niệm phật một câu phước sinh vô lượng
lễ phật một lạy tội diệt hằng sa
A DI ĐÀ PHẬT
nhiều câu niệm phật có nhiều lợi ích không phải như vậy, nếu niệm phật có thể làm tới như vậy thì ai cũng làm hết.
Niệm Phật Phương Năng Tiêu Túc Nghiệp,
Kiệt Thành Tự Khả Chuyển Phàm Tâm!
Đại sư Ấn Quang
Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào cõi khổ, từ tối vào chỗ tối.
Ngào ngạt hương say đời gửi ước
Ao sương ngập toả cánh hồng sen
Bồ đề Tâm là con đường lớn, vì có thể đưa người được vào cõi Nhất thế trí.
Pháp Nhiên Thượng Nhân là Khai Tổ của Tông Tịnh Độ Nhật Bản.
Ngài sinh năm 1133. Thân phụ của ngài là một vị quan thời đó. Do đã quá tứ tuần mà vẫn chưa có con nối dõi, nên cha mẹ Ngài đã trai giới thanh tịnh rồi vào chùa tụng kinh 7 ngày đêm để xin Phật gia hộ. Đến đêm thứ bảy, trong lúc nửa tỉnh nửa mê, mẹ Ngài thấy một lão tăng đưa cho bà một con dao dùng để cạo đầu người xuất gia, bảo bà nuốt. Sau đó bà hoài thai. Cha Ngài đã đoán rằng sẽ sinh con trai và sau này xuất gia làm một Đại sư lỗi lạc. Từ khi mang thai Ngài, thân tâm của mẹ ngài trở nên an lạc lạ thường, bà phát tâm ăn chay trường và thâm tín Tam Bảo.
Khi đản sinh Ngài, có hai luồng hào quang ở trên không chiếu xuống, tiếng chuông lảnh lót. Đầu Ngài vuông vắn có góc, mắt hai tròng, tướng mạo phi phàm.
Năm Ngài lên chín, phụ thân ngài bị địch quân sát hại. Trước khi qua đời kêu Ngài đến và dạy rằng : “Nầy con! Đây là túc nghiệp của cha, tuyệt đối không nên ôm hận báo thù. Hãy nhớ rằng oán không thể diệt oán. Nếu mang cái tâm báo thù thì đời đời kiếp kiếp sẽ giết hại lẫn nhau không bao giờ dứt. Mình biết đau thì người khác cũng biết tiếc mạng sống. Con sau này thành nhân hãy cầu vãng sanh Cực Lạc, lợi lạc bình đẳng cho người và mình!”. Dặn dò xong xuôi cha ngài lớn tiếng niệm Phật mà an ổn qua đời.
Năm 14 tuổi, tuân theo di ngôn của thân phụ, ngài xuất gia với Pháp sư Giác Quán ở chùa Bồ Đề tại quê nhà. Ngài huệ giải mẫn tiệp, nhất văn thiên ngộ. Pháp sư Giác Quán thấy Ngài khí lượng bất phàm, không nỡ đề Ngài bị mai một, nên đưa Ngài lên Tỷ Duệ Sơn - một tự viện nổi tiếng ở kinh đô - để tham học với Pháp sư Nguyên Quang.
Đến ở Tỷ Duệ Sơn không bao lâu thì Pháp sư Nguyên Quang bảo rằng: “Đây là tuấn mã. Không thể để uống phí ở đây!” Rồi đưa ngài đến A-xà-lê Hoàng-viên, một bậc Tông sư của Tông Thiên Thai thời đó. Vừa thấy Ngài Tổ Hoàng Viên đã nói rằng: “Hồi hôm ta nằm mộng, thấy một vầng trăng tròn chiếu vào chùa. Phải chăng đây là điềm lành báo trước”. Rồi thu nhận Ngài làm đệ tử, bấy giờ Ngài mới 15 tuổi. Chưa đầy 3 năm sau, Ngài đã thấu triệt tất cả những áo diệu của giáo pháp Thiên-Thai. Tổ Hoàng-Viên đã có ý trao truyền Tổ vị cho Ngài. Nhưng Ngài không muốn bị ràng buộc bởi danh lợi nên quyết tâm ra đi. Năm 18 tuổi, Ngài ẩn tu ở núi Hắc Cốc, tham học với Hòa Thượng Duệ Không, một bậc Tông Tượng của Mật Tông thời bấy giờ. Thấy Ngài khí độ phi phàm, dù rằng tuổi còn nhỏ mà không cần phải sách lệ, nên đặt pháp hiệu cho Ngài là Pháp Nhiên (có nghĩa là “Pháp vốn như vậy”), và pháp danh là Nguyên Không (lấy chữ “Nguyên” của Đại sư Nguyên Quang và chữ “Không” của Đại sư Duệ Không). Tại đây Ngài được truyền thụ Viên Thừa Đại Giới và Du Già Bí Pháp.
Không những thông tuệ, Ngài còn rất hiếu học. Tất cả Kinh, Luật, Luận đều được Ngài duyệt đọc cẩn thận. Ngài còn nghiên cứu tường tận về mọi tông phái. Không những thế, Ngài lại đọc khắp bách gia của cả Trung Hoa lẫn Nhật Bản. Ngài từng nói rằng: “Bất cứ kinh điển hay sách vở gì, hễ tôi đọc qua vài lần là tự nhiên thấu triệt, không cần phải suy nghĩ”. Bởi thế, Ngài tinh thông mọi Tông pháp mà không cần phải học với ai cả. Ngài duyệt đọc Đại Tạng cả thảy 5 lần và được đương thời tôn xưng là Trí Huệ Đệ Nhất.
Về phương diện tu hành, Ngài cũng có rất nhiều chứng nghiệm. Có lần Ngài nhập thất 21 ngày tu Pháp Hoa Tam Muội, cảm đức Phổ Hiền cưỡi voi trắng đến chứng minh, Sơn Vương Thần Tướng hiện hình thủ hộ. Khi Ngài duyệt đọc kinh Hoa Nghiêm, có con rắn nhỏ màu xanh nằm khoanh trên bàn. Thị giả Tín Không thấy vậy rất sợ hãi, dùng cây đem rắn ra ngoài. Khi trở vào lại thấy nằm nguyên ở chỗ cũ. Đêm đó Tín Không nằm mộng thấy một con rồng lớn đến bảo rằng: “Tôi là Long Thần thủ hộ kinh Hoa Nghiêm, xin đừng sợ hãi”.
Mỗi lần Ngài nhập thất tu Chân-ngôn Mật-quán là cảm ứng các điềm lành như liên hoa, bảo châu, yết ma và v.v… hiện ra. Rất nhiều lần Ngài đọc kinh ban đêm mà không cần đốt đèn. Ánh sánh phát ra từ trán của Ngài hoặc từ trong thất. Những điều lạ thường như trên, kể ra không xiết. Nhưng dù vậy Ngài vẫn còn băn khoăn chưa thật sự an tâm. Trong cả Đại Tạng Kinh, Ngài hâm mộ nhất là Bộ “Quán Kinh Sớ” của Tổ Thiện Đạo. Ngài đọc đi đọc lại nhiều lần và bỗng nhiên ngộ được ý chỉ DI-ĐÀ SIÊU-THẾ NGUYỆN. Ngài vô cùng hoan hỷ, chẳng khác gì trong đêm tối mà gặp được minh đăng. Ngài lập tức xả bỏ tất cả những pháp môn đã và đang tu, rồi nhập thất chuyên tu Tịnh Độ, Niệm Phật, có đêm Ngài nằm mộng thấy Đại sư Thiện Đạo đến bảo với Ngài rằng: “Tôi là sư Thiện-Đạo đời Đường. Ông có thể hoằng dương Chuyên tu Niệm Phật, nên tôi đến để chứng minh. Từ nay ông có thể hoằng pháp thịnh hóa khắp cả bốn phương”.
Năm 43 tuổi, Ngài rời Hắc Cốc đến trụ tích ở Đông Cát Thủy và khai sáng Tông Tịnh Độ. Trước đó tuy có không ít người Niệm Phật, nhưng không có Tông Tịnh Độ riêng biệt. Từ đây Tông Tịnh Độ xuất hiện và liên tục truyền thừa cho đến thời hiện đại ở Nhật Bản. Đây là một điểm đặc sắc cần lưu ý, vì ở Trung Hoa không hề có Tông Tịnh Độ, và dĩ nhiên không có sự kế thừa. Các Đại sư hoằng dương Tịnh Độ ở Trung Hoa có tính cách tự phát và chỉ ở trong đời của các Ngài mà thôi. Từ khi Ngài khai xướng Tông Tịnh Độ, những cảm ứng linh dị cũng nhiều không kể xiết. Xin kể đôi điều để tăng lòng kính tín.
Đương thời Tể tướng Đằng Nguyên Kiêm Thực rất ngưỡng mộ Thượng Nhân. Có lần thỉnh ngài vào điện Nguyệt Luân để tham vấn về Tịnh Tông Yếu nghĩa, giảng xong Ngài từ biệt ra về, khi đi đến cây cầu ở trước điện, tể tướng quỳ lạy dưới đất không cầm được nước mắt, giây lâu mới quay lại hỏi các người tùy tùng: “Vừa rồi các người có thấy Thượng Nhân trên đầu có hào quang, dưới chân có hoa sen đỡ rời khỏi mặt đất, hình dáng giống như Đức Đại Thế Chí hay không?”. Có người thấy, có người không. Từ đó cầu này được đặt tên là cầu Viên Quang.
Có lần cử hành Niệm Phật thất 21 ngày ở Chùa Linh Sơn. Vào nửa đêm ngày thứ 5, có vài người thấy Đức Đại Thế Chí cùng với đại chúng kinh hành Niệm Phật nên vội đảnh lễ. Giây lát ngước lên thì hình Đức Đại Thế Chí biến thành hình Thượng Nhân. Do đó mới biết rằng ngài là hóa thân của Đức Đại Thế Chí.
Từ khi Thượng Nhân sáng lập Tông Tịnh Độ thì cơ hóa độ thịnh hành vô cùng. Từ vua chúa công khanh cho đến hạng dân giả đều qui ngưỡng Ngài. Và hẳn nhiên cũng không thiếu kẻ ganh ghét Ngài. Do lỗi lầm của đệ tử, Ngài bị vu cáo và phải bị đi đày một thời gian ngắn. Nhưng Ngài vẫn an nhiên dạy Đạo cho bất cứ ai đến tham vấn mà không hề phân biệt. Cũng nhờ lần đi đày này mà nhiều người có dịp gặp Ngài và được vãng sanh.
Ngài vãng sanh vào lúc giữa trưa ngày 25 tháng 2 năm 80 tuổi (1212). Trước đó vài ngày, ngài nói với các đệ tử:
“ Tiền thân của Thầy là một vị tăng ở bên Thiên Trúc (Ấn độ cổ thời), thường tu hạnh đầu đà. Nay đến chốn này học Thiên Thai Tông, sau rốt mở Tịnh Độ Tông, hoằng dương Niệm Phật.”
Đệ tử Thế Quán hỏi: Thưa Thầy! Là vị nào?
Ngài đáp: Là ông Xá-Lợi-Phất.
Lại có đệ tử khác hỏi: Thầy nay có vãng sanh về Thế-giới Cực-Lạc không?
Ngài đáp: Thầy vốn là người của Cực Lạc thì dĩ nhiên trở về Cực Lạc.
Các đệ tử thiết trí tượng Đức Phật A Di Đà và xin Ngài chiêm ngưỡng. Ngài lấy tay chỉ lên không mà nói rằng: “Phật hiện Chân thân kìa, các con có thấy không? Thầy mười mấy năm nay thường thấy Chân thân của Phật, Bồ Tát và Cực Lạc Trang Nghiêm, nhưng tuyệt đối không nói với ai. Nay sắp lâm chung, nên không ngại gì mà không nói cho các con biết”.
Ngày 22 các đệ tử đều đi nghỉ hết, chỉ còn một mình Thế Quán hầu Ngài. Có một người đàn bà đi xe đến và xin được gặp riêng Thượng Nhân. Hai người đàm đạo rất lâu. Khi bà ra về, Thế Quán rất lấy làm lạ nên mới đi theo sau, nhưng chẳng bao xa thì bà đột nhiên biến mất. Thế Quán vào hỏi Thượng Nhân. Ngài đáp: “Bà đó là phu nhân Vi Đề Hy!”.
Từ ngày 23 cho đến ngày 25, Ngài lớn tiếng Niệm Phật cùng với đại chúng để kết duyên lần cuối. Đến giữa trưa ngày 25, ngài đắp y Tăng già lê, đầu Bắc diện Tây (nằm nghiêng bên phải, mặt quay về phía Tây) tụng bài kệ sau rồi an nhiên thị-tịch, thế-thọ 80, tăng lạp 66.
“ Quang-minh biến-chiếu,
Niệm-Phật chúng-sanh
Nhiếp-thu bất-xả”.
(Tạm dịch: Ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới. Thu nhiếp chẳng rời chúng sanh Niệm Phật).
Trước khi Ngài thị tịch 5 ngày (ngày 20) mây ngũ sắc giống như tranh Phật che phủ chùa, khiến cho tất cả đại chúng được thấy đều rơi lệ. Các đệ tử nói rằng: “Đã có mây lành hiện ra thì Thầy sắp vãng sinh rồi ”. Ngài bảo: “Lành thay! Những người được thấy nghe hẳn sẽ tăng trưởng tín tâm!”.
Sau khi Ngài vãng sinh 16 năm, các đệ tử mở kháp đá đựng di thể của Ngài thì toàn thân vẫn như cũ, dung mạo từ hòa. Đệ tử tăng tục hơn ngàn người hộ tống di hài Ngài về Tây Giao làm lễ trà tỳ. Trong khi làm lễ, mây lành hiện ra, hương thơm phảng phất trên các cây tùng nên từ đó nơi này có tên là “Tử Vân Tùng”, hiện nay là chùa Quang Minh. Tác phẩm quan trọng nhất của Ngài là TUYỂN TRẠCH BỔN - NGUYỆN NIỆM PHẬT đang được chuyển dịch sang Việt ngữ.
------Niệm Phật Tông Yếu-Pháp Nhiên Thượng Nhân------
Pháp nhiên thượng nhân .. A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Táto:not_worthy:
Nguyên văn bởi hoa_dang Xem Bài Gởi
hình như tịnh độ tông tổ sư đắc đạo nhiều hơn bên thiền tông thì phải ,
.................................................. .................................................. ....
như nhau
Triệt Ngộ đại sư–vị tổ thứ 12 dòng Tịnh Độ Tông
Cập nhật lúc 06:02 29/06/2012
Triệt Ngộ đại sư vốn là người họ Mã, tên thật là Tế Tinh, tên tự là Triệt Ngộ, hiệu là Mộng Đông. Triệt Ngộ sinh năm 1741...
Sau hàng chục năm tham học thiền môn, Triệt Ngộ đã quyết định noi theo những người tiền nhiệm của mình, bỏ thiền tông để theo Tịnh Độ Tông, lấy việc cầu sinh nơi tịnh thổ làm mục đích tu hành. Đây là một bước chuyển lớn trong cuộc đời tu hành của Triệt Ngộ, bởi vì quyết định của Triệt Ngộ đã giúp lịch sử của Tịnh Độ Tông ở Trung Quốc có vị tổ đời thứ 12…
[links()]
1. Triệt Ngộ đại sư vốn là người họ Mã, tên thật là Tế Tinh, tên tự là Triệt Ngộ, hiệu là Mộng Đông. Triệt Ngộ sinh năm 1741, dưới thời nhà Thanh tại Phong Nhuận, Kinh Đông, nay là huyện Phong Nhuận, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.
Cha Triệt Ngộ tên là Mã Vạn Chương, vốn là một nho sĩ nổi tiếng trong vùng. Mẹ ông vốn là người họ Cao, cũng là 1 cô gái xinh đẹp có tiếng. Từ khi còn rất nhỏ, Triệt Ngộ đã tỏ ra là 1 người thông minh dĩnh ngộ, ham thích việc đọc sách.
Vì thế, các sách kinh điển Nho gia, từ Tứ thu, Ngũ kinh, ông đều đọc qua khắp lượt. Không những kiến thức uyên bác, đọc sâu, hiểu rộng, Triệt Ngộ còn có tài làm thi, từ, phú. Vì thế, dù tuổi còn rất trẻ song tên tuổi Triệt Ngộ đã nổi tiếng khắp vùng, được nhiều người kính trọng.
Năm Càn Long thứ 27, tức năm 1762 sau Công nguyên, ở tuổi 22, Triệt Ngộ mắc bệnh nặng, tưởng chừng không thể qua khỏi. Trận ốm thập tử nhất sinh, những ngày tháng cận kề cái chết khiến chàng trai 22 tuổi họ Mã cảm nhận được sự vô thường của nhân thế. Kể tử đó, Triệt Ngộ lập chí xuất gia.
Sau khi khỏi bệnh, vừa có thể đi lại được, Triệt Ngộ ngay lập tức tìm tới Tam Thánh Am ở huyện Phòng Sơn, gặp Vinh Trì hòa thượng đang tu hành tại đây xin xuống tóc đi tu.
Năm sau đó, Triệt Ngộ lại tới Tụ Vân Tự xin thọ cụ túc giới với Hằng Thực hòa thượng. Năm tiếp theo, khi pháp sư Long Nhất giảng “Viên Giác Kinh” ở Hương Giới Tự, Triệt Ngộ từ nơi xa xôi vạn dặm tìm tới tận nơi nghe giảng, tiếp thu yếu nghĩa của bộ kinh này.
Tiếp đó, Triệt Ngộ lại tìm tới Tâm Hoa Tự xin học với Biên Không pháp sư. Tại đây, Triệt Ngộ được nghe giảng các kinh sách kinh điển của Đại Thừa như “Pháp Hoa Kinh”, “Kim Cương Kinh”, “Lăng Nghiêm Kinh”,…
![]()
Thiền sư Triệt Ngô
Nhờ đó, Triệt Ngộ ngày càng đọc rộng kinh tạng, hiểu ra rất nhiều giáo lý Phật giáo. Chính thời gian bôn ba lặn lội khắp nơi, tìm tới các đại sư danh tiếng, nhưng cao tăng đắc đạo nghe giảng kinh cộng thêm trí thông minh, sắc sảo của một trí thức Nho học được đào luyện bài bản đã giúp Triệt Ngộ tạo dựng một nền tảng vững chắc cho con đường tu hành cũng như hoằng truyền giáo lý Phật môn của mình.
Năm Càn Long thứ 30, tức năm 1768 sau Công nguyên, ở tuổi 28, Triệt Ngộ tìm tới cầu học với Đại đức Túy Như Thuần ở chùa Quảng Thông.
Trong thời gian học giáo lý với Túy Như Thuần, Triệt Ngộ tỏ ra là 1 người không chỉ đọc rộng hiểu nhiều mà còn thông minh, sắc sảo trong việc lý giải các vấn đề giáo lý thiền tông.
Chính vì vậy, Triệt Ngộ rất được Túy Như Thuần thiên sư yêu quý, cho là pháp khí của thiền môn. Vì thế, chẳng bao lâu sau, Triệt Ngộ được Túy Như Thuần truyền tâm ấn, trở thành tổ đời thứ 36 của dòng Lâm Tế chính tông.
Năm Càn Long thứ 38, tức năm 1773 sau Công nguyên, Tuy Như Thuần về sống tại chùa Vạn Thọ, vì vậy, Triệt Ngộ đại sư được chỉ định thay thế vị trí của thầy mình ở chùa Quảng Thông, đứng đầu tăng chúng trong chùa, chuyên tâm tham thiền.
Năm đó, Triệt Ngộ mới chỉ 36 tuổi.
Kể từ đó cho tới năm Càn Long thứ 57, tức năm 1792 sau Công nguyên, trong suốt 24 năm ròng rã, Triệt Ngộ ngày ngày chăm chỉ tham thiền, trở thành tấm gương tu hành cho những đệ tử nơi cửa Phật.
Cùng với đó, Triệt Ngộ còn rất dụng công hướng dẫn các đệ tử, không bao giờ biết mệt mỏi. Nhờ vậy, danh tiếng Triệt Ngộ đại sư ngày càng lan xa, phong khí thiền tông nhờ vậy cũng được hưng thịnh trở lại.
Tuy nhiên, trong suốt thời gian tu học thiền môn, Triệt Ngộ luôn nhớ tới tấm gương của Diên Thọ thiền sư (tổ đời thứ 6 của dòng Tịnh Độ Tông) và Liên Trì đại sư (tổ đời thứ 8 của Tịnh Độ Tông).
Triệt Ngộ cho rằng, cả hai vị Diện Thọ và Liên Trì đều là những bậc thầy về thiền tông nhưng cuối cùng đã quyết định dời bỏ thiền học để đến với Tịnh Thổ, cầu sinh nơi cực lạc. Điều đó chẳng phải ngẫu nhiên. Hơn nữa, Triệt Ngộ cho rằng, thời đại của ông chúng sinh sống trong cảnh thái bình, là lúc thích hợp nhất để khởi xướng việc niệm Phật trong đồ chúng.
Vì vậy, sau hàng chục năm tham học thiền môn, Triệt Ngộ đã quyết định noi theo những người tiền nhiệm của mình, bỏ thiền tông để theo Tịnh Độ Tông, lấy việc cầu sinh nơi tịnh thổ làm mục đích tu hành.
Đây là một bước chuyển lớn trong cuộc đời tu hành của Triệt Ngộ, bởi vì quyết định của Triệt Ngộ đã giúp lịch sử của Tịnh Độ Tông ở Trung Quốc có vị tổ đời thứ 12.
2. Từ đó trở đi, Triệt Ngộ quyết định dừng việc tập thiền, chuyển sang thực hành giáo lý Tịnh Thổ. Mặc dù quyết định theo nghiệp Tịnh Thổ khi tuổi đã cao, song Triệt Ngộ không hề sao nhãng, gặp bất cứ khó khăn nào cũng không lùi bước. Để chuyên tâm tu hành, Triệt Ngộ cố gắng giảm sự giao tiếp với bên ngoài.
Lúc bấy giờ, đồ chúng từ phương xa mến mộ danh tiếng của ông tìm tới rất nhiều. Triệt Ngộ đành phải đề ra quy tắc, mỗi ngày chỉ tiếp khách trong thời gian 1 nén nhang, thời gian còn lại ông dành hết cho việc chuyên tâm tu hành.
Sau này, để chuyên tâm cho việc tu hành, Triệt Ngộ dời khỏi chùa Quảng Thông về làm trụ trì chùa Giác Sinh. Trong 8 năm tu hành tại chùa này, Triệt Ngộ đã hướng dẫn đồ chúng niệm Phật.
Ông tự lấy mình làm gương để thực hiện việc giáo hóa quần chúng. Do ảnh hưởng của Triệt Ngộ, những người theo về tu theo Tịnh Độ Tông ngày càng đông hơn, trở thành 1 phong trào thời bấy giờ. Chính vì thế, người thời đó gọi Triệt Ngộ là người đứng đầu Tịnh thổ pháp môn.
Tới năm Gia Khánh thứ 5, tức năm 1800 sau Công nguyên, tuổi đã 60, Triệt Ngộ đại sư bèn lui về ở chùa Tư Phúc ở núi Hồng Loa ở ẩn. Mục đích của Triệt Ngộ khi về đây là muốn tìm một nơi yên tĩnh để có thể yên tâm tu hành, không bị thế nhân quấy rầy. Không ngờ, đệ tử ở khắp nơi nghe danh ông tìm về núi Hồng Loa rất đông.
Triệt Ngộ tuổi đã cao nhưng thấy các đệ tử lòng thành tìm tới không nỡ từ chối. Vì thế, số người tìm tới lại càng đông hơn. Chính vì thế, Tư Phúc Tự ở núi Hồng Loa trở thành một đạo tràng truyền bá Tịnh Độ Tông quan trọng thời bấy giờ.
Năm 1888, Ấn Quang đại sư, tổ thứ 13 của dòng Tịnh Độ Tông, dù tuổi đã ngoài 80 song vẫn lặn lội tới tận Hồng Loa cầu học, rất được Triệt Ngộ quý trọng. Triệt Ngộ đại sư dù tuổi đã cao song vẫn tự coi mình giống như các đệ tử khác, gánh nước chẻ củi, đắp tường, sửa nhà, cùng ăn cùng uống chứ không hề tỏ ra cao đạo. Vì thế, Triệt Ngộ đại sư rất được các đệ tử tôn kính.
Tháng 2 năm Gia Khánh thứ 15, Triệt Ngộ đại sư dự biết ngày lâm chung chẳng còn bao xa, đi từ giã những các đệ tử và bằng hữu xa gần, dặn rằng: "Duyên hư huyễn chẳng bền lâu, giờ sống thừa chẳng nên quý tiếc.
Các vị hãy cố gắng niệm Phật, ngày kia sẽ cùng gặp nhau nơi cõi liên bang!" Ðến ngày mùng 2 tháng 12, Triệt Ngộ đại sư bị cảm nhẹ, đang chí tâm niệm Phật, bỗng thấy có vô số cờ xí từ phương Tây bay đến, liền nhìn môn đồ nói: "Cảnh Tịnh Ðộ đã hiện, ta sắp về Tây phương!" Rồi bảo đại chúng luân phiên trợ niệm.
Sang ngày 17, Triệt Ngộ đại sư nói với các đệ tử rằng: “Hôm qua tôi thấy ba vị đại sĩ: Văn Thù, Quan Âm và Thế Chí. Hiện giờ lại được đức Phật tự thân đến tiếp dẫn. Tôi đi đây!" Ðại chúng nghe nói, càng niệm Phật to hơn. Triệt Ngộ Ðại Sư ngồi thẳng, chắp tay hướng về Tây, bảo: "Xưng một câu hồng danh, thấy một phần tướng hảo!"
Dứt lời, liền kiết ấn mà tịch. Lúc ấy, tất cả đồ chúng đều nghe mùi hương lạ ngào ngạt. Người ta để lộ khám 7 ngày, dung sắc Triệt Ngộ tươi như sống, tóc bạc biến thành đen. Lúc trà tỳ (hỏa táng), được hơn 100 hạt xá lợi lóng lánh. Năm đó, Triệt Ngộ đại sư 70 tuổi và hơn 40 năm tu hành Phật pháp.
- Bằng Hư
NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ
Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
Đây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1
Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1
Mình đang tự hỏi thành Phật dễ dàng, vậy chẳng lẽ 1 vị phật vẫn còn tham sân si chưa diệt , trí tuệ hạn hẹp sao ? Phật A Di Đà có thần lực vô biên vô tận cũng ko thể biến người ko tu thành Phật được . Nếu ko vị Phật đó còn " chấp " , còn "ngã ". Về cõi Tịnh độ vẫn phải tu như thường, nhưng sẽ dễ hơn vì bên đó dc cạnh Phật , bồ tát chỉ dạy thui.
Lời nói chân thật vốn vô ngôn
There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)
Bookmarks