"con mắt" mà mấy bạn gọi đó được gọi là "Thiên Nhãn" Đại diện cho đấng Chí Tôn, ý nghĩa sơ khai là :"Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể,
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên,
Thiên giả Ngã giã."
Câu 1: Nhãn thị chủ tâm.
Nhãn: con mắt. Thị: ấy là. Chủ: làm chủ. Tâm: cái Tâm. - Cái Tâm của con người là Linh hồn, cũng gọi là Tiểu hồn, Tiểu Linh quang, và con người là Tiểu Thiên Địa hay Tiểu Thượng Đế. - Cái Tâm của Trời là Đại hồn, là Đại Linh quang, và Trời là Đại Thiên Địa, thường gọi là Thượng Đế.
Nhãn thị chủ Tâm: Thiên Nhãn là chủ của Thiên Tâm, tức là Thượng Đế làm chủ Đại hồn, Đại Linh quang.
Câu 2: Lưỡng quang chủ tể.
Lưỡng: hai. Quang: ánh sáng. Đối với Trời, Lưỡng quang là Lưỡng nghi: Âm quang và Dương quang. Tể: đứng đầu. Chủ tể, cũng đọc là Chúa tể, là đứng đầu cai trị tất cả.
Lưỡng quang chủ tể: Lưỡng nghi là Chúa tể, cai trị tất cả. Bởi vì Dương quang và Âm quang ấy do Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu, chưởng quản, phối hợp để tạo thành Càn khôn Vũ trụ và hóa sanh vạn vật.
Câu 3: Quang thị Thần.
Quang: ánh sáng. Thị: ấy là. Thần trong trường hợp nầy là chơn linh. Đối với Thượng Đế, Thần là Đại hồn, Đại Linh quang, cũng còn gọi là Thái Cực.
Quang thị Thần: Đại Linh quang ấy là Đại hồn của Thượng Đế.
Câu 4: Thần thị Thiên:
Đại hồn ấy là Trời, tức là Thượng Đế.
Câu 5: Thiên giả Ngã giã (dã).
Giả: ấy là. Ngã: Ta. Giã hay Dã: vậy.
Thiên giả Ngã dã: Trời ấy là Ta vậy, (Ngã là Ta: tiếng tự xưng của Đức Chí Tôn), Trời là Đức Chí Tôn vậy.
Câu "Thiên giả Ngã dã" giống như câu "Nhân giả Nhơn dã" (仁者人也): Lòng Nhân ấy là đạo làm Người vậy.
Tóm tắt:
Nhãn thị chủ tâm, Thượng Đế là chủ của Đại hồn.
Lưỡng quang chủ tể, Dương quang và Âm quang là chúa tể.
Quang thị Thần, Đại linh quang là Đại hồn.
Thần thị Thiên, Đại hồn ấy là Thượng Đế.
Thiên giả Ngã giã. Thượng Đế ấy là Ta vậy.
Trong TNHT, tiếp theo năm câu nho văn dạy về THIÊN NHÃN, Đức Chí Tôn dạy tiếp về THẦN: Thần cư tại nhãn:
Thần là một bửu trong Tam bửu (Tinh, Khí, Thần) của phép Luyện đạo: luyện cho Tinh Khí Thần hiệp nhứt, tam huê tụ đảnh, tạo được chơn thần huyền diệu, đắc đạo tại thế.
Từ ngày Đạo bị bế, Ngọc Hư Cung thường ngăn cản không cho Thần hiệp với Tinh và Khí, do đó người luyện đạo không thể luyện Tinh Khí Thần hiệp nhứt được, nên người tu thì nhiều mà không có người đắc đạo.
Từ khi mở ĐĐTKPĐ thì thời kỳ bế Đạo chấm dứt, Đức Chí Tôn đến huờn nguyên chơn thần cho người tu đắc đạo, tức là cho phép Tinh Khí Thần hiệp nhứt, tạo được chơn thần huyền diệu để cho người tu đắc đạo tại thế.
Thần cư tại nhãn là cái chơn thần ấy ở tại con mắt.
Cho nên thờ Thiên Nhãn là để chỉ cái yếu nhiệm của sự đắc đạo là Thần phải hiệp nhứt cùng Tinh Khí mới tạo được chơn thần huyền diệu, mà cái chơn thần đó lại thể hiện ra ở tại con mắt. Như vậy, thờ biểu tượng Thiên Nhãn có hai ý nghĩa:
một là thờ Trời,
hai là thờ cái yếu nhiệm là chơn thần để cho người tu luyện Tam bửu (Tinh, Khí, Thần) hiệp nhứt, đắc đạo tại thế.
Nguồn:http://caodaism.org/CaoDaiTuDien/th/th3-092.htm.
Trong đó có đầy đủ hơn. Nếu bạn nào muốn tìm hiểu thêm thì vào nhé.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks