn dùng con mắt của người cha lành nhìn chúng sanh. Chúng sanh bất luận là có lỗi, có nghiệp tội hay không, Ngài đều thương xót cứu độ như nhau.
Biển phước lớn vô lường: Vì Bồ Tát Quán Thế Âm dùng đại từ bình đẳng cứu độ chúng sanh, nên phước báo của Ngài vô lượng vô biên, giống như biển lớn, sâu không thể lường.
Cho nên phải đảnh lễ: Vì Bồ-tát Quán Thế Âm có đầy đủ công đức, phước đức nên mỗi một cá nhân chúng ta phải nên đảnh lễ Ngài.
Như vậy là phần kệ tụng đã giảng xong. Chúng ta có cơ hội nghe được toàn bộ Kinh Pháp Hoa, thật là hy hữu. Hiện nay, đừng nói chi ở nước Mỹ, ngay cả ở Trung Hoa cũng không dễ gì nghe được toàn bộ Kinh Pháp Hoa. Ở Hồng Kông, Ðài Loan có thể có cơ hội đó, nhưng cũng rất khó khăn. Hiện nay chúng ta đang sống ở Mỹ, sinh hoạt rất ổn định, mà được nghe Kinh Pháp Hoa là một việc rất may mắn. Quý vị đến nghe kinh, là vô hình trung giúp đỡ thế giới này. Chúng ta giảng kinh ở đây, cả thế giới chỗ nào cũng đầy đủ những điềm tốt lành. Hễ chỗ nào có pháp hội giảng kinh thì Thiên long Bát bộ đều đến ủng hộ đạo tràng. Chúng ta có cơ hội này thì đều là người có căn lành lớn. Nếu không có căn lành, muốn đến nghe cũng không thể đến được. Lúc muốn đến, không có ma chướng này sanh cũng có ma chướng khác khởi; tóm lại, nó làm cho quý vị không có cách nào đến nghe kinh được. Chúng ta hiện nay có thể nghe kinh nghe pháp, công đức đó thật là vô lượng vô biên, không thể cùng tận. Ðến nghe kinh pháp, mỗi một cá nhân đều có thể có công đức rồi.
Lúc bấy giờ Bồ-tát Trì Ðịa liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn, nếu có chúng sanh nào nghe được phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát này, biết được các hạnh nghiệp tự tại và sức thần thông phổ môn thị hiện của Ngài, phải biết người ấy công đức không nhỏ."
Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám muôn bốn ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô Ðẳng Ðẳng A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề.
Lúc bấy giờ tức là lúc Ðức Phật nói xong phần kệ tụng. Bồ-tát Trì Ðịa chính là Bồ-tát Trì Ðịa trong Kinh Lăng Nghiêm đã nói. Vị Bồ-tát này trong vô lượng kiếp về trước là một người mù chữ, thất học. Tuy chưa được học Phật Pháp, song hành vi của Ngài rất gần với Phật Pháp. Ngài có sức khỏe rất tốt; sức của ngài chẳng những rất mạnh mà còn vô cùng vô tận. Những vật người thường nhấc lên không nổi, ngài nhấc được; vật người ta vác không nổi, ngài vác được; việc người ta làm không được, ngài làm được. Ngài làm việc chi? Ngài sửa sang đường xá, tu bổ đạo lộ. Có lúc lại sửa cầu. Lên dốc xe đi không nổi, ngài giúp người ta đẩy xe. Có người vác đồ vật rất khó nhọc, ngài bèn vác giùm họ. Nhưng ngài chẳng ra giá, chẳng đòi tiền công. Trải qua một thời gian dài, Ngài cứ làm rất nhiều việc khó nhọc như vậy.
Có một lần, gặp Phật Phù Xá Lư; đức Phật hỏi ngài: "Tại sao ông sửa sang đường lộ như thế?"
Ngài đáp: "Con đắp đường cho bằng phẳng để người ta dễ dàng đi lại."
Phật Phù Xá Lư nói: "Ông chỉ đắp bằng đường sá là bỏ gốc theo ngọn đấy! Ðây là dùng công phu trên chót ngọn, chỉ tu hành ngoài da thôi."
Bồ Tát Trì Ðịa nói: "Vậy thì thế nào mới không phải là dùng công phu ngoài da? Thế nào là dùng công phu ở bên trong?"
Phật Phù Xá Lư nói: "Nếu ông muốn sửa bằng con đường này, nên sửa bằng tâm mình trước. Tại sao con đường này không bằng phẳng? Thế giới có núi cao, có đại địa, có biển cả, đó là bởi lòng người không bằng thẳng. Trong lòng người có núi cao, nên đất cũng không bằng. Tâm địa nếu bình rồi thì thế giới không chỗ nào chẳng bằng thẳng cả."
Bồ Tát Trì Ðịa nghe Ðức Phật Phù Xá Lư dạy bảo xong, bèn tu pháp môn Tâm địa, san bằng mảnh đất tâm, tu hành chứng đến quả vị Bồ-tát. Do đó ngài được gọi là Trì Ðịa Bồ Tát.
Bồ-tát, trước đã giảng rồi, tức là giác hữu tình, bậc giác ngộ chúng sanh hữu tình. Cũng có nghĩa là Hữu tình giác, là một vị giác ngộ trong chúng sanh. Vị Trì Ðịa Bồ Tát này liền từ chỗ ngồi của mình đứng dậy đến trước Phật bạch rằng:
-"Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe được phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát với các hạnh nghiệp tự tại, và phổ môn thị hiện sức thần thông - ba mươi hai Ứng thân, bốn thứ Vô úy, mười chín phương tiện thuyết pháp - của Ngài, thì biết rằng người ấy có công đức không phải ít. Công đức lắng nghe Phổ Môn Phẩm là không có hạn lượng."
Không ít tức là nhiều, không có số lượng, vô lượng vô biên. Khi Phật Thích-ca diễn nói Kinh Pháp Hoa, nói đến phẩm Phổ Môn, trong đại chúng có tám muôn bốn ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Thế nào là "tám muôn bốn ngàn chúng sanh?" Tám muôn bốn ngàn chúng sanh cũng chính là tám muôn bốn ngàn phiền não. Mỗi phiền não của chúng ta là một chúng sanh. Hơn nữa, trong thân mỗi chúng ta đều có tám muôn bốn ngàn vi sinh vật, vi sinh vật này chính là "khuẩn." Trong cơ thể của mỗi chúng ta đều có trùng. Con người chúng ta là một thứ trùng lớn, trong thân trùng lớn đó lại có trùng nhỏ. Trong máu, trong thịt, trong ngũ tạng không biết bao nhiêu là trùng nhỏ. Chúng ta sống như thế nào? Ðó chẳng qua là trùng lớn nuôi trùng nhỏ, trùng nhỏ giúp đỡ trùng lớn. Quý vị cho con người là thế nào? Bên trong thân thể có vô lượng vô biên vi sinh vật, mỗi vi sinh vật là một chúng sanh đấy. Vậy thì có bao nhiêu vi sinh vật? Nhiều đến đếm không xuể! Tóm lại, nhiều đến tám muôn bốn ngàn. Thực ra chẳng phải chỉ có tám muôn bốn ngàn, mà mười vạn tám ngàn cũng không nhất định. Vì thế trong tự tánh của mỗi chúng ta đầy đủ cả tám muôn bốn ngàn chúng sanh. Nhưng theo bên ngoài mà nói, thì chúng sanh trên thế giới này đâu phải chỉ có tám muôn bốn ngàn! Tám muôn bốn ngàn chúng sanh trong pháp hội cũng chính là tám muôn bốn ngàn niệm trong tâm mỗi cá nhân. Niệm niệm sanh diệt, niệm niệm không dừng, niệm sanh chính là một chúng sanh, niệm diệt cũng là một chúng sanh; sanh sanh diệt diệt có tám muôn bốn ngàn chúng sanh, không rời tự tánh. Tám muôn bốn ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô đẳng đẳng, thứ tâm không có gì ngang bằng, không có gì so sánh được, tức là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm.
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (Anuttarasamyak---- sambodhi) là tiếng Phạn. A nghĩa là Vô, nậu-đa-la nghĩa là Thượng, Tam là Chánh, miệu là Ðẳng, Bồ-đề nghĩa là Giác, gộp chung lại là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Vô thượng là không có thứ gì cao hơn. Chánh đẳng là ngang bằng với Phật. Chánh giác là giác ngộ của Phật. Ðó là quả vị giác ngộ ngang bằng với Phật, cũng chính là phát tâm thành Phật. Có tám muôn bốn ngàn chúng sanh phát tâm thành Phật. Do phát tâm thành Phật rồi sau mới chứng đắc quả vị Phật. Ngay tại pháp hội, tám muôn bốn ngàn chúng sanh nghe được phẩm Phổ Môn đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ðây là nhân duyên rất thù thắng.
Hiện tại chúng ta đang giảng phẩm Phổ Môn, trong giảng đường Phật Giáo Giảng Ðường này có hơn hai mươi người nghe. Hai mươi người này, trong mỗi người đều có tám muôn bốn ngàn chúng sanh. Quý vị tính thử xem có bao nhiêu muôn? Nhưng bao nhiêu muôn này phải chăng đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Tôi tin rằng tuy không phát tâm ấy, đại đa số cũng phát tâm muốn thành Phật. Ở hội Pháp Hoa, người được nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tương lai đều có phần thành Phật. Chúng ta hiện nay nghe được phẩm Phổ Môn của Bồ-tát Quán Thế Âm, đều là do đời quá khứ đã gieo trồng vô lượng vô biên căn lành, cho nên bây giờ mới có được nhân duyên tụ hội lại một chỗ để nghiên cứu Phật pháp. Ðó là cảnh giới vi diệu không thể nghĩ bàn.
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề là quả vị cao nhất, tức là quả vị Phật giác ngộ. Từ ngữ trên được phiên dịch là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chánh giác là nói người khai ngộ, có được chánh giác. Nhị thừa La-hán được khai ngộ Chánh giác, nhưng chưa đến được Chánh đẳng. Vậy thì ai được Chánh đẳng? Bồ-tát là người được Chánh đẳng lại được Chánh giác. Chánh đẳng với Phật, nên gọi là Ðẳng giác. Chánh giác là La-hán, Chánh đẳng là Bồ-tát. Bồ-tát có thể thành Chánh đẳng nhưng chưa thể thành Vô thượng. La-hán có thể thành Chánh giác, nhưng không thể thành Chánh đẳng. Vì Bồ-tát là bậc hữu thượng sĩ, ở trên ngài còn có bậc cao hơn. Phật gọi là Vô thượng sĩ, tức là không có ai cao hơn Phật nữa. Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức là Bồ-đề viên mãn, về nơi Vô sở đắc, được ba giác tròn, muôn đức đủ, không còn có Chánh đẳng Chánh giác nào cao hơn nữa. Chỉ có Phật mới có tư cách nhận danh hiệu đó, ngoài ra các vị Bồ-tát, La-hán đều không thể so sánh với quả vị cao nhất này. Quả vị cao nhất này cũng là từ vị trí thấp nhất mà thành. Tu Ðạo, quý vị cần phải khắc ghi một điều là không nên sanh lòng tự mãn, cống cao ngã mạn. Ðó là từ nơi thấp nhất mà thành tựu được quả vị cao nhất vậy!
Lão Tử Ðạo Ðức Kinh nói: "Bậc thượng thiện như nước, nước khéo lợi cho vạn vật mà không tranh, ở chỗ mọi người đều chê." Người thượng thiện giống như nước, khéo làm lợi ích cho tất cả vạn vật mà không tranh. Vật là nói về động vật bay nhảy và thực vật. Cả bốn loài (thai, noãn, thấp, hóa) đều cần có nước để nuôi dưỡng, tắm rửa, mà chính bản thân nước không bao giờ nghĩ rằng:
-"Này, vạn vật các anh đều cần có tôi mang lại sự lợi ích đấy nhé, các anh nhờ tôi giúp mới thành đấy!"
Không tranh là gì? Không tranh tức là không kể công, khoe khoang với mọi người: "Những việc ấy là do tôi làm, công đức này nhờ tôi mới thành tựu, ngôi chùa này do tôi sửa, cây cầu kia là của tôi làm." Không hề có tâm như thế, đó là không tranh. Nước thì không tự tư cũng không tự lợi, cho nên Lão Tử mới nói: "Người thượng thiện nên học theo tánh nước, nước khéo lợi vạn vật mà không tranh," không kể công, không tranh danh, không tranh lợi. "Ở chỗ mọi người chê," nước ở chỗ thấp, không ở trên cao. Có người nói: "Nước tại sao chẳng ở trên cao? Khi mưa, nước đều từ trên cao rơi xuống mà!" Ðúng đấy, quý vị nói thật có lý, nước mưa là từ trên cao rơi xuống. Vậy thì, nó làm sao lên trên cao được? Nó là từ chỗ thấp nhất mà lên chỗ cao nhất, chớ chẳng phải là vốn ở trên cao. Nó ở trên cao lại phải rơi xuống mặt đất. Khi rơi xuống mặt đất, lại chảy vào biển, sông lớn, sông nhỏ, đổ vào hạ lưu. Nước chẳng qua là tạm thời ở trên cao mà thôi. Cho nên nói nước ở chỗ mọi người chê ghét, ở chỗ mà mọi người không thích ở. Người tu hành tại sao không ở nơi nhà cửa đẹp đẽ mà suốt ngày cứ ở trong sơn động? Ðó cũng là học theo nước, ở chỗ thấp nhất. Vì nước ở chỗ mọi người chê, cho nên hợp với Ðạo. Quý vị muốn thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng phải như thế, cũng phải từ chỗ thấp nhất đi lên. Không phải từ trên cao rơi xuống, cũng không phải sanh ra là thành ngay Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác được. Quý vị muốn thành Phật, trước phải làm chúng sanh tốt đã. Thế nào là làm chúng sanh tốt? Chính là làm bất cứ việc gì cũng đều hướng về cái thiện, không nên hướng về cái ác. Ðó gọi là "Lựa thiện thì theo, bất thiện thì sửa." Ðường thiện thì theo, đường bất thiện thì sửa. Phải sửa lỗi, tự làm mới lại chính mình. Phải đạo thì tiến, chẳng phải đạo thì lùi. Hợp đạo thì tiến lên phía trước, không hợp đạo thì lùi lại phía sau. Có như thế mới có thể chứng được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Sự vi diệu của Phẩm Phổ Môn vô cùng vô tận, không phải trong thời gian ngắn có thể giảng nói hết được. Sau này có cơ hội sẽ nghiên cứu kỹ hơn. Thứ bảy này là ngày vía Bồ Tát Quán Thế Âm Thành Ðạo. Chúng ta đã nghe xong Phẩm Phổ Môn, biết được thần thông diệu dụng của Bồ Tát Quán Thế Âm, đến hôm đó chúng ta sẽ phát tâm cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, niệm danh hiệu Ngài cùng lạy Ðại Bi Sám, cầu Bồ Tát Quán Thế Âm hiển thị diệu dụng bất tư nghì. Ai có cầu điều chi, có thể thầm khấn trong tâm xin Bồ Tát Quán Thế Âm gia hộ. Tôi tin tưởng Bồ Tát Quán Thế Âm nhất định sẽ gia hộ quý vị được tùy tâm mãn nguyện. Kinh Pháp Hoa là Pháp Hoa thành Phật, người nghe được Kinh Pháp Hoa là có phần được thành Phật, cho nên cơ hội này là rất khó gặp vậy!
![]()
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)




Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks