Lực của hối hận
Hành giả nghĩ tới những hành động xấu của mình, những nghiệp xấu phát xuất từ tham, sân, si đã tạo tác trong quá khứ, ở hiện tại hay có thể sẽ được tạo ra trong tương lai. Hành giả cũng nghĩ tới những hành động xấu mà mình đã xúi dục người khác làm. Sau đó, nhận ra những đau khổ do nghiệp xấu mang lại, hành giả vô cùng hối hận. Sự hối hận này vừa thanh lọc nghiệp xấu vừa diệt trừ khuynh hướng làm điều xấu trong tương lai. Mức độ thanh lọc nghiệp xấu tùy thuộc sức mạnh của hối hận và mức độ thành tâm.
Nhưng nếu không thể nhớ hết tất cả những hành động xấu mà mình đã tạo ra trong đời này thì làm sao có thể thanh lọc tất cả các nghiệp xấu ở ba thời, hiện tại, quá khứ và vị lai? Ví dụ, người ta quyết định tiêu diệt tất cả các loại cầm thú kể cả côn trùng trong một khu rừng. Do đốt hết cả khu rừng, người ta có thể biết chắc là tất cả loài thú trong khu rừng ấy đều chết hết, dù không trông thấy một con vật nào vào lúc nó đang bị chết cháy. Tương tự như vậy, bằng cách gom tất cả những nghiệp xấu đã tạo trong các kiếp và dùng bốn lực đối trị chúng thì có thể giải trừ mọi nghiệp xấu mà không cần phải nhớ lại từng hành động riêng rẽ.
Lực của thiện nghiệp
Thứ ba là lực của nghiệp tốt được tạo ra để đối trị những nghiệp xấu mà mình muốn thanh lọc. Thiện nghiệp có thể là một việc tốt nào đó được thực hiện với sự hối hận chân thực nhằm bù đắp lại hành vi xấu mà mình đã làm. Hành giả có thể lễ lạy, trì chú, đọc tụng kinh sách, thiền quán, niệm hồng danh chư Phật, cúng dường hay bố thí. Ở đây pháp đối trị nghiệp xấu là pháp thiền quán Vajrasattva và trì chú. Hành giả tác pháp này với Bồ đề tâm và có ý thức về sự vô ngã của chủ thể, đối tượng và hành động để đạt kết quả tốt nhất. Trong việc giải trừ nghiệp xấu, Bồ đề tâm vô cùng quan trọng và cũng là lực thứ nhất trong bốn lực đối trị. Bồ đề tâm có thể giải trừ đại ác nghiệp và đại chướng ngại trong tu tập. Bồ đề tâm giống như lửa cuối thời mạt pháp, như Ngài Tịch Thiên (Shantideva) nói trong Nhập Bồ Tát Hạnh Luận:
Giống như lửa cuối đại kiếp
Bồ đề tâm diệt mọi điều xấu
Lợi ích vô lượng của Bồ đề tâm
Ðã được Bồ Tát Di Lặc dạy cho Tu Đà Na.
Lực của giới nguyện
Ðây là lời thệ nguyện không tạo nghiệp xấu nữa. Nếu có thể, hành giả nên phát nguyện từ bỏ mọi hành động xấu. Hành vi nào do thói quen, hành giả có thể nguyện bỏ trong một khoảng thời gian mà mình có thể dứt trừ được. Ví dụ như nói chuyện phù phiếm.
Hành giả có thể nguyện bỏ một tật xấu sau thời gian một tháng, một năm hay một khoảng thời gian mà mình có thể giữ trọn lời nguyện. Không có lực thệ nguyện thì việc thanh lọc không trọn vẹn, vì vậy hành giả nên cố gắng tạo thói quen giữ tròn lời thệ nguyện hơn là phát nguyện quá nhiều nhưng không thể giữ vẹn. Cách tốt nhất nguyện bỏ điều xấu trong một ngày và thực hành tịnh hóa nghiệp xấu mỗi ngày.
Do tinh tấn vận dụng bốn lực đối trị, hành giả có thể giải trừ mọi nghiệp xấu. Nếu lực đối trị mạnh trung bình thì hành động xấu sẽ giảm bớt. Nếu lực đối trị yếu thì hành động xấu vẫn còn nhưng không tăng trưởng. Trong tác phẩm "Thư gởi bạn", luận sư Long Thọ nói:
Những người nào trước gây tội lỗi
Nhưng nếu ý thức được điều ác
Thì đẹp như trăng rằm trên bầu trời quang đãng
Giống như Ðề Bà, Angulimala, A xà thế và Udayand.
* Pháp Thiền Quán Vajrasattva (Kim Cương Tát Ðỏa Quán Pháp)
Pháp tịnh hóa Vajrasattva được thực hành như sau:
Ở phía trên đỉnh đầu của hành giả vài phân, chủng tự PAM xuất hiện từ hư không rồi biến thành một hoa sen, biểu tượng của hạnh xả ly hay sự vô nhiễm của Vajrasattva. Trên hoa sen, chủng tự AH xuất hiện từ hư không và biến thành một mặt trăng tượng trưng cho Bồ đề tâm. Ở trên mặt trăng, chủng tự HUM màu trắng xuất hiện từ hư không, biểu tượng pháp thân của chư Phật.
Chữ HUM biến thành một chày kim cương năm nhánh, trên trục có chữ HUM trắng. Từ chày kim cương và chủng tự HUM ánh sáng tỏa ra khắp mười phương biến thành các pháp khí như tù và, tràng phan, bảo cái và nhiều lễ vật khác để dâng lên chư Phật.
Tri kiến và sự chứng ngộ của chư Phật biến thành ánh sáng trắng, tụ lại và tan nhập vào chày kim cương và chữ HUM làm tăng hào quang và thần lực của chúng. Chày kim cương và chữ HUM biến thành Vajrasattva có phẩm tính của vị thầy chính của hành giả. Thân của Ngài là ánh sáng trắng biểu thị cho sự thanh tịnh và không còn vô minh.
Vajrasattva có một mặt và hai tay. Mặt Ngài tượng trưng sự chứng ngộ tính chất độc nhất của vạn vật, sự vô tự tánh. Hai tay tượng trưng cho hai chân lý, chân đế và tục đế. Tay phải cầm chày kim cương tượng trưng cho đại pháp. Tay trái cầm chuông tượng trưng cho việc thực hành trí huệ Tịnh quang.
Vajrasattva ôm vị minh phi Vajramanani trắng, với một mặt và hai tay, tay phải cầm đao, tay trái cầm chén sọ. Ðao tượng trưng cho sự đoạn lìa vô minh. Chén sọ nhắc nhở lý vô thường. Chén sọ có mặt ngoài màu trắng tượng trưng pháp ảo thân, mặt trong màu đỏ tượng trưng trí huệ Tịnh quang. Chén sọ có hai màu hàm ý sự chứng ngộ sau cùng của hành giả, nghi quỹ Du già tối thượng là sự hợp nhất trí huệ Tịnh quang và ảo thân. Vajrasattva và Vajramanani phối hợp tượng trưng cho pháp hợp nhất đại lạc và tánh không.
Vajrasattva ngồi thế kim cương cho thấy Ngài an trụ trong thiền định. Ở tim của Ngài là Mạn Đà La mặt trăng với chủng tự HUM đứng thẳng trên đó và được vây quanh bởi thần chú trăm chữ Vajrasattva.
Màu trắng của Vajrasattva là màu trắng của pha lê. Màu trắng của Mạn Đà La mặt trăng là màu trắng của vỏ ốc, còn màu trắng của chữ HUM và thần chú Vajrasattva là màu trắng của lụa, Vajrasattva ngồi trên tòa sen trắng và Mạn Đà La mặt trăng hàm ý hoạt động hiền hòa và thuận lợi cho việc tịnh hóa.
Từ chữ HUM và những chủng tự thần chú ở tim Ngài, các tia sáng chiếu ra dâng lễ vật cho chư Phật, Bồ Tát và Trí Giả. Tất cả tri kiến và chứng ngộ của các Ngài biến thành các Kim Cương Tát Ðỏa Trí Huệ, và các Kim Cương Tát Ðỏa Trí Huệ lại biến thành Kim Cương Tát Ðỏa Thực Hành. Vậy, các Kim Cương Tát Ðỏa Trí Huệ và Kim Cương Tát Ðỏa Thực Hành trở thành bất nhị.
Từ tim của Vajrasattva lại phát ra những tia sáng triệu thỉnh các vị gia trì lực vân tập đến đầy ắp cả hư không. Các Như Lai đồng thanh thỉnh cầu các vị này:
"Xin hãy gia trì lực cho vị Kim Cương Tát Ðỏa này".
Chư thần gia trì lực đưa cao bình cam lộ trí huệ rót xuống đầu Kim Cương Tát Ðỏa, và đồng tán thán: "Om Sarva Tathagata Abhi Shekata Samaya Shriye Hum", và như vậy làm phép quán đảnh cho Kim Cương Tát Ðỏa.
Thân của Kim Cương Tát Ðỏa được đổ đầy cam lộ trí huệ. Phần cam lộ tràn ra ngoài biến thành một hình Phật A Súc Bệ trụ ở mão của Kim Cương Tát Ðỏa.
Hành giả lại quán tưởng mình là người chủ lễ, ở bên phải là cha mình và các chúng sinh có tướng nam, ở bên trái là mẹ mình và các chúng sinh có tướng nữ. Những kẻ thù địch với mình đứng ở đằng trước quay mặt về phía mình, còn bạn bè thân hữu thì ở đàng sau. Chung quanh họ là chúng sinh trong hình dạng người. Hành giả thỉnh cầu:
"Bạch Ðấng Thế Tôn Kim Cương Tát Ðỏa (Bhagavan Vajrasattva), xin Ngài tịnh hóa con và tất cả chúng sinh khỏi tội lỗi, vô minh, và mọi vi phạm giới nguyện."
Từ chữ HUM ở tim Ngài, những tia sáng chiếu ra tịnh hóa chúng sinh, và dâng lễ vật cúng dường lên chư Phật, Bồ Tát. Phẩm tính của các vị này tụ lại thành ánh sáng, rồi tan nhập vào chữ HUM ở tim của Vajrasattva làm cho oai lực của Ngài trở nên siêu diệu.
Saigon42
Bookmarks