Tiếp Theo Phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ Tát Thứ Hai Mươi Lăm.....

Lúc bấy giờ Bồ Tát Vô Tận Ý dùng bài kệ hỏi Phật.

Sau khi Ðức Phật Thích Ca nói lời ấy rồi, Bồ Tát Vô Tận Ý lại dùng kệ để hỏi Phật.

Vì phần kinh văn trước là thể trường hàng (văn xuôi), có chỗ nói rất rõ ràng, lại có chỗ nói không được rõ, nên dùng kệ để nhắc lại một lần nữa. Kệ giống như các loại thi từ ca phú của Trung Quốc, đều phải có thể cách nhất định, hoặc là một câu sáu chữ, một câu bảy chữ, hoặc một câu năm chữ, một câu bốn chữ... không bắt buộc, nhưng cần phải có số chữ nhất định.

Thế Tôn đủ tướng tốt
Con xin nay lại hỏi
Phật tử nhân duyên gì
Tên là Quán Thế Âm?


Bồ Tát Vô Tận Ý nói: "Ðức Thế Tôn đầy đủ tướng tốt! Bây giờ con lại hỏi về Bồ Tát Quán Thế Âm kia, vị Phật tử ấy do nhân duyên gì mà có tên là Quán Thế Âm?" Vì tướng mạo của Phật rất viên mãn, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, cho nên gọi là Ðức Thế Tôn đầy đủ tướng tốt, tức là hoàn toàn, không thiếu cũng không dư. Lại cũng có thể hiểu là phước đủ, huệ đủ, là Lưỡng túc tôn. Song, ở đây là nói về ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Phật là những tướng hảo vi diệu không thể nghĩ bàn.

Bậc đầy đủ tướng tốt
Kệ đáp Vô Tận Ý:
Ông nghe hạnh Quán Âm
Khéo ứng các nơi chốn.


Do Bồ Tát Vô Tận Ý dùng kệ hỏi Phật, nên Phật cũng dùng kệ để đáp câu hỏi của Bồ Tát Vô Tận Ý: "Này Vô Tận Ý! Ông có biết những sự việc và nhân duyên mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã làm chưa? Ông phải nên chú ý nghe, ta sẽ giảng nói cho ông. Vị Bồ-tát ấy dùng phương tiện khéo léo, quán cơ đậu giáo, tùy duyên nói pháp, ứng bịnh cho thuốc."

Quán cơ đậu giáo chính là quán sát căn cơ của chúng sanh ra làm sao, thích những gì, đáng nói những pháp gì; cũng giống như trước đã nói: "Ðáng dùng thân Phật để được độ thoát liền hiện thân Phật nói pháp để độ họ. Ðáng dùng thân Ðế Thích để được độ thoát liền hiện thân Ðế Thích đến nói pháp để độ họ...." Ðó gọi là khéo ứng các nơi chốn. Bất luận là căn tánh nào, Ngài cũng dùng các phương pháp thiện xảo phương tiện này để độ họ. Phương pháp ấy có nhất định không? Không có nhất định! Kinh Kim Cang có nói: "Pháp này bình đẳng, không có cao thấp, không có nhất định." Vì thế, là một vị Pháp sư muốn giáo hóa chúng sanh, cũng phải biết rất nhiều đạo lý cùng pháp thế gian để hễ gặp hạng người nào thì nói thứ pháp đó cho thích hợp. Ví dụ gặp một người buôn bán, thì có thể nói: "À này! Bây giờ anh buôn bán có khá không? Gần đây mãi lực của thị trường rất mạnh đấy!" Hoặc gặp một người công nhân thì nói: "Anh vất vả dữ đa! Hôm nay chắc được rảnh nhỉ?" Phải dùng đạo lý của người công nhân mà nói với anh ta. Anh ta nghe nói liền vui vẻ nghĩ: "À, thì ra cũng có người biết là mình rất cực khổ, rất bận rộn đấy!" Sau đó mới nói Phật-pháp cho họ nghe, họ mới cảm nhận được: "À phải đó! Thì ra Phật-pháp là như thế." Gặp người đi học, thì hỏi: "Anh theo học ban nào? Khoa học? Hóa học hay Văn học...?" Hôm nay có một nhóm sinh viên đến chùa và được nghe giảng Phật-pháp, nghe rồi họ đều rất thích thú, đối với Phật-pháp bắt đầu có ấn tượng. Trong đầu óc các em đã có một chữ "Phật." Chữ "Phật" này sẽ in vào tâm trí các em mỗi ngày một sâu đậm thêm, tương lai các em cũng sẽ thành Phật. Ðó chính là khéo ứng các nơi chốn, ứng bịnh cho thuốc, tùy duyên nói pháp. Ấy cũng gọi là:

Thiện xảo phương tiện độ chúng sanh,

Khéo lấy trần lao làm Phật sự."

Ðem tất cả những việc trần lao ở thế gian chuyển biến thành Phật sự cả.

Nguyện rộng sâu như biển
Nhiều kiếp không nghĩ bàn
Hầu nhiều ngàn ức Phật
Phát nguyện lớn thanh tịnh.


Ðức Bồ Tát Quán Thế Âm, khi chưa thành Phật đã phát nguyện đại từ đại bi rộng lớn. Lời nguyện này rộng lớn như thế nào? Sâu như biển cả vậy. Ngài đã trải qua bất tư nghì đại kiếp, tạo ra bất tư nghì công đức, phát ra bất tư nghì nguyện lực như vậy, vì thế Bồ Tát Quán Thế Âm mọi mặt đều là vi diệu không thể nghĩ bàn. Ngài đã từng thờ phụng rất nhiều ngàn ức đức Phật, chẳng những ngàn ức mà còn hơn vạn ức nữa, dù trên văn kinh chỉ nói có ngàn ức thôi. Vì lập những nguyện đại từ đại bi ấy, nên cảnh giới của Bồ Tát Quán Thế Âm cao sâu khó lường. Bồ Tát Quán Thế Âm đã phát những lời nguyện rất thanh tịnh. Nguyện thanh tịnh là thế nào? Thanh tịnh là không có ý tưởng ích kỷù, riêng tư cho chính mình mà là đại công vô tư. Ngài vì chúng sanh phát nguyện, hoàn toàn phát xuất từ tâm từ bi chân chánh, từ tâm từ ái chúng sanh chân chánh.

Ta vì ông lược nói
Nghe tên và thấy thân
Tâm niệm chẳng luống quên
Năng diệt khổ các Hữu.


Ðức Phật nói: "Bây giờ ta nói sơ lược về công đức của Bồ Tát Quán Thế Âm này cho ông nghe." Phải là người có căn lành mới có thể nghe được danh hiệu của Bồ-tát này. Nếu người không có căn lành thì cả danh tự của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng không thể nào nghe thấy, huống chi là gặp được thân Ngài. Nói về "thấy thân" thì không nhất định là thấy được nhục thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, mà là có thể thấy được hình vẽ của Bồ-tát này. Hình vẽ ấy hoặc dùng đất đắp lên, hoặc chạm khắc bằng gỗ hoặc bằng sành sứ, cho đến bằng vàng, bạc, đồng, sắt đúc nên; thấy những hình tượng này cũng giống như thấy nhục thân của Ngài vậy. Chúng ta chỉ cần để tâm nơi đó, niệm niệm không quên danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, không cho xen tạp vọng tưởng để thời gian quý báu đó trôi qua uổng phí đi. Niệm Bồ Tát Quán Thế Âm có được công dụng gì? Có thể diệt tất cả khổ của các hữu. "Các hữu" là gọi chung cho Dục-giới-hữu, Sắc-giới-hữu và Vô-sắc-giới-hữu, tất cả gồm hai mươi lăm hữu. Hữu (realms of existence) ở đây nói chính là hai mươi lăm cõi trong Tam giới. Có bài kệ về hai mươi lăm hữu ấy như sau:

"Bốn châu (4), bốn nẻo ác (4)
Phạm vương (1), Lục dục thiên (6)
Vô tưởng (1), năm Na-hàm (5)
Bốn Thiền, bốn Không thiên (4)"

Giả sử sanh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Nhờ sức niệm Quán Âm
Hầm lửa biến thành ao.


Giả sử có người muốn hãm hại, ví như buôn bán chung với quý vị, cùng lên núi với quý vị. Khi đi qua vực sâu muôn trượng, người ấy vì muốn giựt tiền vốn của quý vị bèn sanh tâm mưu hại, xô quý vị rơi xuống vực sâu. Ngay lúc đó, quý vị chỉ cần chí thành xưng niệm: "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát" thì sẽ được bình an vô sự. Người kia dù có xô quý vị rớt trong hầm lửa đi nữa, thì hầm lửa ấy cũng biến thành ao nước. Quý vị không cần phải dùng phương pháp nào khác, cũng không cần phải niệm bất cứ chú gì, chỉ cần nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì sẽ có cảm ứng, sẽ được một sức mạnh vô hình đến cứu hộ, cảm ứng này thật bất khả tư nghì. Vì thế chúng ta ở chỗ nào nơi nào cũng đều niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì tương lai sẽ được Bồ-tát bảo hộ cho. Cảnh giới cảm ứng đó thật là nói không thể hết được.

Hoặc trôi dạt biển khơi
Các nạn quỷ, rồng, cá
Nhờ sức niệm Quán Âm
Sóng mòi không chìm được.


Trôi là trôi nổi lênh đênh theo giòng nước. Nếu như ở chỗ cạn hoặc nước đứng thì không có vấn đề gì, người ta sẽ dễ dàng lên bờ. Nhưng nếu trôi ở giữa biển khơi, nhìn ra mù mịt không biết đâu là bến bờ thì rất nguy hiểm. Trong biển cả thường có rồng độc, cũng có quỷ La-sát, và cá mập ăn thịt người nữa nên rất nguy hiểm. Lúc quý vị gặp những tai nạn này, nếu có thể niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì dù sóng to cách mấy cũng không thể nào bị dìm chết được, mà bỗng nhiên quý vị sẽ được đưa vào bờ, hoặc tự nhiên trôi tấp vào chỗ nước cạn, hoặc gặp được thuyền khác đến cứu. Những việc này là do Bồ-tát Quán Thế Âm thị hiện để cứu thủy nạn. Cũng giống như hỏa nạn ở trước, nếu quý vị không biết niệm Bồ-tát Quán Thế Âm thì sẽ rất nguy hiểm.

Nói đến đây, nhớ lại lúc ở Hồng Kông tôi có một đệ tử quy y xấu tánh. Xấu tánh như thế nào? Anh ta tên là Trương Ngọc Giai, đã làm hại người. Nhà anh ta mở tiệm thuốc tây, lời không biết bao nhiêu mà kể. Song, số tiền kiếm được là từ việc hại người. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, vì đất nước vừa trải qua khói lửa chiến tranh nên bịnh truyền nhiễm lan tràn, lúc ấy ở đại lục Trung Hoa chỗ nào cũng có bịnh ôn dịch hoành hành. Bấy giờ Trương Ngọc Giai cùng với một người rất giàu có hùn vốn đi buôn. Hai người cùng ngồi thuyền ra ngoại quốc để mua thuốc tây mang về Hồng Kông bán lại. Trên đường về, thuyền ra tới biển khơi, anh ta liền xô người bạn xuống biển. Người bạn ấy vì không biết niệm Bồ-tát Quán Thế Âm nên bị chết đuối. Thế là Trương Ngọc Giai một mình chiếm trọn cả số vốn thuốc tây ấy. Khi trở về Hồng Kông, anh ta bán lại được rất nhiều tiền. Anh ta lại còn ngụy tạo thuốc giả để bán, vì thế càng phát tài thêm. Sau khi phát tài rồi thế nào? Ðại khái là bị oan oan tương báo, anh ta mắc phải ung thư.

Bấy giờ ở Hồng Kông có sáu vị thầy thuốc rất giỏi, đều đoan chắc anh ta nội trong một trăm ngày là chết. Thế là anh ta lật đật đăng báo tìm người cứu mạng, hứa hẹn nếu ai có thể trừ tuyệt được chứng bịnh ung thư thì anh ta tình nguyện tặng hai trăm ngàn Mỹ kim để đền ơn. Hồi ấy, hai trăm ngàn Mỹ kim ở Hồng Kông rất có giá trị, nhưng cũng không có người nào đến bày cách cứu mạng cho anh ta. Bấy giờ anh ta mới đến chùa lạy Phật.

Có một hôm, anh đến Tây Lạc Viên hỏi tôi làm sao có thể trừ được bịnh? Tôi nói với anh: "Muốn trừ được bịnh này, anh phải làm nhiều việc tốt, cúng dường Tam Bảo, gieo trồng công đức. Trước tiên anh phải quy y Tam Bảo, có như thế họa may bịnh anh mới đỡ được!"

Vì thế anh ta mới quy y với tôi vào ngày 18 tháng 9 âm lịch năm đó. Sau khi anh quy y rồi, tôi khuyên anh ta nên phát tâm làm việc tốt. Bấy giờ nhằm lúc người xuất gia từ Trung Hoa tỵ nạn đến Hồng Kông có đến hơn hai, ba ngàn người, nhưng đa số các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ấy y phục chẳng đủ dùng, cũng không có nơi chốn để nương náu. Vì thế tôi mới bảo anh ta cúng dường cho mỗi vị Tăng hoặc Ni một xấp vải (may được hai bộ đồ tu) và hai mươi đồng tiền Hồng Kông, anh ta bằng lòng với lời yêu cầu đó. Nhưng bấy giờ ở Hồng Kông có nhiều vị Thầy, nhất là lão Pháp sư, nghe tin Trương Ngọc Giai quy y với tôi, bèn trổ hết thần thông ra. Trổ thần thông như thế nào? Vị này tìm bạn hữu, vị kia nhờ thân thích, lân la phan duyên với Trương Ngọc Giai, bảo anh ta đến chùa họ làm việc công đức. Những vị lão Pháp sư này đều là người rất có danh vọng, lại là người có uy quyền trong Phật giáo, nên kết thân được ngay với Trương Ngọc Giai. Vì thế, Trương Ngọc Giai lúc thì đi làm công đức ở chùa này, lúc lại làm công đức ở chùa nọ, thế rồi hai mươi đồng mà tôi kêu gọi cúng dường cho mỗi Pháp sư ở Ðại Lục sang anh ta không cúng đủ. Anh ta chỉ cúng dường năm đồng và một xấp vải hạng trung mà thôi. Vì tôi đã nói với quý Thầy quý Sư cô là sẽ cúng dường mỗi vị hai mươi đồng mà bây giờ chỉ có năm đồng thôi thì làm sao đây? Rốt cuộc chính tôi phải lén đi mượn tiền, không để cho người khác biết. Tiền mượn được cộng thêm năm đồng của Trương Ngọc Giai cho đủ hai mươi.

Trương Ngọc Giai không giữ lời hứa là vì bị các vị lão Pháp sư ấy dụ dỗ phan duyên thôi. Số tiền đó trước kia dự tính cúng dường cho chư Tăng Ni, nhưng lại dùng vào việc khác; vì thế tôi cũng không có trách anh ta, việc đó coi như đã qua đi. Lúc trước các thầy thuốc đều đoán anh ta sống không quá một trăm ngày, bây giờ quá một trăm ngày anh ta vẫn còn sống, đến lúc đó các vị Hòa thượng dụ dỗ phan duyên mới nói:

-A! Ðó là kết quả do chúng tôi bái sám cho anh đó!

Vị lão Pháp sư kia lại nói: "Ðó là do chúng tôi chí thành tụng kinh cho anh đấy!"

Một vị Pháp sư nọ lại nói: "À! Chúng tôi mỗi ngày cầu nguyện cho anh trước Ðức Phật đấy!"

Mỗi một vị Pháp sư đều có công hết! Lúc đó tôi không có chút công lao gì cả, tôi cũng không nói với anh ta vấn đề gì hết.

Qua sáu năm, Trương Ngọc Trai vẫn chưa chết, bấy giờ tôi đương cất chùa Từ Hưng ở núi Ðại Dự, Hồng Kông. Ngôi chùa này đại khái có thể chứa được trên hai trăm người. Nghe tôi cất chùa, với bổn phận là đệ tử, anh ta sai người đem một số tiền đưa cho tôi làm chùa. Tôi không thèm để mắt đến, cũng chẳng mở ra xem, cầm liệng ra ngoài cửa, nói với người ấy:

-"Số tiền này có được không chính đáng, không trong sạch, tôi không cần những thứ tiền này, anh hãy cầm về trả lại cho ông ấy!"

Người gia nhân đem tiền về lại, việc đó làm Trương Ngọc Giai sợ quá! Anh ta lại nhờ một vị lão Pháp sư dụ dỗ phan duyên lúc trước tên là Ðịnh Tây đến năn nỉ tôi và đưa tiền.

Tôi nói: "Bây giờ công trình làm chùa đã xong, tôi không cần tiền nữa. Anh ta có tiền, có thể làm những công đức phụ khác. Có biết bao nhiêu là chùa, bao nhiêu vị Pháp sư, anh ta thích làm gì thì cứ làm."

Vị lão Pháp sư ấy không tiện nói tiếp bèn trở về. Hai năm sau, vào tháng Giêng, tôi tuyên cáo với mọi người: "Trương Ngọc Giai quy y với tôi đã tám năm rồi, tôi vốn đợi anh ta thực hiện lời hứa, nhơn vì anh ta phát tâm cúng hai trăm ngàn Mỹ kim để làm chùa mà cho đến bây giờ vẫn chưa thực hiện. Tôi không đợi được nữa, về sau Trương Ngọc Giai có xảy ra bất cứ vấn đề gì, tôi cũng không biết đến."

Sau khi nói mấy câu đó, chưa đầy nửa năm, bịnh ung thư của anh ta tái phát. Khi sắp chết, anh ta lại sai người đến cầu xin tôi. Vì anh ta đến chùa khác lễ bái, làm các Phật sự đều không linh nghiệm, không có cảm ứng, nên mới lại tìm đến tôi. Nhưng tôi cũng không biết đến, tôi nói là tôi đã phát biểu không còn biết đến bất cứ việc gì của anh ta kia mà. Thế rồi mấy ngày sau anh ta chết. Kỳ lạ thay, Pháp sư Ðịnh Tây, người dụ dỗ phan duyên anh ta lúc trước, cũng mắc chứng ung thư, bịnh khoảng hơn một năm cũng chết. Lại còn có một vị cư sĩ theo lão Pháp sư móc nối Trương Ngọc Giai với Pháp sư Ðịnh Tây, cũng mắc bịnh ung thư mà chết. Vì thế có thể nói bọn họ ba người là nhất thể, sống thì cùng sống, và chết vì một chứng bịnh như nhau. Tại sao Trương Ngọc Giai lại bị chết như thế? Vì anh ta xô người bạn rớt xuống biển chết chìm. Người ấy lúc sống không biết niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, chắc chắn là sau khi chết làm oan hồn đến báo ứng khiến cho Trương Ngọc Giai sanh bịnh ung thư. Lẽ ra, Trương Ngọc Giai đã quy y Tam Bảo, nếu anh ta có lòng tin chân chánh thì cũng không phải chết. Nhơn vì lòng tin không vững chắc, dù cho không chết sau khi quy y một trăm ngày, nhưng tám năm sau cũng phải chết.

Hoặc ở đỉnh Tu Di
Bị người xô rớt xuống
Nhờ sức niệm Quán Âm
Như mặt nhật trên không.


Tu Di là tiếng Phạn, dịch là núi Diệu Cao, là núi cao lớn nhất trong vũ trụ. Ðỉnh Tu Di ở đây, không nhất định là chỉ đỉnh núi Tu Di, mà là chỉ chỗ rất cao. Nghĩa là giả sử quý vị đang ở trên đỉnh cao chót vót, cao như núi Tu Di vậy, mà bị người xô té xuống, ngay lúc ấy, nếu quý vị có thể niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì sẽ như mặt nhật trên không, tức như là mặt trời đang ở giữa hư không, không thể bị tổn hoại. Chẳng phải chỉ nói ở trên núi cao xô quý vị té chết, mà cũng có thể là có người bảo quý vị leo đến đầu thang, chờ lúc quý vị đến chỗ cao nhất, họ mới chặt phía dưới thang. Bây giờ quý vị muốn lên cũng không được mà muốn xuống cũng không xong; đó gọi là lên không lên, xuống không xuống, tình trạng rất là nguy hiểm.

Cũng như thế, giả sử mọi người đều cung kính quý vị, khen ngợi quý vị đến cực điểm, rồi sau lại không cung kính nữa, làm quý vị chới với như thể từ trên chót núi Tu Di té ngã xuống. Lúc bấy giờ nếu quý vị có thể niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì sẽ không có phiền não gì cả, giống như mặt trời ở giữa hư không chiếu sáng muôn dặm, không còn có chút phiền não gì, mà trái lại, rất thư thái, rất có định lực, khen chê đều không động tâm. Ðây cũng là một ý nghĩa khác của câu "Như mặt nhật trên không."

Hoặc bị người ác đuổi
Rớt xuống núi kim cương
Nhờ sức niệm Quán Âm
Chẳng tổn đến mảy lông.


Thế nào là người ác? Ðó là người không biết đạo lý, chuyên làm việc giết người, đốt nhà. Lý lẽ của họ là: "Của anh là của tôi, của tôi cũng là của tôi. Tiền của anh là của tôi, tiền của tôi lại là của tôi." Quý vị xem việc đó có đúng đạo lý không? Những người ác đó có cường quyền mà không có công lý. Họ chỉ dùng thế lực để hiếp đáp người khác mà không kể đến công lý là gì. "Rượt đuổi" là quý vị chạy đi đâu, họ cũng theo quý vị đến đó, luôn luôn canh chừng quý vị. Giả sử quý vị bị những người ác như thế rượt đuổi, nhơn một lúc sơ hở không cẩn thận, không chú ý, quý vị bị rơi vào vực sâu muôn trượng của núi kim cương. Nếu quý vị không niệm Bồ-tát Quán Thế Âm thì sẽ rớt vào trong khe núi, chắc chắn sẽ mất mạng, thậm chí xương thịt tan nát, toàn bộ da thịt gân xương đều nát nhừ như cám, không tìm thấy tử thi đâu cả. Nhưng nếu quý vị có thể niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì ngay đến một sợĩ lông cũng không bị hao tổn. Quý vị thấy có kỳ lạ không chứ! Núi kim cương biểu thị cho vách cao muôn trượng, cứng rắn phi thường, rắn chắc như là kim cương vậy. Khi gặp những sự nguy hiểm như thế mà quý vị có thể niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì nhất định có đại cảm ứng - Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ đến cứu độ quý vị, khiến cho việc rủi hóa may, gặp hung hóa cát, nguy mà không nguy, hiểm mà chẳng hiểm.

Hoặc gặp oán tặc vây
Cầm dao muốn gia hại
Nhờ sức niệm Quán Âm
Ðều liền khởi từ tâm.


Phía trước đềụ cập đến người ác là những người còn có chút kiêng dè, không phải là hại người công khai. Oán tặc nói ở đây chính là kẻ ngang nhiên đánh cướp của cải, giết người đốt nhà, không việc ác nào chẳng làm. Những gì chúng ta gặp phải đều có quan hệ nhân quả đời trước. "Oán tặc" chính là những người có oán hận với ta, hoặc là đời trước ta từng trộm cắp đồ vật của họ, hoặc giết hại họ, hoặc có điều không phải với họ, cho nên đời này mới gặp nhau liền biến thành oán tặc. Ấy gọi là: "Giết người phải thường mạng, thiếu nợ phải trả tiền." Quý vị giết người ta, người ta cũng sẽ giết lại quý vị; quý vị cướp của người, thì phải trả tiền lại cho họ. Tất cả mọi thứ đều có sự quan hệ liên đới.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi từng nêu lên một công án.

-Ngài nói: "Tôi đời đời kiếp kiếp giữ giới không trộm cắp, chưa từng trộm cắp đồ vật của ai, lấy gì để chứng minh? Tôi có thể lấy một hạt châu rất đắt tiền để ngay nơi cửa thành, không cần phải canh, mà ba ngày sau vẫn còn nguyên vẹn, không bị người lượm mất. Do đó có thể chứng minh rằng lời nói của tôi là thành thật."

Nhưng vẫn có người không tin, nên Ngài thí nghiệm thử. Ngài lấy một hạt châu quý đem ra cửa thành thả ở chỗ đông người, dễ thấy nhất. Quả nhiên ba ngày sau, hạt châu vẫn ở chỗ cũ, không bị người nhặt lấy. Ðó là do Ngài đời đời kiếp kiếp giữ giới trộm cắp rất thanh tịnh, cho nên mới có quả báo ấy.

Vì thế, chúng ta hiện đời nếu gặp oán tặc thì đành phải cam chịu; cho dù bị mất những thứ gì hoặc bị tổn thất gì, đều không cần phải quá buồn bã, mà phải vui vẻ đón nhận, không nên oán trời trách người.

Nhớ lại hồi ở chùa Nam Hoa tôi đã từng gặp phải nạn oán tặc. Năm nọ, trước vía Quán Âm - ngày 19 tháng 9 - một ngày, có rất nhiều thổ phỉ muốn đánh cướp chùa Nam Hoa. Bọn họ đập cửa ầm ầm, nhưng tôi không mở. Một lát cửa sau bị bọn thổ phỉ phá tung.

Lúc đó, trước sau và hai bên đều có thổ phỉ cầm súng chĩa về phía tôi, nói: "Muốn chết cho chết luôn." Có tên hét lên dọa đánh tôi. Nhưng lúc đó tôi không cảm thấy sợ hãi gì cả, nói chuyện với họ rất tự nhiên.

Tôi hỏi họ: "Tại sao các anh muốn đánh tôi?"

Họ hỏi vặn lại: "Tại sao ông không mở cửa?"

Tôi trả lời: "Giả sử anh là tôi, và tôi là anh, hẳn các anh cũng không muốn mở cửa! Tại sao thế? Vì các anh đến đây là để lấy đồ vật của tôi chớ không phải là tặng quà."

Nghe tôi nói thế, họ lại bảo: "Ðưa chi phiếu ra đây!"

Lúc đó tôi đương mặc một chiếc áo tràng vá nát, tôi nói: "Các chú xem chiếc áo tôi đang mặc đây này, thì cũng biết tôi là người có chi phiếu không?"

Chúng nhìn qua một lượt, lại hỏi: "Vậy ở đây ai có tiền hả?"

Tôi nói: "Tôi là Giáo thọ của Phật học viện này, các vị kia đều là học sinh cả. Tôi làm Giáo thọ mà không có tiền, thì học sinh làm gì có tiền? Nếu mấy chú không tin thì cứ vào phòng tôi xem thử. Nếu thấy có vật gì đáng giá hoặc có bảo bối gì thì cứ cầm lấy!"

Lúc ấy trong phòng tôi thậảt ra có hai món bửu bối, mà lại là hai bửu bối "sống." Ấy là một chú Sa-di và một vị Pháp sư. Hai người này khi nghe thổ phỉ đến kêu cửa, thì tay chân bủn rủn, sợ đến nỗi đi không được, bò đến chỗ tôi nói:

-"Pháp sư ơi, làm sao bây giờ? Tôi sợ quá đi mất!"

Tôi nói: "Không sao đâu! Quý vị cứ vào phòng tôi, chui đại xuống gầm giường trốn là được!"

Bấy giờ tôi lại bảo bọn thổ phỉ đi vào phòng xem cái gì lấy được thì lấy, cả hai người sợ đến phát run lẩy bẩy, răng đánh vào nhau cầm cập! Rốt cuộc bọn thổ phỉ lại không vào phòng tôi. Ngay lúc đó, có vị Pháp sư thấy tôi nói chuyện với bọn thổ phỉ có vẻ thân thiện, cũng từ trong phòng bước ra định góp chuyện.

Thầy vừa bước ra, bọn thổ phỉ thật lạ lùng, vội bước lên chĩa súng vào người, vây quanh đòi đánh, làm Thầy sợ hãi đến phát khóc. Lúc đó trong lòng tôi rất khó chịu, tôi nói:

-"Ông ấy cũng không có tiền đâu, các ông muốn tiền thì cứ đòi ở tôi đây nè!"

Nhưng bọn thổ phỉ không để ý gì đến tôi, cứ theo ông ta đòi tiền. Ông ta nói:

-"Hãy vào phòng tôi mà lấy!"

Nói rồi dẫn bọn thổ phỉ đi lấy hơn hai trăm đồng. Có lẽ là tiền dành dụm được trong bao nhiêu năm, cuối cùng rơi vào tay thổ phỉ.

Qua ngày hôm sau, vị Pháp sư ấy nói với các Tăng sinh rằng:

-"Ở chùa Nam Hoa có hơn hai trăm người mà chỉ có vị Pháp sư này là không biết sợ thôi."

Tôi mới nói với các vị ấy: "Không phải chỉ mình tôi đâu, trong chùa có đến bốn vị không biết sợ đấy."

Vị thứ nhất là ai?

-"Là Lục Tổ Ðại sư, Lão tăng nhập định ngồi ở đó như như bất động. Thổ phỉ đến là việc của họ, họ cướp cái gì thì cướp, Ngài không để ý đến.

-"Người thứ hai là Hám Sơn Ðại sư, Ngài cũng ngồi như lão tăng nhập định, yên lặng không lay động.

-"Người thứ ba là Ðan Ðiền Tổ sư, Ngài không có đại định lực như Lục Tổ và Hám Sơn Ðại sư, còn ngước đầu lên (vì nhục thân của Ngài lưng hơi còng) nhìn bọn thổ phỉ.

-"Người thứ tư mới đến lượt tôi."

"Hoặc gặp oán tặc vây; Cầm dao muốn gia hại; Nhờ sức niệm Quán Âm; Ðều liền khởi từ tâm." Khi gặp bọn oán tặc tôi không sanh tâm lo sợ, mà rốt cuộc bọn thổ phỉ ấy không đánh cũng không bắn tôi gì cả. Tại sao thế? Vì lúc đó tôi đã niệm Bồ Tát Quán Thế Âm; ban đầu họ đối với tôi rất hung dữ, nhưng thấy tôi là một ông thầy tu rách rưới, mới nghĩ: "Ông thầy tu này thiệt đáng thương!" nên phát khởi lòng từ bi mà không gây phiền phức cho tôi.

Hoặc bị khổ phép vua
Sắp bị đem hành hình
Nhờ sức niệm Quán Âm
Dao gãy vụn từng đoạn.


Phép vua thì không vị nể nhân tình. Nếu phạm phải phép vua thì bị chém đầu. Nhưng cũng có người không phạm mà bị bắt chém đầu là do bị vu cáo; do đó, luật pháp của quốc gia có lợi ích cho người mà cũng có khi làm hại người. Lợi ích là bởi có thể trừng phạt những người phạm tội, còn có hại là đối với những người không phạm pháp mà bị người vu khống. Ví như có người làm chứng giả, nói:

"Anh ta làm những việc xấu xa như thế, chính mắt tôi thấy đây!"

Thế rồi các quan tòa cũng không kể là "ba bảy hăm mốt," phán quyết ngay là người ấy có tội, bắt đem chém đầu, nhưng thực ra đương sự không có làm những việc phạm pháp ấy. Luật sư không chánh nghĩa, người phạm pháp rõ ràng có thể biện hộ cho họ thành vô tội, còn người rõ ràng không có tội, lại chứng minh là có tội. Quý vị xem trên thế giới này, muốn tìm được chân lýụ thì tìm ở đâu chư? Trên thế gian này thực ra không có chân lý mà chỉ có cường quyền thôi. Muốn tìm chân lý thì phải tìm ở trong Phật giáo. Cho nên, quý vị hoặc có tội, hoặc không tội, mà vướng phải luật pháp, lúc sắp bị hành hình, trong thời gian ngắn ngủi ấy (chỉ e rằng quý vị sợ quá đến nhũn người đi rồi quên tất cả thôi) nếu quý vị không quá sợ hãi, vẫn nhớ niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, thì ngọn dao sắp chém đầu quý vị sẽ tự nhiên gãy vụn thành từng đoạn, chứng tỏ rằng cổ của quý vị cứng hơn kim cương cho nên dao mới gãy nát như vậy. Nhưng nếu quý vị có lòng hoài nghi, cố ý phạm tội, thì đầu quý vị nhất định bị rơi rụng. Ðó là vì đối với Bồ Tát Quán Thế Âm, quý vị không có lòng tin, chỉ muốn thử nghiệm, thì đương nhiên không thể có cảm ứng được. Nếu có lòng tin chân chánh thì tất cả mọi việc đều có cảm ứng.

Hoặc tù cấm già tỏa
Tay chân bị xiềng xích
Nhờ sức niệm Quán Âm
Bỗng nhiên được giải thoát.


Thế nào gọi là tù? Theo chữ Hán, tù (囚) tức là người (人) bị nhốt trong bốn bức tường (口). Cấm là ngăn cấm không được tự do. Già nghĩa là cái gông. Phạm nhân chẳng những bị nhốt vào trong ngục mà còn phải mang gông nữa. Cái gông là gồm hai miếng gỗ kháp lại, ở giữa có khoét một lỗ hổng vừa đủ rộng để mang vào cổ và có thể khóa lại để tội nhân không thể nào trốn được. Tỏa tức là xiềng cùm chân, xích khóa tay.

Như tôi từng nói, phàm người có gia đình phải nên sớm giác ngộ, chớ để cho ba việc lớn giam hãm. Ba việc ấy là gì? Cha mẹ ví như cái gông mang trên cổ, con cái thì như cái còng tay. Ðừng cho rằng có con cháu là thích ý, loại còng này một khi mang vào thì cởi không ra. Có vợ thì không khác nào bị xiềng chân lại, cũng không được tự do.

Hôm nay, có một người đệ tử, nói thế này:

-"Tôi mượn của chánh phủ hơn hai ngàn đồng, nếu bây giờ muốn xuất gia thì hai ngàn đồng này không thể trả được, cho nên trước hết phải đi làm để trả xong hết nợ rồi mới quyết định xuất gia được."

Anh ta nói thiệt hay giả tôi không cần biết, tôi chỉ xin nói trước với mọi người là có thể khi anh ta trả hết nợ rồi thì chân lại bị mắc vào một thứ cùm nào đó, nhưng tôi hy vọng là anh ta sẽ không mang cùm để có thể làm một vị nhân thiên sư biểu của nước Mỹ. Tôi đem việc này nói với mọi người đểạ ai nấy cùng cầu nguyện, chúc anh ta được thành công sớm làm lãnh tụ Phậât giáo nước Mỹ.

Hiện tại nước Mỹ rất cần người xuất gia, hễ có ai muốn xuất gia, bất luận trước kia họ là người như thế nào, tôi đều nhiệt liệt tán thán, chỉ cần sau khi xuất gia họ có thể tuân giữ quy củ là được. Tôi tận lực đào tạo hàng Trưởng lão cho nước Mỹ, nhưng tự họ không theo kịp vì không có căn bản, rễ chưa bám sâu. Tuy nhiên, tôi mong muốn vun bồi để trong giới Phật giáo nước Mỹ, mỗi người xuất gia đều là một vị Trưởng lão, thậm chí là một Tổ sư của đạo Phật ở nước Mỹ.

Tay chân một khi bị hình cụ trói buộc, mất hết tự do thì phải làm sao? Chỉ cần niệm Bồ-tát Quán Thế Âm thì tự nhiên được giải thoát.

Trước đây ở Trung Hoa có một vị Hòa thượng bị dân tộc miền núi (người Dao) bắt được, trói lại nhốt trong phòng. Dân ở đây tánh tình rất dã man, chuyên môn bắt người Hán giết để ăn thịt. Vị Hòa thượng này lúc bình thường rất tin tưởng Bồ Tát Quán Thế Âm, cho nên lúc đó ngài không hề sợ hãi, chỉ nhất tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Ông cứ niệm, niệm mãi, kết quả có một con hổ đến phòng giam của ngài phá tung cửa để ngài tự do trốn thoát. Găẽp cảnh nguy hiểm như thế mà lại có thể hóa nguy thành an, cho nên niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm được sự ứng nghiệm không thể nói hết được.

Chú trớ, các thuốc độc
Muốn hại đến thân đó,
Nhờ sức niệm Quán Âm
Người gây lại gánh chịu.


