Giải mật hoạt động tình báo của Liên Xô giúp Việt Nam
23.12.2014 | 09:55 AM
Để giúp Việt Nam, các chuyên gia phản gián Liên Xô đã lập ra một mạng lưới tình báo ở khu vực Đông Nam Á để theo dõi nhất cử nhất động của máy bay Mỹ ở Guam.
Trong bài lần trước, chúng tôi đã thông tin đến độc giả về khối lượng vũ khí khổng lồ mà Liên Xô viện trợ cho Việt Nam thời đánh Mỹ. Ở bài này, các nhà sử học và bình luận viên của đài Sputnik đề cập đến các hoạt động tình báo của Liên Xô giúp Việt Nam cũng như các hành động giúp đỡ khác. Sau đây là nội dung bài viết:
"Quan sát viên đài của chúng tôi Aleksei Lensov viết: Ở cuộc mạn đàm lần trước, chúng tôi đã lưu ý rằng, trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, các hệ thống tên lửa phòng không do Liên Xô cung cấp đã tiêu diệt trên bầu trời Việt Nam khoảng 1300 máy bay Mỹ. Tất nhiên, viện trợ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam vào thời điểm đó không chỉ giới hạn bằng các tên lửa.
Máy bay MiG nổi tiếng được cung cấp bởi Liên Xô đã chiến đấu trên bầu trời Việt Nam. Bằng những chiếc MiG đó, phi công Việt Nam tiêu diệt 350 máy bay địch. Xe tăng "T-55" cũng đã chiến đấu tại Việt Nam: trong ngày 30 tháng 4 năm 1975 lịch sử, xe tăng Liên Xô đã húc đổ cửa dinh tổng thống Sài Gòn. Và cũng không thể không nhắc đến súng trường tấn công Kalashnikov nổi tiếng thế giới. Liên Xô không chỉ cung cấp thiết bị quân sự và vũ khí cho Quân đội nhân dân Việt Nam. Vũ khí cũng được viện trợ cho các đơn vị Mặt trận Giải phóng Dân tộc Nam Việt Nam. Chẳng hạn, tên lửa phòng không, phiên bản nhỏ hơn của "Katyusha" nổi tiếng trong chiến tranh chống Đức Quốc Xã, và sau đó là trong trận Điện Biên Phủ đã từng có mặt tại Việt Nam. Loại tên lửa này không gắn trên xe tải mà được lắp vào chân máy, do đó có thể nói đây là phiên bản di động của "Katyusha".
Pháo phản lực Katyusha được tháo rời từng nòng thành DKB để tiện sử dụng ở chiến trường miền Nam. Ảnh chụp tại Bảo tàng Vũ khí Việt Nam.
Ngoài ra, đại diện tình báo Liên Xô cũng đã hỗ trợ rất nhiều cho Việt Nam. Các chuyên gia phản gián Liên Xô đã lập ra mạng lưới tình báo trong khu vực Đông Nam Á. Máy bay Mỹ cất cánh từ đảo Guam để ném bom Việt Nam liên tục bị "ngư dân" địa phương theo dõi. Mỗi khi có máy bay Mỹ cất cánh, các “ngư dân” này phát tín hiệu vô tuyến, tình báo Liên Xô tiếp nhận các tín hiệu đó và giải mã chúng.
Các thông tin đó kịp thời được thông báo cho cơ quan quân sự Việt Nam, để đưa ra các biện pháp chung đối phó với kẻ thù và giảm thiểu thiệt hại cho quân dân Bắc Việt Nam. Thông tin kịp thời thu được về kế hoạch quân dù Mỹ đổ bộ xuống miền Bắc để giải phóng phi công bị bắt sống cũng đã được kịp thời báo cho ban chỉ huy quân sự Việt Nam. Khi quân Mỹ nhảy dù xuống ngôi làng giam giữ tù binh, tất cả khu doanh trại đều trông vắng, không hề có bóng dáng người nào.
Các máy bay của Mỹ ở căn cứ Guam. Thời chống Mỹ, mạng lưới tình báo Liên Xô đã theo dõi chặt hoạt động của các máy bay Mỹ ở Guam để báo cho Việt Nam.
Để làm việc với các thiết bị quân sự của Liên Xô, các trường đại học và các học viện quân sự của Liên Xô đã đào tạo quân nhân cho Việt Nam. Chỉ riêng trong các năm 1966 và 1967, Liên Xô đã huấn luyện 5 trung đoàn tên lửa phòng không cho quân đội nhân dân Việt Nam với quân số là 3000 người. Tổng cộng, hơn 10 000 sĩ quan Việt Nam đã đào tạo tại các trường đại học của Liên Xô. Trong số đó có các vị chỉ huy trong tương lai của Quân chủng phòng không và không quân - Thiếu Tướng Lê Văn Chí, Trung Tướng Nguyễn Văn Thạc, Tổng Tham mưu trưởng Không quân, Thiếu tướng Nguyễn Phúc Thái, anh hùng QĐNDVN Phạm Trường Vũ và nhà du hành vũ trụ trong tương lai Phạm Tuân... Sau Chiến thắng, các trường đại học và học viện quân sự Liên Xô mà họ theo học đã được trao tặng Huân chương của Việt Nam.
Sử gia Moskva Maxim Syunnerberg cho biết:
“Theo số liệu chính thức của Bộ Quốc phòng Liên bang Xô viết, từ tháng 7 năm 1965 đến tháng 12 năm 1974, khoảng 6 500 tướng lĩnh và sĩ quan, 5000 binh sĩ và hạ sĩ của các lực lượng vũ trang Liên Xô đã tham gia chiến sự ở Việt Nam. Hơn 2000 người trong số đó đã được trao giải thưởng nhà nước của Liên Xô và hơn 3000 người được tặng huân chương và huy chương của Việt Nam".
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngay lập tức bác bỏ yêu cầu bố trí hành lang trên không và cho mượn sân bay Côn Minh để Moskva kịp thời trung chuyển hàng viện trợ quân sự và vũ khí của Liên Xô cho Việt Nam. Sau những lần đàm phán lâu dài, đã đạt được thỏa thuận về việc vận chuyển hàng hoá qua lãnh thổ Trung Quốc bằng đường sắt. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, các toa tàu kín Liên Xô đã bị mở kẹp chì và thậm chí bị đánh cắp. Do vấn đề này, Liên Xô quyết định chuyển hàng cho Việt Nam qua tuyến đường biển, từ các cảng Biển Đen và Viễn Đông của Liên Xô. Nếu như tất cả các lô hàng gửi bằng đường biển trong năm 1970 được sắp xếp vào các toa vận tải đường sắt, đoàn tàu đó sẽ kéo dài tới 800 km!
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trung bình hàng tháng có 40 chuyến tàu biển Liên Xô chở hàng tới cảng Hải Phòng, Hồng Gai và Cẩm Phả. Chặng đường cuối cùng khi sắp tới Việt Nam thực sự là đường ra trận. Bởi vì, tàu Liên Xô đi qua khu vực mà Mỹ coi là khu vực hoạt động quân sự chống các lực lượng yêu nước Việt Nam. Và nếu như trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, tổng cộng tổn thất các chuyên gia quân sự Liên Xô tại Việt Nam là 13 người, trong đó có 4 người hy sinh tại vị trí chiến đấu, thì đến đầu năm 1969, có 6 thủy thủ Liên Xô mang hàng viện trợ đến cho Việt Nam bị hy sinh, và cả 6 người đó đều hy sinh khi đang làm nhiệm vụ.
Để tiếp nhận hàng viện trợ, các chuyên gia Liên Xô đã xây dựng hàng chục km bến bãi mới. Mọi thứ xăng dầu cần thiết cho hoạt động của các cơ sở quân sự và thiết bị kỹ thuật của Liên Xô được đưa sang cảng Hạ Long. Từ đây, các chuyên gia Liên Xô đã lắp đặt đường ống dẫn xăng dầu. Đến khu vực Hà Nội, đường ống chạy qua dưới đáy sông Hồng, và tiếp theo, nhiên liệu được dẫn đi xa hơn nữa bằng đường ống kim loại để lên núi, qua đường mòn Hồ Chí Minh. Thời kỳ đó, Liên Xô đưa tới Việt Nam 700.000 m3 xăng dầu/năm.
Khi Mỹ thả thủy lôi phong tỏa cảng Hải Phòng, hàng chục tàu chở hàng Liên Xô không chịu rời cảng. Và trong suốt tất cả những tháng Hải Phòng bị Mỹ phong tỏa, sự hiện diện của tàu Liên Xô đã góp phần cứu thành phố khỏi bị hủy diệt.
Khi cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 xảy ra, Moskva đã hỗ trợ Việt Nam chống sự tấn công của Trung Quốc. Đó sẽ là chủ đề cuộc mạn đàm tiếp theo trong loạt bài nhân kỷ niệm lần thứ 65 ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước chúng ta mà chúng tôi sẽ phát vào tuần tới."
Theo Tiếng nói nước Nga
Bookmarks