Trang 6 trong 6 Đầu tiênĐầu tiên 123456
kết quả từ 101 tới 115 trên 115

Ðề tài: đạo Mẫu

  1. #101
    Đai Đen Avatar của changchancuu
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    ĐẠI HỌC BÔNBA
    Bài gởi
    689

    Mặc định

    Văn Cô Đôi Thượng Ngàn

    Ta đây vốn thật người TRỜI
    Đứt dây rơi xuống làm người TRẦN GIAN

  2. #102

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hoctronhobe Xem Bài Gởi
    Tôi hiểu như thế này bạn à!
    Trong Ngũ Vị Tôn Ông có 2 Ông là Con của Đức Vua Cha Ngọc Hoàng Thượng Đế. Vua Cha Bát Hải Động Đình khác và Cha Trần Triều lại khác nữa. Như vậy phải phân biệt rõ về 3 Vị Cha này.
    Hai Vị đó là: - Quan Đệ Nhất Thượng Thiên- Ngài chưa xuống trần lần nào. Hiện giờ nhiệm vụ chính của Ngài vẫn là trên Thiên Đình.
    - Vị thứ hai là Quan Đệ Tứ khâm sai; Quán Đệ Tứ cũng chưa từng xuống trần. Ngài làm Quan khâm sai ở cả 3 cõi giới.
    Mẫu Liễu Hạnh được Ngọc Hoàng giao nhiệm vụ làm giáo chủ Đạo Mẫu . Để thực hiện được nhiệm vụ đó Mẫu phải có ban bệ giúp việc cho mình.
    Việc của Ngọc Hoàng và các Quan trên Thiên Đình liên quan đến cả 3 cõi giới, không riêng gì cõi ta bà này. Đạo Mẫu chỉ là một phần công việc của các Quan liên quan nhiều đến người trần thế và liên quan đến các vong không chịu về đúng chỗ của mình.
    Như vậy, mặc dù xuống trần sau nhiều vị trí trong hệ thống thờ Mẫu nhưng Mẫu đương nhiên Ngự ở ngôi vị cao nhất và các Quan, các Chúa, các Chầu, các Hoàng, các Cô, Các Cậu...là những người giúp việc cho Mẫu.
    Ngay từ khi chưa hoàn chỉnh về cơ cấu, Đạo Mẫu đã có những bước hình thành từ rất sớm. Đó là tục thờ thần, thờ Mẫu < Mẹ>. Sau đó là tục thờ Tam Phủ gồm: Thiên phủ- Địa phủ- Thoải phủ. Từ tam phủ này cộng thêm Nhạc phủ hình thành Tứ phủ và giáo chủ là Mẫu Liễu Hạnh như ngày nay.
    Đạo Mẫu hình thành và phát triển cùng trời đất.
    Chào bạn!
    Chào bạn! Quan Đệ Tứ Khâm Sai kề cận Ngọc Hoàng Chuyên Tâu Sớ Sách nay ông đã xuống trần làm việc trong tứ phủ được 1 năm. Thân ái!
    Ngọc Bất Trác Bất Thành Khí - Nhân Bất Học Bất Tri Lý

  3. #103

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Tuanfodacon Xem Bài Gởi
    Có một điều mình vẫn băn khoăn tự hỏi là: Tín ngưỡng thờ Mẫu chỉ có ở Việt Nam, mà hẹp hơn thì chỉ có ở miền Bắc. Vậy thế con của các Mẫu (kể cả Mẫu Thượng Thiên) không có nhẽ lại chỉ có ở miền Bắc Việt Nam thôi sao? Còn dân chúng các nước khác thì thế nào? Nếu quả thực người dân Việt được Cha Trời-Mẹ Đất ưu ái thế thì vì cớ sao vẫn khốn khổ là vậy? Ai đó biết xin hoan hỷ chỉ giùm với ah! Xin cám ơn!
    Chào bác! có lời chia sẻ ạ! Mẫu là mẹ nên bản thân ai cũng là con mẫu. nhưng từ con ở đây ý chỉ những thầy đồng cao con mẫu chân chính được giáng trần để cứu dân. miền bắc nhiều thực là do miền bắc nhiều vị lợi dụng tín ngưỡng mà trở nên giàu có nên chỉ cần có căn quả nhẹ cũng muốn mở phủ để làm giàu. miền nam đình đền nhiều nhưng ít biết tới căn quả nên có người sống một đời người cũng lận đận do số kiếp chẳng thông. Thân ái!
    Ngọc Bất Trác Bất Thành Khí - Nhân Bất Học Bất Tri Lý

  4. #104

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Giga Xem Bài Gởi
    cho em hỏi xí về vấn đề Phật giáo và đạo Mẫu
    Tại sao không thờ Phật mà lại thờ thêm các Mẫu, Ông??! Có sự khác nhau và tương quan giống nhau nào không ạ?
    Xin chào bác Giga. tạo hóa sinh ra Cõi Niết Bàn và Tây Vương Mẫu vì vậy tôn giáo theo thuần túy tín ngưỡng và cơ duyên, trong lễ thỉnh thánh mẫu luôn đọc bài kinh thỉnh phật. Đó là đạo mẫu chân chính. Đạo phật cho sức khỏa cứu vứt khổ nạn, đạo mẫu cho chúng sinh nhân dã sống tốt có đức với đời có tài có lộc có công danh.
    Ngọc Bất Trác Bất Thành Khí - Nhân Bất Học Bất Tri Lý

  5. #105

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi chuluuluchu Xem Bài Gởi
    Đơn giản phụ mẫu này là hàng nhái
    Cháu luôn trân kính những ngôn luận kinh điển của bác. Nhưng bác nói vậy là bản thân bác sai. Như những gì bác nói lấy tín ngưỡng của mình đè lên tôn giáo khác là không được, bản thân bác là người việt, đạo mẫu là tinh hóa văn hóa tâm linh của người việt bao đời, bác cần trân trọng. Nói đến thánh mẫu cứu nhân độ thế , phật cứu khổ cứu nạn..... là những vị tối thượng sở học bác cao thâm đến mấy chưa thể hiểu hết siêu nhiên. Mong bác xem lại chút. Phẩm cách không phân biệt giàu nghèo sang hèn.... Thân ái !
    Ngọc Bất Trác Bất Thành Khí - Nhân Bất Học Bất Tri Lý

  6. #106

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phoquang Xem Bài Gởi
    ĐẠO MẪU, ĐIỆN THẦN VÀ THẦN TÍCH

    ( Nguồn: https://www.facebook.com/quantheambo...870499/?type=3 )



    .................................................. ..........




    Nếu như gạt bỏ những sai biệt có tính địa phương, chắt lọc lấy những cái chung thì chúng ta có thể đưa ra một hệ thống điện thần Đạo Mẫu như sau:
    - NGỌC HOÀNG
    - TAM TOÀ THÁNH MẪU (Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Địa Tiên Thánh Mẫu)
    - NGŨ VỊ VƯƠNG QUAN (Từ Đệ Nhất đến Đệ Ngũ), thường thì người ta xếp Đức Thánh Trần vào hàng các Quan.
    - TỨ VỊ CHẦU BÀ hay tứ vị Thánh Bà là hóa thân trực tiếp của Tam Toà Thánh Mẫu.
    - NGŨ VỊ HOÀNG TỬ (gọi theo thứ tự từ Đệ Nhất tới Đệ Ngũ)
    - THẬP NHỊ VƯƠNG CÔ (gọi theo thứ tự từ l đến 12)
    - THẬP VỊ VƯƠNG CẬU (gọi theo thứ tự từ l đến 10)
    - NGŨ HỔ ( năm con hổ)
    - ÔNG LỐT (rắn)
    Các vị Thánh trong đạo Mẫu không chỉ phân thành các hàng mà còn phân thành các Phủ. Phủ trong đạo Mẫu mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Trước nhất, Phủ trong Tam Phủ, Tứ Phủ mang nghĩa rộng và bao quát, tương ứng với các miền khác nhau trong vũ trụ: Thiên phủ (miền Trời), Địa phủ (miền đất), Thoải phủ (thuỷ phủ, miền sông biển), và Nhạc phủ (miền rừng núi). Đứng đầu mỗi Phủ như vậy là một vị Thánh Mẫu: Mẫu Thượng Thiên cai quản Thiên phủ, Mẫu Địa (Địa Tiên Thánh Mẫu) cai quản Địa phủ, Mẫu Thoải cai quản Thoải phủ và Mẫu Thượng Ngàn cai quản Nhạc phủ. Giúp việc cho bốn vị Thánh Mẫu còn có nhiều vị thánh thuộc các hàng Quan, Chầu, Ông Hoàng, Cô, Cậu cũng phân theo 4 phủ như các vị thánh Mẫu kể trên.

    Hiện nay trong điện thần Thờ Mẫu đều tồn tại quan niệm Tam Phủ và Tứ Phủ. Tứ Phủ là gồm ba phủ trong Tam Phủ (Thiên, Địa, Thoải) và có thêm phủ Thượng Ngàn (Nhạc Phủ). Hiện nay chưa ai có thể trả lời chắc chắn Tam Phủ và Tứ Phủ của đạo Mẫu có từ bao giờ. Tuy nhiên, có thể tin rằng Tam Phủ có trước Tứ Phủ và việc tồn tại phủ thứ tư là Nhạc Phủ là một nét đặc thù của Đạo giáo Việt Nam.
    Có thể quan niệm Tam Phủ và Tứ Phủ đều bắt nguồn từ quan niệm vũ trụ luận nguyên sơ là Âm và Dương, dần dần yếu tố Âm trong lưỡng cực Âm Dương phân hóa thành Địa Phủ, Thoải Phủ và Nhạc Phủ.
    Tứ Phủ ứng với bốn phương, bốn miền của vũ trụ, trong đạo Mẫu biểu hiện thành bốn màu cơ bản: Thiên Phủ ứng với màu đỏ, Thoải Phủ ứng với mầu trắng, Địa Phủ ứng với màu vàng và Nhạc Phủ ứng với mầu xanh. Đó cũng là màu sắc của trang phục các vị Thánh khi giáng đồng, là màu sắc của các đồ cúng lễ. Từ các màu sắc này chúng ta có thể dễ dàng phân biệt mỗi vị thánh thuộc vào phủ nào trong hệ thống Tam Phủ, Tứ Phủ.

    Trong đạo Mẫu, nơi thờ phụng chính Thánh Mẫu Liễu Hạnh, hóa thân của Mẫu Thượng Thiên, cũng được gọi là Phủ, như Phủ Giầy (Nam Định) và Phủ Tây Hồ (Hà Nội). Cách định danh này có thể xuất phát từ quan niệm vũ trụ luận về các Phủ trong Tứ Phủ và cách định danh đương thời - cung Vua, Phủ Chúa thời Trịnh - Nguyễn.


    NGỌC HOÀNG

    Là vị Thánh cao nhất trong đạo Mẫu, có ban thờ riêng trong các đền và phủ, tuy nhiên vai trò của Ngọc Hoàng trong nghi lễ và thờ cúng, trong tâm thức dân gian thì lại rất mờ nhạt. Như mọi người đều biết, Ngọc Hoàng là thần linh cao nhất trong đạo thờ Tiên của Đạo giáo Trung Hoa, đã được gá lắp khá muộn mằn vào đạo thờ Mẫu cũng như nhiều tôn giáo tín ngưỡng khác của người Việt.


    TAM TOÀ THÁNH MẪU

    Mẫu là quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất, nhưng lại hóa thân thành Tam vị, Tứ vị Thánh Mẫu cai quản các miền khác nhau của vũ trụ: Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn.
    Mẫu Thượng Thiên

    sáng tạo bầu trời và làm chủ quyền năng mây, mưa, sấm, chớp. Về phương diện vũ trụ quan, ta có thể thấy quan niệm về Mẫu nói chung và Mẫu Thiên nói riêng, trong quan niệm của dân gian về Tứ Pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Lôi, đó là bốn vị Nữ thần tạo ra mây, mưa, sấm, chớp, vốn liên quan tới Thần mưa của tín ngưỡng nông nghiệp. Thực ra những huyền thoại và thần tích của Mẫu Thượng Thiên đều trực tiếp liên quan tới Thánh Mẫu Liễu Hạnh, là hoá thân của Mẫu Thượng Thiên, vị thần chủ cao nhất và được thờ cúng nhiều nhất trong Đạo Mẫu ở nước ta.

    Trong điện thần Tứ Phủ, Mẫu Liễu Hạnh là vị Thánh xuất hiện khá muộn, mà theo hiểu biết hiện nay sớm nhất cũng chỉ vào khoảng thế kỷ XVI, thời Hậu Lê, nhưng nhanh chóng trở thành vị Thần chủ của đạo Mẫu và được tôn vinh hơn tất cả các Thánh Mẫu khác.

    Cũng theo quan niệm dân gian, Mẫu Liễu còn có thể hóa thân vào Mẫu Thượng Ngàn trông coi miền rừng núi, hay thành Địa Tiên Thánh Mẫu - Mẹ Đất, cai quản mọi đất đai và đời sống sinh vật. Vào tới Huế, Thánh Mẫu Vân Cát (tức Mẫu Liễu) được phối thờ cùng với thánh Mẫu Thiên Ya Na nguyên gốc Chăm, là vị thần chủ của điện Hòn Chén.
    Mẫu Thượng Ngàn
    Là hóa thân của Thánh Mẫu toàn năng trông coi miền rừng núi, địa bàn chính sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số. Các đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ở hầu khắp mọi nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính, gắn bó với hai truyền thuyết ít nhiều có khác biệt, đó là Suối Mỡ (Hà Bắc) và Bắc Lệ (Lạng Sơn).

    Khác với Mẫu Thượng Thiên (mà Liễu Hạnh công chúa là hiện thân) là người Trời, người Tiên, Mẫu Thượng Ngàn xuất xứ là người trần, tuy có là con gái hay cháu Vua Hùng. Đó là những người gắn bó với núi rừng, yêu thiên nhiên, cây cỏ, muông thú, người có phép tiên có thể mang lại yên vui, ấm no cho dân lành. Họ hiển Thánh và trở thành vị thần bảo hộ cho rừng núi, bản làng.
    Ở Tây Nguyên, tục thờ Mẫu do người Việt mang vào lại đồng nhất Mẫu Thượng Ngàn với Mẹ Âu Cơ - Mẹ Tiên, sau khi từ biệt với Bố Rồng - Lạc Long, đã mang theo 50 người con lên núi, sinh sống, phát triển thành các dân tộc thiểu số ngày nay và Mẹ Âu Cơ trở thành vị Thánh Mẫu cai quản vùng rừng núi. Bởi thế, các động Sơn Trang ở các đền Tây Nguyên thường tái hiện sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ.

    Mẫu Thoải

    Huyền thoại và thần tích của Mẫu Thoải tuỳ theo từng nơi có khá nhiều khác biệt, tuy nhiên, cũng có những nét chung cơ bản. Đó là vị thần trị vì vùng sông nước, xuất thân từ dòng dõi Long Vương, liên quan trực tiếp với thủy tổ dân tộc Việt buổi đầu dựng nước.

    Như vậy, trong Tam Toà Thánh Mẫu, Mẫu Thượng Thiên mà hoá thân là Thánh Mẫu Liễu Hạnh, vốn là con gái Ngọc Hoàng đã nhiều lần giáng sinh nơi trần thế. Còn lại Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải đều có nguồn gốc Sơn thần và Thuỷ thần, ít nhiều gắn bó với các nhân vật nửa lịch sử nửa huyền thoại của buổi đầu huyền sử dân tộc, như Tản Viên, Hùng Vương, Âu Cơ (Mẫu Thượng Ngàn) hay Lạc Long Vương, Kinh Dương Vương, Kinh Xuyên (Mẫu Thoải). Trong Tam Toà Thánh Mẫu ta còn thấy có sự kết hợp, đan quyện giữa tư duy mang tính vũ trụ luận (Trời, Đất, Nước), tư duy huyền thoại (Thiên Thần, Sơn Thần và Thuỷ Thần) và tư duy lịch sử (Lạc Long Quân - Âu Cơ, Hùng Vương). Đây cũng là một khía cạnh tâm lý mang đặc thù Việt Nam.


    NGŨ VỊ VƯƠNG QUAN

    Sau hàng Mẫu là Ngũ vị Quan lớn (hàng Quan), gọi tên từ Quan Đệ Nhất đến Quan Đệ Ngũ, tuy nhiên không phải là không có quan niệm về sự hiện diện của Thập vị Quan lớn thuộc hàng Quan. Thường thì 5 vị đầu hay giáng đồng hơn, có lai lịch hoặc là Thiên thần hoặc là Nhân thần, 5 vị còn lại thì ít giáng đồng, bởi vậy thần tích cũng không được rõ ràng. Ở đây một lần nữa ta lại gặp hiện tượng con số 5 và bội số 2 của con số này.

    Trong Ngũ vị Quan lớn thì Quan Đệ Nhất và Quan Đệ Nhị có nguồn gốc Thiên thần. Quan Đệ Nhất vâng mệnh Ngọc Hoàng xuống trần cứu giúp dân lành khỏi sự quấy phá của tà quan. Quan Đệ Nhị cũng là Thiên thần xuống trần gian trấn giữ Thượng Ngàn.

    Nổi bật nhất trong hàng Quan là Quan Đệ Tam và Quan Đệ Ngũ. Hai vị này có đền thờ riêng, có thần tích và huyền thoại, đặc biệt là hay giáng đồng, nên được các tín đồ thờ cúng và tôn kính. Theo các huyền thoại lưu truyền trong dân gian cũng như lai lịch các bản văn chầu thì Quan Tam phủ là con Vua Bát Hải Đại Vương, hóa thân thành một võ tướng của Hùng Vương. Đền thờ chính của ông ở Ninh Giang, tức Đền Lảnh, ngoài ra còn có nhiều nơi thờ vọng, từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi ngược lên vùng núi.

    Quan Đệ Ngũ còn gọi là Quan Tuần, Quan lớn Tuần Tranh. Tuỳ theo từng địa phương mà lưu truyền các huyền thoại khác nhau về quan Đệ Ngũ. Quan Tuần gốc tích là con rắn thần ở sông Đò Tranh (Hải Dương). Cũng có những nơi gắn Quan Đệ Ngũ với Cao Lỗ, một võ tướng của An Dương Vương hay chính là con trai của Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Tảng, hiện được thờ ở Cửa Ông (Quảng Ninh) và ở Lạng Sơn.

    Các quan lớn trong văn chầu hay khi giáng đồng thường có tính cách quý phái, hùng dũng, nhân từ, hay làm những việc phúc đức nhưng cũng đáng sợ với người trần.

    Các vị đều mặc võ quan, mang kiếm hay kích, mặc võ phục nhưng mầu sắc thì tuỳ thuộc các vị thần thuộc Thoải phủ (trắng), Thiên phủ (đỏ), Nhạc phủ (xanh) hay Địa phủ (vàng). Quan Đệ Tam và Quan Đệ Ngũ đều thuộc Thoải phủ, dòng Long Vương Bát Hải.


    TỨ VỊ THÁNH BÀ HAY TỨ VỊ CHẦU BÀ

    Tứ vị Thánh Bà hay Tứ vị Chầu Bà được coi như là hóa thân, phục vụ trực tiếp của Tứ vị Thánh Mẫu. Tuy gọi là tứ vị Chầu Bà đại diện cho Tứ Phủ, nhưng số lượng các vị Chầu Bà có thể tăng lên tới 12 (3x4), tuy nhiên trong số đó, các Chầu Bà từ Đệ Nhất tới Chầu Lục cùng Chầu Bé thường giáng đồng, được mọi người biết rõ thần tích, có nơi thờ phụng riêng, còn các vị khác thì ít giáng đồng và không mấy người biết tới.

    Chầu Đệ Nhất là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên, Chầu Đệ Nhị là hóa thân của Mẫu Thượng Ngàn, vị Thánh thống soái trong các hàng Chầu, cai quản vùng núi non, sơn cước. Khi giáng Bà mặc sắc phục Mán, màu xanh, đặc trưng cho Nhạc phủ.

    Thuộc Nhạc phủ với Chầu Đệ Nhị còn có Chầu Lục và Chầu Bé. Chầu Lục gốc người Nùng ở Hữu Lũng (Lạng Sơn), Chầu Bé được thờ thành đền riêng ở Bắc Lệ (Lạng sơn). Còn Chầu Mười gốc người Thổ, tương truyền đã có công giúp Lê Lợi đánh tan quân Liễu Thăng, trấn ải vùng Đông Bắc nước ta.

    Đền thờ chính của Chầu Mười tại Đồng Mỏ (Lạng Sơn), nhưng đền thờ vọng Bà thì có ở khắp nơi, từ Đồng Đăng, Kỳ Cùng, Thăng Long, Núi Ngự, Sài Gòn, Vũng Tàu... tới vùng thượng như Đà Lạt, Buôn Mê Thuột, Plâycu...

    Chầu Đệ Tam là hóa thân của Mẫu Thoải. Đó là vị Thánh có dáng vẻ u buồn, y phục và khăn trùm màu trắng. Chầu Đệ Tứ là vị Thánh giữ vai trò khâm sai Tứ Phủ. Tuy đứng đầu Địa phủ, cũng có khi Bà hóa thân dưới dạng Chầu Thoải phủ, mặc màu trắng, múa mái chèo; khi lại hóa thành Chầu Thiên phủ, mặc áo đỏ, múa quạt (Chầu Đệ Tứ khâm Sai Thượng Thiên).

    Chầu Đệ Ngũ ít khi giáng đồng, trần gian ít người biết tới. Tương truyền Bà là công chúa đời nhà Lý, đi tu ở miền thượng, đền thờ Bà ở Suối Lân, Lạng Sơn. Ngoài ra, người ta còn biết tới các vị Chầu khác, như Chầu Thất - Tiên La thờ ở Hưng Hà, Thái Bình, Chầu Bát Nàn ở Đồng Mỏ, Chầu Cửu ở Bỉm Sơn, Thanh Hóa (Cửu Thiên Huyền Nữ)...

    Nói chung các vị Thánh hàng Chầu phần lớn có nguồn gốc người dân tộc ở vùng núi, thuộc Nhạc phủ, dòng Tiên nữ, đối lập với các Quan thuộc dòng Long Vương Thuỷ phủ. Khi giáng đồng, các Chầu đều ăn mặc theo trang phục dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mường, nhạc chầu văn theo điệu Xá Thượng mang đặc trưng miền núi.

    Dưới hàng Chầu là hàng các ông Hoàng, được gọi tên theo thứ tự từ Ông Hoàng Đệ Nhất tới Ông Hoàng Mười, có hẳn một bản văn chầu 10 Ông Hoàng. Tương truyền, cũng như các Quan, các Ông Hoàng đều có gốc tích là con trai Long Thần Bát Hải Đại Vương ở hồ Động Đình, tuy nhiên, theo khuynh hướng địa phương hóa thì các ông Hoàng đều gắn với một nhân vật nào đó ở cõi nhân gian, những danh tướng có công dẹp giặc, những người khai sáng, mở mang cho đất nước.

    Trong số mười Ông Hoàng thì thường có sáu Ông giáng đồng, trong đó có ba Ông giáng rất thường xuyên, đó là Ông Hoàng Bơ, Ông Hoàng Bảy, và Ông Hoàng Mười. Khi giáng đồng, các Ông Hoàng có phong cách gần giống các Quan Lớn, tuy nhiên có phần hào hoa phong nhã, vui tươi và quan hệ với người trần vui vẻ hơn so với các Quan.

    Hàng Cô được gọi tên từ Cô Đệ Nhất (Cô Cả) đến cô thứ 12 (Cô Bé), đều là các thị nữ của Thánh Mẫu và các Chầu. Tuy nhiên, khi giáng đồng các Cô có thể hóa thân vào các vai trò khác nhau của Tứ Phủ. Có hẳn một bài văn chầu kể về 12 cô. Cô Đệ Nhất là thị nữ của Mẫu Thượng Thiên, ăn mặc rất đẹp, Cô Đôi là thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn, giáng đồng với hai bông hoa cài trên mái tóc. Cô Bơ (Ba) thuộc Thuỷ phủ rất nổi tiếng, giáng đồng mặc y phục màu trắng, thắt lưng hồng, múa điệu chèo đò. Cô chữa bệnh cứu người bằng cách ban nước uống, nhưng cũng có thể gieo bệnh nếu kẻ nào dám làm trái những sở thích của Cô. Cô thứ tư là thị nữ của Chầu Đệ Tứ, cô thứ năm thuộc Chầu Đệ Ngũ, nhưng cũng có khi hóa thân với vai trò thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn hay Thượng Thiên, cô thường xuất hiện trong các bữa tiệc, Cô thứ sáu thuộc phủ Thượng Ngàn, ăn mặc quần áo chàm, đeo túi hoa, tóc cài hoa rừng, lưng dắt con dao nhỏ, cô hay đi hái cây thuốc chữa bệnh cứu người. Cô thứ Chín là thị nữ của Mẫu Thượng Ngàn, khi giáng đồng Cô nói tiếng Mán, tiếng Mường, múa với bó hương cháy rừng rực trên tay, thêu hoa trên tấm vải. Người ta gắn cho cô trông coi Đền Sòng Sơn, một nơi rất linh thiêng. Cô Bé (Cô thứ mười hai) còn gọi là Cô Bé Bắc Lệ, Cô Bé Thượng Ngàn, có đền thờ riêng ở Bắc Lệ.

    Các Cô được gọi tên theo thứ tự như vậy, nhưng tuỳ theo địa phương, các Cô còn được gọi với các tên gắn với từng vùng, như Cô Bé Bắc Lệ, Cô Cam Đường, Cô Chín Giếng, Cô Đồng Mỏ...

    Các Cậu Quận là những người chết trẻ, từ l - 9 tuổi, hiển linh thành các bé Thánh. Người ta không biết rõ đầy đủ về 10 hay 12 vị thuộc hàng Cậu, họ là các phụ tá của các Ông Hoàng. Thường thì lần lên đồng nào cũng có giá Cậu Bơ (Ba) và Cậu Bé. Đó là những giá đồng với tính cách phóng túng, tinh nghịch, quần áo kỳ cục, lời nói ngọng ngịu của trẻ con, kèm theo các điệu múa lân hay múa hèo khá sôi nổi.
    Trong điện thần của đạo Mẫu còn có sự hiện diện của Hổ (Ngũ Hổ) và Rắn (Ông Lốt). Nơi thờ thần Ngũ Hổ ở hạ ban, phía dưới điện thờ Công Đồng, còn hình tượng ông Lốt là đôi Bạch xà nằm vắt ngang phía trên điện thờ chính. Trong quan niệm dân gian, Hổ là vị chúa cai quản rừng núi, còn Rắn thần là ở nơi sông nước. Trong hầu đồng, tuy không thường xuyên, nhưng cũng có trường hợp các vị Ngũ Hổ hay Ông Lốt (rắn) giáng đồng.

    Ngũ Hổ cai quản bốn phương và trung tâm, là con vật quyền uy, là thần chiến trận, cứu giúp các chiến tướng trong trận mạc. Trong tín ngưỡng dân gian, Hổ là kẻ thù của ác thần, tà thần, chuyên hãm hại người sống cũng như người đã chết, là vị thần linh canh cửa các ngôi đền. Trong số các ông đồng và bà đồng, một số ít người có căn Quan Lớn Hổ, khi hầu đồng họ thường được các vị thần Hổ giáng. Mọi người có thể cầu xin vị thần Hổ này giúp trừ tà gây dịch bệnh, phòng ngừa trộm cắp... Khi hầu đồng thần Ngũ Hổ, các ông đồng, bà đồng thường làm các động tác như phun lửa, nhai bó hương cháy, làm các động tác Hổ ngồi, Hổ vồ mồi...