Chú là niệm chú; Trớ cũng giống như chú. Chú có rất nhiều thứ, Mật tông có nhiều chú nhất. Các vị Lạt-ma ở Tây Tạng có một loại chú, chỉ cần niệm trong bảy ngày là có thể khiến người khác chết được. Có thứ chú giết người, có thứ chú làm lợi ích cho người. Chú nói ở đây là thứ chú hại người. Các thuốc độc là chỉ chung cho tất cả các loại thuốc độc. Khi quý vị gặp phải những loại chú trớ, thuốc độc làm phương hại đến cơ thể, trong tình cảnh đó, nếu quý vị nhất tâm niệm: "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát," thì những chú trớ cùng thuốc độc này chẳng những không thể làm hại được quý vị mà còn trở lại làm hại chính hung thủ.

Xưa kia ở Trung Hoa có một người chuyên môn đoán quẻ và đoán rất đúng. Do đâu mà người ấy đoán được linh diệu như thế? Vì trong thân người ấy có yêu quái ma quỷ giúp đỡ. Thứ ma quỷ này mỗi năm ăn một đứa đồng nam và một đứa đồng nữ, do đó ông thầy bói toán này mỗi năm đều phải bắt cóc một đứa bé trai và một đứa bé gái để cúng tế ma quỷ ấy. Năm đó, ông ta bắt được một đứa bé gái mà ở nhà thường được dạy niệm Quán Thế Âm Bồ-tát. Ðương lúc bị nhốt trong phòng để chờ ma quỷ đến ăn thịt, đứa bé ấy liền niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Một lát sau, ma quỷ đến và đứng ngoài cửa sổ nhìn vào. Từ mắt của quỷ phóng ra hai luồng ánh sáng chiếu thẳng vào người đứa bé. Ðứa bé ấy nhơn miệng niệm Bồ-tát Quán Thế Âm nên từ trong miệng nó cũng phóng ra một luồng ánh sáng. Bỗng nhiên đứa bé cảm thấy có một cái gì thật lớn từ trên nóc nhà rớt xuống. Ngỡ là yêu quái đến sắp ăn thịt mình, đứa bé sợ quá kêu toáng lên. Ðúng lúc ấy, bên ngoài có vị quan đi tuần đêm vừa tới, nghe thấy trong nhà có tiếng con nít kêu khóc cầu cứu bèn phá cửa xông vào, và phát hiện xác một con đại mãng xà. Con đại mãng xà này chính là loại Ma-hầu-la-già (Maharaga).

Kết quả là người bói toán ấy bị quan phủ bắt, và thẩm vấn: "Tại sao ông bắt bé gái ấy nhốt trong đó?"

Ông ta đáp: "Tôi được một vị tiên giúp tôi bói toán, vị tiên ấy mỗi năm phải ăn một bé trai và một bé gái. Mấy năm nay tôi đều cúng tế như vậy, nhờ thế vị tiên ấy giúp tôi bói toán rất linh nghiệm, kiếm được rất nhiều tiền."

Thế rồi ông ta bị bắt giam vào ngục, xử phạt theo pháp luật. Vị thầy bói ấy bói toán rất linh nghiệm, nhưng không tính được kết cuộc của chính mình là bị luật pháp trừng phạt và chém đầu răn chúng.

Ðó là một thí dụ về: "Chú trớ, các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, nhờ sức niệm Quán Âm, người gây lại gánh chịu." Cho nên, hại người rốt cuộc là hại chính mình vậy!

Câu "Người gây lại gánh chịu," ngày xưa Tô Ðông Pha đã từng sửa là "Hai bên đều vô sự." Ông ta cho là Phật giáo rất trọng lòng từ bi, nếu nói "Người gây lại gánh chịu" tức là làm hại chính người ấy thì há chẳng phải là thiếu từ bi sao? Câu sửa của ông ta có ý nói: Người niệm chú trớ và người bị trù ếm thảy đều bình an vô sự. Kỳ thật, ý đó là sai lầm. Tại sao thế? Phật giáo tuy dạy giới sát, phóng sanh, nhưng mà "trừ bạo để được an lành." Trừụ ác chính là một mặt của thiện. Giả như không trừ người ác, họ sẽ làm hại đến người lương thiện.

Nếu họ trù ếm, hay dùng thuốc độc hại người mà kết cuộc họ không bị hề hấn chi, há không phải là khuyến khích cho họ sao? Họ không hại được người, nhưng trước sau vẫn có ý muốn hại người. Họ hại không được người này thì lại có ý muốn hại người khác, mà người khác ấy nếu không biết niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì có thể bị chết vì họ! Nếu biết niệm, dĩ nhiên họ hại không được rồi; nhưng người không biết niệm Bồ Tát Quán Thế Âm lại rất nhiều, nên nói "Hai bên đều vô sự" thì không đúng, phải là "Người gây lại gánh chịu" mới không lầm lẫn. Phải khiến cho người ác tự họ chịu đựng một ít khổ, họ nhận lấy quả báo ấy cũng là xứng đáng, để về sau họ tự nhiên không dám hại người nữa.

Hoặc gặp ác La-sát
Rồng độc các quỷ dữ
Nhờ sức niệm Quán Âm
Thảy đều không dám hại.


Hoặc là quý vị đến nơi núi hoang rừng vắng, chỗ không có bóng người, và gặp phải quỷ La-sát, rồng độc, hay các loài quỷ khác. Quỷ La sát hung dữ phi thường, giống như người Dao ở Trung Hoa chuyên môn ăn thịt người vậy. Rồng độc cũng có thể hại người. Chúng thường chiếm cứ một vùng, hoặc trong ao hồ, hoặc ở sông lớn, hễ có người đi qua chỗ ở của chúng thì bị chúng phun nọc độc, trúng vào phải chết. Có thứ rồng độc lớn, thậm chí hớp một hơi có thể khiến cả thuyền và người đều chạy tuốt vào bụng, thật là lợi hại! Còn quỷ, thì chẳng phải chỉ có một thứ mà có rất nhiều, như Ða tài quỷ, Thiểu tài quỷ, Vô tài quỷ v.v... "Ða tài quỷ" như là các vị Thổ địa, Thành hoàng. Họ tuy đều là quỷ, nhưng là thủ lãnh của quỷ, cũng như Quỷ vương vậy. "Thiểu tài quỷ" là quỷ nghèo, dù cho có tiền cũng có rất ít. "Vô tài quỷ" thì thực sự là không có tiền của chi cả. Vậy thì, quỷ mà còn dùng tiền sao? Thật ra quỷ không cần dùng tiền, nhưng do tập quán xấu cho nên bọn Ða tài quỷ khi cai quản những quỷ khác cũng tham ô. Thiểu tài quỷ, Vô tài quỷ cũng giống như người ta vậy, suốt ngày từ sáng tới tối đều mong muốn có thêm được tí tiền. Tuy không cần dùng tiền, nhưng vì bọn họ chấp trước thành thói quen, thành một thứ mê muội, cho nên mới ưa thích tiền. Tiền họ dùng là tiền giấy, ở Trung Hoa người ta thường đốt giấy tiền cho quỷ chính là muốn mua chuộc, lấy lòng bọn quỷ.

Nếu quý vị gặp những quỷ La-sát, rồng độc hoặc các thứ quỷ thần ấy, quý vị có thể niệm Bồ-tát Quán Thế Âm thì những ác quỷ ấy tự nhiên trốn mất. Tại sao thế? Tại vì khi quý vị niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, trong miệng có phát ra ánh sáng, tất cả những loài quỷ đều sợ ánh sáng nên không thể làm hại quý vị được.

Hoặc ác thú vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Nhờ sức niệm Quán Âm
Ðều vội vàng bỏ chạy.

Ác thú tức là lang sói, hổ, beo, những dã thú này chuyên môn ăn thịt người. Ở các núi của nước Mỹ không có hổ, nhưng ở Trung Hoa và Ấn Ðộ thì hổ rất nhiều. Lúc nhỏ, có lần tôi đi vào trong núi, đi 5, 6 ngày trời vào chỗ không có người ở, có gặp những ác thú ấy. Nhưng tôi rất lấy làm lạ là không biết tại sao chúng không ăn thịt tôi. Răng của ác thú bén nhọn như dao, móng vuốt cứng chắc như móc sắt. Ðương khi quý vị gặp những ác thú vây quanh như thế mà biết niệm ngay Bồ-tát Quán Thế Âm, thì bọn chúng chẳng những không dám làm hại quý vị mà còn bỏ chạy tức khắc. Tại sao lại bỏ chạy? Vì Bồ-tát Quán Thế Âm có sức cảm ứng linh thiêng (linh cảm) khiến cho bọn chúng một khi nhìn thấy quý vị, tự nhiên sanh lòng sợ hãi, lật đật trốn chạy xa.

Ngoan xà và phúc yết
Khí độc xông mịt mù
Nhờ sức niệm Quán Âm
Theo tiếng tự bỏ đi.


Ngoan xà là một thứ rắn độc, phần lớn màu đen. Phúc, ở Trung Hoa gọi là Diên xà (rắn mối), thường thấy ở trên diềm mái nhà. Thứ rắn này rất nhiều ở Thái Lan, thường xuất hiện vào buổi tối và ré lên, cũng không sợ người. Nó có bốn chân nhỏ, thường chạy tới chạy lui ở trên mái nhà.

Phúc xà là loại rắn rất độc. Yết tức là bò cạp, nếu ai bị nó đốt thì có thể trúng độc lập tức chết ngay. Bọn chúng đều có khí độc xông mịt mù, thật là độc dữ vô cùng! Thậm chí làm cho người mất mạng như chơi. Dù gặp phải những loại rắn độc như thế, nếu bọn chúng nghe tiếng quý vị niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát" thì sẽ đều tự động chạy trốn mất, không dám tác oai, tác quái nữa.

Mây sấm điện chớp giăng
Tuôn mưa đổ như trút
Nhờ sức niệm Quán Âm
Tức thời được tạnh yên.


Trên trời thường có các thứ tai hại như mây sấm chớp nháng hoặc mưa đá xối xả. Có những lúc mưa đá lớn bằng nắm tay, có khi lớn bằng trứng gà, có khi hạt mưa nặng đến mấy mươi cân, thậm chí mưa rơi trúng mình trâu, trâu té chết ngay. Nếu rơi trúng thân người, chẳng cần phải nói, hậu quả cũng có thể đoán được. Hoặc lúc mưa gió to ấy, nếu quý vị có thể niệm Bồ-tát Quán Thế Âm thì không lâu sau, những hiện tượng ấy sẽ nhanh chóng ngưng bặt, không còn nữa.

Chúng sanh bị khổn ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian.


Chúng sanh tức là do các duyên hòa hợp mà sanh ra. Lại nữa, chúng sanh có ngàn trăm vạn loại khác nhau, cho nên gọi là chúng sanh. Cũng có thể giải thích: "Chúng sanh," chính là sanh ra rất nhiều. Quý vị thấy chữ "chúng" (眾) của Trung Hoa, ở trên là chữ "tứ" (四), ở dưới là ba chữ "nhân" (人), ba người hợp lại một chỗ gọi là "chúng." Loài rắc rối nhất trong chúng sanh là loài nào? Chính là "nhân" (loài người). Con người cần phải mặc áo, phải ăn cơm, phải làm việc, biết bao nhiêu là phiền phức, không kể hết! Nhưng loài có đầy đủ trí tuệ cũng lại là loài người. Những loài súc sanh tuy chẳng có biết bao phiền phức đó, nhưng chúng lại quá ngu si, không có trí tuệ như con người, nên phải bị con người sai khiến và chi phối.

Ở Trung Hoa có câu: Nhân vi vạn vật chi linh.

Người là vật thông minh nhất trong vạn vật. Nhưng thông minh nhất có lúc cũng lại làm việc ngu si nhất, lại tự gây phiền phức cho mình, chính mình đánh nhau với mình. Thế nghĩa là sao? Tức là lúc "bị khổn ách." Chữ "khổn" này hàm ý:

Thiên hạ bổn vô sự, dung nhơn tự nhiễu chi

(Thiên hạ vốn bình yên, kẻ khờ tự khuấy động)

vì thế mới có vô lượng nỗi khổ. Không có cơm ăn là khổ, không có áo mặc cũng khổ, không có nhà ở cũng khổ, biết bao nhiêu là khổ, kể mãi không hết! Suốt ngày vì áo, cơm, nhà ở; cả đời vội vội vàng vàng vì tìm kiếm sự ăn mặc, thậm chí cướp cái này giựt cái nọ chỉ để duy trì sinh mạng cho chính mình. Tại sao phải duy trì sinh mạng cho chính mình? Cũng nhân vì bị "khổ" bức bách, kết quả phải chiêu lấy vô lượng khổ bức thân!

Bồ-tát Quán Thế Âm có sức trí tuệ vi diệu bất tư nghì, có thể cứu giúp mọi khổ nạn của thế gian; vì thế chúng ta làm người, gặp bất cứ sự việc không vừa ý nào, chẳng cần phải lo rầu khổ não, chỉ cần niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thì mọi vấn đề đều có thể từ từ giải quyết. Chỉ cần quý vị có lòng thành đối với Ngài thì Bồ-tát Quán Thế Âm chắc chắn sẽ đến giúp đỡ quý vị ngay.

Ðầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không chỗ nào chẳng hiện.


Sức thần thông là gì? Thần thông gồm có sáu loại.

-Thứ nhất là Thiên nhãn thông. Với Thiên nhãn, quý vị có thể thấy được những động tác của các thiên nhân ở cõi trời Tam thập tam (Ðao Lợi).

-Thứ hai là Thiên nhĩ thông. Với Thiên nhĩ, quý vị có thể nghe thấy tất cả âm thanh của mười phương thế gian trong loài người cũng như ở cõi trời.

-Thứ ba là Tha tâm thông, khả năng biết được ý nghĩ của người khác.

-Thứ tư là Túc mạng thông, khả năng biết rõ nhân quả các đời trước.

-Thứ năm là Thần túc thông, cũng gọi là Thần cảnh thông, tức là khả năng bay đi, biến hóa một cách tự tại.

-Thứ sáu là Lậu tận thông.

Thứ thần thông này không dễ gì đạt được. Tất cả quỷ thần đều có năm thứ thần thông đầu, chỉ riêng Lậu tận thông này là họ không có được. Bồ Tát Quán Thế Âm có đầy đủ trọn vẹn sáu thứ thần thông này, nên gọi nói là "Ðầy đủ sức thần thông."

Rộng tu trí phương tiện, do chữ "rộng" này mà biết Ngài không phải chỉ tu một pháp môn, mà còn tu các pháp môn khác nữa. Giống như chúng ta bây giờ không chỉ nghe kinh, mà cũng học Phật pháp, học Hán văn, lại học chú Lăng Nghiêm, chú Ðại Bi; chú Lăng Nghiêm, chú Ðại Bi học xong rồi lại đến Ðại Bi sám. Ðại Bi sám mà chưa hiểu rõ, lại phải học nữa! Ấy gọi là "học không chỗ dừng, chỉ siêng đến bến." Chúng ta phải nên học tập theo tinh thần "rộng tu trí phương tiện" khi tu nhơn của Bồ Tát Quán Thế Âm mới được. Ở các quốc gia trong mười phương, không có một nước nào mà Bồ Tát Quán Thế Âm không hiện đến. Bất cứ chỗ nào cũng đều hiện đến, nên Bồ Tát Quán Thế Âm đối với tất cả chúng ta đều có duyên. Chỉ cần ai chịu niệm danh hiệu của Ngài thì Ngài sẽ bảo hộ người ấy. Nếu không niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì sao? Ðương nhiên là Ngài đành sẽ bỏ mặc quý vị thôi! Tại sao thế? Vì quý vị và Ngài không có chút quan hệ nào cả! Ngay cả danh hiệu của Ngài quý vị cũng không muốn biết, cũng không muốn niệm, Ngài bèn nói:

-"À, nó không muốn làm bạn với ta, ta cũng không nên để ý tới những việc không đâu của nó."

Nếu muốn làm bạn với Bồ Tát Quán Thế Âm, thì phải niệm cho nhiều "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát." Một khi quý vị niệm danh hiệu Ngài, thì Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ nói:

-"À, ta lại có thêm một người bạn nữa. Ðược! Người bạn mới này của ta nếu có việc gì, ta sẽ đến giúp đỡ."

Có người muốn biết Thiên nhãn thông làm sao chứng được. Có rất nhiều phương pháp. Quý vị chuyên tâm tụng chú Lăng Nghiêm cũng có thể được Thiên nhãn thông; hoặc quý vị tụng chú Ðại Bi và tập theo bốn mươi hai Thủ Nhãn của Ðại Bi Pháp, cũng có thể được Thiên nhãn. Quý vị cố thức để học tập Phật pháp, cũng có thể được Thiên nhãn thông, nhưng phương pháp ấy rất nguy hiểm, tôi hy vọng là mọi người sẽ không áp dụng. Tại sao thế? Quý vị có lẽ còn nhớ là khi tôi giảng Kinh Lăng Nghiêm, có đề cập đến Tôn giả A-na-luật, vị đại đệ tử mà chuyên môn ngủ gật. Về sau Ngài bị Phật quở là:

-"Ái chà ngủ nghỉ hoài, như ốc sên sò hến, ngủ suốt cả ngàn năm, không nghe được tên Phật."

Nghe Phật trắch như thế, Ngài nức lòng ra sức dụng công, không ngủ nữa. Liên tục không ngủ suốt bảy ngày đêm, cặp mắt Ngài bị mù. Ðức Phật thương tình mới dạy Ngài tu Kim Cang Chiếu Minh Tam Muội, kết quả Ngài được tôn là Thiên nhãn bậc nhất.

A-na-luật là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Vô Bần (không nghèo). Tại sao Ngài có tên này? Vô lượng kiếp quá khứ về trước Ngài là một người mới phát tâm Bồ-đề, dù chưa làm đệ tử của Phật nhưng đã biết ý nghĩa của bố thí. Bấy giờ, Ngài là một người nông phu rất nghèo khổ. Gần nhà Ngài, ởụ trên sườn núi có một vị Tỳ-kheo đã chứng quả Bích-chi Phật cư ngụ. Vị Tỳ-kheo già này cứ cách bảy ngày mới xuống núi hóa trai một lần, mỗi lần chỉ hóa trai ở bảy nhà thôi, tuyệt đối không hơn nữa; nếu bảy nhà đều bố thí cả thì mới đủ ăn trong bảy ngày; nếu như có một nhà không bố thí thì ngày ấy nhịn đói. Dù hóa duyên không được gì cả thì vẫn qua bảy ngày sau mới xuống núi lần nữa.

Có một hôm anh nông phu ấy ra ruộng, và mang theo phần cơm chuẩn bị cho bữa ăn sau khi cày xong, thì thấy vị Tỳ kheo nghèo ấy xuống núi hóa duyên mà không xin được thứ gì cả, bèn nảy sinh lòng bố thí. Anh ta suy nghĩ rằng:

-"Hôm nay mình đừng ăn cơm, để đem cơm này cho vị Tỳ kheo nghèo ấy đỡ lòng!"

Anh nông phu ấy hoàn toàn không biết vị Tỳ-kheo già kia là bậc Thánh nhơn chứng quả Bích-chi Phật, nhưng vị Tỳ-kheo già lại có Tha tâm thông, sau khi quan sát nhân duyên mới nghĩ:

-"À, ta đã biết tại sao anh ta đem cho ta thứ cơm hẩm này rồi? (Ðó là một thứ cơm nấu bằng một thứ gạo xấu và rẻ tiền nhất mà người nghèo khổ mới ăn). Thì ra anh ta không có tiền, mỗi ngày phải ăn thứ cơm này đây. Hôm nay biết ta hóa trai không được gì cả, mới đem bố thí cho ta, công đức này thật không thể nghĩ bàn."

Vị Bích-chi Phật rất hoan hỷ, khen ngợi người nông phu:

-"Như thị, như thị! Anh đã cúng dường bằng tấm lòng rất chân thật."

Nói xong, vị Tỳ-kheo đi trở về núi.

Sau đó một thời gian, anh nông phu thấy có một con thỏ chạy về phía mình, đột nhiên nhảy lên vai anh ta và đeo dính cứng, gỡ không ra. Sợ quá, anh ta lật đật chạy về nhà tìm cách gỡ thỏ xuống. Khi gỡ ra được, anh ta nhìn kỹ lại thì là con thỏ bằng vàng. Anh ta mới cắt một khúc chân của thỏ đem bán đổi lấy tiền. Về sau coi lại, thấy chân của thỏ đã mọc lại như cũ. Nhờ thế anh ta phát tài, từ đó về sau, đời đời kiếp kiếp đều có của tiền dư dả, không hề thiếu thốn nữa. Ðó là do anh ta cúng dường vị Bích-chi Phật với tâm chơn thật, cho nên mới được quả báo to lớn như thế; đời đời kiếp kiếp đều được "Vô Bần," không còn nghèo túng nữa. Ðó là lý do vì sao Tôn giả A-Na-Luật được gọi là "Vô Bần."

Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói:

"Cúng dường một trăm người làm ác, không bằng cúng dường một người làm lành.

"Cúng dường một ngàn người làm lành, không bằng cúng dường một vị cư sĩ thọ trì ngũ giới.

"Cúng dường mười ngàn cư sĩ thọ trì ngũ giới, không bằng cúng dường một vị Sa-di thọ trì mười giới.

"Cúng dường một trăm ngàn vị Sa-di không bằng cúng dường một vị Tỳ-kheo.

"Cúng dường một triệu vị Tỳ-kheo cũng không bằng cúng dường một vị chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn.

"Cúng dường mười triệu vị Tu-đà-hoàn không bằng cúng dường một vị chứng Nhị quả Tư-đà-hàm.

"Cúng dường một trăm triệu vị Tư-đà-hàm không bằng cúng dường một vị chứng Tam quả A-na-hàm.

"Cúng dường một trăm tỷ vị A-na-hàm không bằng cúng dường một vị chứng Tứ quả A-la-hán."

Nhưng, quý vị cúng dường vô số không đếm được vị A-la-hán cũng không bằng cúng dường một vị vô tu vô chứng.

Bậc vô tu vô chứng là ai? Ðó là Phật. Thế mà quý vị cúng dường hằng hà sa số đức Phật vẫn không bằng cúng dường một vị vô tâm Ðạo nhân.

Tôn giả A-na-luật cúng dường một vị Bích-chi Phật mà được đời đời kiếp kiếp không nghèo khổ, lại giàu có phi thường - chẳng làm Thái tử con vua thì cũng làm con của một nhà giàu sang trên toàn thế giới. Cho nên chúng ta muốn đời đời kiếp kiếp khỏi phải nghèo khổ thì hãy cúng dường Tam Bảo, tương lai sẽ có cơ hội được giàu sang. Nhưng khi quý vị giàu sang thì lại có vấn đề khác.

Ðó là:

"Bần cùng bố thí nan, phú quý học đạo nan"

(Nghèo hèn bố thí khó, giàu sang học đạo khó)

Ngài A-na-luật tại sao lại được giàu có? Bởi vì Ngài đang nghèo khổ mà lại có thể bố thí, hy sinh phần cơm trưa của cá nhân mình để cúng dường Tam Bảo - nhờ một niệm chân thật mà được vô lượng phước báo. Thông thường người nghèo chính mình còn ăn không đủ no, nếu đem bóá thí thì không có gì để ăn nữa, cho nên nói "bố thí khó."

Còn giàu sang thì sao? Thì "học đạo khó." Những người giàu sang có tiền, quý vị kêu họ đi học Phật pháp họ không đời nào chịu đâu! Ðó là hai trong hai mươi thứ khó [xin xem Kinh Tứ Thập Nhị Chương] chúng ta cần nên chú ý.

Các loài trong đường dữ
Ðịa ngục, quỷ, súc sanh
Khổ sanh già bịnh chết
Lần đều khiến dứt sạch.


Ðường dữ (evil destinies) hay ác đạo chính là những nơi bất thiện, và chẳng phải chỉ có một mà có rất nhiều.

Tổng quát thì có bốn loài là:

-A-tu-la,

-ngạ quỷ,

-súc sanh,

-địa ngục.

A-tu-la thì như trước đã giải thích rồi, họ chính là đấu tranh kiên cố; những loại chúng sanh thích đấu tranh đều thuộc vào A-tu-la. Ðịa ngục do đâu mà có? Ấy là do nghiệp chướng của mỗi cá nhân chúng ta mà hình thành. Quý vị tạo tội ác gì thì sẽ có địa ngục tương ứng với tội ác đó hiện ra. Ðịa ngục lại chia ra rất nhiều thứ.

Kinh Ðịa Tạng nói:

"Ngục lớn có mười tám, kế đó có năm trăm ngục nhỏ, lại có hàng ngàn trăm vô lượng vô biên địa ngục."

Ðịa ngục có phải giống như nhà tù ở thế gian không? Do người ta làm ra cái nhà rất chắc chắn, chờ khi có người phạm tội thì đem nhốt vào đó chăng? Không phải thế! Ðịa ngục là do tội ác của mỗi cá nhân mà hiện ra. Quý vị tạo ác nghiệp sát nhân thì sẽ có địa ngục sát nhân hiện ra; tạo tội ác đốt nhà thì sẽ có địa ngục đốt nhà hiện ra. Bởi tạo ác nghiệp gì thì sẽ có địa ngục đó hiển hiện, vì thế chủng loại địa ngục không có nhất định. Ðến khi trả nghiệp xong rồi thì địa ngục ấy sẽ tự biến mất. Nghiệp chưa hết thì địa ngục vẫn còn.

Tại Mãn Châu nơi sinh quán của tôi, ở huyện Du Thọ có vị "Lưu tiên sinh tay heo," ông ta có thể nhớ được việc trong ba đời trước của mình.

Ðầu tiên, ông ta là một người con có hiếu đối với cha mẹ, sau đó được đầu thai làm con nhà giàu. Cha ông ta hơn bốn mươi tuổi mới sanh được đứa con trai là ông. Ðến năm ông ta mười ba tuổi, cha mẹ cưới cho ông một cô vợ lớn hơn ông một hay hai tuổi. Cha ông ta tuy đã trên năm mươi nhưng vẫn còn cường tráng lại cưới thêm một cô vợ lẽ, cô vợ này suýt soát tuổi con dâu. Lưu tiên sinh có vợ không đầy hai năm, sanh được một đứa con trai. Ðợi cho con mình mười ba tuổi, ông ta lại cưới vợ cho con, cô con dâu lại lớn hơn con ông mấy tuổi. Chẳng bao lâu, cha mẹ ông ta lần lượt qua đời, chỉ còn lại người vợ lẽ của cha ông thôi. Ông ta thấy bà vợ lẽ của cha quá đẹp bèn chiếm luôn làm vợ mình. Sau đó không lâu, con ông ta lại chết, ông ta lại thấy cô con dâu dung mạo cũng mỹ miều bèn lấy dâu làm vợ nốt. Thế là, bà má nhỏ cũng là vợ, nàng dâu cũng là vợ tuốt; đó gọi là "trên thì giựt mẹ, dưới thì giành dâu." Lúc đó ông ta chừng hai mươi tám hay hai mươi chín tuổi thôi.

Ðến chừng quá bốn mươi tuổi, ông ta mới bắt đầu tỉnh ngộ, tự nghĩ: "Ôi, cả đời mình gây ra tội ác quá nhiều! Lấy mẹ kế làm vợ, bắt con dâu làm vợ, thiệt là tội không phải nhỏ!"

Bấy giờ ông ta mới tu tập, tin Phật, tụng kinh, chuyên trì Kinh Kim Cang Bát-nhã Ba-la-mật. Tụng được mười mấy năm, đến lúc ông năm mươi mấy tuổi thì chết. Chết rồi thần thức ông đến trước vua Diêm La. (Vua Diêm La là ông vua quản lý tất cả quỷ ở địa ngục, rất là dữ tợn, mặt đen sì sì không vị nể ai hết). Vua Diêm La hỏi:

- Tại sao cả đời ngươi toàn làm ác cả vậy? Bây giờ phải thả ngươi vào ngục dầu sôi, dùng vạc dầu để chiên ngươi mới được!

Nói rồi kêu hai con quỷ kéo ông vào ngục vạc dầu, bấy giờ có vị phán quan ở kế bên nói: "Không thể được!"

- Tại sao? Vua Diêm La hỏi,

- Tại vì ông ta có tụng Kinh Kim Cang. Bây giờ bụng nó đầy Kim Cang trong đó. Phải cho ông ta mửa hết kinh ra rồi hãy đem đi nấu dầu.

Thế là vua Diêm La cho ông ta đầu thai làm người. Ông đầu thai vào một gia đình rất nghèo, cha mẹ chuyên bán đồ điểm tâm. Ðứa bé sinh ra đặc biệt từ nhỏ rất thích ăn uống, ăn uống đến nỗi bụng tích lại càng lúc càng to. Ðến chừng đứa bé năm tuổi, vì bụng trướng quá lớn mà chết. Sau khi đứa bé chết, cha mẹ nó cùng bàn với nhau: "Bụng thằng bé này tại sao lại lớn quá vậy? Chắc là có cái gì trong đó. Chúng ta mổ ra xem thử!" Họ bèn mổ bụng đứa bé ra, thấy trong đó có một vật cứng như đá kim cương. Con quỷ ở kế bên nói: "À, bây giờ thì bắt nó đem nấu dầu được rồi đấy!" Nó bèn dẫn ông ta về gặp vua Diêm La, vua nói:

- Bây giờ, bắt nó đầu thai làm heo trước đã!

Ông ta lại đầu thai làm heo, được người ta vỗ béo rồi đưa đi làm thịt. Sau đó, ông ta lại trở về địa ngục để chờ đem đi nấu dầu. Ông ta nói với vua Diêm La:

- Ngài không cần nấu tôi nữa, cho tôi về nhân gian đầu thai làm người đi! Và xin Ngài lưu lại cho tôi một bàn tay heo làm bằng chứng để tôi khuyên người đời không nên tạo nghiệp ác.

Vua Diêm La nói: Thế cũng được!

Thế là ông ta đầu thai vào nhà họ Lưu. Người ta vì thấy ông có một bàn tay hình thù y hệt cái móng heo nên gọi ông là "Lưu tiên sinh tay heo." Vị này chính tôi có gặp và nói chuyện rất nhiều với ông ta, nên biết ông ta nhớ được việc đời trước của mình rất rõ ràng. Ðó là nhân duyên ác thú (ác đạo) được tạo thành. Ðịa ngục là nơi rất nguy hiểm, hy vọng mọi người đừng nên tạo ác nghiệp, nếu không thì khổ báo khó tránh.

Lại ở Hợp Nhĩ Tân (Harbin), Mãn Châu, có một vị sư, có lần Thầy bị bịnh nặng, cảm thấy mình chết. Sau khi chết, thần thức theo đường cái chạy đi, chạy đến nơi cách chùa không xa để đầu thai. Ðầu thai làm gì? Làm con heo. Khi thấy mình bị làm heo, bèn chẳng chịu bú để chết đói. Sau khi chết đói, thần thức trở về lại nơi thân Thầy. Vừa tỉnh lại, vị Pháp sư nói:

- A, mình mới đầu thai làm heo đây mà!

Người kế bên hỏi: Ngài đến nơi nào đầu thai làm heo thế?

- Bây giờ tôi cảm thấy bớt bịnh nhiều! Ðể tôi đưa ông và quý Thầy cùng đến đó xem. Ở đó vừa chào đời bảy chú heo con, tôi là một trong số bảy chú heo con đó. Tôi cố ý không bú nên mới chết đây.

Tiếp đến vị sư ấy cùng với các Thầy khác đồng đến nơi đó, quả nhiên có một gia đình kia vừa có bảy con heo nhỏ ra đời, trong đó có một con heo con vừa mới chết.

Ðó là vị sư ấy tự nhớ được lai lịch của mình, vị này tôi cũng đã có gặp. Do đây có thể thấy, được sanh làm người thật không phải dễ, thân người của chúng ta thật rất khó được.

Cho nên có câu:

"Thân người khó được, Phật pháp khó nghe."

Quý vị tính thử xem, tại nước Mỹ trong hàng ngàn vạn người có mấy ai được nghe Phật pháp? "Thiện tri thức khó gặp." Quý vị muốn gặp một vị Thiện tri thức chân chánh hiểu rõ Phật pháp cũng không dễ đâu. Có những vị tự xưng là Thầy mà ngay cả chính mình cũng không biết đạo lý, họ có giảng đạo lý cho quý vị thì cũng chỉ là nói nhăng nói cuội mà thôi.

Ngạ quỷ, cũng là do nghiệp lực của chúng chiêu cảm nên mới mắc phải quả báo làm ngạ quỷ như thế. Về ngạ quỷ tôi đã giải thích rất nhiều lần - bụng chúng lớn như trống, cổ lại nhỏ như kim. Những đồ ăn của chúng ta một khi đến miệng của ngạ quỷ thì biến thành lửa ngay. Tại sao lại biến thành lửa? Vì nghiệp chướng của chúng quá nặng cho nên hễ thức ăn gì tới miệng đều biến thành lửa cả.

Nói đến vấn đề nghiệp chướng, thì chúng sanh ở cõi trời thấy nước là pha lê; loài người thấy nước là nước; cá thấy nước là nhà, lấy nước làm cung điện của chúng; quỷ thấy nước là lửa. Mỗi loài đều có cảnh giới không giống nhau. Ðó đều là do nghiệp lực chiêu cảm nên, cho nên cái thấy cũng không giống nhau.

Vừa rồi tôi có nói đến vị sư đầu thai làm heo. Lại cũng có người đầu thai làm gà, làm bò, làm ngựa v.vẨ Những người lúc sống không hiếu thảo cha mẹ, không cung kính sư trưởng thì tương lai sẽ có quan hệ liên đới với loài súc sanh. Còn những người thích ăn thịt, tức là đang có sự dây dưa với "súc sanh," thì tương lai cũng rất là nguy hiểm. "Các loài trong đường dữ" là bao gồm cả bốn ác đạo nói trên.

Ngoài cái khổ của sanh, lão, bịnh, tử, con người còn có ba thứ khổ nữa là:

-Khổ khổ,

-hành khổ và

-hoại khổ.

Khổ khổ chính là khổ trong khổ, giống như người nghèo nàn khốn khó đã không có tiền, không có cơm ăn, lại không có nhà ở, kiếm việc làm không được, thật là khổ càng thêm khổ. Nỗi khổ trong khổ ấy người ta không thể chịu nổi. Thế thì người giàu có không khổ sao? Người có tiền càng khổ sở hơn! Có người nói: "Thầy nói đạo lý ấy tôi không tin đâu." Quý vị không tin tôi cũng nói như thế, mà tin tôi cũng nói như thế. Tại sao? Quý vị thấy có tiền nhiều, từ sáng đến tối cứ nghĩ: "Ta có nên đem cọc tiền này gởi ngân hàng không? Ðem số tiền này đi buôn bán. Ðem số tiền này làm..." Tóm lại, khi có tiền đếm không hết thì phiền phức như thế đấy! Ðếm tới đếm lui, đếm đến tóc bạc, răng long, mắt mờ, tai điếc, cũng chưa rồi! Ðếm mãi không rồi, quý vị nói thế nào đây? Sẽ có vấn đề đấy. Nhân vì có quá nhiều tiền, suốt ngày cứ đếm tiền mãi, đếm tới đếm lui, rủi ro bị bọn thổ phỉ biết được, tối lại chúng phá cửa xông vào, bao nhiêu của cải để dành bấy lâu bị cướp sạch sành sanh. Ðó gọi là Hoại khổ đấy. Thứ hoại khổ này so với khổ nghèo túng lại càng tệ hại hơn. Bởi vì người nghèo túng khổ quen rồi, không cảm thấy khổ bao nhiêu. Nhưng giàu sang mà bỗng nhiên bị tiêu tan hết thì cái khổ ấy thật là quá mức. Nhất là với người già, tiền bạc không có, tất cả đều không như ý. Ðó cũng gọi là Hoại khổ.

Thế thì, người không giàu cũng không nghèo, chắc là không có khổ gì? Cũng vẫn khổ. Còn khổ gì nữa? Ðó là Hành khổ: Người ta từ nhỏ rồi lớn, lớn rồi già, già rồi chết, niệm niệm đổi dời không dừng nghỉ. Cho dù không có nghèo cùng khốn khổ, không có hoại khổ của giàu sang thì cũng có hành khổ. Ba thứ khổ này không một ai tránh khỏi được.

Lại còn có Tám khổ. Ba khổ đã không ít rồi lại còn chồng chất thêm tám khổ nữa! Sự thật thì "khổ" không chỉ có tám mà thôi, thực ra có đến hàng ngàn, hàng vạn, ngàn ngàn vạn vạn khổ, đếm không hết.

Khổ nhất chính là làm người; làm súc sanh sung sướng hơn làm người nhiều. Vậy chớ làm gì mới không khổ? Chỉ có làm Phật mới không khổ thôi!

Tại sao làm súc sanh sướng hơn làm người? Loài súc sanh chẳng phải lo cái ăn, cũng chẳng phải lo cái mặc, lo chỗ ở. Chúng có điều kiện sinh hoạt thiên nhiên, không phải lo lắng gì, quý vị thấy có phải không? Chỉ có loài người là khổ đủ thứ, chẳng phải chỉ tám mươi bốn ngàn mà cả ngàn ngàn vạn vạn khổ nữa. Bây giờ chúng chỉ nói về tám khổ là: Sanh, lão, bịnh, tử, ân ái xa lìa, oán thù gặp gỡ, cầu mà không được, năm ấm xí thạnh. Trong tám khổ này, quý vị xem thứ nào khổ nhất? Ðó là sanh khổ đấy! Nếu không có sanh thì các thứ khổ kia làm gì có.

Hỏi: Sanh khổ là khổ như thế nào?

- À, tôi biết là quý vị đã quên thứ khổ ấy rồi. Bây giờ tôi xin nói cho quý vị rõ: Sanh này là do tinh cha huyết mẹ kết thành, lại do thân trung ấm đến đầu thai mà có. Khi còn ở trong bụng mẹ, 4 tuần lễ đầu chưa có cảm giác chi, đến tuần lễ thứ 7 mới có hiểu biết. Lúc đó nếu mẹ ăn cái gì lạnh, quý vị như ở giữa núi băng, khó chịu vô vàn; nếu mẹ ăn thức gì nóng, quý vị như trong vạc lửa, nóng bức không chịu nổi. Ðó là những nỗi bức bách vì lạnh nóng trong thai mẹ. Lại có lúc mẹ vặn lưng khom mình, quý vị cảm thấy như bị Thái sơn đè xuống, còn mẹ thẳng lưng lên thì cảm thấy rất là thoải mái. Ðến chừng sanh ra thì còn khổ hơn nữa. Ngay lúc ấy, quý vị khổ sở như bị ép giữa hai trái núi chẳng khác nào cái khổ bị núi ép ở địa ngục, nên quý vị mỗi khi chào đời đều khóc ré lên: "Khổ a! Khổ a! Khổ a!"

Lúc sanh ra thì đau đớn như con rùa sống bị lột mai, nhưng khi lớn lên lại quên hết nỗi thống khổ ấy đi. Rồi tuổi già lật bật đến, cái khổ của già nua cũng không kém phần tệ hại. Lúc tuổi già, tai điếc đặc, người ta mắng cũng không hay; mắt bị mờ đi, nhìn vật gì cũng không rõ. Ðó là tai và mắt bắt đầu "đình công" rồi đó. Lưỡi tuy còn đó mà răng đã rụng rồi. Trước đây tôi có gặp mấy cụ tám, chín mươi tuổi và hỏi:

- Cụ có thấy ai rụng lưỡi chưa? Tại sao răng của cụ rụng hết vậy?

Ông ta nói: "Chưa! Ông có thấy chưa?"

- Tôi lại càng không thấy. Cụ từng ấy tuổi mà chưa thấy ai rụng lưỡi thì nhỏ tuổi như tôi đây làm sao thấy việc lạ ấy được!

Tôi lại hỏi ông ta: "Cụ có biết tại sao lưỡi cụ không rụng không? Tại sao trên đời này không có lưỡi rụng mà chỉ có răng rụng? "

- "Tại sao thế? " Ông ta hỏi.

- Vì răng quá cứng nên phải gãy rụng. Lưỡi sở dĩ không rụng là nhờ lưỡi mềm. Cụ tuổi tác đã cao cũng không nên cứng rắn quá. Nếu cứng rắn quá thì sẽ giống như răng có thể rụng đấy, nên học mềm một tí.

Thế thì răng rụng có khổ gì? Ðương nhiên là ăn mất ngon, nhai thức ăn không có thấy mùi vị. Thức ăn đó vào miệng người khác nhai rau ráu bắt thèm, còn vào miệng mình nhai không nổi, muốn cắn thì cắn không đứt, trệu trạo nuốt vào bụng lại trở thành khó tiêu. Quý vị nghĩ có khổ không chứ?

Còn trên mặt thì da nhăn hết, ấy là "tóc bạc da mồi," da thịt trên mặt giống như da gà, sần sùi nhăn nhúm khó coi. Còn tóc thì bạc trắng. "Tóc bạc" đối với người Mỹ thì không phải ngụ ý tuổi già. Vì người Âu Tây, trẻ con mới sanh tóc đã có màu trắng rồi. Ðó không phải là tóc bạc của tuổi già mà là tóc trắng của thời son trẻ. Tuy nhiên, đó chỉ là trường hợp đặc biệt thôi. Tóc trắng của người già là từ tóc đen đổi màu. Tóc đen có thể đổi thành trắng, mà tóc trắng không thể đổi thành đen, nhưng có lúc cũng có thể đổi được.

Hồi ở Hồng Kông, tóc của tôi đều bạc cả. Tại sao thế? Vì tôi cất chùa, sửa ba ngôi chùa. Ôi, sửa đến hao tổn biết bao tâm thần, làm cho tóc đổi thành bạc cả. Về sau tôi tự mình xét lại: "A! Thế là đủ rồi! Không cần phải hao phí tâm lực nữa!" Từ đó cái gì cũng buông bỏ hết. Sau đó, từ từ tóc trở lại màu đen. Cho nên bất cứ việc gì cũng không cố định. Bây giờ quý vị nhìn lên đầu tôi xem, chỉ có một ít tóc bạc, không nhiều lắm!

Khổ về sự già không dễ gì chịu được. Quý vị nếu không tin thì cứ thử xem. Ðợi đến lúc quý vị già mới biết mùi vị của nó. Quý vị không ngại sống đến bảy, tám mươi tuổi, hoặc tám, chín mươi tuổi, thậm chí đến một trăm tuổi; bấy giờ, quý vị ăn thứ gì cũng không biết mùi. Chừng đó quý vị mới biết: "À, hồi trước có vị Thầy nói già rất khổ, mình không tin, bây giờ mình mới biết, quả đúng không sai."

Lúc đó quý vị lại muốn tu hành, thì quá muộn không kịp nữa.

Sự bình đẳng nhất chính là bịnh khổ. Bất cứ ai cũng đều có bịnh khổ cả, không bịnh nhiều thì cũng bịnh ít. Nhức đầu thì đầu khó chịu, đau chân thì chân bứt rứt, thân đau thì thân không an. Bịnh lại có quá nhiều thứ, như có bịnh đau bao tử thì ăn vào khó chịu, nếu có bịnh phổi thì ho hen không ngớt. Tóm lại, ngũ tạng: tim, gan, tỳ, phổi, thận, hễ có bịnh thì đều khổ cả.

Cái khổ nhất chính là khổ "chết." Có người nói: "Chết khổ à? Tôi không biết mùi vị nó như thế nào? Tôi muốn biết trước." Vậy thì quý vị cứ thử chết trước một lần xem, nhưng không có ai dám bảo đảm là quý vị sống lại được, cho nên một lần thử đó cũng không thử được. Chết thì dễ, nhưng chết rồi đi về đâu? Ðó là một vấn đề trọng đại. Sau khi chết rồi đọa địa ngục ư? Hay làm súc sanh? Hay làm người? Ðâu có ai dám bảo đảm điều đó!

Sanh, già, bịnh, chết đều là khổ. Vì sao Ðức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn xuất gia? Cũng chính vì Ngài biết được sanh, già, bịnh, chết là những mối khổ không dễ gì chịu đựng. Lúc Ngài mười chín tuổi, có một hôm đi du ngoạn đến cửa thành phía Ðông, nhìn thấy một người phụ nữ đang chuyển bụng, bèn hỏi người tùy tùng: "Ðó là cái gì vậy?"

- Ðó là sanh đứa bé! Người tùy tùng đáp.

Thấy đứa bé lọt lòng khóc thét lên mà thiếu phụ cũng đau đớn quá mức, Thái tử thấy lòng không vui, bèn trở về hoàng cung.

Ngày thứ hai Thái tử đến cửa Nam, thấy một cụ già, tóc đều bạc trắng, mắt mờ đi, lưng còng xuống không thể đứng thẳng được, chân run lẩy bẩy, không thể bước vững, khổ sở trăm bề, bèn hỏi người tùy tùng:

-"Người bị gì vậy? Tại sao lại như thế?"

Người tùy tùng thưa: "Người ấy đã già rồi, tuổi tác quá cao nên mới ra nông nỗi."

Thái tử cảm thấy không vui, lập tức trở về cung.

Ngày thứ ba, Thái tử lại đến cửa Tây, gặp người đang quằn quại vì cơn bịnh, bèn không vui trở về.

Ngày thứ tư, Thái tử lại đi tham quan ở cửa Bắc. Gặp một người chết, Ngài hỏi kẻ tùy tùng: "Người ấy làm sao thế?"

- Người ấy chết rồi!

Ngài lại cảm thấy buồn bã phi thường, mắt thấy sanh, già, bịnh, chết là con đường mà nhân loại phải đi qua, rất là khổ sở, thật không có ý nghĩa gì cả. Nghĩ thế Thái tử định quay trở về cung. Ngay lúc đó bỗng xuất hiện một vị Sa-môn, tức là người xuất gia. Thái tử lại hỏi: "Người ấy là ai thế?"

Kẻ tùy tùng đến hỏi vị Sa-môn ấy: "Ông là ai thế?"

Vị Sa-môn đáp: Tôi là người xuất gia, tu học theo Phật đạo để có thể lìa cái khổ của sanh, già, bịnh, chết.

Thái tử nghe nói tu hành có thể liễu sanh thoát tử thì rất vui vẻ, lại hỏi vị Sa-môn: "Tôi cũng có thể tu hành giống như Ngài được không?"

- Ai cũng có thể tu được. Vị Sa môn đáp: Bất cứ ai cũng đều có thể xa lìa khổ sanh, già, bịnh, chết cả.

Sau khi trở về cung, tối lại Thái tử cùng với người giữ ngựa là Xa-nặc lén vượt thành ra khỏi cung điện, để xuất gia tu hành. Ðức Phật Thích-ca Mâu-ni nhân vì biết được sanh, già, bịnh, chết không có ý nghĩa gì. Cũng không biết sanh từ đâu đến? Chết rồi lại đi về đâu? Cho nên Ngài phát tâm xuất gia, đến Tuyết sơn ngồi tu sáu năm, nhân đó mà tránh được khổ sanh già bịnh chết.

Còn con người ư? Ai cũng có thể sanh ra nhưng không ai tránh khỏi cái chết. Mọi người tương lai đều phải chết, có người chết lành có người chết dữ, mỗi người đều có một cách chết, không ai giống ai. Có người chết vì bịnh, có người chết vì đói, có người làm công việc quá sức mà chết, có người bị xe cán chết, có người bị đá núi lăn đè chết, hoặc theo người đi đánh lộn bị người đánh chết, hoặc đi tác chiến bị chết ở mặt trận, hoặc ngộ độc mà chết, hoặc là tự sát mà chết. Có người không muốn chết mà chết, có khi muốn chết lại không chết. Cho nên, đồng là một tiếng "chết" mà cách chết không giống nhau. Tuy cách chết không đồng mà quả báo trong tương lai sau khi chết thì sao? Cũng không giống nhau! Ví như có người chết đột ngột, như bị xe tông, bị nước cuốn, bị lửa thiêu - tức là bất đắc kỳ tử - thì hồn phách của họ Diêm Vương không biết đến, quỷ cũng không biết đến, vậy họ được tự do sao? Nói là tự do nhưng là tự do của quỷ chớ không phải là tự do của người. Người được tự do có lúc còn không theo quy củ huống là quỷ? Quỷ được tự do cũng có thể không theo quy củ; người chết đột ngột (bất đắc kỳ tử) lại bắt kẻ khác thế chỗ cho mình.

Ví dụ, tại một đoạn nào đó trên xa lộ từng xảy ra tai nạn đụng xe chết người thì trong vòng ba năm thế nào cũng có người bị tông chết ở đó. Tại sao thế? Tại vì hồn quỷ chết bất đắc kỳ tử kia đang chực sẵn ở đó, nó nhất định phải làm cho người khác bị tông chết để nó được đi đầu thai, nếu không như thế nó phải ở mãi chỗ đó, không được thác sanh. Nếu là người tự sát hay uống thuốc độc mà chết thì phải vào địa ngục chịu những hình phạt cực kỳ đau đớn. Chịu những hình phạt nào? Khi còn sống nếu uống thuốc độc mà chết, thì xuống địa ngục phải uống thứ nước sắt nấu chảy. Thứ nước đó rót vào bụng, tới đâu ruột gan cháy tới đó. Sau khi bị cháy chết rồi, gặp luồng gió mát thổi qua lại được hồi sinh. Sống lại rồi lại phải uống thứ nước sắt ấy cháy ruột gan chết đi, rồi gặp gió sống lại. Cứ thế, chết đi sống lại để tiếp tục thọ khổ, lại chết đi, liên miên không ngớt. Nếu quý vị có thể niệm Bồ Tát Quán Thế Âm thì các khổ não về sanh, già, bịnh, chết sẽ dần dần tiêu tan.

Ngoài bốn khổ trên, lại còn có khổ vì "ân ái xa lìa." Thứ "ái" này mọi người đều biết. Có người yêu sắc đẹp, có người yêu tiếng tăm. Người yêu tiền cũng chính là yêu lợi. Ví như có người rất giàu, dự tính buôn bán lớn để kiếm lời, nhưng buôn bán thất bại cụt cả vốn, tiền cũng hết sạch. Người ấy chia lìa với lợi, y đâu muốn lìa tiền, nhưng tiền đã không còn nữa, cũng là một loại khổ thương mến phải xa lìa. "Sắc" là vấn đề của trai gái, trai yêu sắc đẹp của gái, gái yêu sắc đẹp của trai, hai đàng yêu mến nhau nhưng vì đời trước gieo trồng nhân quả không tốt nên tình yêu này không thể kéo dài lâu được. Trong tình trạng đó, nửa chừng phải gãy đổ thôi. Trong thời gian xa nhau ấy, nếu không có tình yêu chân chính thì chia tay cũng không sao; nếu có một thứ tình yêu chân chính mà chấp trước thì sẽ đau khổ vô cùng. Ðó là thứ ái biệt ly khổ của yêu sắc đẹp.

Lại còn có ái biệt ly khổ của yêu tiếng tăm. Thứ tiếng tăm này tại sao lại có biệt ly được? Có người nói như thế này: "Danh là sinh mạng thứ hai của con người." Họ cho rằng danh tiếng là sinh mạng thứ hai của mình, nếu sinh mạng thứ hai ấy một mai bị phá vỡ thì trở thành danh tiếng bị mất hết. Xưa nay không muốn bị mất danh, nhưng vì nhất thời làm bậy, danh dự bị tiêu tan. Ðó cũng là một thứ ái biệt ly khổ vì danh.

Thứ ái biệt ly khổ này rất nhiều. Ví dụ vợ chồng dù không có chia cách, nhưng đứa con sinh ra tướng mạo đẹp đẽ lại thông minh, nên họ yêu quý cưng chiều coi như báu vật. Bỗng nhiên báu vật ấy chết đi, bấy giờ mới khóc lóc vật vã đau đớn vô cùng. Ðây cũng là một thứ ái biệt ly khổ. Hoặc có người rất có hiếu với cha mẹ, rất cung kính mến yêu, không bao giờ muốn rời xa cha mẹ, nhưng rồi cha mẹ lại qua đời. Ðó cũng là ái biệt ly khổ.

Hoặc có người gặp hoàn cảnh thuận lợi vô cùng, cha mẹ vợ con tất cả đều tốt đẹp, nhưng chính bản thân mình lại phải chết. Ngay cả giữa anh em bè bạn cũng có sự việc bất như ý này, xưa nay không muốn rời xa mà rồi phải chia lìa; đó cũng là ái biệt ly khổ.

Ðã biết rằng ái biệt ly là khổ thì không nên chấp trước vào thứ ái đó nữa, chẳng nên đem thứ ái đó nhắm vào một người nào, mà nên nhắm vào toàn thể chúng sanh, thực hành Bồ-tát đạo để cứu độ tất cả chúng sanh, chẳng nên cho riêng mình mà hãy nghĩ tưởng đến tất cả mọi người, thì sẽ không có ái biệt ly khổ nữa.

Còn có thứ ái biệt ly này nữa: Có người chấp trước tình ái, không có khổ lại tự tìm cái khổ để khổ. Như có những cặp vợ chồng, suốt ngày cứ lo rầu không thôi. Lo rầu những gì? Lo sợ bà xã họ có bạn trai khác. Thế chẳng phải là không có cái khổ lại đi tìm khổ sao? Cũng có nhiều cô sau khi có chồng rồi, có lẽ là anh chồng quá đẹp trai, nên suốt ngày chẳng lo nghĩ gì khác hơn là chỉ đau đáu lo rầu chồng mình có thêm người đẹp mới, thậm chí lo đến cơm chẳng buồn ăn. Quý vị nghĩ xem như vậy có quá ngu si không? Lại còn có người không yêu thương ai cả, lại yêu chó như mạng sống của mình; có người lại yêu mèo, coi mèo như mạng sống của mình; cho đến đối với tất cả súc sanh hoặc vật chất gì đều nảy sanh lòng yêu thích. Lòng yêu này khi đã phát sanh thì thế nào? Cũng rất là ngộ nghĩnh. Người yêu chó khi chó ấy chết, người yêu mèo đến khi mèo ấy chết, thì lúc đó giống như mạng mình cũng chết theo vậy. Họ khóc con chó con mèo từng cơn. Ðó cũng là một thứ ái biệt ly khổ.

Tóm lại, quý vị đối với bất cứ sự vật gì, nhìn không thấu, bỏ không được, cho đến có cái gì đó đặc biệt mà phải chia cách khiến cho quý vị cảm thấy đau khổ vô cùng, đó gọi là "Ái biệt ly khổ."

Có người nói: "Chỉ yêu thôi mà khổ đến thế ư? À, thế thì tôi không yêu nữa, tôi sẽ ghét tất cả!"

"Ghét" tức là không yêu. Có một thứ tâm chán ghét, oán hận, căm thù; đối với bất cứ sự vật gì cũng đều không yêu cả. Ðiều đó lại càng sai lầm. Vậy thì, nói yêu là có khổ, còn không yêu thì sao? Cũng khổ như thường! Ðó gọi là "Oán tắng hội khổ." Trong trường hợp này, quý vị cảm thấy chán ghét, ghét cay ghét đắng người khác, không có duyên với ai cả, cảm thấy ai cũng không tốt với mình, cho nên quý vị không thích ai cả. Quý vị không yêu người, cũng không yêu chó, mèo lại càng không ưa nữa. Cái gì cũng không vừa mắt, thấy cái gì cũng dễ giận. Thế rồi dời nhà đến một nơi khác, nào ngờ sau khi dời đi, lại gặp người, vật còn đáng ghét, tệ hại hơn trước! Những việc quý vị không muốn thấy, thấy nó càng ghét thêm mà quý vị lại hay gặp. A, kỳ lạ, thật kỳ lạ! Quý vị sợ mèo thì suốt ngày mèo cứ chạy đến với quý vị, đuổi nó vẫn không đi. Còn ghét chó à! Quý vị càng ghét nó lại càng quấn quýt quý vị. Quý vị ghét phái nữ ư? Phái nữ suốt ngày đến gõ cửa tìm quý vị. Quý vị không thích lại phải dời nhà, nhưng đến chỗ nào rồi cũng gặp cùng hoàn cảnh như thế, so với lúc trước càng tệ hại hơn! Nói chung không có ngày nào được an ổn, vui vẻ cả. Quý vị nói có khổ không?

Khổ này từ đâu mà có?

Thực sự là do tự tánh quý vị chiêu cảm nên, vì bởi tự tánh quý vị thiếu định lực. Quý vị ở tại chỗ này thấy mình với hàng xóm không hòa thuậĩn nhau, song dời đến một nơi khác cũng lại không hòa thuận nốt. Ðây không phải là người ta không tốt với quý vị mà là quý vị không tốt với người ta đấy. Bởi tự mình cảm thấy không có duyên với người ta nên người ta cũng thấy không có duyên với mình. Thế thì cảm thấy tốt cũng là khổ mà cảm thấy không tốt cũng là khổ. Vậy thì phải làm sao đây? Phải hợp với Trung đạo. Tóm lại, bất cứ việc gì cũng không nên thái quá, vì thái quá thì cũng như bất cập. Oán tắng hội khổ này thì rất lạ kỳĩ! Việc gì quý vị càng không muốn thì càng đối đầu với nó. Người không muốn uống rượu, con quỷ rượu lại suốt ngày kề cận bên mình. Người không muốn hút thuốc, con quỷ hút xách lại chạy đến nhà. Người không thích đánh bạc, con quỷ cờ bạc ngày ngày đến rủ rê. Tại sao thế? Chính vì quý vị có oán tắng (ganh ghét), cho nên chúng mới cùng kéo tới làm khổ đấy. Có oán tắng hội khổ cùng ái biệt ly khổ đều bởi không rõ thấu Trung đạo chân chính, vì nghiêng ngả về một bên, rớt ở một bên nên mới khổ. Nếu có thể giữ được Trung đạo thì sẽ không bao giờ có khổ.

Tôi tin rằng không có ai chán ghét "tiền" cả, nhưng mà "tiền" này, quý vị càng không ghét, càng yêu thích nó càng không đến. Việc lạ được yêu mà không đến chính là "Cầu bất đắc khổ."

Yêu cũng khổ, ghét cũng khổ. Hễ yêu thì có mong cầu, song thường là cầu không được. Có người cả đời mong muốn được phát tài, nên cần cù làm lụng, chịu đủ điều cay đắng. Từ khi lọt lòng đã mong được phát tài, nhưng mãi cho đến lúc chết mà tài vẫn chưa phát, lại làm con ma nghèo. Ðó là cầu bất đắc khổ đấy! Có người cảm thấy làm quan rất thú, bèn tìm đủ mọi cách để được làm quan, nhưng tìm đến hết đời rốt cuộc cũng không làm được, đó cũng lại là cầu bất đắc khổ.

Có người suốt đời cầu danh mà cả đời cầu không được. Có người không có con cái muốn sanh một bé trai thông minh, một bé gái kháu khỉnh, nhưng cầu mãi cầu hoài vẫn không được toại ý, đó cũng là cầu bất đắc khổ. Nhiều người suốt đời, nếu không cầu cái này thì cầu cái kia, mà cái nào cũng cầu không được cả. Có người đi học thì muốn làm Bác sĩ, nhưng vì đời trước không vun trồng căn lành học hành, nên học đến già mắt mờ, tai điếc, đọc hàng tá sách mà học vị Bác sĩ cũng không rớ tới được. Ở Trung Hoa xưa có một vị tên là Lương Hạo, đi học đến 82 tuổi mới đỗ Trạng nguyên, nhưng đỗ Trạng không bao lâu thì chết. Dù cho cầu được, nhưng chưa hưởng thụ được đã chết rồi. Ðó cũng là khổ. Cầu Ðông không được Ðông, cầu Tây không được Tây; nói tóm lại, quý vị mong cầu mà không được toại nguyện. Ðó là khổ!

Lại còn có "Ngũ ấm xí thạnh khổ." Ngũ ấm là gì? Tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Tâm Kinh nói: "Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc."

Nếu quý vị xem chúng là không thì sẽ không có khổ. Năm thứ sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm này khi bốc dậy mạnh mẽ phi thường thì rất là khổ, nhưng người ta không rời xa nó được. Bảy thứ khổ trước thuộc về cấu khổ (khổ nhơ bẩn), còn sắc thọ tưởng hành thức này vốn có sẵn bên trong tự tánh, luôn luôn gắn liền với quý vị, muốn lìa cũng không lìa được. Ðó gọi là Ngũ ấm xí thạnh khổ.