Vài đặc điểm về việc xem vận hạn của phái Trung Châu
Phái Trung Châu có cách xem vận hạn rất chi tiết và biến hóa, cung đại vận có các sao lưu và tứ hóa của đại vận. Cung Lưu niên có các sao lưu và tứ Hóa của Lưu niên.
Cách an sao và các cung Mệnh Thân... của phái này tương tự như cách an của Nam phái, chỉ có 2 sao Linh tinh và Hỏa tinh là an thuận cho cả âm nam và dương nữ. Ngoài ra có vài sao nhỏ khác với Nam phái như Nguyệt giải, Thiên vu, Thiên nguyệt, Âm sát...
Các cung đại hạn của Trung Châu được nạp thiên can theo tháng của năm sinh. Cung Dần trên lá số là tháng 1, cung Mão tháng 2...
Thí dụ: Các năm Giáp, Kỷ tháng Giêng có can là Bính nên cung Dần trên lá số có can Bính, cung Mão - Đinh, cung Thìn - Mậu....
Năm Ất Canh: Cung Dần - Mậu, cung Mão - Kỷ, cung Thìn - Canh....
Can của cung dùng để làm căn cứ xác định các sao lưu quan trọng của đại vận như Lộc tồn, Kình dương, Đà la, tứ Hóa...
Ngoài xem tam phương tứ chính của các sao hội hợp cung đại hạn, chúng ta có thêm khá nhiều các sao lưu của Đại hạn do đó sự luận giải sẽ chi tiết rõ ràng hơn.
Còn một điều khá độc đáo là phái Trung Châu coi cung đại vận hiện hành là cung lưu Mệnh của đại vận, các cung khác như Phụ mẫu, Tài bạch, Quan lộc... cũng được xác định theo cung lưu Mệnh.
Thí dụ: Một người đang trong đại vận 24-33 tuổi tại cung Ngọ, cung Ngọ được coi là cung lưu Mệnh, cung Mùi là lưu Phụ mẫu, cung Thân là lưu Phúc đức...
Phái này không dùng các cung tiểu hạn và lưu niên đại hạn. Xem vận hạn một năm thì lấy cung có lưu Thái tuế làm lưu niên, coi là cung lưu Mệnh của năm ấy. Các cung còn lại cũng dịch chuyển thành lưu Phụ mẫu, lưu Phúc đức...
Các sao lưu của lưu niên được lấy căn cứ vào can chi của năm xem hạn. Tương tự như Nam phái.
Thí dụ năm nay 2012 là Nhâm Thìn, cung lưu niên tức là cung lưu Mệnh tại cung Thìn của lá số, cung lưu Phụ mẫu là cung Tị, lưu Phúc đức là cung Ngọ...
Muốn xem hôn nhân năm ấy thế nào, người ta xem các cung lưu của Đại vận, chú trọng cung lưu Phu thê, kết hợp các cung Mệnh Tài Quan và đặc biệt lưu Phu thê của Lưu niên, tam phương tứ chính, các cung giáp, phối hợp các sao lưu để luận cát hung. Dĩ nhiên cũng không bỏ qua các cung Thân Mạng Tài Quan Phúc của lá số ban đầu. Như vậy so với Nam phái thì sự luận đoán của Trung Châu có nhiều dữ liệu hơn, chi tiết hơn.
Còn một đặc điểm khác nữa là phái này còn mượn các sao cho cung vô chính diệu, không những mượn chính tinh mà mượn luôn các sao khác trong cung xung chiếu. Các sao mượn này sau khi được an vào cung Vô chính diệu còn có thể tạo các cách cục mới với các sao trong tam phương tứ chính của cung vô chính diệu nguyên thủy. Tạo nên sự biến hóa rất đa dạng.
Cách khởi nguyệt hạn thì cũng tương tự như Nam phái, tuy nhiên phải bắt đầu từ cung Lưu niên thay vì cung tiểu hạn.
Bài viết này thực ra tôi chỉ nêu vài đặc điểm xem hạn của phái Trung Châu để quý vị tham khảo mà thôi. Trong thực tế luận giải tôi hầu như không dùng cung Lưu, cũng không có chuyện đem chính tinh xung chiếu đưa vào cung Vô chính diệu rồi phối hợp với các sao trong tam hợp của cung ấy. Mấy lần tôi thử dùng cách này trên các lá số thực tế nhưng không thấy ứng nghiệm. Cách xem hạn truyền thống trên cung Tiểu hạn và Lưu niên có sự ứng nghiệm rõ ràng hơn rất nhiều. Vẫn dùng các cung nguyên thủy trên lá số, tam phương tứ chính kết hợp các sao lưu cùng Đại vận để xem hạn. Thỉnh thoảng tôi cũng dùng Lưu Tứ Hóa.
Việc xem hạn thường phải kết hợp nhiều thứ, cung Thân mạng mạnh mẽ vững vàng, đại vận tốt, gặp Tiểu hạn kém sẽ không giống với người có cung Thân mạng yếu và ngược lại... Nói chung mỗi người có một sở trường xem hạn riêng của mình. Riêng tôi thường dùng cách xem Tiểu hạn và Lưu niên, trường hợp đương số hỏi quá cụ thể thì kết hợp thêm quẻ Dịch mới có kết luận khả dĩ. Nếu tôi dùng lá số Tử vi thông thường chỉ xem được khả năng và xu hướng sự việc là chính, khó quyết đoán được những việc cụ thể.
Bookmarks