    Trong đạo Mẫu Tứ Phủ, đây đó người ta còn nhắc tới Phủ Trần Triều, một phủ thuần tuý mang tính chất nhân Thần. Bởi thế cần xem xét Đức Thánh Trần cùng với các thuộc hạ của Ông trong hệ thống điện thần Tứ Phủ cũng như trong thực hành tín ngưỡng.

    Về phương diện điện thần, Đức Thánh Trần được coi là một vị Thánh Tứ Phủ. Trong khá nhiều đền, điện của đạo này đều có ban thờ riêng Ông cùng với các thuộc hạ. Tuy nhiên về hàng bậc cũng như phủ của Ông trong Tứ Phủ lại không dễ xác định. Ông là một nam thần. Ông thường được quy về dòng Long Vương, Bát Hải Đại Vương, thậm chí còn được đặt riêng ra thành một phủ Nhân thần, phủ Trần Triều. Về hàng bậc, có lúc Ông được đổng nhất với Vua Cha trong đối sánh với Thần Mẹ, ngày giỗ và lễ hội kèm theo của Ông cũng đồng nhất với ngày giỗ Cha ""tháng Tám giỗ Cha"" cùng với Bát Hải Đại Vương. Nơi thờ Ông ở Kiếp Bạc, có ngọn núi xèo rộng ra ôm lấy thung lũng trước mặt ngôi đền là núi Nam Tào và Bắc Đẩu. Như vậy trong tâm thức dân gian, nghiễm nhiên Ông được coi như là Ngọc Hoàng, một loại Vua Cha cao hơn, bên trên cả Thánh Mẫu. Tuy nhiên, không giống như Vua Cha Ngọc Hoàng hay Vua Cha Bát Hải, các vị chỉ ngự trên điện thần chứ không giáng đồng, các Thánh hàng Mẫu cũng chỉ giáng chứ không nhập đồng (hầu tráng mạn), còn Đức Thánh Trần và một số thuộc hạ của Ông thì lại giáng đồng chuyên để trừ tà, cứu chữa con bệnh, tạo nên hẳn một dòng Thanh đồng phân khác với hình thức hầu đồng của dòng đồng cốt thờ Mẫu. Trong thứ tự giáng đồng của những người có căn Trần Triều thì thường là sau khi Mẫu giáng, và trước các vị Thánh hàng Quan. Đấy là chưa kể hình thức lên đồng để trừ tà thường diễn ra trong dịp lễ tiết của Đức Thánh Trần ở những nơi thờ tự chính của Ông.

    Một vấn đề đặt ra là trong môi trường và điều kiện nào một quý tộc và danh tướng như Trần Quốc Tuấn đã từng lập nên những danh tích của triều đại nhà Trần sau đó lại trở thành Ông Thánh của Đạo giáo, với quyền pháp của một đạo sĩ và thày phù thủy chuyên trừ đuổi ma tà chữa bệnh cho phụ nữ và cũng dần hội nhập vào dòng tôn thờ Thánh Mẫu Tứ Phủ. Theo ý kiến của Giáo sư Trần Quốc Vượng, thời nhà Trần, bên cạnh đạo Phật, Đạo giáo khá thịnh hành, nhiều người thuộc giới quý tộc, hoàng thân cũng là những đạo sĩ, tín đồ đạo giáo, trong đó có Trần Hưng Đạo. Từ sau khi chiến thắng giặc Nguyên - Mông, được phong vương, Ông quay trở về sống ở Kiếp Bạc, vui thú với cảnh sắc thiên thiên, làm thuốc chữa bệnh cứu người. Huyền thoại về việc Ông dùng ma thuật để trừ tà Phạm Nhan chỉ là sự lịch sử hóa, huyền thoại hóa một thực tế Ông là một thầy thuốc có tài chữa bệnh hậu sản, bệnh của phụ nữ. Với lại, trong dân gian, việc chữa bệnh bằng thuốc luôn đi liền với các hành động có tính ma thuật. Bởi vậy, sau khi Trần Hưng Đạo qua đời, danh tiếng và uy tín của Ông đã được huyền thoại hóa, khoác ra ngoài cái vỏ tín ngưỡng và lưu truyền mãi về sau, cho tận tới ngày nay.

    Còn việc Ông trở thành một vị Thánh trong điện thần Tứ Phủ, thậm chí còn đồng nhất Ông với Vua Cha kề cận với Vua Cha trong đối sánh với Thánh Mẫu, thì cũng không có gì khó hiểu. Với tư cách là một vị tướng, một đạo sĩ của Đạo giáo, vốn gốc dòng họ gắn liền với miền sông nước vùng hạ lưu, lại lập những chiến công thuỷ chiến vang dội, Ông dễ được dân gian khoác thêm chiếc áo thần linh, quy về dòng thuỷ thần Long Vương, được thờ phụng cùng với Bát Hải đại vương, vị thần chuyên coi vùng sông nước và biển cả.

    Cũng cần phải phân biệt giữa thờ phụng Đức Thánh Trần với tư cách là một anh hùng dân tộc, một đạo sĩ của dòng Đạo giáo với một Đức Thánh Trần được coi như một Vua Cha trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ. Trong nhiều điện, đền thờ Mẫu Tứ Phủ có ban thờ Đức Thánh Trần, nhưng ngược lại, trong các đền thờ chính của ông ở Kiếp Bạc, Bảo Lộc, Cổ Trạch... thì hầu như không có Mẫu và điện thần thờ Mẫu. Như vậy rõ ràng việc tôn thờ Đức Thánh Trần với những đặc tính tiềm tàng của nó như đã trình bày trên, một phần đã được thu hút và hội nhập vào tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ Phủ, nhất là ở những giai đoạn muộn của nó. Điều đó cũng góp phần giải thích vì sao sự hội nhập này không diễn ra đều khắp mọi nơi. Chỉ xin đơn cử ở Phủ Giầy, nơi trung tâm của đạo Mẫu, thì trong điện thần phối tự, vai trò của Đức Thánh Trần và kể cả Vua Cha Bát Hải đại vương đều khá mờ nhạt. Trong khi đó thì Lý Bôn với vai trò là Vua Cha, vị thuỷ thần, thì có tới hai đền, một ở Tiên Hương, một ở Vân Cát, đều gọi là Đền Vua nằm kề sát phủ trong quần thể các đền của Phủ Giầy. Tháng 8 hàng năm là kỳ giỗ kỵ ở Đền Vua, giống như vua Cha ở Đền Đồng Bằng (Thái Bình) và Kiếp Bạc (Hải Dương), nơi thờ Vua Cha Bát Hải và Đức Thánh Trần.

    Cùng với Đức Thánh Trần, con trai, hai vương cô và các vị tướng của Ông cũng có thể giáng đồng, tuy những trường hợp như vậy rất hãn hữu. Con trai của Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Tảng thờ ở đền Cửa Ông (Quảng Ninh), tướng Phạm Ngũ Lão thờ ở đền Phù Ủng (Bắc Ninh), đặc biệt là người con gái là Vương Cô Đệ Nhất và Vương Cô Đệ Nhị được nhập vào hàng Cô của đạo Tứ Phủ, luôn luôn hầu cận hai bên Thánh Cha .

    Ở phần trên, chúng tôi cố gắng hệ thống lại điện thần của Đạo Mẫu Tứ Phủ mang tính chung và ước lệ nhất. Tuy nhiên, với các địa phương thì trên cái khung chung đó, sự sai biệt mang sắc thái địa phương là một thực tế hiển nhiên. Nói chung, điện thần và phối tự trong các đền Mẫu ở Nam Bộ không có mấy sai biệt (ở đây chỉ nói đền thờ Mẫu Tứ Phủ, còn các đền thờ khác Mẫu khác như Bà Đen, Bà Chúa Xứ thì không thuộc hệ thống này) so với các đền thờ Mẫu ở Bắc Bộ. Có chăng trong điện thần ta thấy có thêm một số các vị Thánh địa phương, như Lê Văn Duyệt, được coi như là một vị Thánh hàng Quan, có vai trò trừ ma tà như Quan Tuần, Đức Thánh Trần ở ngoài Bắc. Bà Chúa Xứ cũng có lúc giáng đồng trong các đền thờ Mẫu Tứ Phủ, được coi như vị Thánh Mẫu hàng Chúa (Chầu)...

    Điện thần ở Điện Hòn Chén, trung tâm thờ Mẫu ở Huế cũng như một số ngôi đền khác, về cơ bản vẫn là Thờ Mẫu Tứ Phủ, tuy nhiên sắc thái địa phương thì thể hiện rõ rệt hơn. Trước nhất, nếu như trong điện thờ Tam vị Thánh Mẫu, Mẫu Thượng Thiên hay Mẫu Liễu ngồi chính giữa, thì trong tất cả các đền ở Huế thay bằng Thánh Mẫu Thiên Ya Na, một nữ thần nguồn gốc Chăm (Mẹ Xứ Sở) đã bị Việt hóa. Hai bên tả và hữu của Mẫu Thiên Ya Na là Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn. Có một số ít ngôi đền, trong đó có Hòn Chén thì có ban thờ Thánh Mẫu Liễu cùng với Quế Hoa và Quỳnh Hoa được thờ thấp hơn phía trước Tam vị Thánh Mẫu đã kể trên. Hàng các vị Thánh Bà (hàng Chầu) được gọi theo tên Ngũ Hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ: Đệ Nhất Kim Tinh thần nữ, Đệ Nhị Mộc Tinh thần nữ, Đệ Tam Thuỷ Tinh thần nữ, Đệ Tứ Hoả Tinh thần nữ và Đệ Ngũ Thổ Tinh thần nữ. Trong hàng thất thánh (7 vị Thánh) tương đương như hàng quan thì ở Huế có thờ Vua Đồng Khánh, nguyên là tín đồ Đạo Mẫu, là vị vua đầu tiên thừa nhận tính chính thống của Đạo Mẫu, người bỏ tiền của ra để xây dựng và tôn tạo các điện Hòn Chén thờ Mẫu ở Huế. Trong khá nhiều ngôi đền, điện, bên cạnh tượng Ngọc hoàng như các đền ngoài Bắc, thì thường có thêm tượng Quan Thế Âm, ban thờ Quan Thánh, thậm chí có nơi còn thờ Bản Thổ Thành Hoàng...

    Như vậy là điện thần thờ Mẫu cao nhất ở Huế về cơ bản vẫn là Mẫu Tứ Phủ, nhưng vị Thánh Mẫu cao nhất, Thánh Mẫu Thiên Ya Na thì lại là kết quả của sự giao thoa văn hóa Việt - Chăm. Thực ra, ở người Việt, người Chăm, Khơme và nhiều dân tộc khác ở Việt Nam và Đông Á đều có nét văn hóa chung là tôn thờ nữ thần, tôn vinh vị thần cội nguồn của đất nước và dân tộc là Nữ thần, gọi là Thánh mẫu - Thần Mẹ. Nếu người Việt có Tam Toà Thánh Mẫu, Mẫu Liễu được tôn vinh là Mẫu Nghi Thiên Hạ, thì người Chăm có vị thần xứ sở Pô Inư Nưgar, Thiên Ya Na. Khi vượt sông Gianh vào đất trung và nam Trung Bộ, người Việt đã tiếp thu và Việt hóa nhiều yếu tố văn hóa Chăm, trong đó có Nữ thần Xứ sở, Bà Mẹ xứ sở của Chăm thành Mẫu của người Việt. Tục thờ Mẫu ở Hòn Chén và Tháp Bà (Nha Trang) chính là thể hiện quá trình hỗn hợp dung và giao lưu văn hóa đó.

    Ở miền Bắc cũng như trong Nam, bên cạnh các đền thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ phủ, mà điện thần của nó chúng tôi đã giới thiệu ở trên, thì còn tồn tại một hình thức tín ngưỡng thờ Mẫu thần nằm ngoài hệ thống Mẫu Tam Phủ, được gọi với những tên, như Bà Chúa (Bà chúa Xứ), Bà Đen hay Linh Sơn Thánh Mẫu, thờ Bà (Tháp Bà ở Nha Trang) Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Động, Bà Thủy, Bà Hoả, Bà Thiên Hậu, Tống Hậu, các đền thờ Vương Mẫu (Mẹ Thánh Gióng), Quốc Mẫu (đền thờ Mẹ Âu Cơ) và Thánh Mẫu khác (Ỷ Lan). Tuy với những tên gọi khác nhau, nhưng đều có nguồn cỗi chung từ tục thờ các Nữ thần. Tuy nhiên, không phải nữ thần nào cũng thành Bà, thành Chúa và đặc biệt là thành Mẫu. Chúng tôi cũng đã tiến hành khảo sát một số đền thờ Mẫu cũng thuộc loại trên ở miền Bắc, như Đền thờ Vương Mẫu (Mẹ Thánh Gióng) ở Phù Đổng, đền thờ Ỷ Lan Thánh Mẫu ờ Dương Xá, Gia Lâm, đền thờ Tống Hậu Quốc Mẫu ở Hải Hậu (Nam Định)... Trên cơ sở những khảo sát như vậy, bước đầu có nhận xét sau:

    - Việc thờ Mẫu kể trên nẩy sinh và phát triển trên cơ sở thờ Nữ thần, nó thuộc loại hình tín ngưỡng thờ thần mà có người gọi là Thần Đạo, một đạo mang bản sắc Việt Nam rõ rệt nhất.

    - Tuy không hoàn toàn thuộc Đạo Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ, một biến thể của đạo giáo Việt Nam, nhưng giữa tục thờ Mẫu này và đạo Mẫu Tứ Phủ có những nền tảng chung là tôn thờ Nữ thần và thờ Mẫu thần, có sự thâm nhập và ảnh hưởng qua lại, trong đó nổi bật là tục thờ Mẫu thần và Nữ thần đều tiếp thu ảnh hưởng trở lại của Mẫu Tam phủ, Tứ Phủ, thể hiện qua điện thờ, nghi lễ thờ cúng, tục lên đồng và lễ hội.


    Từ việc xem xét hệ thống điện thần đạo Mẫu có thể rút ra một số nhận xét sau:

    l. Hệ thống thần linh Tam phủ, Tứ Phủ gồm các Thiên thần và nhân thần, là các vị thần linh có nguồn gốc nhân thần hay thiên thần. Tuy nhiên, xu hướng ""nhân thần hoá"" và ""lịch sử hoá"" là xu hướng chính trong quá trình ""thêu dệt"" nên thần tích các vị Thánh này. Vị Thánh Mẫu Liễu Hạnh ra đời chậm trễ nhất trong số các Thánh Mẫu, nhưng thần tích của Bà cũng được người đời ""trần thế hóa"", ""địa phương hóa"" và ""lịch sử hóa"" một cách khá trọn vẹn, để từ đó Bà bước lên ngôi thứ cao nhất trong điện thần Tứ Phủ. Còn biết bao vị thần khác đều có nguồn gốc xuất thân, lý lịch ""nhập thể" với bao công lao, kỳ tích, gắn liền với lịch sử giữ nước và dựng nước của dân tộc, tạo cho nó trờ thành một biểu tượng của lòng yêu nước mang đầy tính tâm linh. Cũng chính vì thế họ đều là các phúc thần, có thể xua đuổi các tà mà, mang lại tài, lộc, sức khoẻ cho con người.

    2. Các thần linh Tứ Phủ còn được phân thành một bên là các nữ thần và bên kia là nam thần, tuy thứ bậc chính của mỗi vị Thánh trong điện thần phụ thuộc vào việc họ thuộc hàng nào từ trên xuống dưới, như Thánh Mẫu - Vua Cha, các Quan, các Chầu, Ông Hoàng, các Cô Cậu hay thuộc phủ nào mà họ cai quản: Thiên phủ, Thuỷ phủ, Nhạc phủ hay Địa phủ. Về phương diện hữu thức là như vậy, nhưng nếu chúng ta đi sâu vào tầng vô thức thì việc phân chia trên lại bao hàm một ý nghĩa sâu xa nào đó.

    Tuy là đạo thờ Mẫu, và Mẫu là vị thần có quyền năng sáng tạo tối thượng, nhưng trong điện thần, các vị thần vẫn chia thành dòng Cha và dòng Mẹ. Thánh Mẫu với các hoá thân trực tiếp là các Chầu và những người giúp việc là các Cô. Còn bên kia là Vua Cha và thuộc dòng Vua Cha là các quan, các Ông Hoàng và Cậu. Tất nhiên, sau này trong quan niệm dân gian, tuy Mẫu là một, là ""nhất thể"" nhưng lại hoá thân thành "tam vị"" Thiên, Địa, Thuỷ, hay Vua Cha cũng chỉ có một, sau lại chia thành Vua Cha Thuỷ phủ, Vua Cha Nhạc phủ, Vua Cha Thiên phủ, Vua Cha Địa phủ. Nhưng cuối cùng, thuỷ tổ của Thánh Mẫu vẫn là dòng Tiên, còn thuỷ tổ của Vua Cha vẫn là dòng Long Vương - dòng Rồng, mà cái đó người Việt đã khái quát trong huyền thoại suy nguyên: Lạc Long Quân và Âu Cơ. Cũng bởi lẽ đó, hội thờ Đức Thánh Tiên Mẫu tức Giỗ Mẹ vào tháng ba, còn ngày hội Vua Cha tức giỗ Cha vào tháng Tám “Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ”

    Một khía cạnh khác của giới tính các thần linh trong điện thờ Tứ Phủ là số lượng các vị Thánh trong mỗi hàng. Thuộc dòng Mẫu - Mẹ, ta thường thấy Tứ vị Thánh Mẫu, Tứ vị Chầu Bà, rồi cũng có thể tăng lên Bát vị Chầu Bà, thậm chí 12 vị Chầu. Đối với hàng Cô, ta cũng thường gặp các con số 4, 6, 8, 12. Như vậy, thuộc dòng Thánh Mẫu, ta thấy số lượng các vị thần trong mỗi hàng là chẵn: 4,6,8,12. Còn với dòng Vua Cha, Nam thần, thì có Ngũ vị tôn Ông, rồi Thập vị Tôn Ông, Ngũ vị Ông Hoàng hay Thập vị Ông hoàng, tức là con số lẻ và bội số của nó, tức 5 và 10...

    Có thể giải thích hiện tượng các con số này từ quan niệm dân gian về con số thiêng, trong đó con số lẻ là con số ""cơ"" (cố định) gắn với dương, đực, đàn ông, nam tính, còn con số chẵn là con số ""ngẫu"" (không cố định), gắn với âm, cái, nữ tính. Đây là những con số mang tính biểu tượng, thiêng liêng , thể hiện tính lưỡng phân lưỡng hợp giữa dòng vua Cha và các Nam thần, Thánh Mẫu và các Nữ thần.

    3. Từ việc xem xét hệ thống điện thần, tên gọi mỗi vị thần linh, cách thức bài trí thờ cúng trong các đền, điện, ta thấy toát lên những biểu tượng mang ý nghĩa vũ trụ quan, nhân sinh quan sâu sắc. Trước nhất, điện thần Tứ Phủ là một mô thức vũ trụ thu nhỏ với hai cặp Thiên - Địa, Rừng Núi - Sông Nước (Sơn - Thủy), trong đó cặp Thiên - Địa (dương - âm, đực - cái) là cặp trụ cột của hệ thống Tứ Phủ. Cũng từ đây gắn với các quan niệm về tứ phương, ngũ phương, ngũ hành (Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hoả, Bà Kim, Bà Thổ). Trong một vũ trụ được quan niệm như vậy Mẫu - Mẹ, nữ tính thâu tóm quyền năng sáng tạo, sinh sôi và bảo trữ. Đó là một vũ trụ mang tính ""nhất nguyên"" (nguyên lý Mẫu) nhưng ""lưỡng cực" (âm - dương, nữ tính - nam tính). Ở đây một lần nữa chúng ta thấy việc thờ nữ thần chính là cách nhân hoá việc thờ các lực lượng tự nhiên.

    Ở tầm vĩ mô, Tam phủ, Tứ Phủ đồng nhất với vũ trụ, trời đất, còn ở tầm vi mô, Tứ Phủ lại mô phỏng như một gia tộc, theo quan niệm truyền thống ""nhân thân tiểu thiên địa"". Hơn thế nữa, đó còn là một gia tộc đã được cung đình hóa. Cao nhất có Cha - Mẹ, Vua Cha - Thánh Mẫu, có các quan, các Chúa, các Ông Hoàng, có các Cô, các Cậu... Lễ tiết thì có “tháng giỗ Cha , tháng giỗ Mẹ”. Cô, Cậu đều là các vị thánh hiển linh từ những chàng trai, cô gái chết trẻ, mà không phải khó khăn lắm để có thể nhận ra một hình thức thờ Bà cô, Ông mãnh của bất cứ gia tộc, dòng họ nào.
    Cung đình hóa một điện thần là điều dễ nhận biết nhất, thông qua cách thức bài trí, hệ thống xưng hô, trang phục của các linh tượng và của các vị Thánh khi giáng đồng. Đấy là chưa kể, các thần tích của khá nhiều vị Thánh đều được gắn cho các chức vị, nào là công chúa, hoàng tử của các triều đình kể từ thời Hùng Vương đến sau này, nào là các quan văn, quan võ lừng danh một thời. Cách bài trí nào "tam toà"", "lục viện"", y hệt triều đình phong kiến nhà Nguyễn. Tất cả những cái đó đều nói lên một điều khi con người tạo ra thần thánh cho mình thì chính mô thức xã hội con người lại trở thành hệ quy chiếu cho ""xã hội"" thần thánh.


    Kính chào bác ạ! kiến thức bác chia sẻ sẽ giúp nhiều nhân giả hiểu thêm về đạo mẫu. Có điều này xin bổ sung ạ! Bác có Biết Mẫu Hoàng Thiên, Mẫu Bán Thiên, Mẫu Cửu Trùng Thiên. Đền thờ quan Đệ Tam là Lảnh Giang Hà Nam. Ông rất giỏi Đầu ông ở Hưng Yên Thân Hà Nam Phủ Lý. Quan đệ tứ Khâm Sai kề cận Ngọc Hoàng chuyên dân sớ sách nhanh chóng. đã xuống tứ phủ làm Việc .
    Thân Ái!
    Last edited by huyuitcs; 02-01-2017 at 10:31 PM.
    Ngọc Bất Trác Bất Thành Khí - Nhân Bất Học Bất Tri Lý

  7. #107
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của thienhung_wu
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    4,412

    Mặc định

    Lên đồng

    Trích: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

    Lên đồng hay còn gọi là hầu đồng, hầu bóng, đồng bóng là một nghi thức trong hoạt động tín ngưỡng dân gian (dòng Saman giáo) của nhiều dân tộc, trong đó có tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Về bản chất, đây là nghi thức giao tiếp với thần linh thông qua các tín đồ Saman giáo (ông đồng, bà đồng). Người ta tin rằng các vị thần linh có thể nhập hồn vào thân xác các ông đồng, bà đồng nhằm phán truyền, diệt trừ tà ma, chữa bệnh, ban phúc, ban lộc cho các con nhang, đệ tử. Khi thần linh nhập vào đồng thì lúc đó các ông đồng, bà đồng không còn là mình nữa mà là hiện thân của vị thần nhập vào họ.

    Ở Việt Nam, lên đồng là nghi thức không thể thiếu trong các thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, (Được gọi là Thanh Đồng)... Về hình thức, nghi thức lên đồng hầu về Hội đồng Thánh Trần mang tính saman nặng hơn khi lên đồng hầu về Tứ Phủ bởi hầu về Hội đồng Thánh Trần có các hành động trực tiếp lên thể xác Thanh Đồng (người ở ngoài nhìn đôi khi thấy sợ)như đi trên than hồng, xiên lình(dùng thanh sắt sắc nhọn đâm xuyên vào hai má và miệng thanh đồng), ăn lửa, lên đai (1 hình thức thắt cổ, có người được gọi là sát căn, có khi lên 3 đai)...

    Người đứng giá hầu đồng gọi chung là Thanh Đồng, Thanh Đồng là nam giới thì được gọi là "cậu", nữ giới được gọi là "Cô hoặc Bà Đồng". "Cậu" thường mặc bộ quần áo lụa, mặt tô son điểm phấn (tóc có thể để dài như con gái). Thường có hai hoặc bốn phụ đồng (được gọi là nhị trụ hoặc tứ trụ hầu dâng) đi theo Thanh Đồng để chuẩn bị trang phục, lễ lạt...Trong một buổi lên đồng thì có rất nhiều "giá". Mỗi lần thay giá, người ta lại phủ lên "cậu" một tấm khăn lụa đỏ, sau đó bỏ ra và lúc này Thanh Đồng đang ở một "giá" mới và phải thay bộ trang phục xống áo, khăn chầu, cờ quạt, đồ hầu dâng... sao cho tương xứng với "giá" này. Khi thì Thanh Đồng hóa thân thành một vị tướng, khi thì là một quan lớn uy nghiêm oai vệ, lúc lại hóa thân thành một cô gái đang tung tăng nhảy múa..Điệu múa của Thanh Đồng cũng được thay đổi theo đặc điểm của "giá". "Giá" quan thường múa cờ, múa kiếm, long đao, kích; giá các chầu bà thì múa quạt, múa mồi, múa tay không; giá ông hoàng thì có múa khăn tấu, múa tay không, múa cờ; giá các cô múa quạt, múa hoa, chèo đò, múa thêu thùa, múa khăn lụa, múa đàn, múa tay không; giá các cậu thường múa hèo, múa lân... Nghi lễ Thánh giáng phải theo thứ tự từ cao đến thấp từ Thánh Mẫu đến hàng Quan, Chầu, ông Hoàng, hàng Cô và Cậu. Số lượng giá trong một buổi lên đồng có khi lên tới 36 giá.

    Trong lúc Thanh Đồng đang hoá thân thì bốn phụ đồng ngồi quỳ chân ở dưới cũng nghiêng ngả và múa may hưởng ứng Thanh Đồng theo nhịp câu hát. Những nắm tiền lẻ sau khi được Thanh Đồng tung ra, ban phát cho những người xung quanh được coi là tiền lộc và được những người dứng xem xung quanh nhặt lấy cất giữ để lấy may. Nhạc hát thông thường là điệu chầu văn hoặc là hát nói có nội dung ca ngợi sự linh thiêng của thần thánh và vẻ đẹp tiên giới. Nhạc khí chủ đạo là đàn nguyệt, bên cạnh nó là phách, cảnh, sênh, trống chầu, chuông, trống…Ở miền Bắc Việt Nam có Phủ Giầy là nơi hay tổ chức lên đồng nhiều nhất.
    Với các giá ông Hoàng thì nhóm đàn hát (được gọi là "Cung văn") sẽ ngâm các bài thơ cổ. Lúc này, Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác thưởng tiền cho Cung văn và dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu, thuốc lá, trầu nước...Tới giai đoạn cao trào của Thánh thì người đứng giá thường múa gươm hoặc bơi thuyền. Do vậy, ở Việt Nam có câu hát "cậu bắn súng lục, cô bơi thuyền rồng" là để chỉ sự này.
    Một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có nghi thức giao tiếp với thần linh như tín ngưỡng Mỡi của người Mường, tín ngưỡng Then của người Tày, Nùng. Tuy nhiên, khác với nghi thức lên đồng của người Việt, sự giao tiếp với thần linh ở Mỡi và Then chủ yếu thông qua hình thức xuất hồn, tức là các ông Mỡi, bà Then có khả năng thoát hồn khỏi xác bay đi gặp gỡ, cầu xin thần linh phù hộ cho dân chúng.

    Ngày nay, lên đồng vẫn còn là nhu cầu tâm linh, là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của một bộ phận người Việt. Các nghi lễ này thường được tổ chức nhiều lần trong một năm vào các dịp lễ tiết, thường là tại các lễ hội đền thánh, phủ mẫu... Ngoài việc lên đồng để giao tiếp với thần linh, truyền thống tín ngưỡng Việt Nam còn tin tưởng rằng sau khi chết, linh hồn người chết vẫn còn và theo dõi cuộc sống của người thân đang sống. Do đó, khi lên đồng, linh hồn của người chết có thể nhập vào đồng cô, đồng cậu (người gọi đồng) để trò chuyện với thân nhân đang sống. Thông qua cuộc trò chuyện âm-dương này, người sống sẽ biết được những yêu cầu của người thân quá cố về mỗ mả để điều chỉnh và cúng xin cho phù hợp. Đồng thời, thông qua cuộc đối thoại này, người sống cũng biết được vận mạng tương lai của mình.

    Tại Việt Nam hiện nay, hoạt động lên đồng bị chính quyền xem là hoạt động mê tín dị đoan do nhiều trường hợp việc lên đồng đã bị nhiều người lợi dụng vào mục đích xấu. Tuy nhiên, nhiều hội thảo khoa học nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian Việt Nam, trong đó có lên đồng đã được tổ chức, nhiều ấn phẩm của các học giả đã được xuất bản. Hiện tín ngưỡng hầu đồng đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại ngày 1/12/2016

    [[[Chiều ngày 1/12 (theo giờ địa phương), với sự thống nhất của toàn thể Hội nghị, Ủy ban đã chính thức ra nghị quyết công nhận “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt” là Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại]]]


    Đại sứ Phạm Sanh Châu và phái đoàn Việt Nam tại Hội nghị


    Phạm Sanh Châu, Đại sứ, Đặc Phái viên của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam về các vấn đề UNESCO
    Thần Chú
    Namo Tassa Bhagavato Arahato
    Samma Sambud dhassa.

    (Nằm mơ thấy ác mộng, bị ma đè, sợ ma, đi đường bất an v.v. thì hãy niệm chú này, tâm sẽ được bình an)
    https://www.youtube.com/watch?v=vsaBKh1PRSs

  8. #108
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của thienhung_wu
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    4,412

    Mặc định

    Trích: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

    Trong văn học, Tú Xương đã viết 1 bài thơ "Lên đồng":

    Khen ai khéo vẽ sự lên đồng
    Một lúc lên ngay sáu bảy ông
    Sát quỷ, ông dùng thanh kiếm...gỗ,
    Ra oai, bà giắt cái...khăn hồng.
    Cô giương tay ấn, tan tành núi,
    Cậu chỉ ngọn cờ cạn rốc sông.
    Đồng giỏi sao đồng không giúp nước ?
    Hay là đồng sợ súng thần công ?

    Phản hồi bài thơ của Tú Xương:

    Chẳng ai vẽ được sự lên đồng
    Năm tòa Quan Lớn gọi Tôn Ông
    Sát quỷ, Tôn Ông dùng thanh kiếm Thánh
    Ra oai, Chầu Bà Chiếu Hào Quang.
    Cô giương tay ấn, ban Gia lộc,
    Cậu chỉ ngọn cờ trăm nhà vui.
    Đồng giỏi nhưng không thể giúp nước ?
    Vì Đồng còn dở việc cứu dân!!

    Gửi cụ Tú Xương:

    Thiên sinh tạo hoá phép ảnh đồng
    Hội đồng quan lớn hiệu tôn ông
    Sát quỷ hô thần thanh kiếm Thánh
    Ra uy tạo gió phép hô phong
    Cô ra tay cứu bao người sống
    Cậu ứng phép thần đục hoá trong
    Ai bảo là đồng không giúp nước
    Âm phù dương trợ chẳng kể công

    Bao đời nay, quyền trời phép thánh, quyền sơn lâm phép sơn trang cứu nhân độ thế, âm phù dương trợ bao triều đại được gia phong gia tặng uy nghiêm tôn kính. Trong cách mạng, các đền phủ không chỉ là nơi hương khói phụng sự mà nhiều nơi là căn cứ cách mạng nơi cứu dân độ thế.
    "Ai bảo là đồng không giúp nước
    Âm phù dương trợ chẳng kể công"
    (hết trích)

    Mấy ngày vừa rồi rãnh rỗi vào youtube xem quá trời clip hầu đồng luôn: có clip dài 1h30, có clip chỉ dài 15, 20 phút. Các bạn cứ vào youtube mà gõ chữ ‘hầu đồng’, bao la clip luôn.

    Thí dụ:
    Tân đồng Nguyễn Quỳnh Anh hầu giá Đức Ông (dữ dễ sợ luôn)
    https://www.youtube.com/watch?v=7hiMWYMiwvQ

    Đức Ông Triều Trần Xiên Lình - Lên Đai Thượng (dữ dễ sợ luôn)
    https://www.youtube.com/watch?v=dh_bnY7pFMY

    XUYÊN ĐAO LÌNH QUA MIỆNG HẦU GIÁ TRẦN TRIỀU
    https://www.youtube.com/watch?v=7IpCHEjVH84
    Thần Chú
    Namo Tassa Bhagavato Arahato
    Samma Sambud dhassa.

    (Nằm mơ thấy ác mộng, bị ma đè, sợ ma, đi đường bất an v.v. thì hãy niệm chú này, tâm sẽ được bình an)
    https://www.youtube.com/watch?v=vsaBKh1PRSs

  9. #109

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi thienhung_wu Xem Bài Gởi
    Lên đồng

    Trích: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

    Lên đồng hay còn gọi là hầu đồng, hầu bóng, đồng bóng là một nghi thức trong hoạt động tín ngưỡng dân gian (dòng Saman giáo) của nhiều dân tộc, trong đó có tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Về bản chất, đây là nghi thức giao tiếp với thần linh thông qua các tín đồ Saman giáo (ông đồng, bà đồng). Người ta tin rằng các vị thần linh có thể nhập hồn vào thân xác các ông đồng, bà đồng nhằm phán truyền, diệt trừ tà ma, chữa bệnh, ban phúc, ban lộc cho các con nhang, đệ tử. Khi thần linh nhập vào đồng thì lúc đó các ông đồng, bà đồng không còn là mình nữa mà là hiện thân của vị thần nhập vào họ.

    Ở Việt Nam, lên đồng là nghi thức không thể thiếu trong các thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, (Được gọi là Thanh Đồng)... Về hình thức, nghi thức lên đồng hầu về Hội đồng Thánh Trần mang tính saman nặng hơn khi lên đồng hầu về Tứ Phủ bởi hầu về Hội đồng Thánh Trần có các hành động trực tiếp lên thể xác Thanh Đồng (người ở ngoài nhìn đôi khi thấy sợ)như đi trên than hồng, xiên lình(dùng thanh sắt sắc nhọn đâm xuyên vào hai má và miệng thanh đồng), ăn lửa, lên đai (1 hình thức thắt cổ, có người được gọi là sát căn, có khi lên 3 đai)...

    Người đứng giá hầu đồng gọi chung là Thanh Đồng, Thanh Đồng là nam giới thì được gọi là "cậu", nữ giới được gọi là "Cô hoặc Bà Đồng". "Cậu" thường mặc bộ quần áo lụa, mặt tô son điểm phấn (tóc có thể để dài như con gái). Thường có hai hoặc bốn phụ đồng (được gọi là nhị trụ hoặc tứ trụ hầu dâng) đi theo Thanh Đồng để chuẩn bị trang phục, lễ lạt...Trong một buổi lên đồng thì có rất nhiều "giá". Mỗi lần thay giá, người ta lại phủ lên "cậu" một tấm khăn lụa đỏ, sau đó bỏ ra và lúc này Thanh Đồng đang ở một "giá" mới và phải thay bộ trang phục xống áo, khăn chầu, cờ quạt, đồ hầu dâng... sao cho tương xứng với "giá" này. Khi thì Thanh Đồng hóa thân thành một vị tướng, khi thì là một quan lớn uy nghiêm oai vệ, lúc lại hóa thân thành một cô gái đang tung tăng nhảy múa..Điệu múa của Thanh Đồng cũng được thay đổi theo đặc điểm của "giá". "Giá" quan thường múa cờ, múa kiếm, long đao, kích; giá các chầu bà thì múa quạt, múa mồi, múa tay không; giá ông hoàng thì có múa khăn tấu, múa tay không, múa cờ; giá các cô múa quạt, múa hoa, chèo đò, múa thêu thùa, múa khăn lụa, múa đàn, múa tay không; giá các cậu thường múa hèo, múa lân... Nghi lễ Thánh giáng phải theo thứ tự từ cao đến thấp từ Thánh Mẫu đến hàng Quan, Chầu, ông Hoàng, hàng Cô và Cậu. Số lượng giá trong một buổi lên đồng có khi lên tới 36 giá.

    Trong lúc Thanh Đồng đang hoá thân thì bốn phụ đồng ngồi quỳ chân ở dưới cũng nghiêng ngả và múa may hưởng ứng Thanh Đồng theo nhịp câu hát. Những nắm tiền lẻ sau khi được Thanh Đồng tung ra, ban phát cho những người xung quanh được coi là tiền lộc và được những người dứng xem xung quanh nhặt lấy cất giữ để lấy may. Nhạc hát thông thường là điệu chầu văn hoặc là hát nói có nội dung ca ngợi sự linh thiêng của thần thánh và vẻ đẹp tiên giới. Nhạc khí chủ đạo là đàn nguyệt, bên cạnh nó là phách, cảnh, sênh, trống chầu, chuông, trống…Ở miền Bắc Việt Nam có Phủ Giầy là nơi hay tổ chức lên đồng nhiều nhất.
    Với các giá ông Hoàng thì nhóm đàn hát (được gọi là "Cung văn") sẽ ngâm các bài thơ cổ. Lúc này, Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác thưởng tiền cho Cung văn và dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu, thuốc lá, trầu nước...Tới giai đoạn cao trào của Thánh thì người đứng giá thường múa gươm hoặc bơi thuyền. Do vậy, ở Việt Nam có câu hát "cậu bắn súng lục, cô bơi thuyền rồng" là để chỉ sự này.
    Một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam cũng có nghi thức giao tiếp với thần linh như tín ngưỡng Mỡi của người Mường, tín ngưỡng Then của người Tày, Nùng. Tuy nhiên, khác với nghi thức lên đồng của người Việt, sự giao tiếp với thần linh ở Mỡi và Then chủ yếu thông qua hình thức xuất hồn, tức là các ông Mỡi, bà Then có khả năng thoát hồn khỏi xác bay đi gặp gỡ, cầu xin thần linh phù hộ cho dân chúng.

    Ngày nay, lên đồng vẫn còn là nhu cầu tâm linh, là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian của một bộ phận người Việt. Các nghi lễ này thường được tổ chức nhiều lần trong một năm vào các dịp lễ tiết, thường là tại các lễ hội đền thánh, phủ mẫu... Ngoài việc lên đồng để giao tiếp với thần linh, truyền thống tín ngưỡng Việt Nam còn tin tưởng rằng sau khi chết, linh hồn người chết vẫn còn và theo dõi cuộc sống của người thân đang sống. Do đó, khi lên đồng, linh hồn của người chết có thể nhập vào đồng cô, đồng cậu (người gọi đồng) để trò chuyện với thân nhân đang sống. Thông qua cuộc trò chuyện âm-dương này, người sống sẽ biết được những yêu cầu của người thân quá cố về mỗ mả để điều chỉnh và cúng xin cho phù hợp. Đồng thời, thông qua cuộc đối thoại này, người sống cũng biết được vận mạng tương lai của mình.

    Tại Việt Nam hiện nay, hoạt động lên đồng bị chính quyền xem là hoạt động mê tín dị đoan do nhiều trường hợp việc lên đồng đã bị nhiều người lợi dụng vào mục đích xấu. Tuy nhiên, nhiều hội thảo khoa học nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian Việt Nam, trong đó có lên đồng đã được tổ chức, nhiều ấn phẩm của các học giả đã được xuất bản. Hiện tín ngưỡng hầu đồng đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại ngày 1/12/2016

    [[[Chiều ngày 1/12 (theo giờ địa phương), với sự thống nhất của toàn thể Hội nghị, Ủy ban đã chính thức ra nghị quyết công nhận “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt” là Di sản Văn hóa Phi vật thể đại diện của nhân loại]]]


    Đại sứ Phạm Sanh Châu và phái đoàn Việt Nam tại Hội nghị


    Phạm Sanh Châu, Đại sứ, Đặc Phái viên của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam về các vấn đề UNESCO
    Ngôn ngữ mô phỏng chứ chẳng hiểu hết cái sự việc chân chính
    Ngọc Bất Trác Bất Thành Khí - Nhân Bất Học Bất Tri Lý

  10. #110

    Mặc định

    Tôi chỉ hỏi một câu duy nhất nhưng cho đến nay mọi người ba hoa chích chòe vẫn không dám trả lời:
    Tôn chỉ mục đích của tín ngưỡng mẫu là gì?

    Có người nói mẫu cứu dân. Người ta có nghiệp báo và có số thiên định, mẫu cứu làm sao được! Nếu mẫu cứu được thì hãy tự cứu mình thành Phật lên chùa Bái đính rõ to mà ngồi có sướng hơn không, tội gì ngồi trong mấy cái phủ! Hơn nữa, muốn cứu người này phải hại kẻ khác: Cứu quan thì đói dân - Cứu dân thì nghèo quan. Quan mà nghèo nó phá cả phủ đi như vài chục năm trước thì hết trò đồng bóng.

  11. #111

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi UMI Xem Bài Gởi
    Xin cảm ơn mọi người đã có những bài viết về Đạo Mẫu rất hay. Nhưng có ai biết các ngày tiệc của Thánh trong một năm không cho em hỏi với. Vì nhà em có Điện thờ nhưng không biết đầy đủ các ngày tiệc nên nhiều khi ngày tiệc mà quên lãng đi mất.
    Em chỉ biết có ngày tiệc Mẫu 3/3, tiệc Quan Hoàng Bảy ngày 17/7, tiệc Quan Hoàng Mười ngày 10/10... Có ai biết giúp em với, em xin cảm ơn nhiều!
    Chào bạn! Ngày Kỵ đúng hơn. 3/3 Giỗ Mẹ,25/5 Quan Đệ Ngũ, 24/6 Quan Đệ Tam, Như 17/7 Kỵ của Hoàng Bảy và Chúa Mường, 20/8 ngày Đức Đại Vương , 9/9 Kỵ Mẫu Cửu Và Cô Chín Âm Dương còn , 10/10 Quan Hoàng Mười...
    Ngọc Bất Trác Bất Thành Khí - Nhân Bất Học Bất Tri Lý

  12. #112

    Mặc định

    Sao gọi là Bút ? Mẫu Xưa này về có chỉ dạy gọi là Khẩu Khẩu Tương Truyền cho con nhang chép lại là may lắm. Nên thông hiểu chính đạo
    Ngọc Bất Trác Bất Thành Khí - Nhân Bất Học Bất Tri Lý

  13. #113

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi anhtuan7384 Xem Bài Gởi
    xin mạo muội huynh đệ.thế cho T hoi...Mẫu thi nhin già hay trẻ,xinh hay s=xấu.vì T đã có duyên được găp mẫu mấy lần rồi.hii
    Bạn gặp Mẫu Như Thế Nào. Chẳng thể nào rõ ràng. mẫu về hào quang tỏa sáng lúc thăng giáng lúc trên núi xa lúc cuối trời.
    Ngọc Bất Trác Bất Thành Khí - Nhân Bất Học Bất Tri Lý

  14. #114

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Đàm Quang Vinh Xem Bài Gởi
    trả lời :
    trích : ''Tam Tòa Thánh Mẫu thì ai cũng hiểu đó là hóa thân của Mẫu Liễu Hạnh''
    cách hiểu này có thể đúng , có thể sai , kẻ phàm phu như tôi cũng không dám cố gắng diễn giải thật sâu mà tự cho rằng mình đúng .
    vì sao đúng ?
    - nếu xét về phạm trù tâm thức : với các tín đồ của đạo Mẫu thì tam tòa Thánh mẫu vốn là một - là một người mẹ - Thánh mẫu Liễu hạnh .
    đã là cha trời mẹ đất thì đâu còn cái ta nữa mà có sự sai khác .
    vì sao sai ?
    - nếu xét về mặt lịch sử : đạo Mẫu đã ra đời từ cách đây bao nhiêu lâu , phải chăng đạo đã tồn tại trước cả trời và đât ư ?
    còn hình tượng mẫu liễu mới được ra đời cách đây khoảng 500 năm là chính xác về mặt lịch sử . .
    và rồi cuối cùng có ai so sánh được sự to lớn của cha trời - mẹ đất với nhau không ?
    bởi đó ta thấy : trong cái logic tự nhiên đã xuất hiện cái phản logic rồi . trong cái đúng đã hàm chưa cái sai , trong cái sai lại ẩn hàm cái đúng .
    đó cũng chính sự huyền diệu của âm dương trời đất này vậy .
    vài dòng góp vui .
    600 Năm. Nhân Gian vô vàn vạn vật quy nhất là điều bạn hướng đến chăng ? Vậy Đạo Mẫu lại đang khác đó. là tĩn ngưỡng có cấp bậc chức vị và nhiệm vụ dưới Mẫu. Bạn biết Mẫu Địa Cầu Và Mẫu Hoàng Thiên ?
    Ngọc Bất Trác Bất Thành Khí - Nhân Bất Học Bất Tri Lý

  15. #115

    Mặc định

    trong khi Mẫu Đệ Nhất là Mẫu Liễu Hạnh
    Ngọc Bất Trác Bất Thành Khí - Nhân Bất Học Bất Tri Lý

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •