ĐỘNG LỰC VẬN HÀNH CHÂN KHÍ Chân khí tuy không phải nhờ động lực của hô hấp nhưng lại có liên quan rất tiết điệu với việc hút thở khí trời. Hành giả tập phép vận hành chân khí phải sử dụng hô hấp như một lực dẫn để theo dõi và thúc đẩy chân khí lưu chuyển, giữ cho cơ thể được nhịp nhàng. Điều chỉnh hô hấp cũng còn là một phương tiện để thư dãn và làm chủ cơ thể ngõ hầu theo dõi và tập trung được sức mạnh tinh thần. Khi đề cập đến phép thở, nhiều sách vở về khí công và yoga đã đưa ra những phép thở khác nhau, mỗi phép có công hiệu riêng, có mục đích riêng. Tuy nhiên vì có quá nhiều cách, lắm khi lại trái tự nhiên, khiến nhiều người hoang mang và e ngại, nhất là lại thêm một câu cảnh cáo nếu không có minh sư chỉ dạy có thể tẩu hỏa nhập ma. Thực ra, những người thường như chúng ta chỉ coi việc vận hành chân khí như một phương pháp thể dục nhẹ, nếu không mong đạt đến moạt cảnh giới siêu phàm mà chỉ cầu khỏe mạnh thì phép thở cũng thật giản dị dễ dàng.
Sinh lý vận hành hô hấp
Hô hấp là sự co dãn của lồng ngực, lên xuống của hoành cách mạc làm cho phổi nở ra co vào đem khí trời vào nuôi dưỡng các tế bào trong cơ thể. Hô hấp là một hoạt động không thể thiếu của con người. Người bình thường chúng ta mỗi phút thở ra hút vào trung bình 18 lần. Có hai loại hô hấp: nội hô hấp và ngoại hô hấp. Nội hô hấp là hoạt động của chân khí, là sự tiếp thu dưỡng khí, các chất bổ đưa đến từng tế bào và biến chuyển các dạng năng lượng. Thai nhi còn trong bụng mẹ không thể tự mình thở hút khí trời hay ăn uống nên mọi chất cần thiết đều do người mẹ truyền cho qua cuống rốn và lá nhau (thai bàn). Tiến trình biến chuyển và hấp thu đó cổ nhân gọi là “thai tức” (lối thở của bào thai) là hình thức rõ rệt nhất của nội hô hấp. Khi luyện phép vận hành chân khí, cứu cánh đạt đến là làm sao cho việc ngoại hô hấp (thở bằng mũi) trở nên hết sức nhẹ nhàng, như có như không, tưởng như ngoại hô hấp đã ngưng lại chỉ để nội hô hấp làm việc. Khi đó hành giả cảm thấy đan điền đóng mở, hơi ấm chảy vào hai mạch nhâm đốc, toàn thân ấm áp như gió xuân thổi đến làm cho trăm hoa đua nở. Trình độ đó cũng không khác gì thai nhi còn trong lên bụng, vào đan điền nhập với xung mạch, theo rốn bụng mẹ, chỉ thuần nhờ vào nội hô hấp, tâm hồn thư thái, chạy lên ngực, chảy vào tâm bao kinh giao với tâm khí. yên tĩnh nên còn gọi là “thai tức pháp”. Ngoại hô hấp là phép thở mà chúng ta dùng để hút thở khí trời hàng ngày chỉ xuất hiện sau khi ra khỏi bụng mẹ. Người tập chân khí làm thế nào để hai tiến trình ngoại hô hấp và nội hô hấp ăn khớp với nhau, tiết điệu để việc dẫn chân khí đến các cơ quan được đều đặn, làm đúng với cơ năng, và toàn diện. Nội Kinh Tạng Tượng Thiên viết: Phổi là cơ quan dùng để truyền dẫn tiết điệu của cơ thể [1]
Ảnh hưởng của sự vận động chân khí và hô hấp
Hô hấp là một vận động tự nhiên có tính chất máy móc. Khi hút vào, ngực nở ra, hoành cách mạc đè xuống, bụng thóp vào tạo áp lực đè xuống bụng dưới. Sự thu dãn của ngực và bụng làm chân khí khởi động. Túc tam âm kinh theo sự hút không khí vào dẫn chân khí từ dưới đi lên. Thận kinh chân khí, khi chúng ta hút vào, đi theo túc thiếu âm kinh chạy lên bụng, vào đan điền nhập với xung mạch, theo rốn chạy lên ngực, chảy vào tam bao kinh giao với tam khí. Hiện tượng này sách vở gọi là "thận thủy thượng triều dĩ tế tâm hỏa" (nước từ thận chảy ngược lên dập tắt lửa của tim). Cũng khi đó, can kinh chân khí chạy lên chảy vào phế kinh, tì kinh chân khí chảy ngược lên tâm kinh nên được gọi là “can tì chi khí nghi thăng”(khí tì khí can chạy lên). Trong khi hút vào, chân khí từ thủ tam dương kinh chạy lên đầu, mặt, tiếp với khí từ túc tam dương nên cũng gọi là “tam dương vinh ư diện” (khí tam dương làm cho mặt được tươi tốt). Khi thở ra, lồng ngực hóp vào, hoành cách mạc nâng lên, ngực thu nhỏ nhưng bụng to ra, chân khí trong lồng ngực bị áp lực theo nhâm mạch chạy xuống đan điền nên được gọi là “tâm thận tương giao dĩ bổ mệnh hỏa”. Đây là một phần rất quan trọng trong phép vận bụng làm cho chân khí khởi động. Túc tam âm kinh theo sự hành chân khí. Cũng khi đó, chân khí theo thủ tam âm hút không khí vào dẫn chân khí từ dưới đi lên. Thận kinh kinh chạy từ ngực xuống các đầu ngón tay, nối tiếp với thủ chân khí, khi chúng ta hút vào, di theo túc thiếu âm kinh tam dương kinh, chân khí từ túc tam dương kinh từ đầu chạy chạy xuống chân, tiếp với túc tam âm kinh. Chu trình này gọi là đại tuần hoàn của kinh khí. Tập luyện vận hành chân khí khi đã đả thông được đốc mạch, lúc thở ra chân khí theo nhâm mạch chạy xuống đan điền, khi hút vào chân khí theo đốc mạch chạy lên huyệt bách hội, gọi là tiểu tuần hoàn. Chung qui, vận hành chân khí không ngoài mục tiêu đả thông hai mạch nhâm đốc. Tuy nhiên, chính vì hô hấp là động lực vận chuyển chân khí nên tập luyện chân khí chính là để điều chỉnh và dẫn chân khí chạy đến các đầu ngón tay. Dẫu hô hấp là một hiện tượng tự nhiên của con người, nhưng sau khi sinh ra, sinh hoạt hàng ngày đã khiến cho chúng ta mất đi cái bản tính nguyên thủy, làm sai lạc các hoạt động tiên thiên, mất tiết điệu sẵn có, làm cho chân khí không còn đầy đủ, kinh lạc không còn thông suốt, chưa già đã suy, trong người mang vô số bệnh tật. Phương pháp điều tức chính là cách hay nhất để bồi bổ lại chân khí đã hao hụt, đả thông các kinh mạch bị tắc nghẽn, khôi phục các cơ năng tiên thiên. Điều chỉnh và bồi dưỡng chân khí chủ yếu là làm sao đưa được khí trở về đan điền. Mỗi khi thở ra, chúng ta phải điều động chân khí chạy theo nhâm mạch quay trở về đan điền là để cho khí đi đúng hướng. Vấn đề điều tức vì thế quan trọng nhất là khi thở ra, và mỗi lần thở ra chân khí lại vào đan điền thêm một chút. Thở ra cũng là cách để tống không khí đã dơ trong phổi ra ngoài để chuẩn bị thay bằng khí mới, cho nên điều tức cũng là vận chuyển chân khí. Cũng nên nói thêm, nhiều người chủ trương thở sâu (thâm hô hấp), cho là muốn cho khí trầm đan điền cần cố gắng hút vào thật nhiều, giữ hơi cho thật lâu. Thực tế như thế là đi ngược với cơ năng sinh lý bình thường của con người, và cũng mang ảo tưởng chân khí chính là không khí. Khi hút vào, không khí chỉ vào đến lồng ngực chứ không chạy xuống được dưới bụng, nếu bụng phình ra là vì hoành cách mạc bị ép xuống. Những ai tập theo phương pháp này sẽ bị hiện tượng gọi là trệ khí. Áp lực càng mạnh thì phản áp lực càng nhiều, đến một lúc nào đó, chân khí sẽ thượng xung gây ra hoa mắt, nhức đầu và có thể gây ra bệnh cao áp huyết. Phương pháp nhịn hơi chỉ có tác dụng vào các bắp thịt bụng và ngực, nhưng không có ảnh hưởng gì đến việc điều dẫn chân khí, và chắc chắn không thể nào đả thông được hai mạch nhâm đốc. Đan điền là nguyên động lực của đời sống, là một bộ vị cực kỳ trọng yếu, là khởi điểm của nhâm, đốc và xung mạch, nơi hội tụ của mọi kinh mạch trong con người. Người ta tin rằng đan điền cũng như một cánh cửa, mở ra khi có khí, đóng lại khi không có khí, đóng vai trò của một biển cả để tích tụ chân khí nên còn gọi là biển khí (khí hải nhưng không phải là huyệt khí hải cũng gần nơi đó). Về phương diện sinh lý, đan điền là nơi tàng tinh của nam giới, nơi thụ thai của nữ giới, nhờ đó mà sinh trưởng, phát dục nên còn gọi là sinh môn hay mệnh môn. Sau khi đan điền sung mãn chân khí, nên từ eo trở lên trở nên có sức lực, Nạn Kinh gọi sức này là thận gian động khí. Tron phép vận hành chân khí, khi thở ra, chân khí chạy xuống đan điền, nên giai đoạn này phải tập trung ý chí vào đan điền (ý thủ đan điền) và chờ cơ hội tiến thêm bước kế tiếp là đưa chân khí khai thông mạch đốc (tích khí xung quan). Đây là giai đoạn chủ yếu trong việc tăng cường và bảo vệ sức khỏe.
TĨNH VÀ ĐỘNG
Động và tĩnh là hai mặt trái ngược nhau, nhưng chung qui cũng chỉ là một. Động nói về tính tuyệt đối, còn tĩnh là tính tương đối. Có động tất nhiên có tĩnh, còn có tĩnh dĩ nhiên sẽ có động.
Trong hoạt động sinh lý của con người cũng không thoát khỏi qui luật, tĩnh cực sinh động, động cực lại quay về tĩnh, tĩnh là cơ sở của động, động là lực lượng của tĩnh. Vận hành chân khí là lợi dụng một cách hữu hiệu quan hệ động tĩnh, dùng chân khí để tăng cường sức đề kháng ngõ hầu cơ thể thêm khỏe mạnh và ít bệnh tật.
Việc vận hành chân khí cũng có hai phương pháp: tĩnh công và động công. Tĩnh công là một mặt giữ cho thân thể bất động, mặt khác điều tức để thúc đẩy chân khí vận chuyển ngõ hầu đạt tới mục đích đả thông kinh kỳ bát mạch. Động công thì phải vận chuyển thân thể theo những tư thức khác nhau, phối hợp tư thức để dẫn tinh thần, bài trừ tạp niệm, làm cho đầu óc trở nên tĩnh lãng. Nói như thế, cả hai hình thức động và tĩnh công đều chỉ nhằm đạt tới tình trạng an tĩnh của tâm hồn và dẫn chân khí theo một đường đi nhất định nhằm mục đích khỏe mạnh.
Nhận thức về tĩnh
Mục đích tối hậu của tĩnh là gì? Cảnh giới đích thực của tĩnh ra sao? Cũng một vấn đề nhưng mỗi người giải thích một khác.
Những nhà dưỡng sinh khi bàn đến tĩnh bao giờ cũng đòi hỏi tình trạng an tĩnh, không suy nghĩ gì hết (gọi là nhập định hay nhập tĩnh). Tuy nhiên nhiều người tuy cố gắng nhưng vẫn không đạt được tình trạng tĩnh, trái lại đầu óc vẫn suy nghĩ vẩn vơ, không tìm ra được manh mối giải quyết vấn đề. Thực tế cho thấy tình trạng tĩnh tuyệt đối không thể có mà chúng ta chỉ có thể đạt được tình trạng tĩnh tương đối mà thôi. Thành thử, tĩnh đối với người tập chân khí vận hành chỉ có nghĩa là thân thể an nhiên, tập trung tinh thần vào việc điều chỉnh hô hấp, thúc đẩy chân khí đả thông hai mạch nhâm, đốc rồi sau cùng đả thông toàn thể các kinh lạc.
Trong tiến trình đạt đến cảnh giới này, thân thể chúng ta trải qua nhiều trạng thái khác nhau. Trong Bản Thảo cương mục, Lý Thời Trân có viết:
Cảnh tượng khi đi tìm đạo, chỉ những người soi chiếu nội tâm mới thấy được (ý nói phải tập mới biết) [1]
Khi việc luyện công đạt thành, chân khí trong kinh mạch vận hành không ngừng, những gì hành giả cảm thấy phong phú vượt ra ngoài sự tưởng tượng mà người không tập không thể biết được.
Thành ra khi đó, tuy bề ngoài tĩnh nhưng bên trong chân khí lưu chuyển, hết sức tích cực, cho nên cái tĩnh đó chỉ là tĩnh tương đối và biểu kiến mà thôi.
Tĩnh cực sinh động
Khi đạt tới giai đoạn mà hành giả có thể điều động hệ thần kinh cao cấp để kiểm soát và điều động toàn thể cơ thể, loại trừ được những kích thích của ngoại giới, chỉ tập trung vào sự vận hành chân khí để dẫn chân khí đến bất cứ nơi nào theo ý muốn, nội gia gọi là “nội quan” hay “tinh thần nội thủ”. Đầu tiên, để tập trung tư tưởng, những người luyện công thường theo một trong hai phương pháp, quán tưởng pháp là chú ý sự suy nghĩ vào một cảnh giới, hay ý niệm nào đó, và sổ tức pháp, là cách đếm hơi thở để khỏi rơi vào tạp niệm. Những người tu đạo có khi theo phương pháp loại trừ mọi suy nghĩ, gọi là chỉ quán pháp (ngưng các suy nghĩ).
Tuy dùng nhiều cách khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là làm sao không bị chia trí, chỉ tập trung vào việc dẫn chân khí đi tới những nơi mà hành giả muốn. Chân khí và khả năng chế ngự có quan hệ hỗ tương, chân khí càng nhiều thì sự tập trung tư tưởng càng mạnh, và khi chân khí đầy đủ thì tinh thần cũng thêm an tĩnh, trấn định. Đó chính là tĩnh cực sinh động. Có người dùng câu sấm vang trong núi cũng không sợ (lôi kích sơn nhi bất cụ) để hình dung trạng thái đó.
Khi đã nhập tĩnh, chân khí vận hành không ngừng, lưu chuyển thiên biến vạn hóa, thân thể ấm áp như gió xuân, trong lòng thoải mái, cái cảm giác mà cổ nhân gọi là lòng tự tại với trăng gió vô biên. Tĩnh hay định đó là trạng thái sung mãn chân khí, tự nhiên không phải là công phu tu tập của con người có niềm tin tôn giáo, mà là sự phát triển của cơ thể. Đó chính là tĩnh động tương kiêm.
ẢNH HƯỞNG CỦA CHÂN KHÍ VỚI NGŨ TẠNG
Việc điều chỉnh chân khí và bồi dưỡng chân khí đến đả thông mọi kinh lạc cũng giống như dẫn nước tới các cánh đồng đang nắng hạn, làm cho những tiềm năng còn chìm đắm có dịp phát huy toàn bộ năng lực của cơ thể. Khi các cơ năng đều khỏe mạnh sẽ tương trợ lẫn nhau khiến mọi tạng phủ đều điều hòa, và từ đó cơ thể kiện khang, tinh thần thoải mái. Bệnh tật theo đông y chỉ là sự bất thường của một hay nhiều bộ phận trong cơ thể, và một khi đã điều chỉnh lại sự thất điệu đó, cơ thể sẽ khỏe mạnh.
Phế tạng
Phổi nằm trong ngực, về kinh lạc liên quan đến ruột già vì phế kinh và đại trường kinh là một biểu một lý. Trong cơ thể, hai cơ quan này có nhiệm vụ tẩy rửa chất độc, làm cho thân thể sạch sẽ, da dẻ tươi nhuận. Phổi có cửa ngõ là mũi, vừa là một giác quan để biết mùi, vừa là thông đạo để cơ thể hút và thở khí trời. Phổi trợ lực cho tâm tạng trong việc vận chuyển khí huyết và dẫn dưỡng khí đến toàn thân. Phổi còn là nhiệm vụ nối liền các tạng, làm cho việc sinh hoạt giữa các cơ quan được điều hòa.
Từ khi mới sinh ra đời, phổi liên tục hoạt động không ngừng nghỉ, hút dưỡng khí, nhả thán khí. Việc vận hành chân khí chú trọng khi thở ra giúp cho việc co rút các tế bào, làm gia tăng cơ năng bài trừ thán khí. Thổ cố nạp tân, đúng như tên gọi là đẩy không khí cũ ra và hít không khí mới vào vì thế khi tống ra cốt làm sao không khí ra càng được nhiều càng tốt.
Phổi chủ về bì mao, trong khi hô hấp, các lỗ chân lông cũng theo đó mà đóng mở, bình thường không thấy cảm giác nhưng đến một trình độ nào đó, tất cả các lỗ chân lông sẽ theo hô hấp mà hoạt động. Trình độ đó khiến cho nội khí và ngoại khí giao hòa với nhau, người ta gọi là thể hô hấp (hô hấp toàn thân). Chính vì nội hô hấp hoạt động mạnh, ngoại hô hấp trở nên nhẹ nhàng, như có như không, do đó hơi thở lúc đó trở nên sâu, nhẹ, đều đặn và dài, bốn đặc điểm quan trọng mà nội gia thường đề cao (thâm, tế, quân, trường). Khi đó, mỗi phút hành giả chỉ còn thở 4, 5 lần, so với bình thường đã giảm đi đến 2/3. Thời gian nghỉ ngơi của phổi tăng lên, nhịp tim đập chậm lại, và sinh lực của phổi tăng lên. Danh từ riêng mà những người luyện đan gọi phép thở này là qui tức (thở như con rùa), cổ nhân vẫn coi là một cách để được trường thọ.
Tâm tạng
Tim nằm trong ngực, có bao tim che bên ngoài. Tim là chủ tể cả 12 cơ quan, giữ việc hợp các mạch, khai khiếu ở lưỡi. Tim chủ vận huyết, trung bình co thắt 70 lần mỗi phút để dẫn máu đi khắp cơ thể đem chất bổ nuôi các tế bào. Hoạt động của tim do hệ thần kinh giao cảm chỉ huy và điều tiết. Huyết quản do hệ trực giao cảm và hệ đối giao cảm chỉ huy việc co bóp. Theo nghiên cứu của Viện Y học Thượng Hải (Trung Hoa) khi thở ra hệ đối giao cảm bị khích động, khi hút vào thì hệ trực giao cảm bị khích động. Hai hệ thống đó thay phiên làm việc. Khi điều tức, chúng ta phải chú ý khi thở ra để tăng cường hoạt động co rút của các mạch máu, giúp cho tim dỡ mỏi mệt.
Những người bị áp huyết cao, tập phép vận hành chân khí sẽ giúp cho áp huyết giảm xuống và dần dần có thể điều hòa trở lại. Chính bệnh phong thấp cũng có liên hệ với tim mạch nên tập luyện cũng làm cho các hạch nội tiết hoạt động điều hòa hơn, giảm bệnh.
Can tạng
Gan nằm ở dưới xương sường, bên phải, theo kinh lạc thì gan và mật, một biểu, một lý. Gan khia khiếu ở mắt, giữ nhiệm vụ tàng trữ huyết dịch cho toàn thân, điều tiết các vận động của khớp xương , cùng sự an tĩnh của tâm hồn. Chính thế mà người dạn dĩ được mệnh danh là can đảm.
Gan ứng với mùa xuân, thuộc mộc, chủ nảy nở. Về sinh lý, gan không nên xung động nhưng cũng không nên ức chế. Nếu gan xung động thì tính tình cấp tháo, dễ nổi nóng, can khí không đủ thì dễ khiếp sợ. Những người bị uất trệ, có bệnh ở gan thường đau nhức ở mạng sườn, phía bên trái vì can khí chạy qua bên trái, huyệt kỳ môn ở cạnh sường đau nhói, dương khí xông lên làm cho miệng đắng, mắt hoa, ăn không ngon, bụng chướng, chân tay bải hoải, tâm tính nóng nảy khó chịu.
Vận hành chân khí, nhắm mắt điều tức là phương pháp trị liệu tối hảo. Trong ngũ lao thất thương có chứng mắt nảy đom đóm chính là bị thương tổn ở gan nên khi nhắm mắt chính là dưỡng gan. Khi ta chú ý đến thời kỳ thở ra cốt để tâm hỏa hạ giáng. Tâm tạng là con của can (mộc sinh hỏa), bệnh thuộc thực phải tả tử nên vì thế khi tim mạch điều hòa thì gan trở lại quân bình. Can khí bình, xương sườn hết đau, tì khí không còn bị khắc chế khiến bụng không bị chướng nữa.
Tâm và thận lại tương giao, thận khí trở nên vượng thịnh, gan và thận được bồi dưỡng, ưu phiền cũng giảm xuống, tâm thần trở lại bình thường. Khi theo dõi những bệnh nhân bị can viêm mạn tính, luyện công trong vong một tháng, chân khi chảy vào đan điền, ăn ngon miệng hơn, bụng bớt chướng. Đến hai tháng thì chân khí sung túc, toàn bộ triệu chứng hoặc hoàn toàn hết, hoặc bớt, gan làm việc trở lại bình thường. Đến tháng thứ ba, kinh lạc toàn thân thông sướng, tinh thần phấn chấn, bệnh dứt hẳn.
Tì Vị
Tì và vị là một biểu, một lý. Dạ dày nhận đồ ăn, còn tì để vận hóa, khai khiếu ở miệng. Việc tiêu hóa đồ ăn để thành chất bổ nuôi cơ thể là một công năng hết sức tinh vi, thăng thanh giáng trọc, là căn nguyên cấu tạo máu huyết. Tất cả cơ thể con người, phủ tạng đều phải được nuôi dưỡng bằng máu huyết nên cổ nhân gọi tì vị là "hậu thiên chi bản".
Trong bước đầu tiên của phép vận hành chân khí, khi thở ra ta phải chú ý vào tâm oa, chính là vào dạ dày, dẫn tâm hỏa xuống tì vị để gia tăng nhiệt năng. Cho nên sau khi bắt đầu luyện công chừng năm, bảy ngày thì tâm oa có khí nóng chạy đến, đối vời những ai tì vị hư hàn, tiêu hóa kém rất hữu ích. Nhiều người bị bệnh đau dạ dày lâu năm không hết, luyện chân khí dần dần trở lại bình thường. Da dày sa xuống cũng là một chứng nan y, tập chân khí cũng bớt.
Khi tập vận hành chân khí, nhiệt khí tại dạ dày tăng lên, công năng của tì vị khôi phục. Khi chân khí tại đan điền sung túc, bụng dười đầy đặn có sức, dạ dầy sa xuống được đẩy lên.
Thận và Mệnh môn
Thận gồm hai quả, nằm ở sau bụng, giáp hai bên xương sống, cùng với bàng quang một biểu một lý, khai khiếu tại tai. Thận là nơi chứa tinh, là căn nguyên của sinh dục và phát triển, giúp cho việc cấu tạo tủy trong xương, duy trì ngũ dịch và làm cho các tuyến trong cơ thể được điều hòa. Thận đối với việc sinh lý của con người rất quan trọng, là căn bản sinh mệnh nên được gọi là “tiên thiên chi bản”. Thận khí sung mãn thì thông minh cơ trí, hành động nhanh nhẹn. Linh Lan Bí Điển Luận trong Tố Vấn viết:
Thận giả tác cường chi quan, kỹ xảo xuất yên (hành động mạnh mẽ, khéo léo là do thận)
Theo Nạn Kinh, mệnh môn là nơi cư ngụ của mọi tinh thần, nơi tàng trữ nguyên khí (chư thần tinh chi sở xá, nguyên khí chi sở hệ) là nơi chứa tinh của con trai, là nơi nuôi bào thai của con gái, khí thông với thận. Thận gian động khí là căn nguyên của sinh khí, là căn bản của ngũ tạng lục phủ, gốc của 12 kinh mạch, cửa ngõ của hô hấp, nguồn của tam tiêu. Nếu như mệnh môn suy kiệt thì đời sống cũng hết.
Trên đây đã định nghĩa mệnh môn và đan điền là một, vận hành chân khí ở bước thứ ba là làm cho chân khí tại đan điền sung mãn, tăng cường công năng của tạng thận, làm cho các chứng hỏa suy, đau lưng, đái dắt, hoặc phụ nữ kinh nguyệt không đều từ từ giảm bớt. Đến bước thứ tư, khi chân khí đã thông được đốc mạch, thận khí chạy về não, bổ ích não tũy, làm cho phần ngoài của não bộ được mạnh mẽ. Nhân đó các chứng mất ngủ, kém trí nhớ, mộng mị và những chứng thần kinh suy nhược sẽ cải thiện rất nhiều.
Trên quan điểm sinh lý học, sau khi đốc mạch quán thông, tuyết nang thượng thận và não thùy được tăng cường, hai bên hỗ trợ cho nhau rất có ích. Từ đó các cơ quan trong người được khỏe mạnh, thân thể trở nên kiện khang. Cổ nhân có câu:
Yếu đắc bất lão, hoàn tinh bổ não (muốn cho không già thì phải đem tinh về bổ cho não bộ).
Vận hành chân khí làm cho mọi cơ quan từ từ cải thiện, và đây là những khái niệm mà chúng tôi lược qua.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks