Có hướng dẫn cách đọc các bài viết trên trang puredhamma.net bằng tiếng Việt ở dưới cùng.
Tiếc là không sửa post được như diễn đàn cũ, thôi đành phải tách ra vậy. Xin lỗi đã làm mọi người đợi quá lâu (nếu có), mấy tháng qua tôi học và thực hành Phật Pháp Nguyên Thủy không ngừng, tại vì tôi nhận ra một điều là mình phải hiểu rõ Phật Pháp thì mới có thể hướng dẫn người khác được. Thời điểm post bài này tôi còn một số chỗ chưa rõ liên quan đến Siêu lý học (Abhidhamma) như Citta Vithi chẳng hạn
2. 10 Micca Ditthi (Tà Kiến) và Quả vị Sotapanna (Dự lưu).
- 10 micca ditthi (tầm nhìn sai trái) phải được loại bỏ trước khi có thể bắt đầu Bát Chánh Đạo (có 2 con đường là Bát Chánh Đạo/mundane Eightfold Path dành cho người phàm và Bát Thánh Đạo/Noble Eightfold Path dành cho các bậc Thánh - Dự Lưu trở lên, cần phải được phân biệt, chi tiết tham khảo Diễn giải Kinh Maha Cattarisaka).
+++ Chỉ có khi đó thì tâm của bạn mới có thể nhìn được "bức tranh rộng lớn" và có thể thấu hiệu được Tilakkhanana (anicca, dukkha, anatta) của thế giới này với 31 cảnh giới.
+++ Một khi bạn đã chiêm nghiệm được Tilakkhanana tới một mức độ nhất định, bạn trở thành một Sotapanna, bước chân vào Bát Thánh Đạo, và tuần tự đạt được các quả vị cao hơn của Nibanna.
- Hiện nay nhiều người có ít nhất một vài trong số 10 micca ditthi và vẫn nghĩ rằng họ đang ở trên Bát Thánh Đạo. Nhưng rõ ràng, căn cứ vào những luận điểm ở trên, có thể nói họ còn chưa ở trên Bát Chánh Đạo nữa.
+++ 10 micca ditthi không thể bị loại bỏ chỉ với việc tự nhủ với bản thân rằng bạn tin vào chúng. Tâm của bạn phải được thuyết phục bởi nó, và lòng tin không bị lay động chỉ có thể đến từ việc học và thấu hiểu Dhamma - bản chất thật sự của thế giới.
+++ Trong bài viết này, chúng ta tập trung vào khái niệm para loka và gandhabba, vì nhiều người tu theo Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) kết luận một cách sai lầm rằng gandhabba là một khái niệm của Mahayana (Đại Thừa).
- 10 micca ditthi được liệt kê ra ở trong nhiều sutta, điển hình như Maha Cattarisaka Sutta và Pathama Niraya Sagga Sutta: "Natthi dinnaṃ, natthi yiṭṭhaṃ, natthi hutaṃ, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, natthi ayaṃ loko, natthi paro loko, natthi mātā, natthi pitā, natthi sattā opapātikā, natthi loke samaṇabrāhmaṇā sammaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedentī’ti". Dịch ra, 10 cái nhìn sai trái là:
+1) Hành động cho đi (dana) là không có lợi/công đức.
+2) Biết ơn và tử tế (đối với những gì người khác đã làm với mình) là không có lợi/công đức.
+3) Tôn trọng và cúng dường tới những bậc có đạo đức cao hơn là không có lợi/công đức.
+4) Những sự khổ não/hưởng thụ mà chúng ta trải nghiệm trong đời sống này không phải là do kamma vipaka (quả của nghiệp) mà là do chúng chỉ "tự xảy ra".
+5) Thế giới này không tồn tại.
+6) Para loka (nơi trú ngụ của gandhabba) không tồn tại.
+7) Mẹ không phải là một người đặc biệt.
+8) Cha không phải là một người đặc biệt.
+9) Không tồn tại hình thức sinh opapatika (tức thời, hóa sinh, không trải qua giai đoạn thai kỳ).
+10) Không tồn tại samana bramana (các bậc Thánh - Ariya hoặc thiền sư - yogi) với những sức mạnh abhinna (thần thông) có thể nhìn tất cả thuộc về thế giới này (imanca lokam) và para loka (paranca lokam).
- Tôi đã in đậm 3 micca ditthi thường gặp (cả 3 liên quan một chút với nhau), điều số 6 là một micca ditthi mà ngay cả những người cho rằng mình là một "Phật tử thuần thành" mắc phải. Họ tin rằng Đức Phật không hề dạy về gandhabba hay para loka. Xem thêm, "Thân trung ấm hay gandhabba? Sự sai sót và hiểu lầm kéo dài nhiều thế kỷ"
- Trong nhiều Kinh, trong đó có Mahasaccaka Sutta và Bodhirajakumara Sutta Đức Phật mô tả cách mà Ngài nhìn thấy những gandhabba người di chuyển từ cơ thể này sang cơ thể khác (trong cùng một bhava người) bằng Tuệ (Ñana) Pubbenivasanussati trong đêm Ngài thành tựu quả vị Phật.
+++ Trong khi Ariyas sau khi nhập vào jhanas có thể thành tựu cả hai Pubbenivasanussati Ñana (tuệ thấy được các kiếp người trong quá khứ) và Cutupapada Ñana (tuệ thấy được các kiếp quá khứ trong tất cả các cảnh giới), các yogis khác chỉ có thể thành tựu được tối đa tuệ thứ nhất, họ chỉ có thể thấy được các kiếp người trước đó của họ.
+++ Trong các Kinh được dẫn link ở trên thì chỉ có bản gốc tiếng Pali là chuẩn xác, còn lại các bản dịch khác đa số đều sai một vài chỗ khiến cho ý của Kinh không còn được trọn vẹn và chuẩn xác, các bản dịch cho rằng không có sự khác biệt giữa 2 tuệ đã nêu trên. Với nana thứ nhất, một người chỉ có thể thấy được các lần đầu thai làm người kế trước của mình, với nana thứ hai, một người có thể thấy trọn vẹn sự tái sinh của mình trong toàn bộ 31 cảnh giới.
+++ Hầu hết các kinh điển hiện nay dịch chữ anicca thành vô thường và anatta thành vô ngã, đây là một sai lầm rất nghiêm trọng.
- Chúng ta cần nhận ra rằng para loka (thế giới của gandhabba của người và động vật) không phải là một cảnh giới tách biệt với cõi người và cõi động vật.
+++ Trong tất cả 29 cảnh giới còn lại, chúng sinh được sinh ra nguyên vẹn ngay tức khắc (opapatika) trái ngược với micca ditthi thứ 9 ở danh sách trên. Hóa sinh đương nhiên là không cần đến quá trình thai mẹ, và một bhava chỉ có duy nhất một jati (lần sinh). Ví dụ, một vị deva (cõi trời), hoặc một vị brahma (cõi phạm thiên) được sinh ra nguyên vẹn ngay tức thời và cái chết chỉ xảy ra khi năng lượng của nghiệp cho bhava này được vắt cạn.
+++ Điểm khác biệt trong những cõi người và thú là chúng sinh được sinh ra (jati) với một cơ thể khá đậm đặc và có tuổi thọ ngắn hơn nhiều so với năng lượng nghiệp của một bhava tương ứng.
+++ Khi một người hoặc một con thú chết - và nếu vẫn còn năng lượng nghiệp (kammic energy) cho bhava người hoặc bhava thú - thì một gandhabba thoát ra khỏi xác chết và đợi một cái tử cung thích hợp để được sinh ra tiếp tục trong cùng một bhava (cùng cõi giới).
+++ Cho nên, trái ngược với một số định kiến, gandhabba không phải là "antarabhava" (nằm giữa bhava; antara nghĩa là trung gian) mà nó là cùng một bhava. Sự nhầm lẫn khởi lên là do không hiểu được sự khác nhau giữa bhava và jati.
- Tới khi chúng tìm được một tử cung thích hợp, những gandhabba sẽ ở trong para loka, cùng tồn tại với thế giới của chúng ta (nhưng bình thường chúng ta không thể thấy được những cơ thể cực mịn của các gandhabba).
+++ Cho nên một cá thể người có thể được đầu thai nhiều lần trước khi chuyển đổi sang một cảnh giới khác (deva, brahma, thú, ngạ quỷ, ...).
+++ Đây là lý do tại sao các câu chuyện về đầu thai khá phổ biến. Đức Phật đã từng giải thích rằng đạt được kiếp người là một chuyện vô cùng khó. nhưng một khi đã ở trong một bhava, một người có thể đầu thai làm người nhiều lần; xem, “Đức Phật mô tả cơ hội được tái sinh làm con người như thế nào“.
+++ Sự khác nhau nằm ở bhava và jati, như được giải thích trong, “Bhava và Jati – Các trạng thái của sự tồn tại và sự sinh ra“.
- Cho nên, tôi hy vọng rằng bạn có thể hiểu được sự thật rằng bạn vẫn có micca ditthi nếu bạn cương quyết phủ nhận khái niệm về gandhabba, hay là khái niệm về hình thức sinh opapathika.
+++ Nếu một người có một trong mười micca ditthi, người đó thậm chí vẫn chưa thật sự ở trong Bát Chính Đạo (Eightfold Path); xem, “Phật Pháp – Trong một biểu đồ” và những bài viết có liên quan trong biểu đồ đó, “Phật Pháp có gì đặc biệt?“.
+++ Đức Phật giảng về điều này một cách rõ ràng trong, “Maha Chattarisaka Sutta (Bài giảng về 40 điều lớn)“.
- Để có thể đạt được quả vị Sotapanna (Dự Lưu), bước đầu tiên là đảm bảo rằng bạn học Dhamma (Chính Pháp) và làm rõ bất cứ sự nghi hoặc nào còn sót lại về 10 micca ditthi.
+++ Một khi bạn loại bỏ được 10 micca ditthi, bạn sẽ thực sự bước đi trên mundane Eightfold Path.
+++ Sau đó, ngay tại thời điểm đó, tâm trí của bạn đã được thanh lọc tới một mức độ mà bạn có thể hiểu rõ được Ba Đặc tính của Tự nhiên (Tilakkhana): anicca, dukkha, anatta. Đây là loại micca ditthi thâm sâu và khó gỡ hơn, loại thứ hai này đã được đặc tả trong Maha Cattarisaka Sutta.
+++ Một khi bạn hiểu rõ được Tilakkhana tới một mức độ nào đó, bạn đắc quả Sotapanna, giai đoạn 1 trong 4 giai đoạn của Nibbana. Khi đó bạn sẽ bước tiếp trên Bát Thánh Đạo / Lokottara (Noble) Eightfold Path.
+++ Sau đó, bằng cách đi theo Noble Eightfold Path bạn lần được đạt được các giai đoạn cao hơn của Nibbana, viên mãn ở quả vị Arahant.
- Con đường dẫn đến Nibbana đã bị che lấp hàng trăm năm do các bước nêu trên đã không được chỉ ra rõ ràng, và ý nghĩa của những từ quan trọng nhất, anicca, dukkha, anatta đã bị méo mó.
+ Quá trình suy thoái của Buddha Dhamma bắt đầu từ hơn 1500 năm trước, nhưng những thiệt hại to lớn nhất đã được gây ra vào nhưng năm 1800 khi người Châu Âu khám phá ra các tài liệu cổ tiếng Sanskrit (tiếng Phạn) và Pali.
+ Họ đã khám phá ra những kinh điển Vedic bằng tiếng Sanskrit của các đạo Hindu ở Ấn Độ (Phật Giáo đã biến mất khỏi Ấn Độ một thời gian rất lâu trước đó rồi), và sau đó họ tìm đến được Tam Tạng Kinh Điển Pali (Tipitaka) ở Sri Lanka, Burma (Myanmar), và các nước Châu Á khác.
+ Vấn đề chính xảy ra khi họ CHO RẰNG các từ Sanskrit “anitya” và “anathma” hoàn toàn giống với các từ Pali “anicca” và “anatta“. Các từ Sanskrit “anitya” và “anathma” thực sự có nghĩa là "vô thường" (impermanent) và "vô ngã" (no self), nhưng các từ Pali “anicca” và “anatta” mang nghĩa hoàn toàn khác.
- Quá trình lịch sử đó được giải thích trọn vẹn trong nhiều bài viết ở mục “Nển tảng Lịch sử”. Nhưng ít nhất bắt đầu đọc từ "Diễn giải Theravada không chính xác - Các mốc lịch sử".
+++ Ý nghĩa đúng của anicca, dukkha, anatta đã được giải thích trong mục, “Anicca, Dukkha, Anatta“.
- Nói về hóa-sinh, mô tả về các trường hợp opapatika xuất hiện trong nhiều sutta. Ví dụ, trong Maha Parinibbana Sutta, Đức Phật bảo Đại đức Ananda về sự hóa-sinh của nhiều người đã chết trong một số ngôi làng: "..Nandā, ānanda, bhikkhunī pañcannaṃ orambhāgiyānaṃ saṃyojanānaṃ parikkhayā opapātikā tattha parinibbāyinī anāvattidhammā tasmā lokā.."
+++ Như tôi đã đề cập, bản dịch có sẵn ở nhiều ngôn ngữ (có bản dịch tiếng Việt). Ví dụ, đoạn kinh trên được dịch sang tiếng Anh như sau: "..Này Ananda, Bhikkhuni (Tỷ-khưu ni) Nanda qua sự hoại diệt hoàn toàn của 5 xiềng xích đầu tiên (đọc thêm "10 xiềng xích trói buộc chúng ta vào quá trình tái sinh - Dasa Samyojana") đã tái sinh ngay lập tức trong các cõi Brahma, và sẽ đạt được Sự Giải phóng Cuối cùng (đạt được Nibbana) ở đây, không bao giờ trở lại từ cõi đó..".
+++ Tuy nhiên, xin nhớ rằng các bản dịch có thể có các lỗi (hầu hết tất cả các trang online cũng như các loại sách), như tôi đã trình bày ở trên.
- Cuối cùng, chúng ta phải hiểu rằng có thể có người đã đạt được magga phala (đạo quả: magga = đạo/con đường, phala = quả), nhưng cả đời chưa bao giờ được nghe đến khái niệm gandhabba. Thật ra thì chỉ cần thấu hiểu Tilakkhana là đủ, đó là tất cả những gì cần thiết.
+++ Trong trường hợp này, họ không có bác bỏ khái niệm gandhabba. Chỉ là họ chưa nghe qua, nếu có ai giải thích khái niệm này cho họ, họ sẽ chấp nhận nó bởi lẽ họ có thể thấy được rằng điều này chắc chắn phải là sự thật (do họ đã đạt được Đạo Quả (magga phala) nên họ đã khai mở Pháp Nhãn (Dhamma Eye) - trí tuệ của một bậc Thánh).
+++ Tuy nhiên, nếu một người đã nghe qua các khái niệm như gandhabba (và para loka), hóa-sinh, sự tồn tại của các cõi giới khác, và sự tồn tại của các bậc Ariya (Thánh - người đã đạt được 1 trong 8 thánh quả, ví dụ Sotapanna magga và Sotapanna phala) cũng như các vị yogi - những người có thể có khả năng nhìn được các cõi giới khác cũng như là para loka, và người này bác bỏ tất cả các điều này, cho rằng là nhảm nhí hay vô lý, đó là micca ditthi.
+++ Chỉ có một cách duy nhất để đoạn trừ các micca ditthi này là phân tích các khái niệm đó và tự thuyết phục bản thân rằng những khái niệm này phải là sự thật.
- Trong quá trình đó, một điều cần thiết là bạn phải sống một cuộc sống có đạo đức, tránh xa khỏi dasa akusala hết mức có thể, như đã được giải thích trong mục "Phật Pháp ứng dụng". Trải nghiệm sự tinh khiết và sự bình yên của tâm có được từ việc tránh xa dasa akusala là một điều rất quan trọng bởi nó làm động lực để chúng ta tiếp tục tu tập và học hỏi Phật Pháp.
+++ Cái nặng nhất trong số dasa akusala là micca ditthi, không chỉ riêng 10 micca ditthi nêu trên, còn là sự thiếu hiểu biết về Tilakkhana. Đây là lý do tại sao một Sotapanna loại bỏ được hơn 99% sự ô nhiễm trong tâm bằng cách loại trừ cả hai loại micca ditthi; xem, "Akusala duy nhất được loại bỏ bởi một Sotapanna". Vì lẽ đó, nên một vị Sotapanna không thể tái sinh vào 4 cõi thống khổ (địa ngục/niraya, cầm thú/tirisan, quỷ đói/peta, quỷ lười/asura) và chắc chắn sẽ đạt Nibbanna trong vòng tối đa 7 bhava nữa.
+++ Loại micca ditthi đầu tiên là 10 cái đã nêu ở trên đầu bài viết, người loại bỏ được loại này sẽ có thể thấy được rằng không có gì xảy ra là không có nguyên nhân, nguyên nhân xấu (dasa akusala) dẫn tới kết quả xấu, ... Loại micca ditthi thứ hai là không nhận thức được về bản chất thật sự của thế giới này, với 31 cõi giới, rằng bất cứ ai đều không thể duy trì bất cứ thứ gì theo ý của mình vì mọi thứ có sinh ra thì sẽ có hoại diệt, và không thể biết trước được (anicca), bị khổ vì điều đó - nỗi khổ hiện tại, và nỗi khổ tương lai - không thể biết trước được tương lai mình sẽ tái sinh ở đâu, nhiều khả năng sẽ là các cõi thống khổ bởi vì chúng ta đã tạo ra rất nhiều nghiệp dữ trong từ một quá khứ vô thủy vô chung nào đó tới nay, cho nên quả khổ có thể đến bất cứ lúc nào, nhất là vào lúc cận tử (dukkha), và thật sự bất lực trước quá trình tái sinh, chúng ta có thể lên cõi Trời tận hưởng một thời gian, khi hết quả thiện nghiệp lại quay trở lại các cõi khổ, Đức Phật từng nói đa phần thời gian chúng ta ở trong Samsara, chúng ta ở trong các cảnh khổ, 4 cõi thống khổ như là nhà của chúng ta vậy, chúng ta đi chơi một thời gian ngắn rồi lại quay trở lại (anatta).
+++ Tuy nhiên, thật khó để có thể thấm nhuần được Tilakkhana như đã giải thích ở trên cho đến khi bạn tin vào bức tranh tổng thể của sự tồn tại - bao gồm 31 cõi giới và quá trình tái sinh cũng như nghiệp và quả - trong đó sự tồn tại của para loka và gandhabba là những mảnh ghép quan trọng.
Trên trang puredhamma.net có chức năng dịch sang ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh, nó sử dụng Google Dịch tự động nên có thể bản nó dịch ra đọc hơi kỳ tuy nhiên cũng có thể đọc tạm. Ngoài ra còn có mục Forum để chia sẻ kinh nghiệm tu tập và hỏi các câu hỏi liên quan đến Phật Pháp.
Đến đây tôi xin không dịch nữa để tự tiết kiệm thời gian cho bản thân, tuy nhiên tôi nghĩ rằng nhiêu đây là đã đủ để bạn khởi đầu, do đó tôi đã đính kèm khá nhiều link đến các bài viết liên quan.
Nếu ai đã có chí cầu quả Sotapanna trong đời này thì tôi chúc bạn thành công, tôi chỉ có thể đưa bạn đến đây thôi, chỉ cho bạn con đường, còn đi đến đích được hay không là do chính các bạn quyết định.
“Namō tassa bhagavatō arahatō sammā sambuddhassa”
Bookmarks