kết quả từ 1 tới 2 trên 2

Ðề tài: Các Phương Pháp Thuốc Trị Thương

  1. #1

    Mặc định Các Phương Pháp Thuốc Trị Thương

    Các Phương Pháp Thuốc Trị Thương

    1. Huyệt Bách hội (còn có tên là Bá hội):

    Nếu bị đánh trúng mà não tủy không bị phá, tức là chỉ sinh chứng đau đầu, chóng mặt, đổ lửa, ói mửa, hoặc đi đứng khó khăn...v...v... thì có thể dùng phương thuốc này chữa trị :

    Xuyên khung 2 chỉ
    Đương quy 2 chỉ
    Xích thược 8 phân
    Thăng ma 8 phân
    Phòng phong 8 phân
    Hồng hoa 4 phân
    Nhũ hương (khử dầu) 4 phân
    Trần bì 5 phân
    Cam thảo 2 phân

    Cộng làm 2 tể, cho rượu và nước lạnh mỗi thứ nữa chén, sắc lấy nữa chén. Uống lúc thuốc còn nóng.

    --------------------------

    2. Hai huyệt Thái âm và Thái dương (còn gọi là Thượng Mệnh Môn):

    Khi bị đánh trúng dể sinh ứ máu, để lâu sẽ sinh biến chứng rất nguy hiểm. Dùng toa thuốc sau đây để chữa trị :

    Đương quy 1 chỉ rưởi
    Hồng hoa 5 phân
    Hoàng thị 5 phân
    Bạch chỉ 5 phân
    Thăng ma 5 phân
    Quật hồng 5 phân
    Kinh giới 8 phân
    Nhục quế 8 phân
    Xuyên khung 8 phân
    Cam thảo 2 phân

    Dùng rượu trắng (càng lâu năm càng tốt) pha với nước tiểu trẻ em, mỗi thứ một chén, sắc lên còn một chén và uống. Hốt 7 thang, uống liên tục 7 ngày.
    __________________
    --------------------------------------------------------------------------------

    3. Hai huyệt Hồng Đường (còn gọi là Tả Hửu Tàng Huyết Huyệt):
    Bị đánh trúng nặng có thể gây trọng thương mà chết. Nhẹ thì gây gối loạn thị giác, tổn hại đến gan và mật. (vì thuộc Thái Âm, Thái Dương kinh và thông vào gan, mật). Dùng cả hai thang thuốc sau đây:

    a. Ngũ hổ tán:

    Đại hoàng 8 phân
    Mao trúc, Tiết hỏi 5 phân
    Tùng trạch thán 5 phân
    Kim chuyên 1 chỉ

    Sao lên rồi tán nhỏ, sau đó pha với rượu trắng mà uống mỗi ngày một lần (rượu càng lâu năm, công hiệu càng mạnh).

    b. Sau 6 tiếng đồng hồ thì uống thang thứ nhì:

    Linh tiên 1 chỉ
    Quế chi 1 chỉ
    Xuyên khung 1 chỉ
    Xuyên đoạn 1 chỉ
    Đào nhơn 1 chỉ
    Trần bì 8 phân
    Cam thảo 3 phân"
    Đương quy 1 chỉ rưởi

    Đổ 3 chén nước vào sắc còn một chén, uống lúc thuốc còn nóng.
    __________________


    --------------------------------------------------------------------------------

    4. Huyệt Mệnh mạch tức là Tả Ưng Song Huyệt (còn gọi là Tả Thượng Huyết Hải):

    Thuộc kinh túc dương minh vị, chủ Can kinh (gan) và thông với tim qua tĩnh mạch. Đây là một yếu huyệt quan trọng (Thượng Huyết Hải = biển máu trên) nên khi bị trọng thương sẽ đau đớn vô cùng, gây khó thở, nhức đầu...v...v...(Nặng hơn thì chết). Tạm thời hãy uống thang thuốc sau đây liên tục trong 7 ngày:

    Quy vỹ 1 chỉ rưởi
    Tử thảo 1 chỉ rưởi
    Tô mộc 1 chỉ rưởi
    Hồng hoa 1 chỉ rưởi
    Nhục quế 1 chỉ rưởi
    Trần bì 1 chỉ rưởi
    Chỉ xác 1 chỉ rưởi
    Thạch hộc 5 phân
    Cam Thảo 5 phân

    Làm thành tể uống mỗi ngày 3 tể. Dùng rượu trắng lâu năm pha với nước tiểu trẻ em mà uống với thuốc.
    __________________


    --------------------------------------------------------------------------------

    5. Huyệt Mạch tông, tức Hữu Ưng Song Huyệt (còn gọi là Hữu Thượng Huyết Hải):

    Thuộc kinh túc dương minh vị, làm chủ khí thuộc Phế kinh (Phổi), khi bị trọng thương khiến tổn hại thần kinh vùng ngực và tĩnh mạch, gây rối loạn tim...v...v... Để lâu ngày (3 ngày sau khi bị thương) sẽ gây biến chứng rất nghiệm trọng và rất khó chữa trị. Dùng thang thuốc sau đây uống ngay sau khi bị thương:

    Quy vỹ 1 chỉ
    Đào nhơn 1 chỉ
    Xuyên đoạn 1 chỉ
    Ký nô 1 chỉ
    Hồng hoa 1 chỉ
    Chỉ xác 2 phân
    Cam thảo 2 phân
    Cốt toái bổ 5 phân
    Ngẫu tiết 5 phân
    Sơn Dương huyết 3 phân

    Đổ một chén nước, một chén rượu trắng, sắc còn một chén rồi uống liên tục 7 ngày (Chú ý: Sơn Dương Huyết để riêng ra đừng sắc chung, chỉ sắc các vị thuốc kia, sau khi sắc xong rồi mới uống chung với Sơn Dương Huyết)
    __________________


    --------------------------------------------------------------------------------

    6. Huyệt Đàm Đột (còn gọi là Cửu Vỹ Huyệt):

    Là huyệt thuộc mạch Nhâm, còn có tên là "Hắc Hổ Du Tâm", khi bị đánh trúng khiến khí huyết bị bế tắt và thần kinh bị tê liệt tạm thời mà bất tỉnh nhân sự, sau đó sẽ bị đau đớn khi thở, hoặc bị khó thở, mỗi khi thở phải ráng lấy hơi từ bụng..... Nếu bị cao thủ nội gia đánh trúng sẽ làm chấn thương động mạch ở bụng, tĩnh mạch tim, gan, mật gây ứ máu, để lâu ắt phải chết. Phải dùng thuốc để giải cứu hoạt huyết ngay nếu bị ói máu :

    Đương quy 1 chỉ
    Xuyên khung 1 chỉ
    Hồng hoa 1 chỉ
    Đại phục bì 1 chỉ
    Cốc toái bổ 1 chỉ
    Kịnh giới 8 phân
    Hạnh nhân 8 phân
    Tử thảo 8 phân
    Tô diệp 8 phân
    Mộc nhĩ thán 5 phân
    Đăng tâm 19 sợi

    Trừ Mộc nhĩ thán ra, hãy đổ tất cả các vị thuốc ở trên vào cùng 1 chén nước, một chén rượu, sắc xuống còn một chén (nữa chén càng tốt). Thuốc sắc xong rồi mới uông chung với Mộc nhĩ thán.
    __________________



    --------------------------------------------------------------------------------

    7. Huyệt Huyền Cơ (còn có tên là Phiên Đột và Nhủ căn)


    Là yếu huyệt thuộc kinh túc dương minh vị, làm chủ Can kinh (gan). Vì nằm gần tim nên còn được gọi là Hạ Huyết Hải. Khi bị đánh trúng, nhẹ thì khí huyết và hô hấp bị rối loạn, đầu óc mê muội, nặng thì sẽ gây sốc nặng đến tim gây xuất huyết. Nếu bị cao thủ nội gia đánh trúng, có thể bị thổ huyết mà chết ngay. Nếu bị nhẹ thì có thể dùng thang thuốc sau đây :

    Hồ tôn trúc căn 5 phân
    Thiên căn cẩm lượng thụ căn 5 phân
    Liên căn sư tử thảo 5 phân
    Cận thiêm thụ căn 5 phân
    Thiên kiều mạch căm 5 phân

    5 vị này sao lên, tán bột, hòa vào rượu trắng (phải được hâm nóng) rồi uống. Nếu bị ói thì dùng 1 muỗng nước cốt gừng (khương chấp), pha chung vào rượu mà uống với thuốc. Nên nhớ kỹ là khi sắc thuốc và hâm rượu, kỵ hâm bằng dầu. Chỉ nên dùng than và củi, nếu dùng củi thì cũng phải tránh dùng các loại củi có chất dầu... Kỵ ăn uống đồ nguội lạnh, phải hâm nóng trước khi dùng. Sau 7 ngày uống thuốc, nếu không bị biến chứng gì khác thì bịnh sẽ lành.
    __________________


    --------------------------------------------------------------------------------

    8. Huyệt Phế Miêu (còn gọi là Hoa Cái).

    Nằm giữa hai huyệt Toàn Cơ (ở trên) và Trung Đình (ở dưới), được coi là nắp vung của ngũ tạng và Tâm khẩu thượng nên là một đại huyệt quan trọng, nếu bị đánh trọng thương rất khó chữa trị. Nhẹ thì ngực thường bị đau nhói, ho khan liên tục và thân nhiệt tăng giảm thất thường, cơ thể nóng rang y như bị sốt nặng, nếu để lâu ngày dể sinh biến chứng đến ngũ tạng.

    Quy vĩ 1 chỉ 3 phân
    Hồng hoa 8 phân
    Trần bì 8 phân
    Hạnh nhơn 8 phân
    Bạch giới chỉ 8 phân
    Mộc dược (đã khử dầu) 4 phân
    Độc hoạt 5 phân
    Thạch hộc 5 phân
    Tô diệp 5 phân
    Cam thảo 5 phân
    Tim đèn 19 sợi

    3 chén nước, sắc còn một mà uống tạm thời. Và ngâm thuốc với rượu trắng (lâu năm càng tốt) sau 30 ngày thì uống được.
    __________________



    --------------------------------------------------------------------------------

    9. Huyệt Cự khuyết (còn có tên là Phản Hồn):

    Thuộc mạch Nhâm, là huyệt mộ của Tim. Đây là một tử huyệt quan trọng vì thông với nắp đóng, mở của tim (valve) nên có tên là tỏa tâm thông khiếu. Nếu bị cao thủ nội gia đánh trúng, ắt chết ngay vì gây chấn động trực tiếp vào tim. Nhẹ thì gây tổn thương đến gan và mật.

    Uống ngay Sơn dương huyết, hoặc ngũ hổ tán (sẽ viết sau), sau đó dùng than thuốc sau đây chữa trị:

    Đào nhơn 5 hột
    Hồng hoa 8 phân
    Bạch giới tử 1 chỉ
    Trần bì 1 chỉ 2 phân
    Chỉ xác 1 chỉ 2 phân
    Khương hoạt 1 chỉ 2 phân
    Quy vĩ 1 chỉ 2 phân
    Nhục quế 1 chỉ 5 phân
    Tô mộc 1 chỉ 5 phân
    Xích thược 5 phân
    Cam thảo 2 phân

    Dùng nửa nước nửa rượu (mỗi thứ 2 chén), sắc còn một chén mà uống. Mỗi ngày một thang liên tục 7 ngày.
    __________________


    --------------------------------------------------------------------------------

    10. Huyệt Khí Hải (nằm ngay bên trên Huyệt Đan Điền)

    Thuộc mạch Nhâm, là huyệt thông với các đại huyệt vùng bụng tạo thành bể chứa khí âm dương, ở nam giới thì Khí Hải và Đan Điền là nơi phát sinh và nuôi dưỡng tinh khí, vì vậy đây là một yếu huyệt. Nếu bị trọng thương ở Khí Hải và Đan Điền, nặng thì chết trong 3 ngày, nhẹ thì gây tổn thương đến vách bụng, tĩnh / động mạch và sườn, gây ứ máu...cơ thể mất đi sự linh hoạt, đại tiểu tiện bị khó khăn (có thể bị bí nếu bị thương nặng)...

    a. Cấm gần nữ sắc, tức không phóng dục.

    b. Dùng thang sau đây:

    Uy linh tiên 1 chỉ 3 phân
    Quy vĩ 1 chỉ 3 phân
    Đổ trọng 1 chỉ 3 phân
    Xuyên khung 1 chỉ
    Tang bì 1 chỉ
    Xuyên ngưu tất 1 chỉ
    Đại phục bì 1 chỉ
    Lưu kỳ nô 1 chỉ
    Hồng hoa 5 phân
    Cam thảo 3 phân

    Ngâm vào nước tiểu trẻ con (đồng tiện) trước, sau đó sao lên cho ráo. Xong rồi đổ thuốc vào nồi, dùng 2 chén rượu, 2 chén nước, sắc còn một chén, uống thuốc chung với ngũ tễ.

    Chú ý:

    Khi nạn nhân bị đánh trọng thương vào các đại huyệt ở phía trước mình, hãy quan sát môi miệng, móng tay móng chân của nạn nhân xem có bị trở bầm đen hay không (?), con mắt có bị đứng tròng (hoặc bị lạc thần) hay không (?), và sờ nắn xem gân cốt có bị co rút, cứng ngắt hay không (?)....v...v.... Nếu không thấy các triệu chứng ở trên thì tức là nạn nhân bị thương không nặng lắm, có thể chữa trị được. Ngược lại nếu nạn nhân bị các triệu chứng như trên thì rất khó cứu chữa kịp thời...

    (Nhiều sĩ quan của quân lực VNCH trong thời gian ở tù cải tạo, bị bọn cán bộ đánh đập tàn nhẫn vào vùng ngực và bụng, gây tổn thương đến các đại huyệt phía trước mình...lại không được chữa trị đàng hoàng cho nên đã chết dần chết mòn rất thê thảm...phần đông họ đã bị chết một hoặc hai năm sau khi bị thọ thương...

    Các huyệt vị quan trọng trên mặt, đầu và sau đầu phần đông đều là yếu huyệt, nếu bị cao thủ nội gia đánh trọng thương có thể chết ngay tại chổ, nếu bị thương nhẹ dù là không chết cũng rất khó chữa trị.
    __________________


    --------------------------------------------------------------------------------

    Các yếu huyệt phía trước mặt gồm: Bách Hội; Thần Đình; My Tâm; Thái Dương và Thái Âm; Tả Hửu Nhĩ Môn; Tình Minh; Nhân Trung; Nhân Nghênh, v....v....

    Các yếu huyệt sau đầu gồm: Tả Hửu Tàng Huyết Huyệt; Á huyệt; Não Hộ; Ngọc chẩm cốt; Phong Trì; v....v...

    Các yếu huyệt sau lưng (Đốc Mạch) gồm: Linh Đài; Phế Du; Quyết Âm Du; Tâm Du; Thận Du; Mệnh Môn; Tả Hửu Chí Thất (còn gọi là Chí Đường); Khí Hải Du; Vĩ Lư (còn gọi là Hậu Hải Để, hoặc Đôn Cổ Vỹ Tiêu);...v....v...

    Nói chung là phần lớn các huyệt vị thuộc Nhâm Đốc nhị mạch đều là các đại huyệt quan trọng, nếu thọ thương thì hãy tìm thầy chữa trị ngay, đừng để lâu ngày sinh biến chứng mà chết dần chết mòn...(Ngoài ra còn rất nhiều tử huyệt quan trọng khác nhưng vì nằm ở những vị trí khó bị đánh trúng nên tôi xin phép không liệt kê ra).

    Nếu bị thương vào các yếu huyệt đã nói ở trên mà chưa có biến chứng gì nguy hiểm thì hãy dùng các thang thuốc sau đây chữa trị:

    1. Tổng quát:

    Xuyên Khung 2 chỉ
    Quy Vĩ 3 chỉ
    Huyền Hồ 2 chỉ
    Mộc Hương 2 chỉ
    Thanh Bì 2 chỉ
    Ô Dược 2 chỉ
    Đào Nhơn 2 chỉ
    Viễn Chí 2 chỉ
    Tam Lăng 1 chỉ 5 phân
    Bồng Truật 2 chỉ
    Toái Bổ 2 chỉ
    Xích Thược 2 chỉ
    Tô Mộc 2 chỉ

    Bỏ vào nồi đất, 3 chén nước, sắc xuống còn nữa chén, sau đó pha với rượu trắng mà uống mỗi ngày (rượu có độ thẩm thấu cao nên dùng để dẫn thuốc nhanh hơn). Nếu đại tiện bị bí thì gia thêm Sanh quán 2 chỉ. Nếu tiểu tiện bị bí thì gia thêm Xa Tiền Tử 3 chỉ. Nếu miệng và hàm bị cứng thì gia thêm Hậu Phác 2 chỉ; Sa Nhơn 2 chỉ.
    __________________


    --------------------------------------------------------------------------------

    2. Gia giảm:

    Hồng Chí (khử dầu) 1 chỉ 5 phân
    Kỳ Nô 3 chỉ
    Nhục Quế 1 chỉ 5 phân
    Quảng Bì 2 chỉ
    Hương Phụ 2 chỉ
    Đỗ Trọng 2 chỉ
    Đương Quy 2 chỉ
    Huyền Hồ 2 chỉ
    Sa Nhơn 2 chỉ
    Ngũ Gia Bì 3 chỉ 5 phân
    Ngũ Linh Chi 2 chỉ
    Sanh Bồ Hoàng 2 chỉ
    Chỉ Xác 1 chỉ 5 phân

    Bỏ vào nồi đất, 3 chén nước, sắc xuống còn nữa chén, sau đó pha với rượu trắng mà uống mỗi ngày (rượu có độ thẩm thấu cao nên dùng để dẫn thuốc nhanh hơn). Thang này công dụng cũng giống như thang ở trên, vì vậy dùng thang nào cũng được.
    __________________


    --------------------------------------------------------------------------------

    3. Đan Dược Trị Nội Thương:

    Phi Long Đoạt Mệnh Đan:

    Xuyên Khung (sao với rượu) 3 chỉ
    Ngũ Linh Chị (sao với dấm) 3 chỉ
    Tiền Hồ (sao vàng) 3 chỉ
    Thanh Bì (sao với dấm) 3 chỉ
    Ngũ Gia Bì (ngâm với nước tiểu) 1 lượng
    Nguyệt Thạch 1 lượng
    Xuyên Bối 4 chỉ
    Chỉ Xác (sao với tiểu mạch bì) 3 chỉ
    Phỉ Tử (sao vàng) 3 chỉ
    Bồ Hoàng (nửa sống nửa chín) 2 chỉ
    Nguyên Hồ (sao với dấm) 4 chỉ
    Tự Nhiên Đồng (nướng dấm) 8 chỉ"
    Tam Lăng (sao với dấm) 4 chỉ
    Phi Chu Sa 3 chỉ
    Tang Ký Sinh (sao) 3 chỉ
    Trầm Hương 3 chỉ
    Huyết Kiệt 8 chỉ
    Tần Bồng (sao với rượu) 3 chỉ
    Hoài Nhơn (khử bì) 5 chỉ
    Bồng Truật 5 chỉ
    Khương Hoạt (sao) 3 chỉ
    Địa Miết (tẩy rượu) 8 chỉ
    Mộc Hương (phơi sớng 6 chỉ
    Quảng Bì (sao) 4 chỉ
    Ô Dược (sao) 3 chỉ
    Đương Quy (cứu rượu) 6 chỉ
    Phá Cố Chỉ (dầm muối) 4 chỉ
    Chế Thai Cốt 5 chỉ
    Sao Cát Căn 3 chỉ
    Xạ Hương 1 chỉ 5 phân
    Đỗ Trọng (sao muối) 4 chỉ
    Quật Hồng 3 chỉ
    Nhục Quế (khử bì) 3 chỉ
    Sa Nhơn (khử xác) 2 chỉ
    Thổ Cẩu (khử ruột cứu dấm) 3 chỉ
    Tô Mộc 4 chỉ

    (Dùng Thai Cốt lấy Hầu Cốt mà hóa)

    Tổng cộng 36 vị thuốc, chế cho tinh hảo, nhỏ mịn, rồi trộn với một chén sửa bò tươi, hòa trộn cho thật đều, sau đó đem sấy cho thật khô. Trử vào keo hoặc hủ kín.

    Nếu bị trọng thương thì mỗi ngày uống 3 chỉ sau khi ăn khoảng 1 tiếng đồng hồ. Nhẹ thì uống 1 chỉ rưỡi. Nên uống với rượu để thuốc mau thấm.

    Sau khi ăn cơm chiều thì hãy uống thang thứ nhì sau đây:

    Thố Ti Tử 1 chỉ
    Nhục Quế 1 chỉ
    Lưu Kỳ Nô 1 chỉ
    Hồ Hoàng 1 chỉ
    Đỗ Trọng Thán 1 chỉ
    Nguyên Hồ Sách 1 chỉ
    Thanh Bì 1 chỉ
    Chỉ xác 1 chỉ
    Hương Phu Tử 1 chỉ
    Ngũ Linh Chi 1 chỉ
    Quy vĩ 1 chỉ
    Súc Sa Nhơn 1 chỉ
    Ngũ Gia Bì 1 chỉ 5 phân
    Quảng Bì 2 chỉ

    2 chén nước, 2 chén rượu, sắc còn một chén mà uống lúc còn nóng.
    __________________




    --------------------------------------------------------------------------------

    Tử Kim Đan:

    Nhũ Hương 5 chỉ
    Mộc Dược (khử dầu) 5 chỉ
    Mộc Nhĩ Thán 6 chỉ
    Đại Hoàng 4 chỉ
    Địa Miết 6 chỉ (dùng rượu đốt viên gạch lên mà khử chân và đầu)
    Huyết Kỵ 5 phân
    Xạ Hương 3 phân
    Toái Bổ 5 chỉ
    Ô Dược 6 chỉ
    Quy Vỹ (tẩm rượu) 5 chỉ
    Ma Bì 4 chỉ
    Tự Nhiên Đồng 5 chỉ (đốt dấm 7 lần)
    Bồn Liêu 1 lượng

    Tán tất cả các vị thuốc trên thành bột, trộn đều với nhau và bỏ vào keo đóng kín. Khi bị thương thì mỗi ngày uống 3 phân với rượu. (nên pha rượu với nước tiểu trẻ con uống sẽ tốt hơn)
    Nếu bị thương mà thổ huyết thì chỉ nên uống 2 phân mà thôi.
    Phụ nữ đang bị băng huyết chỉ nên uống 1 phân 5 ly.
    Thuốc này không thể uống nhiều, mỗi ngày chỉ uống một lần, và uống thật nhiều nước trong ngày.
    __________________



    --------------------------------------------------------------------------------

    Đoạt Mệnh Tiếp Cốt Đan:

    Địa Miết 5 chỉ
    Tự Nhiên Đồng 2 chỉ (nướng dấm 7 lần)
    Nhũ Hương 1 chỉ 5 phân
    Mộc Dược 1 chỉ 5 phân (khử dầu)
    Huyết Kỵ (phơi kỷ) 2 chỉ 5 phân
    Cổ Tiền 1 chỉ 5 phân (đốt dấm 7 lần)
    Hồng Hoa 2 chỉ
    Toái Bổ 2 chỉ (dùng nước tiểu trẻ con để rửa sạch lông)
    Ma Bì Căn (sao lên) 2 chỉ
    Quy Vĩ 2 chỉ (tẩm kỷ với rượu)
    Mật Ong 1 lượng

    Bỏ chung hết vào, tán nhuyễn như cám, trộn mật ong và vo thành nhiều viên nhỏ, dựng vào keo lọ đóng kín. Nếu bị trọng thương mà hơi thở yếu ớt, hãy uống 1 phân 2 ly với rượu hâm nóng.



    --------------------------------------------------------------------------------

    Địa Miết Tử Kim Đan:

    Huyết Kiệt 8 chỉ
    Nguyệt Thạch 8 chỉ
    Xuyên Đoạn (sao muối) 3 chỉ
    Ngũ Gia Bì (chế với đồng tiện) 5 chỉ
    Xuyên Ngưu Tất (đốt với rượu) 5 chỉ
    Xạ Hương 4 phân
    Tự Nhiên Đồng (đốt dấm) 8 chỉ
    Chế Thai Cốc 3 chỉ
    Địa Miết (chế rượu) 5 chỉ
    Thổ Cẩu (chế rượu) 5 chỉ
    Bối Mẫu 3 chỉ
    Tô Mộc 3 chỉ
    Ô Dược (sao lên) 5 chỉ
    Nguyên Hồ (sao với dấm) 5 chỉ
    Hương Phụ (chế rượu) 4 chỉ
    Thanh Mộc Hương 4 chỉ
    Dương Quy (sao rượu) 5 chỉ
    Đào Nhơn 5 chỉ
    Quảng Bì 3 chỉ
    Linh Tiên (sao rượu) 5 chỉ
    Trạch Lan 3 chỉ
    Tục Tùy Tử (khử dầu) 2 chỉ 5 phân
    Ngũ Linh Chỉ 3 chỉ (sao dấm cho khô)

    Nghiền thành bột nhuyễn, cất vào keo lọ. Khi bị nội thương thì mỗi lần uống 3 chỉ với rượu. Nhẹ thì uống 1 chỉ.
    __________________




    TOA THUỐC TẨM TAY (THẬP VỊ LUYỆN QUYỀN)

    (Tẩm tay khi luyện Thiết Sa Chưởng)

    1. Đại Hoàng : 2 lượng
    2. Bạch Đậu Khấu : 2 lượng
    3. Long Não : 2 lượng
    4. Quế Chi : 2 lượng
    5. Sương truật : 2 lượng
    6. Tiểu hồi hương : 2 lượng
    7. Sanh xuyên ô : 4 lượng
    8. Sanh thảo ô : 4 lượng
    9. Sanh mã tiền : 4 lượng
    10. Huyết kiệt : 1 lượng

    Tất cả ngâm với 7 lít rượu trắng, trong một chiếc khạp hay bình thủy tinh đậy kín, để trong 30 ngày thì dùng được.

    Chỉ thoa bóp ngoài da, không thể uống được

    Theo Thư Viện Tòan Cầu
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  2. #2

    Mặc định

    Cảm ơn , bài viết rất hay

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •