CHƯƠNG 11
Đầu Sách Cuối sách Mục Lục
SỰ THA TỘI
“Tôi tin sự tha tội” “Tôi tin nhận lễ báp tít xóa tội lỗi”. Những lời ấy được các tín đồ Cơ Đốc thốt lên dễ dàng trong khắp nhà thờ khắp trên thế giới. Họ lập lại những tín điều quen thuộc của các Vị Tông Đồ và nhóm Nicene. Trong những câu nói của Đức Jesus, câu sau đây thường được lập lại: “Tội lỗi của ngươi đã được tha” và điều đáng chú ý là câu này luôn luôn được thốt ra sau khi Ngài áp dụng các quyền năng chữa bệnh của Ngài, đồng lúc chữa khỏi bệnh thể xác lẫn tinh thần. Quả vậy, trong dịp chữa một người bại, Ngài cho thấy việc chữa bệnh là một dấu hiệu chứng tỏ Ngài có quyền tuyên bố tha tội một người. Ngài cũng nói với một người đàn bà rằng: “Tội lỗi nàng vẫn nhiều mà đều đã được tha, vì nàng thương yêu nhiều”.(S.Luke 5:18-26, 7:47).Trong quyển khái luận nổi tiếng về Minh Triết (Gnostic) The Pistis Sophia- có nói mục đích chính của Huyền Môn là để tha thứ tội lỗi. “Dầu họ phạm tội, đầy dẫy tội lỗi và bất công của thế gian mà ta đã nói với con, nhưng nếu họ quay trở lại, ăn năn và từ bỏ các điều ấy, thì con cũng hãy cho họ các mầu nhiệm của cõi sáng chớ đừng giấu đi chút nào. Chính bởi tội lỗi mà ta đã đem sự mầu nhiệm đến với thế gian để cứu chuộc tội lỗi họ đã phạm từ lúc khởi đầu. Vì thế ngày trước ta đã nói với con “Ta đến không phải để kêu gọi người công nghĩa”. Vì thế bây giờ ta đem các mầu nhiệm để các tội lỗi của mọi người có thể được tha, và họ được đem vào cõi sáng. Các điều mầu nhiệm ấy là cơ yếu của lẽ mầu nhiệm đầu tiên để diệt trừ các tội lỗi và bất công của mọi kẻ phạm tội”.
Trong các Bí Pháp ấy, việc tha tội được thực hiện bởi lễ Báp Tít, như được thừa nhận trong Tín Điều Nicene, Đức Jesus nói: “Hãy nghe ta nói với ngươi lẽ thật về sự mầu nhiệm của lễ báp tít thuộc loại nào… Khi một người nhận các sự mầu nhiệm của báp tít, thì các sự mầu nhiệm này trở thành một ngọn lửa vô cùng mãnh liệt, khôn ngoan, đốt cháy mọi tội lỗi.Các mầu nhiệm len vào tâm hồn một cách huyền bí, tiêu hủy mọi tội lỗi mà tinh thần giả mạo đã trồng trong đó”. Và sau khi diễn tả phương cách tinh luyện, Ngài thêm rằng: “Đây là cách thức mà các mầu nhiệm về báp tít giải trừ các tội lỗi và bất công”.
“Sự tha tội” xuất hiện dưới hình thức này hay hình thức khác trong hầu hết các tôn giáo, nếu không là tất cả. Nơi nào có sự nhất trí thì chúng ta có thể yên tâm kết luận, theo nguyên tắc đã được đặt ra, rằng có một sự kiện trong thiên nhiên tiềm ẩn trong đó. Hơn nữa bản tính con người có khuynh hướng muốn được tha thứ tội lỗi; chúng ta nhận thấy những người mang tâm trạng đau khổ vì việc làm sái quấy khi được thoát khỏi dĩ vãng của họ, khỏi những mối dày vò hối hận, thì họ tiến bước với tâm vui sướng và ánh mắt rạng rỡ, mặc dầu trước kia lòng họ đầy đen tối. Họ cảm nghe như cởi khỏi gánh nặng trên vai “Cảm giác tội lỗi” đã biến mất cùng lúc với sự đau khổ gặm nhấm tâm hồn họ. Họ biết được thời xuân của Linh Hồn, một từ có năng lực đổi mới tất cả. Tự nhiên tim họ vang lên lời hát biết ơn, lúc ấy chim muông vui hót và các “Thiên Thần đều vui mừng”. Cái kinh nghiệm này thường xảy ra nhưng lại khó hiểu; và người đã trải qua- hoặc thấy nơi người khác- sẽ bắt đầu tự hỏi điều gì đã thật sự xảy ra, cái gì đã biến đổi tâm thức, và các hiệu quả của nó rất hiển nhiên.
Các tư tưởng gia tân tiến quá quen thuộc với những định luật bất biến trong các hiện tượng và đã khảo sát cách vận hành của các luật ấy, thoạt tiên họ sẽ bác bỏ mọi lý thuyết về sự tha tội vì thấy nó không liên kết chặt chẽ với luật căn bản ấy. Giống như các nhà khoa học trung thành với tánh bất khả xâm phạm của định luật sẽ phản kháng tất cả tư tưởng nào không chặt chẽ với tính ấy. Cả hai đều đúng khi đặt nền tảng trên cách hoạt động vững chắc của định luật, vì định luật chỉ là sự biểu lộ của Thiên Nhiên thiêng liêng, trong đó không có sự thay đổi. Chúng ta chỉ có thể chấp nhận những quan điểm tha tội nào không trái với ý niệm căn bản này, nó rất cần thiết cho khoa hôc vật chất cũng như khoa học tinh thần.
Nhưng khi tiếp tục nghiên cứu, chúng ta chạm phải sự kiện là chính các Vị Giáo Chủ nào nhấn mạnh về định luật vận hành bất biến lại là những vị tuyên bố mạnh mẽ sự tha tội.Có lần Đức Jesus nói: “Mọi lời tầm phào mà con người nói ra đều phải khai trình trong ngày xét đoán” và lần khác: “Con ơi,hãy vững lòng, tội lỗi con được tha” (S.Matt12:36, 9:2).Cũng thế, trong kinh Ấn Độ Bhagavad gita, chúng ta thường đọc thấy các dây ràng buộc của hành động: “Thế gian bị ràng buộc bởi hành động”, “con người khôi phục lại các đặc tính của thân xác trước kia của y”, tuy nhiên kinh cũng chép rằng: “Dầu một người tội lỗi vô cùng mà thờ phượng Ta với một tấm lòng không phân tán thì y cũng được xem là người công nghĩa.” (righteous). Vậy thì hình như từ “tha tội” trong kinh thánh có nghĩa gì đi nữa, ta cũng không nên nghĩ rằng các Ngài, người biết luật lệ hơn ai hết, lại nói trái với những hệ luận bất khả xâm phạm của luật nhân quả.
Nếu chúng ta khảo sát cả đến ý nghĩa thô sơ nhất về sự tha tội đang phổ biến hiện nay đi nữa, chúng ta cũng thấy rằng những tín đồ tin tưởng việc ấy cũng không nghĩ là người được tha tội có thể thoát khỏi hậu quả của tội lỗi y trong thế gian này. Kẻ say sưa được tha lỗi vì biết ăn năn, cũng vẫn chịu đau khổ về thần kinh nóng nảy, tiêu hóa xáo trộn và mất lòng tin cậy của bạn bè. Khi khảo sát người ta thấy những lời tuyên bố về sự tha tội liên quan chặt chẽ đến sự tương giao giữa kẻ có tội ăn năn và Thượng Đế, đến những hình phạt sau khi chết đối với tội lỗi không được tha thứ trong tín điều của người tuyên bố. Chúng không liên quan đến việc thoát khỏi những hậu quả trần thế của tội lỗi. Vì không tin luân hồi và không có quan điểm lành mạnh về sự liên tục của đời sống, nên người ta tạo nhiều điều vô lý trong đó có ý niệm khủng khiếp và phạm thượng về việc đày đọa đời đời những linh hồn con người đã phạm các tội lỗi trong một kiếp sống ngắn ngủi ở trần gian. Để thoát khỏi cơn ác mộng này, các nhà thần học đã đặt ra sự tha tội, giải thoát kẻ tội lỗi khỏi địa ngục đời đời. Nó không- và người ta cũng không nghĩ như thế- giúp con người tránh được các hậu quả tự nhiên của việc làm sái quấy ở cõi trần này. Nó cũng không giải phóng y khỏi các nỗi đau khổ lâu dài ở nơi luyện tội, nhưng các cộng đồng Tin Lành không tin như vậy. Luật lệ có đường lối tác động của nó, ở cõi trần này và cả nơi luyện tội. Ở mọi cõi- sự buồn rầu luôn theo gót tội lỗi giống như bánh xe theo sau con bò kéo. Mối dày vò đời đời này(chỉ hiện hữu trong sự tưởng tượng đen tối của ai tin như thế) chỉ được giải trừ nhờ sự tha tội, và có lẽ chúng ta có thể gợi ý thêm rằng: các nhà đặt tín điều sau khi đã quy định địa ngục đời đời là kết quả khủng khiếp của những lỗi lầm chỉ xảy ra trong chốc lát, cảm thấy họ phải tạo một lối thoát cho số phận bất công (injust) và khó tin ấy, do đó họ lại đặt thêm sự tha tội cũng bất công và khó tin như thế. Một địa ngục ngoại cảnh dư thừa vô ích cân bằng với một sự tha tội dư thừa vô ích, và như thế cánh cân lệch lạc của công lý lại được lập lại cho cân bằng. Bỏ qua các sai lầm của những người chưa hiểu biết, chúng ta hãy trở lại lãnh vực của sự kiện và của lý trí đúng đắn.
Khi một người làm một hành động xấu, y đã tự chuốc lấy sự phiền muộn đau khổ bởi vì sự phiền muộn luôn luôn là cái cây mọc từ hột giống của tội lỗi. Người ta có thể nói một cách chính xác hơn rằng tội lỗi và đau khổ chỉ là hai mặt của một hành động, chớ không phải là hai biến cố riêng rẽ. Cũng như mỗi đồ vật có hai mặt, một mặt ở phía sau không nhận thấy được, còn một mặt ở phía trước nhìn thấy được. Mỗi hành động cũng có hai mặt và người ta không thể nhìn thấy cả hai mặt cùng một lúc ở cõi trần này. Nói cách khác, việc tốt và hạnh phúc, việc xấu và đau khổ, đều là hai mặt của cùng một việc. Điều này gọi là Karma- một từ thích hợp đang phổ thông, gốc tiếng Phạn, diễn tả sự liên hệ hay là sự đồng nhất, theo mặt chữ nó có nghĩa là “nghiệp” (action) và vì thế sự đau khổ được gọi là kết quả nghiệp (karmic result) của việc xấu. Cái kết quả, “cái mặt sau”, có thể không xảy ra liền sau đó hay trong kiếp hiện tại, nhưng sớm hoặc muộn nó sẽ xuất hiện và nắm lấy kẻ tội lỗi với đôi bàn tay phiền muộn của nó. Còn bây giờ, một kết quả ở cõi trần- một hậu quả được kinh nghiệm xuyên qua tâm thức hồng trần của chúng ta- chỉ là cái chung cuộc của một nguyên nhân đã được khởi động trong quá khứ. Nó là trái đã chín, trong nó một mãnh lực đặc biệt biểu lộ và tự kiệt tận. Mãnh lực này từ trước đến giờ đã hoạt động hướng ngoại, và tác động của nó đã xảy ra trong tâm trí trước khi nó xuất hiện trong thể xác. Sự biểu lộ của nó trong xác thân là dấu hiệu hoàn tất cuộc hành trình của nó. Nếu vào lúc ấy kẻ có tội, đã giải trừ hết nghiệp (Karma) của tội lỗi y và gặp được vị Thánh Nhân thấy được quá khứ và hiện tại, phần hữu hình và phần vô hình, thì Ngài sẽ nhận thức được Nghiệp đặc biệt của y đã hết, Ngài dùng lời tuyên bố tội nhân đã được tự do. Câu chuyện về người bại liệt được xem như tiêu biểu cho nhiều trường hợp khác. Bệnh tật về thể xác là sự biểu lộ cuối cùng của một việc làm xấu trong quá khứ. (Công việc trí tuệ và đạo đức được hoàn tất mau lẹ), và kẻ đau khổ nhờ tác động của một Thiên Thần thừa hành luật hướng dẫn y gặp Vị dùng năng lực cao siêu để chữa bệnh. Đầu tiên, Vị ấy tuyên bố rằng tội lỗi người kia đã được tha thứ. Kế đó Ngài minh chứng sự sáng suốt của Ngài bằng lời nói đầy quyền lực “Hãy đứng dậy, xách giường chiếu ngươi mà về nhà”. Nếu không có Vị giác ngộ ở đấy thì bệnh tật y cũng sẽ được chữa khỏi nhờ mãnh lực khôi phục của thiên nhiên, mãnh lực này do một Thiên Thần tác động tuân theo luật nhân quả. Nhưng khi được Vị cao cả chữa, thì mãnh lực này có quyền năng cưỡng chế mau lẹ và những sự rung động của thể xác tức khắc trở nên điều hòa, đó là sự lành bệnh vậy. Nghiệp quả y đã hết, và "người biết nghiệp quả” tuyên bố sự kiện ấy. Sự xác nhận này làm tâm trí y nhẹ nhàng, cũng giống như khi một tù nhân được lệnh phóng thích. Lệnh này cũng như câu tuyên bố trên đều tuân theo luật mà thôi, nhưng người đã trả hết nghiệp quả xấu vui mừng nhiều hơn vì y không biết được thời hạn tác động của nó kéo dài bao lâu.
Người ta nhận thấy lời tuyên bố tha tội luôn đi đôi với lời tuyên bố rằng kẻ đau khổ đã tỏ "đức tin”, và nếu không có đức tin thì không điều gì có thể làm được. Điều này có nghĩa là tác nhân thật sự để chấm dứt nghiệp quả chính là kẻ tội lỗi. Trong trường hợp "người đàn bà phạm tội”, hai lời tuyên bố tiếp nối nhau: "Tội lỗi ngươi đã được tha rồi… Đức tin của ngươi đã cứu ngươi, hãy đi bình an” (S.Luke 7:48,50). “Đức tin” này là sự bừng khởi của bản thể thiêng liêng của chính y trong con người y, nó đi tìm biển bản thể bao la cùng bản chất, và khi nó phá vỡ được bản tánh thấp kém đã giam cầm nó- giống như suối nước phun phá vỡ xuyên qua lớp đất chướng ngại, thí năng lực đã được giải phóng ấy hoạt động với tất cả bản tánh của nó và làm cho bản thể nó điều hòa với biển bản thể bao la ấy. Con người chỉ ý thức được điều này khi lớp giáp cứng của nghiệp quả xấu bị năng lực ấy phá vỡ. Và cái tâm thức vui mừng của một quyền năng tiềm tàng trong y từ lâu không được biết đến, nay nó liền tỏ lộ ra ngay khi nghiệp quả xấu vừa tiêu tan. Đó là một yếu tố lớn lao tạo nên sự vui mừng, nhẹ nhõm và sinh lực mới mẻ khi y cảm thấy tội lỗi đã được “tha thứ”.
Ý nghĩa này đưa chúng ta vào tâm của vấn đề. Những sự biến đổi vẫn đang liên tục xảy ra trong bản thể bên trong của y, nhưng phần tâm thức của y hoạt động trong những giới hạn của bộ óc y không nhận biết được chúng. Đến khi chúng bỗng nổi dậy mạnh mẽ, y chẳng biết chúng từ đâu đến nên lấy làm ngạc nhiên bối rối trước sự đột khởi ấy. Y không biết gì về các mầu nhiệm của bản thể y, y không biết “Đấng Thượng Đế Nội Tâm” chính thật là y, nên những gì thật sự xảy ra bên trong y lại cho là do bên ngoài. Và vì không ý thức được Thiêng Liêng (Divinity) của chính y nên y chỉ nghĩ đến những Thiêng Liêng của thế giới ngoại cảnh. Quan niệm sai lầm này rất dễ vướng phải vì sự tiếp xúc cuối cùng, sự rung động phá vỡ cái vỏ giam cầm ấy, thường là sự đáp ứng của Thiêng Liêng trong người khác hay trong một Vị siêu nhân đối với lời kêu gọi khẩn thiết của Thiêng Liêng đang bị giam giữ trong y. Nhiều lần y nhận thức được giúp đỡ của các huynh đệ nhưng y không biết rằng chính bản thể y đã kêu gọi sự giúp đỡ ấy. Giống như lời giải thích của một người khôn ngoan hơn có thể soi sáng các vấn đề khó khăn trong trí chúng ta mặc dầu chính cái trí chúng ta khi được giúp đỡ như thế đã nắm lấy lời giải. Giống như lời khuyến khích của một người trong sạch hơn có thể giúp chúng ta nỗ lực trên đường đạo đức mà chúng ta nghĩ rằng vượt quá khả năng chúng ta, mặc dầu chính sức mạnh của chúng ta đã tạo nên nó. Cũng thế một Tinh Thần (spirit) cao cả hơn Tinh Thần chúng ta có thể giúp chúng ta phát xuất được năng lực Thiêng Liêng của chúng ta mặc dầu chính sự phát xuất của chúng ta nâng chúng ta lên một cõi giới cao hơn. Tất cả chúng ta đều liên kết giúp đỡ với nhau, với những người trên cũng như những người dưới chúng ta. Vậy thì tại sao chúng ta lại là người luôn muốn giúp đỡ các linh hồn thấp kém phát triển thêm, lại do dự chấp nhận sự giúp đỡ tương tự của những người trên chúng ta và nhờ đó sự tiến bộ của chúng ta có thể mau lẹ hơn?
Bấy giờ, trong các sự biến đổi nơi bản thể bên trong của một người, có các biến đổi liên hệ đến việc phát xuất ý chí y. Chân Nhân (Ego) nhìn ngược về quá khứ của y, so đo lại những kết quả của hạ thể, chịu đau khổ vì các lỗi lầm của nó, nên quyết định thay đổi lại thái độ và cách hành động. Trong khi hạ thể y vẫn còn theo xung lực cũ và hành động trái luật thì Chân Nhân quyết định một đường lối hạnh kiểm ngược lại. Từ trước đến nay, y chỉ theo thú tính, những thú vui của hạ giới đã xiềng xích chặt chẽ y. Bây giờ y xoay hướng về mục đích tiến hóa chân thật và chí quyết hoạt động vì những niềm vui thanh cao. Y thấy toàn thể thế giới đang tiến hóa và nếu y chống lại dòng thác mãnh liệt ấy thì nó sẽ đẩy y ra ngoài, làm y bầm vập đau đớn. Nhưng nếu y thuận chiều với nó, nó sẽ ôm y vào lòng và đưa y đến nơi ẩn nương mong muốn.
Sau đó y quyết định thay đổi cuộc sống, y nhất định quay bước hướng mới. Hậu quả đầu tiên của nỗ lực cải đổi bản tánh thấp hèn là sự buồn bực và xáo trộn. Các thói quen theo quan điểm cũ phản kháng ương ngạnh với những xung lực của quan điểm mới, và cuộc xung đột gay gắt diễn ra. Dần dần tâm thức hoạt động trong bộ óc chấp nhận sự quyết định từ trên cõi cao, bấy giờ nó “ý thức được tội lỗi” nhờ nó nhận thức rõ ràng định luật. Cảm nghĩ về lầm lỗi sâu đậm hơn, sự hối hận dày vò tâm trí y, thỉnh thoảng y có những nỗ lực cải thiện, nhưng lại thất bại vì các thói quen cũ. Thất bại liên miên cho đến khi y nặng trĩu ưu sầu vì quá khứ, thất vọng với hiện tại, y đằm chìm vào nỗi u buồn tuyệt vọng. Cuối cùng, nỗi đau khổ mãi gia tăng khiến Chân Ngã y phải thốt lời kêu gọi đến chốn thậm thâm của bản thể y, đến Thượng Đế bên trong y cũng như bên ngoài y. Y từ bỏ bản tánh thấp hèn đã cản trở y để quay về với bản tánh cao siêu là con người sâu kín của y. Y từ bỏ cái ngã chia rẽ của y đã hành khổ y để quay về với cái Ngã Duy Nhất là Tâm của vạn vật.
Nhưng sự thay đổi trận tuyến này có nghĩa là y quay lưng lại nơi tối tăm để đối diện với ánh sáng. Ánh sáng vẫn có đấy tự bao giờ, nhưng vì y đã quay lưng lại nó. Bây giờ y thấy được mặt trời, nó chiếu sáng đôi mắt y và tuôn tràn hạnh phúc cho y. Tim y trước kia đóng kín, nay nó nở bung ra và cả một biển sự sống ồ ạt tràn vào làm y hân hoan. Từng đợt sóng của đời sống mới nâng y lên cao, và sự vui tươi của buổi bình minh bao quanh y. Y thấy dĩ vãng y đã thuộc về quá khứ bởi vì ý chí y bắt đầu theo con đường cao cả hơn, y không còn quan tâm nhiều đến các đau khổ mà quá khứ có thể để lại cho y. Cảm giác an tịnh vui mừng và tự do được xem như là kết quả của sự tha tội. Những chướng ngại do bản tánh thấp hèn tạo nên giữa Thượng Đế bên trong và Thượng Đế bên ngoài đều được dẹp bỏ, và bản tánh này hiếm khi hiểu được rằng sự thay đổi này vốn ở trong nó chớ chẳng phải ở Đại Ngã (Oversoul). Giống như một đứa trẻ tách khỏi bàn tay hướng dẫn của người mẹ và đi úp mặt vào vách, em có thể tưởng tượng mình bị bỏ rơi cô đơn cho đến khi em kêu la và quay trở lại thì em thấy đôi cánh tay bảo vệ của mẹ luôn sát bên em tự bao giờ. Cũng thế con người trong tình trạng hoang dã, y đã gạt sang đôi tay bảo bọc của Người Mẹ thiêng liêng. Chỉ khi nào y quay lại y mới thấy mình không bao giờ rơi khỏi đôi tay Ngài, và dù y đi nơi đâu thì tình thương che chở ấy luôn vẫn bao quanh y.
Bí quyết của sự thay đổi khiến một người được “tha tội” được Kinh Ấn Độ Bhagavad Gita cho biết như sau: “Dẫu một người tội lỗi vô cùng mà thờ phượng ta với một tấm lòng không phân tán thì y cũng được xem là người công nghĩa, vì y đã quyết định đúng đắn”. Tiếp theo quyết định đúng đắn đó là một kết quả không thể tránh khỏi: “Y nhanh chóng vâng lời và tiến bước đến bình an”. Bản chất của tội lỗi ở chỗ y đặt ý chí riêng tư chống lại ý chí của toàn thể, ý chí con người chống lại ý chí thiêng liêng. Khi điều này được thay đổi, khi Chân Nhân đặt ý chí riêng tư của nó hiệp nhất với ý chí hoạt động cho sự tiến hóa, thì bấy giờ, trong cõi mà ý muốn là hành động và các hậu quả được thấy hiện diện ngay trong các nguyên nhân, người kia được “xem là công nghĩa. Những hậu quả ở các cõi thấp chắc chắn phải xảy ra. Y nhanh chóng vâng lời” trong hành động sau khi y đã vâng lời trong ý chí. Ở cõi trần này chúng ta xét đoán theo hành động, những lá chết của quá khứ. Ở cõi trên kia, người ta xét đoán theo ý chí, những hạt đang nẩy mầm của tương lai. Vì thế Đấng Christ luôn dạy con người ở trần gian: “Chớ nên xét đoán” (S.Matt 7:1).
Dẫu khi đã quyết định theo con đường mới và trở nên quen thuộc với đời sống này, y vẫn có lúc thất bại, như trong quyển Pitis Sophia đã ám chỉ, khi có người hỏi Đức Jesus rằng một người có thể được chấp nhận trở lại Huyền Môn chăng nếu y đã thất bại và đang hối hận. Ngài trả lời là có nhưng cho biết rằng đến một lúc nào đó sự chấp nhận trở lại vượt quá quyền năng cứu rỡi của Huyền Môn cao nhất. “Ta nói cùng ngươi, bất cứ ai thọ lãnh những mầu nhiệm của Huyền Môn đầu tiên rồi sau đó quay lại vi phạm [đến] mười hai lần và hối hận mười hai lần, cầu nguyện trong lẽ mầu nhiệm của Huyền Môn đầu tiên, y cũng sẽ được tha thứ. Nhưng nếu sau đó y quay lại và vi phạm nữa, y sẽ không được tha thứ nữa. Đối với y, không còn cách ăn năn nào trừ khi y đã nhận được những mầu nhiệm của Đấng vô cùng luôn thương xót và tha tội mãi mãi.” Sự phục hối sau cuộc thất bại và “tội lỗi được tha” thường xảy ra trong đời sống con người chúng ta, nhất là trong những giai đoạn tiến hóa cao hơn. Một người được trao cho một cơ hội nếu y biết nắm lấy nó, nó sẽ tạo cho y những khả năng tăng trưởng. Nếu y không chịu nắm lấy nó, y sẽ rơi khỏi vị trí mà y đã đạt được và mất đi các cơ hội khác. Đối với y, vào lúc đó, sự tiến bộ đã tắt nghẽn, y sẽ hết sức khổ cực cố gắng bước trên mảnh đất mà y đã đi qua, gắng đạt lại và đặt chân vững chắc lên nơi mà y đã trượt ngã. Chỉ khi nào y đã làm được như thế, y mới nghe được Tiếng nói dịu dàng bảo y rằng quá khứ đã qua rồi, sự yếu đuối đã biến thành sức mạnh và cửa đạo lại mở cho y qua. Nơi đây cũng thế, “sự tha thứ” chỉ là sự tuyên bố của một thẩm quyền thích ứng với công việc ấy, cửa đạo được mở rộng cho người có năng lực nhưng lại đóng kín đối với người thiếu khả năng. Nơi nào đã có sự thất bại và theo sau là nỗi đau khổ, thì sự tuyên bố này được cảm thấy như một “lễ báp tít tha tội”, nó cho người chí nguyện hưởng lại đặc ân mà chính hành động y đã đánh mất. Chắc chắn việc này làm y vui mừng và an tịnh, giải thoát y khỏi gánh nặng âu lo và khối quà khứ nặng nề sau cùng đã rơi khỏi chân y.
Xin đừng bao giờ quên một chân lý này: chúng ta đang sống trong một biển ánh sáng, tình thương và ân phước-Sự Sống của Thượng Đế- luôn bao quanh chúng ta. Như ánh sáng mặt trời tràn ngập xuống trái đất, Sự Sống của Ngài chiếu sáng tất cả, Ngôi Mặt Trời ấy không lặn nơi nào. Chúng ta đã ngăn cản ánh sáng này khỏi tâm thức chúng ta bởi lòng ích kỷ, tánh vô tâm, sự ô uế, tánh không khoan dung của chúng ta. Nhưng ánh sáng ấy vẫn chiếu sáng như bao giờ, tràn ngập mọi phía quanh chúng ta, chiếu một cách dịu dàng và kiên nhẫn lên các bức tường do ta tự tạo ra. Khi linh hồn phá đổ các bức tường ngăn cách ấy, ánh sáng tràn vào, linh hồn cảm thấy ngộp trong ánh nắng, thở không khí đầy ân phước của cõi trời. “Con của Người vẫn ở trên trời”, mặc dầu y không biết Nó. Những làn gió nhẹ của Nó sẽ thổi vào trán y nếu y phơi bày ra. Thượng Đế luôn luôn tôn trọng cá tính của con người, Ngài sẽ không bao giờ bước vào tâm thức của y cho đến khi y tự mở rộng đón tiếp Ngài, “Nầy, Ta đứng ngoài cửa mà gõ” là thái độ của mọi Vị Thông Tuệ tinh thần đối với sự tiến hóa của một linh hồn. Sự chờ đợi mở cửa này không phải do Ngài thiếu lòng thiện cảm mà chính vì Ngài hiểu biết sâu xa.
Con người không bị ép buộc, y được tự do. Y không phải là một kẻ nô lệ mà là một Thượng Đế đang thành. Sự tăng trưởng của y không thể bị cưỡng bách mà phải do tự nguyện. Chỉ khi nào ý chí y thuận tình thì Thượng Đế mới ảnh hưởng y, mặc dầu Ngài luôn luôn “hiện diện khắp nơi và sẵn sàng đến giúp đỡ những ai hướng về Ngài do hành động khôn ngoan, những ai không bảo thủ mà mở rộng tâm mình với lòng ưu ái của ý chí”. (The heroic Enthusiasts-Giordano Bruno).
Cảm nghĩ “tha tội” làm cho tâm tràn đầy vui sướng khi ý chí đồng rung động với Thiêng Liêng, khi phần tử cảm thấy sự duy nhất của nó (oneness) với toàn thể và Sự Sống Duy Nhất (one Life) rung động nguồn cảm hứng của nó. Dầu cho sự trình bày “sự tha tội” thô sơ và chưa đầy đủ về phương diện trí tuệ thì chân lý thanh cao này cũng tạo sinh lực và gợi cảm hứng hướng về một đời sống tinh thần trong sạch ?...
CHƯƠNG 12
Đầu Sách Cuối sách Mục Lục
PHÉP BÍ TÍCH
NGUYÊN LÝ ĐẠI CƯƠNG
Trong tất cả các tôn giáo, có một số nghi lễ được các tín đồ xem là rất trọng yếu, các nghi lễ này nhằm ban một số ân huệ cho người dự lễ. Danh từ Bí Tích dùng để gọi các nghi lễ này và chúng đều có một đặc tính chung. Từ trước đến nay người ta ít trình bày đúng đắn bản chất và ý nghĩa của chúng, nhưng đây là một vấn đề trong các vấn đề đã được giải thích từ xưa trong Tiểu Bí Pháp.
Một Bí Tích có hai tính chất đặc biệt của nó. Trước tiên nó là một nghi lễ công truyền, một chuyện ngụ ngôn bằng hình ảnh, một sự trình bày một điều gì đó bằng các động tác và các vật dụng. Nó không phải là một chuyện ngụ ngôn bằng lời, một lời dạy bằng ngôn từ để truyền đạt một chân lý. Các vật liệu, dụng cụ và cách thức sử dụng chúng trong một nghi lễ có mục đích trình bày một vài chân lý mà nghi lễ ấy muốn ghi vào tâm trí những người hiện diện. Đó là đặc tính đầu tiên và hiển nhiên của một Bí Tích, nó khác với các hình thức thờ phượng hoặc tham thiền. Nó giúp cho những người chưa đủ sức nắm lấy chân lý ẩn vi, nó trình bày chân lý dưới một hình thức sống động và minh họa, nếu không thế họ sẽ không nhận thức được. Khi nghiên cứu một Bí Tích, trước nhất người ta nên có quan điểm rằng đó là một biểu tượng bằng hình ảnh (pictorial). Như thế những điều cần nghiên cứu là: những đồ vật được sử dụng trong biểu tượng, cách thức sử dụng các đồ vật ấy, và ý nghĩa mà toàn thể biểu tượng muốn truyền đạt.
Đặc tánh thứ hai của một Phép Bí Tích tùy thuộc vào các sự kiện của các cõi vô hình và được khảo sát bởi huyền bí học. Vị hành lễ nên thông hiểu các sự kiện ấy, mặc dầu không thể hoàn toàn được, và hiệu lực của Phép Bí Tích tùy thuộc vào sự hiểu biết của vị hành lễ. Phép Bí Tích nối liền cõi vật chất với các cõi giới thanh nhẹ vô hình liên hệ, nó là sợi dây liên lạc cõi hữu hình với cõi vô hình. Không những thế, nó còn là một phương pháp chuyển hóa những năng lực cõi vô hình biểu lộ hoạt động trong cõi vật chất, một phương pháp hiện thực biến đổi loại năng lực này sang loại năng lực khác, cũng giống như trong bình điện giải, các năng lực hóa được biến sang năng lực điện. Bản thể của mọi năng lực đều giống nhau, trong cõi hữu hình cũng như trong các cõi vô hình. Nhưng các năng lực này khác nhau tùy theo các mức độ vật chất chúng biểu lộ xuyên qua đó. Một Bí Tích giống như một lò linh đan cho khoa luyện kim tinh thần. Một năng lực được đem vào lò và chịu nhiều cách chế luyện, sẽ biểu lộ khác đi. Như thế một loại năng lực tinh tế của một cõi cao siêu trong vũ trụ có thể được biến đổi cho thích hợp trực tiếp với đời sống con người trong cõi trần. Bí Tích giúp những năng lực tác động trực tiếp đến những ai hoàn thành những điều kiện cần thiết và có tham dự vào lễ ấy.
Những người ly khai khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã vào thời “Cải Cách” đã đánh mất đi sự xứng đáng và sự thông hiểu các năng lực huyền bí của các Bí Tích trong Giáo Hội. Sự phân cách trước đây giữa Đông và Tây, phân Giáo Hội Chính Thống Hy Lạp và Giáo Hội La Mã, không hề ảnh hưởng đến đức tin về các Bí Tích. Cả hai cộng đồng lớn ấy đều duy trì các Bí Tích như dây liên lạc giữa cõi hữu hình và cõi vô hình, và thánh hóa đời sống của tín đồ từ lúc mới sinh đến lúc chết. Bảy Bí Tích của Cơ Đốc Giáo bao trọn cả kiếp sống con người, từ lễ Báp tít đón mừng đến lễ Xức Dầu Thánh từ biệt. Các lễ ấy do những Huyền Bí Gia là người hiểu các thế giới vô hình lập nên. Những vật liệu, những lời nói, những cử chỉ, tất cả đều được chọn lựa kỹ càng và sắp xếp thế nào để tạo một số kết quả mong muốn.
Vào thời Phục Hưng, những Giáo Hội ly khai khỏi ách La Mã không còn do Huyền Bí Gia dẫn dắt nữa, mà lại do các người thường của thế gian. Có người tốt và cũng có người xấu, nhưng nói chung tất cả đều không biết về những sự kiện của các cõi vô hình. Họ chỉ biết được lớp vỏ bên ngoài của Cơ Đốc Giáo nghĩa đen (literal) của các tín điều, và cách thờ phượng công truyền mà thôi. Hậu quả là các Bí Tích mất đi vị trí tối cao trong sự thờ phượng của người Cơ Đốc, và trong hầu hết cộng đồng Tin Lành, các Bí Tích ấy chỉ thu lại còn hai: Lễ Báp tít và lễ Thánh Thể (Baptism and Eucharist).
Các Giáo Hội ly khai quan trọng nhất không phủ nhận hẳn tính chất của các Bí Tích khác, nhưng họ đã đặt hai Bí Tích ra ngoài năm Bí Tích kia và xem hai Bí Tích này là sự bắt buộc đại đồng mà mỗi hội viên phải thọ lãnh để được chấp nhận là một hội viên trọn nghĩa (full member).
Định nghĩa đại cương của một Phép Bí Tích đã được nêu chính xác trong Sách Giáo Lý của Giáo Hội Anh, ngoại trừ các chữ hời hợt “do chính Đấng Christ ban cho”, những chữ này cũng được giữ lại nếu người ta muốn gán cho chữ Christ một nghĩa thần bí. Như thế một Phép Bí Tích là: “Một dấu hiệu hữu hình và bên ngoài (outward) của ân huệ tinh thần và bên trong do Đấng Christ ban lệnh cho chúng ta, như một phương tiện nhờ đó chúng ta thọ lãnh ân huệ tinh thần trên và một lời bảo đảm cho chúng ta ân huệ đó.
Trong định nghĩa này chúng ta thấy có nêu ra hai tính chất rõ rệt của một Phép Bí Tích, “dấu hiệu hữu hình và bên ngoài” là một biểu tượng bằng hình ảnh (pictorial), và câu “phương tiện nhờ đó chúng ta thọ lãnh ân huệ tinh thần và bên trong” thuộc tính chất thứ hai đã nói ở trên. Những tín đồ Tin Lành thường chỉ xem các Bí Tích như một hình thức bên ngoài, một nghi lễ bên ngoài. Họ nên lưu ý đến câu sau cùng. Nó quả quyết rằng một Bí Tích quả thật là một phương tiện để truyền ân huệ, và như thế nó ám chỉ rằng không có phương tiện này thì ân huệ không thể truyền nguyên dạng từ trên cõi tinh thần xuống cõi vật chất được. Đó là điều cần nhận thức minh bạch về một Bí Tích trong tính chất thứ hai của nó, một phương tiện nhờ đó những quyền năng tinh thần được đưa xuống hoạt động ở cõi trần.
Để hiểu được một Bí Tích, chúng ta cần phải nhận thức rõ rệt sự hiện hữu của khía cạnh huyền bí ẩn mật của Thiên Nhiên. Đó là khía-cạnh-sự-sống của Thiên Nhiên,khía cạnh tâm thức, hay chính xác hơn là Trí trong Thiên Nhiên. Trong các phép Bí Tích, người ta có một niềm tin thầm kín rằng thế giới vô hình có một tiềm năng ảnh hưởng lên thế giới hữu hình. Và để hiểu một Bí Tích, chúng ta phải hiểu đôi điều về các vị Thông Tuệ vô hình điều khiển Thiên Nhiên. Khi học hỏi về giáo điều Tam Nguyên, chúng ta đã thấy rằng Tinh Thần (Spirit) đã biểu lộ thành một Ngã cấp ba (triple self) và môi trường biểu lộ của Ngài là Vật Chất, khía-cạnh-hình-thể của Thiên Nhiên, và người ta thường coi đó là Thiên Nhiên. Chúng ta phải nghiên cứu hai phương diện này: sự sống và hình thể, để hiểu một Bí Tích.
Từ Tam Nguyên xuống đến nhân loại, có nhiều đẳng cấp vô hình. Cấp cao nhất là bảy Vị Huyền Thiên của Thượng Đế Spirit of God), bảy ngọn lửa trước ngai Thượng Đế (Rev.4:5). Mỗi vị đứng đầu một đại đoàn Vị Thông Tuệ (Intelligences) tất cả cấp dưới đều chia sớt bản chất Ngài và hoạt động dưới sự hướng dẫn của Ngài. Họ phân thành: Thrones, Powers, Princes, Domination, Archagels, Angels. Những văn tự của các Cha Cơ Đốc có nói đến họ trong thi văn Huyền Môn.Như thế bảy đại đoàn những Vị này tiêu biểu cho Trí thiêng liêng trong Thiên Nhiên theo mức độ thông tuệ của họ.Họ đếu được tất cả các tôn giáo đề cập. Họ nhập vào (ensoul) những năng lực của Thiên Nhiên. Theo quan điểm Huyền Bí học, không có mãnh lực nào hoặc vật chất nào gọi là chết. Mãnh lực và vật chất đều sống động và tích cực; mỗi năng lực hoặc một nhóm năng lực là tấm rèm của một Vị Thông Tuệ, một Tâm Thức dùng năng lực ấy để biểu lộ ra bên ngoài. Vật chất đã cho năng lực ấy mượn một hình thức để Ngài hoạt động. Nếu một người chưa thể nhìn thấy Thiên nhiên theo cách ấy thì đối với y, tất cả các giáo lý huyền môn vẫn còn là một quyển sách niêm phong. Không có các thiên thần ấy- tức các tâm thức đã nhập vào mãnh lực và vật chất (ghi chú của sách: Câu lực và vật chất được khoa học biết rất nhiều. Nhưng lực là một trong những đặc tính của vật chất, được gọi là chuyển động- Motion)- thì Thiên Nhiên không những vẫn còn bí hiểm, mà nó còn không liên quan gì đến Sự Sống thiêng liêng đang hoạt động trong và xung quanh nó, và với những sự sống nhân loại đang phát triển giữa lòng nó. Vô số các thiên thần ấy nối liền các cõi với nhau. Họ vẫn đang tiến hóa trong khi giúp đỡ sự tiến hóa của những hạng thấp hơn họ. Guồng máy tiến hóa hiện ra rõ rệt hơn khi chúng ta thấy rằng con người cũng có tham dự trong các đẳng cấp của những vị Thông Tuệ. Những Thiên Thần ấy là “Con của Trời” (Son of God), thuộc về một kỳ sinh trưởng trước chúng ta, họ “kêu reo mừng” (Job 38:7) khi những “nền móng của trái đất” được thành lập trong khi các Sao Mai đồng hát hòa nhau.
Những hạng khác tiến hóa thấp hơn chúng ta: thú vật, cây cỏ, kim thạch và các loài tinh chất (elementals), trong khi các Thiên Thần tiến hóa cao hơn chúng ta. Và khi chúng ta học hỏi như thế, chúng ta nảy sinh một quan niệm về Bánh Xe của Sự Sống gồm vô số sinh linh tương quan lẫn nhau và đều cần thiết cho nhau, con người là một Thông Tuệ linh hoạt; một tự thức (self-conscious being) có một vị trí của nó trên Bánh Xe này. Bánh Xe cứ quay mãi do Ý Chí thiêng liêng, và các Thông Tuệ cấu tạo nên nó tìm cách cộng tác với Ý Chí đó. Nếu trong sự hoạt động của các Thông Tuệ có một sự gãy vỡ hay khiếm khuyết vì xao nhãng hay chống đối, thì Bánh Xe sẽ lê đi, quay chậm lại và chiếc xe tiến hóa của các thế giới nặng nhọc tiến trên con đường của nó.
Hằng hà sa số sự sống này, trên và dưới nhân loại, đến tiếp xúc với tâm thức con người theo các đường lối rất xác định, trong số đó có âm thanh và màu sắc. mỗi âm thanh có một hình thể trong cõi vô hình, và các âm thanh phối hợp tạo thành các dáng vẻ phức tạp [xin xem các sách khoa học về vấn đề này, và quyển Voice- figures của Bà Watts Hughe]. Trong những cõi vật chất mảnh mai ấy, các âm thanh đều có màu sắc đi theo, vì thế nhiều khi chúng tạo nhiều hình thể màu mè vô cùng đẹp đẽ. Khi một nốt được đánh lên, sự rung động của nó trong cõi hữu hình tạo nên các rung động trong các cõi vô hình, mỗi âm thanh có một đặc tính riêng và có thể tạo được vài kết quả. Khi giao thiệp với các Thông Tuệ thấp hơn con người hoặc khi muốn kiểm soát và điều khiển họ, người ta dùng những âm thanh thích ứng để tạo các kết quả mong muốn vì ngôn từ nơi đây là những âm thanh xác định. Và khi giao thiệp với những Thông Tuệ tiến hóa cao hơn, vài âm thanh cũng rất hữu ích để tạo một bầu không khí điều hòa, thích hợp với các hoạt động của họ và làm cho các thể tinh vi của chúng ta dễ thụ cảm hơn với các ảnh hưởng của họ.
Tác động của âm thanh lên các thể tinh vi là một phần quan trọng nhất trong cách sử dụng huyền bí âm thanh. Các thể mảnh mai này cũng giống như thể xác, lúc nào cũng rung động. Các sự rung động này thay đổi theo mỗi một tư tưởng hay dục vọng. Những rung động thay đổi bất thường này gây trở ngại cho các rung động mới đến từ bên ngoài. Để các thể dễ cảm với những ảnh hưởng thanh cao hơn, người ta dùng âm thanh biến đổi các rung động bất thường ấy thành một nhịp điệu không đổi giống như nhịp điệu của Vị Thông Tuệ mà ta muốn đến. Mục đích của những câu thường được lập đi lập lại là để tạo ảnh hưởng trên, giống như một nhạc sĩ đánh vang mãi một nốt nhạc đến khi tất cả nhạc khí cùng chỉnh vào nốt ấy. các thể tinh vi phải được chỉnh cùng nốt với Vị ấy nếu muốn ảnh hưởng của Ngài xuyên dễ dàng qua bản tính của người thờ phượng. Từ xưa người ta đã dùng âm thanh với mục đích đó. Như vậy, âm nhạc đã tạo thành một toàn bộ trong sự thờ phượng, và vài âm điệu xác định nào đó đã được bảo tồn và lưu truyền cẩn thận từ thời đại này sang thời đại khác.
Mỗi tôn giáo đều có những âm thanh có bản chất đặc biệt, gọi là “Từ Quyền Lực” (words of power) gồm nhiều câu thuộc một ngôn ngữ đặc biệt và được ngân xướng theo một cách thức đặc biệt. Các tôn giáo đều có một kho những câu như thế, những âm thanh đặc biệt nối tiếp nhau. Đông phương gọi chúng là “câu chú” (mantras), khoa học về môn này đã được họ nghiên cứu rộng rãi và công phu. Một câu chú không cần phải thuộc một ngôn ngữ đặc biệt nào. Bất cứ ngôn ngữ nào cũng dùng được, mặc dầu có vài ngôn ngữ này thích hợp hơn các ngôn ngữ khác, và miễn là người lập câu chú nắm vững được kiến thức huyền bí cần thiết. Có hàng trăm câu chú bằng giọng tiếng Phạn do các Huyền Bí gia ngày xưa rành rẽ luật lệ cõi vô hình lập nên. Chúng được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Lời hát câu chú tạo nên sự rung động do đó tạo nên các hình thể trong cõi vật chất cũng như trong các cõi siêu hình. Tùy theo kiến thức và sự trong sạch của người hát mà lời hát của y có thể ảnh hưởng đến cõi nào. Nếu kiến thức y rộng sâu, nếu ý chí y mạnh mẽ và nếu tâm y trong sạch thì hình như không có giới hạn nào ngăn cản quyền năng tác động của y khi dùng vài câu chú cổ xưa.
Như đã nói câu chú không cần lập bằng ngôn ngữ đặc biệt nào. Chính vì thế mà trong Giáo Hội La Mã, tiếng La Tinh được dùng trong những nghi thức thờ phượng quan trọng nhất. Tiếng La Tinh được dùng nơi đây không phải vì nó là một tử ngữ để che dấu sự hiểu biết, để mọi người đừng hiểu. Nó được dùng như một mãnh lực sống động trong các cõi vô hình, tạo nên các làn rung động mà những ngôn ngữ Âu Châu thông thường khác không thể tạo đượctrừ khi một Huyền Bí gia giỏi dùng một trong các ngôn ngữ ấy để cấu tạo một dãy âm thanh cần thiết. Dịch một câu chú tức là thay đổi từ một “Từ Quyền Lực” sang câu văn thông thường. Như thế âm thanh đã bị biến đổi và hình thể âm thanh cũng biến đổi theo.
Có vài cách sắp xếp các từ La Tinh, phụ thêm âm nhạc trong lễ thờ phượng của Cơ Đốc, tạo những ảnh hưởng rất mạnh mẽ trong các cõi siêu nhiên, và bất cứ người nào nhạy cảm cũng nhận thức được những hiệu quả đặc biệt của lời hát những câu thiêng liêng nhất ấy, nhất là trong lễ Misa. Ai ngồi yên tĩnh trong trạng thái đón nhận đều nhận được những hiệu quả rung động khi vị hành lễ hay ca đoàn thốt ra những câu ấy. Cùng lúc ấy những kết quả được tạo nên trên các cõi giới cao siêu tác động lên các thể tinh vi của các người thờ phượng theo cách thức đã được trình bày, đồng thời chúng cũng kêu gọi các Vị Thông Tuệ ở các cõi ấy chính xác như khi một người này kêu gọi người kia ở cõi trần, dưới hình thức một lời khẩn cầu hoặc trong vài trường hợp là một mệnh lệnh. Âm thanh tạo nên những hình thể chớp sáng linh động vượt xuyên qua các cõi, tác động vào tâm thức của các Vị Thông Tuệ khiến cho vài Vị ấy giúp đỡ các công việc xác định mà những người dự lễ thỉnh cầu. Những câu chú như thế giữ một vai trò quan trọng trong mỗi Phép Bí Tích.
Phần quan trọng cốt yếu kế tiếp là các cử chỉ- hành thức hữu hình và bên ngoài. Đó lá các Dấu Hiệu. Mỗi dấu hiệu đều có một ý nghĩa đặc biệt riêng và đánh dấu phương hướng tác động lên các mãnh lực vô hình mà người hành lễ đang điều khiển, những mãnh lực này hoặc do của chính ông, hoặc chảy xuyên qua ông. Trong mọi trường hợp đều cần có chúng để thực hiện các kết quả mong muốn, và chúng là phần cốt yếu trong Lễ Bí Tích. Một dấu hiệu như thế được gọi là “Dấu Quyền Lực” (sign of power) cũng như câu chú được gọi là “Từ Quyền Lực”.
Thật lý thú khi ta đọc thấy trong các tác phẩm huyền bí thới trước những điều liên quan với các sự kiện này. Trong “Book of the Dead” của Ai Cập có diễn tả cuộc hành trình sau khi chết (podt mortem) của một Linh Hồn, chúng ta thấy y bị chặn lại và thử thách ở các giai đoạn khác nhau của cuộc hành trình ấy như thế nào. Y bị ngăn chận và thử thách bởi các Vị Gác Cổng của các cõi liên tiếp nhau. Y chỉ có thể đi qua Cổng ấy và tiếp tục cuộc hành trình khi y biết được hai điều: y phải nói Từ Quyền Lực và làm một Dấu Quyền Lực. Sau khi làm được như thế, các thanh cản của Cổng mới rơi xuống và các Vị Gác Cổng đứng sang bên cho Linh Hồn đi qua. Trong cuốn Thánh Kinh Cơ Đốc thần bí Pitis Sophia cũng có tường thuật một bài tương tự nhưng bài này nói về một người tự ý rời khỏi xác thân trong tiến trình Điểm Đạo chớ không phải một Linh Hồn được tự do, thoát khỏi sự ràng buộc của xác thân sau khi chết. Có những Quyền Lực lớn lao hơn, Quyền Lực của Thiên Nhiên, ngăn cản bước đường y; cho đến khi người được Điểm Đạo đưa ra Từ và Dấu, họ mới cho phép y qua những cánh cổng vào lãnh vực của Họ. Cả hai kiến thức này đều cần thiết. Không có Từ và Dấu này thì sự tiến hóa bị chận lại và một Bí Tích không còn là một Bí Tích nữa.
Ngoài ra, tất cả các Bí Tích còn phải dùng- hoặc nên dùng- vài vật liệu hồng trần (Ngày nay, trong Bí Tích Giải Tội, người ta không còn dùng tro ngoại trừ trong vài dịp đặc biệt, nhưng chúng không hề thuộc vào phần nghi lễ). Nó là biểu tượng của điều mà Bí Tích phải đạt đến. Nó nêu rõ bản chất của “ân huệ tinh thần và bên trong” nhận được xuyên qua nó. Đây cũng là một phương tiện vật chất để chuyển di ân huệ một cách thật sự, hiện thực chớ không phải theo nghĩa tượng trưng, và một sự thay đổi tinh tế xảy ra trong nó để thích ứng nó với những mục đích cao siêu.
Một đồ vật gồm có các phân tử đặc lỏng, hơi mà một nhà hóa học có thể phân tích được. Ngoài ra nó còn có chất dĩ thái (ether) và những đối phần (counterpart) vật chất thanh bai hơn nữa. Trong những phần này, từ điển (magnetism) và những mãnh lực thanh bai hơn tác động.
Khi một đồ vật được truyền từ điển, thì có một sự thay đổi trong phần dĩ thái của nó, những làn sóng rung động bị biến đổi và hệ thống hóa theo những làn sóng rung động của chất dĩ thái của người truyền từ điển. Như thế nó chia sớt bản tính của y, và các phân tử nặng nề hơn dưới tác dụng của chất dĩ thái sẽ biến đổi chậm chạp mức độ rung động của chúng. Nếu người truyền từ điển có quyền năng tác động những đối phần tinh vi hơn nữa thì chúng sẽ rung động đồng nhịp với những rung động thanh cao hơn của y.
Đây là bí quyết của sự trị bịnh bằng từ điển. Những sự rung động rối loạn của người bệnh được lập lại điều hòa với những rung động của người chữa trị mạnh khỏe một cách xác định rõ ràng như một quả lắc bất điều hòa được sửa chữa lại cho điều hòa, đúng nhịp điệu chu kỳ. Một bác sĩ sẽ xạ từ điển vào nước để chữa bệnh nhân của ông, hoặc vào một miếng vải đặt lên chỗ đau. Trong mọi trường hợp, người ta dùng chất dĩ thái để tác dụng lên các phân tử vật chất đậm đặc hơn.
Khi Từ Quyền Lực và Dấu Quyền Lực tác động lên các vật liệu dùng trong phép Bí Tích thì một kết quả tương tự xảy ra,từ điển trong chất dĩ thái thay đổi và những đối phần thanh nhẹ bị tác động tùy theo sự hiểu biết, tính trong sạch và lòng tôn sùng của người hành lễ đã từ điển hóa đồ vật ấy- hay nói theo danh từ tôn giáo là ông đã hiến dâng nó. Hơn nữa, Từ và Dấu Quyền Lực trong buổi lễ còn kêu gọi những Thiên Thần liên hệ đặc biệt với những đồ vật được dùng và với đặc tánh của các động tác phô diễn. Họ trợ giúp tích cực, tuôn những năng lực từ điển của chính họ vào đối phần thanh nhẹ và cả đến phần dĩ thái của món đồ. Như thế Họ tăng cường năng lực của người hành lễ. Ai biết được những năng lực của từ điển sẽ không thể nghi ngờ các sự thay đổi trong các đồ vật trên. Và nếu một nhà khoa học không tin vào điều vô hình lại có được khả năng truyền thấm vào nước sinh lực của chính y để chữa một căn bệnh vật chất, thì tại sao một quyền năng thuộc một bản chất cao cả hơn, mặc dầu tương tự, lại bị phủ nhận khỏi những người có một đời sống thánh thiện, một tánh tình thanh cao, và một tri thức về sự vật vô hình? Những ai có thể cảm nghe các hình thức cao hơn của từ điển đều biết rất rõ rằng các đồ vật được hiến dâng có năng lực khác nhau rất nhiều và sự khác biệt về từ điển ấy là do trình độ hiểu biết, sự trong sạch và tinh thần của người hiến dâng chúng. Chương 14 có đề cập thêm một ít về các “đồ vật thiêng này”.
Như thế chúng ta thấy phần bên ngoài của phép Bí Tích rất quan trọng. những biến đổi hiện thực xảy ra trong các đồ vật được dùng. Chúng được tạo thành những vận cụ cho các năng lực tự nhiên của nó. Ai đến gần chúng, chạm vào chúng, thí các tiềm lực từ điển của chúng sẽ tác động vào thể dĩ thái và các thể thanh nhẹ hơn của y, làm cho chúng dễ cảm nhận những ảnh hưởng cao siêu hơn, và rung động cùng âm điệu với các vị cao cả liên quan đến Từ và Dấu Quyền Lực dùng trong buổi lễ. Những Vị trong cõi vô hình sẽ hiện diện trong lễ Bí Tích, tuôn xuống ảnh hưởng thiện tâm đầy ân phước của họ, như thế tất cả những ai xứng đáng trong buổi lễ, đủ tinh khiết và tôn sùng để hòa hợp với các làn rung động được tạo nên, sẽ cảm thấy tình cảm của họ được tinh luyện và phấn khích, tinh thần của họ được tăng tiến mau lẹ, và tâm của họ tràn đầy an tịnh nhờ tiếp xúc mật thiết với những Vị vô hình.
CHƯƠNG 13
Đầu Sách Cuối sách Mục Lục
PHÉP BÍ TÍCH
TRƯỜNG HỢP CỤ THỂ
Bây giờ chúng ta hãy áp dụng những nguyên lý đại cương ấy vào các trường hợp cụ thể để xem chúng giải thích các Lễ Bí Tích như thế nào.
Có lẽ chúng ta đề cập đến ba Phép Bí Tích trong bảy phép dùng trong Giáo Hội Cơ Đốc cũng đủ. Hai lễ được xem như bắt buộc đối với tất cả người Cơ Đốc, mặc dầu những nhóm Tin Lành cực đoan đã loại bỏ tính chất Bí Tích của các lễ ấy, chỉ coi chúng có giá trị tuyên bố và ghi nhớ mà thôi, tuy nhiên ngay trong nhóm của họ, một tâm tôn sùng chân chánh cũng nhận được ân phước thiêng liêng mà đầu óc từ chối. Phép Bí Tích thứ ba không được Hội Thánh Tin Lành công nhận là một Bí Tích dẫu với hư danh đi nữa, mặc dầu nó có những dấu hiệu thiết yếu của một Bí Tích, theo như định nghĩa trong sách giáo lý của Giáo Hội Anh.(xem trang 175). Ba lễ đó lần lượt là Lễ Báptít, lễ Thánh Thể và lễ Hôn phối. Việc loại bỏ lễ Hôn Phối ra khỏi các Bí Tích đã hạ thấp nhiều lý tưởng cao cả của nó và đã đưa đến nhiều sự rời rạc trong mối liên kết của nó.
Bí Tích Báptít đều có trong mọi tôn giáo, không những nó là cửa ngõ bước vào đời sống hồng trần, mà tổng quát hơn nó còn là một nghi lễ tinh luyện. Nghi lễ này thâu nhận một người gia nhập- mới sinh hay đã trưởng thành- vào một tôn giáo bằng cách rảy nước lên người. Đó là phần cốt yếu của nghi lễ, điều này rất phổ thông từ xưa đến nay. Dr.Giles lưu ý: “Ý niệm dùng nước như một biểu tượng cho sự tinh luyện tinh thần rất là rõ rệt từ thời thượng cổ đến đỗi chúng ta phải ngạc nhiên. Trong quyển khái luận về Tôn Giáo Cổ Ba Tư, Dr.Hyde nói rằng lễ ấy tràn khắp trong dân chúng. Họ không cắt bì cho trẻ em, mà duy chỉ dùng lễ Báptít để tinh lọc linh hồn cho trẻ. Họ đem đứa trẻ cho vị linh mục trong nhà thờ và đặt em trước mặt trời và lửa. Khi buổi lễ chấm dứt, họ nhìn thấy em thiêng liêng hơn. Chúa bảo họ đựng nước trong vỏ cây Holm để dùng cho mục đích này. Cây này thật ra là cây Haum của các giáo sĩ. Đôi khi người ta nhúng y vào một thùng nước lớn, như Tavernier có nói. Sau lễ tẩy rửa Báptít ấy, vị linh mục đặt cho y một tên do cha mẹ chọn”. Bên Ấn Độ, sau khi một em bé sinh được vài tuần, người ta làm một nghi lễ trong đó có phần rảy nước cho em. Nghi thức rảy nước đều có trong tất cả các sự thờ phượng của Ấn Giáo. Williamson nêu những tin tức đáng tin cậy về sự thực hành Lễ Báp tít ở Ai Cập, Ba Tư, Tây Tạng, Mông Cổ, Mexico, Peru, Hy Lạp, La Mã, Scandinavia, và giữa người Druids. Có vài lời cầu nguyện rất là đẹp đẽ: “cầu xin cho nước thánh màu xanh và xanh nhạt này vào thân thể bạn và linh hoạt ở đấy. Tôi cầu xin cho nó tiêu diệt và loại trừ khỏi bạn tất cả điều ác và phản nghịch đã đặt cho bạn trước khi có thế gian”. “Con ơi, hãy nhận lấy nước của Chúa của thế gian, Ngài vốn là sự sống của chúng ta. Nó rửa sạch và tinh lọc. Cầu xin những giọt nước này tẩy sạch tội lỗi đã đặt cho con trước khi tạo lập thế giới, vì tất cả chúng ta đều chịu dưới quyền lực của nó,”
Tertullian lưu ý rằng Lễ Báp tít rất thông dụng trong các nước không theo Cơ Đốc Giáo.
Trong hầu hết các cộng đồng tôn giáo, một hình thức Báp tít nho nhỏ theo sau mọi nghi lễ, dùng nước làm biểu tượng cho sự tinh lọc. Họ quan niệm rằng không ai bước vào nghi thức thờ phượng trừ khi y đã tinh luyện tâm hồn và lương thức y; sự tẩy sạch bên ngoài tượng trưng cho sự tẩy sạch bên trong. Trong những nhà thờ La Mã và Hy Lạp, người ta đặt một bình đựng nước Thánh gần mỗi cửa, và mỗi người đến thờ phượng đều chấm vào nước Thánh để làm dấu thánh giá trên người y trước khi y tiến bước hướng về bàn thờ. Robert Taylor nhận xét điều này như sau: “Các chậu đựng nước làm Báp tít trong các nhà hội Tin Lành,- và chúng ta cũng cần kể thêm các bình nhỏ đặt ở ngưỡng cửa các nhà nguyện Cơ Đốc- không phải là những sự bắt chước, phỏng theo, mà là một sự tiếp nối liên tục không bao giờ gián đoạn của cùng một loại bùa nước.
Trong lễ Báp tít đón nhận lần đầu tiên vào Giáo Hội hoặc trong các lễ rửa thứ yếu khác, người ta thường dùng nước bởi nó là một chất lỏng trong Thiên Nhiên có khả năng tẩy sạch mạnh. Như thế nước là biểu tượng thích hợp nhất cho sự tinh luyện. Trong nghi lễ Anh Quốc, người ta chú nguyện một câu chú vào nước: “Xin thánh hóa nước này thành nước thần bí rửa sạch tội lỗi,…” và kết thúc bằng công thức: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần Amen”. Đó là Từ Quyền Lực, nối tiếp theo là Dấu Quyền Lực, Dấu Thánh Giá được làm trên mặt nước.
Từ và Dấu ấy tạo cho nước một đặc tính mới mà trước đây nó không có, bây giờ nó được gọi một cách đúng đắn là”nước thánh”. Những quyền lực hắc ám sẽ không lại gần nó; khi được rảy lên người, nó tạo một cảm giác an tịnh và khêu gợi đời sống tinh thần. Khi một em bé được làm Lễ Báp tít, năng lực tinh thần do Từ và Dấu tạo cho nước sẽ tăng cường sự sống tinh thần trong người em, rồi sau đó Từ Quyền Lực được lập lại lần nữa ngay trên người em, và Dấu Quyền Lực được làm ngay trên trán em, trong các thể thanh nhẹ của em có thêm các làn rung động thanh cao, và những lời kêu gọi gìn giữ đời sống đã được thánh hóa ấy túa ra suốt cõi vô hình. Dấu Quyền Lực này có khả năng tinh lọc và bảo vệ tức khắc- tinh lọc nhờ sự sống đã được tuôn qua dấu ấy, bảo vệ nhờ những làn rung động mà nó tạo nên trong các cõi thanh cao. Những làn rung động này tạo thành một bức tường bảo hộ chống lại những ảnh hưởng xấu trong cõi vô hình. Mỗi khi người ta chạm đến nước Thánh, đọc lên Từ và làm Dấu Quyền Lực, thì năng lực được làm tươi mới lại, những làn rung động được tăng cường thêm; cả hai điều này đều được công nhận là có công hiệu trong các cõi vô hình và giúp ích cho người thực hiện.
Trong Giáo Hội đầu tiên, người ta chuẩn bị rất cẩn thận trước khi làm Lễ báp tít, những người được nhận vào Giáo Hội hầu hết đều chuyển đổi từ các tín ngưỡng khác. Người cải đạo trải qua ba giai đoạn giáo huấn xác định, y sẽ lưu lại trong mỗi giai đoạn cho đến khi y đã nắm vững các giáo lý của nó- Bấy giờ y mới được chấp nhận vào Giáo Hội do Lễ Báp tít- Chỉ sau đó y mới được dạy Tín Điều(Creed). Tín Điều không được viết ra và cũng không bao giờ lập lại trước sự hiện diện của một người không tin. Như thế nó được dùng như một dấu hiệu để nhận biết nhau và một bằng chứng về địa vị của người phát ngôn. Vào thời đó người ta đã tin tưởng vô cùng, vào ân huệ do Lễ báp tít ban cho, do đó mà phát sinh ra tục lệ về Lễ Báp tít- trên- giường- chết. Tin tưởng vào sự hiện thực của Báp tít, những người thế gian không muốn từ bỏ các lạc thú trần tục và không muốn sống một đời sống trong sạch, nên họ đã hoãn Lễ Báp tít lại đến khi bàn tay của Tử Thần đã đặt lên họ. Họ tưởng có thể hưởng được ân huệ của Bí Tích, và có thể bước qua cửa Tử trong sự trong sạch và đầy năng lực tinh thần. Để chống lại sự lạm dụng này, vài Cha của Giáo Hội đã phản đối tích cực. Có một câu chuyện lạ kỳ của một Cha, tôi nghĩ là của S.Atanasius, một người có tính châm biếm mẫn tuệ, thích khôi hài để làm cho người nghe hiểu được cái hạnh kiểm hư hỏng của họ. Ông nói với nhóm tín đồ rằng ông đã có thấy một linh ảnh và đã lên đến cửa Trời có Thánh Peter đứng canh giữ. Đón tiếp với một cái cau mày bất mãn, không một nụ cười, Thánh bảo: “Tại sao ông cứ mãi gửi cho tôi những cái bao trống rỗng mà lại dán kín cẩn thận?” Đó là một trong những câu châm chích nhất rất hiện thực với người Cơ Đốc Giáo, lúc mà những Bí Tích rất hiện thực với người Cơ Đốc Giáo, chớ không phải chỉ là những hình thức như ngày nay thường gặp.
Lễ Báp tít trẻ sơ sinh dần trở nên thông lệ trong Giáo Hội, do đó mà phần giáo huấn trước Lễ Báp tít vào thời trước trở thành phần chuẩn bị cho Lễ Thêm Sức. Bấy giờ lý trí và sự minh mẫn đã thức tỉnh liền nắm lấy những sự hứa hẹn của Lễ Báp tít trước kia. Sự thâu nhân trẽ sơ sinh vào Giáo Hội là một việc làm đúng khi sự sống con người được nhận thức là đang sống trong ba cõi và khi Tinh Thần và Linh Hồn (Spirit and Soul) đến cư ngụ trong xác thân mới, được nhận biết là có ý thức, minh mẫn và hiệu lực trong các cõi vô hình. Rất phải lẽ để cho “người Ẩn Mật trong lòng” (I.Pet 3:4) được đón tiếp vào giai đoạn mới của cuộc hành hương của y, và để cho những ảnh hưởng tốt lành nhất có thể tác động lên cái vận thể mà y đang cư ngụ và đang uốn nắn cho công việc của y. “Nếu mắt con người được mở, như mắt người hầu của Elisa ngày xưa đã mở thì họ vẫn còn thấy đầy ngựa và xe bằng lửa tụ tập trên núi, nơi đó có vị tiên tri của Chúa Trời”.(II King 6:17).
Chúng ta bước sang nghiên cứu Phép Bí Tích thứ hai là Lễ Thánh Thể, Sự Hy Sinh của Lễ Thánh Thể, một biểu tượng của Sự Hy Sinh đời đời đã được giải thích. Sự hy sinh hằng ngày của Giáo Hội trên khắp thế giới tượng trưng cho sự hy sinh đời đời nhờ đó các thế giới được thành lập và duy trì. Con người, trong hành động Hy Sinh, dự phần vào sự hoạt động của Luật Hy Sinh, đống hóa mình với Luật ấy, nhận thức bản tính kết hợp của nó, và tự nguyện liên kết mình với nó để cùng hoạt động cho thế giới. Nếu sự đồng hóa được trọn vẹn thì người ta có thể hưởng được nhiều lợi ích, và ảnh hưởng trên các cõi được gia tăng nhờ những người thờ phượng sùng tín đã tham gia bằng tâm trí với hành động hy sinh, chớ không bằng hình thức bên ngoài.
Lễ trọng đại này sẽ mất đi sức mạnh và ý nghĩa của nó khi người ta chỉ xem nó như một lễ tưởng niệm một sự hy sinh đã qua rồi, như một biểu tượng đẹp đẽ mà không chứa một chân lý thâm sâu, như một động tác bẻ bánh mì và rót rượu mà không có sự chia sớt với sự Hy Sinh đời đời. Như thế nó chỉ còn là một cái vỏ, một bức tranh chết thay vì một thực tại sống động. Vị Tông Đồ hỏi: “Cái chén phước lành mà chúng ta chúc phước há chẳng phải là thông [chia sẻ] với huyết của Đấng Christ sao? Cái bánh mà chúng ta bẻ há chẳng phải là thông với thân thể của Đấng Christ sao? (I.Cor 10:16). Và ông tiếp tục nêu rõ rằng tất cả ai dùng phần lễ ấy đều chia sớt một bản tính chung, đống liên kết nhau cùng trong một thân thể duy nhất, cùng hiệp nhất với Đấng hiện diện trong sự hy sinh ấy. Nơi đây ông đề cập đến một sự kiện của thế giới vô hình, và ông nói bằng quyền lực của sự hiểu biết. Những Vị vô hình tuôn bản chất của mình vào các vật liệu dùng trong các nghi lễ, và những ai chia sẻ các vật liệu ấy- chúng sẽ được đồng hóa trong cơ thể họ và trở nên thành phần của họ- sẽ được hợp nhất với các Vị ấy, họ cùng chia sẻ một bản chất chung. Điều này cũng rất đúng thật khi chúng ta dùng thức ăn hằng ngày do tay người khác làm ra- một phần của bản tánh và từ điển y trộn lẫn với bản tánh và từ điển chúng ta. Khi thực phẩm được truyền từ điển thanh cao một cách trang trọng và có chủ ý, nó sẽ tác động lên các thể tinh vi cũng như thể xác. Nếu chúng ta hiểu được ý nghĩa và công dụng của Lễ Thánh Thể, chúng ta sẽ hiểu được những sự kiện này của cõi vô hình, và phải thấy trong lễ ấy một dây liên kết giữa cõi trần với cõi trời, và một hành động thờ phượng đại đồng, một sự hợp tác, một sự kết hợp với Luật Hy Sinh. Bằng chẳng vậy thì Lễ Thánh Thể sẽ mất đi phần ý nghĩa quan trọng hơn của nó.
Việc dùng bánh mì và rượu làm vật liệu cho Lễ này- giống như nước trong Lễ Báp tít- đã rất lâu đời và phổ thông. Ngưới Ba Tư dâng bánh mì và rượu cho Mithras. Các lễ vật ở Tây Tạng và Tartary cũng tương tự như thế, Jêremiah có nói đến những người Do Thái dự lễ thờ phượng Ai Cập đã dâng bánh và thức uống cho Nữ Vương Trên Trời (Jer 44:17). Trong Sáng Thế Ký, chúng ta đọc thấy Melchisedek, vị Vua được Điểm Đạo, dùng bánh mì và rượu để ban phước cho Abraham (Gen 14:18,19). Trong các Huyền Môn Hy Lạp cũng có dùng bánh mì và rượu, Williamson ghi nhận rằng người Mexico, Peru và Druid cũng thế.
Bánh mì là một biểu tượng tổng quát tượng trưng cho thực phẩm để cấu tạo thể xác, cũng như rượu biểu tượng cho huyết, được xem như chất lỏng của sự sống (life- fluid) “vì sự sống của xác thịt ở trong huyết” (Levib17:11). Vì thế những người cùng một gia đình cùng chia xẻ một huyết chung.Cùng huyết với ai tức là cùng dòng họ với y. Cũng vì thế mà ngày xưa có lễ “thệ ước bằng huyết”. Khi một người lạ được chấp nhận gia nhập vào một gia đình hay một bộ lạc thì người ta chích vào mạch máu y vài giọt máu của một người trong gia đình, hoặc y uống những giọt máu ấy- thường pha vào nước và từ đấy y được công nhận như một người được sinh ra trong gia đình hay bộ lạc ấy. Tương tự như thế, trong Lễ Thánh Thể, những người thờ phượng nhận lấy bánh tượng trưng cho thân thể, bản chất ( nature) của Đấng Christ, và rượu tượng trưng cho huyết, sự sống của Ngài; và họ trở nên dòng dõi của Ngài, một với ngài.
Từ Quyền Lực là câu “Đây là Thân Thể của Ta”, “Đây là Máu của Ta”. Chính từ này biến đổi các vật liệu thành những vận thể cho các năng lực tinh thần. Dấu Quyền Lực là bàn tay đưa ra trên bánh và rượu, làm dấu Thánh Giá (người Tin Lành không thường làm như thế). Đây là những điều trọng yếu bên ngoài của Bí Tích Thánh Thể.
Chúng ta rất cần hiểu sự thay đổi xảy ra trong Bí Tích, bởi vì nó còn vượt xa hơn từ điển đã được giải thích ở trước. Nơi đây chúng ta ở trong một trường hợp đặc biệt của một định luật tổng quát.
Đối với Người Huyền Bí Học thì sự việc hữu hình được xem như sự việc sau cùng. Tất cả đều là sự biểu lộ vật chất của một tư tưởng. Một đồ vật chỉ là một ý niệm được hình thành và cô đặc lại. Tất cả món vật trong thế giới đều là những ý niệm Thiêng Liêng biểu lộ trong vật chất hồng trần. Như thế, thực tại của một món vật không nằm trong hình thể bên ngoài, mà nằm ở sự sống bên trong, ở ý niệm đã tạo hình và uốn nắn vật chất thành một vật biểu lộ cho ý niệm ấy. Trong các cõi cao, vật chất rất mảnh mai và mềm dẻo, tự lấy hình nhanh chóng theo ý niệm đó, và thay đổi hình thể nó khi tư tưởng thay đổi. Khi vật chất trở nên đậm đặc và nặng nề hơn, nó thay đổi chậm chạp khó khăn hơn. Xuống tận cõi trần những sự thay đổi này trở nên chậm chạp nhất vì tánh đối kháng của các vật chất cấu tạo nên cõi trần. Tuy nhiên nếu thời gian tác động được đầy đủ, vật chất nặng nề này cũng sẽ thay đổi dưới áp lực của ý niệm nhập vào trong nó, như người ta có thể thấy các vết nhăn trên gương mặt biểu lộ những tư tưởng và tình cảm quen thuộc của y.
Đây là sự thật ẩn trong giáo điều Biến Thể (Transub-stantiation) mà người Tin Lành thông thường hiểu rất sai lầm. Nhưng đây là số phận của các chân lý khi được trình bày cho người không hiểu. Cái “bản thể” (substance) đã thay đổi ấy chính là cái quan niệm tạo ra một vật hợp với tên nó. “Bánh mì không phải chỉ đơn giản là bột mì và nước. Cái ý niệm quán xuyến việc trộn, nhào nặn bột mì và nước, đó là cái “bản thể” tạo chúng thành bánh mì, còn bột mì và nước được gọi theo kỹ thuật là những “vật ngẫu nhiên” (accidents), những sự sắp xếp của vật chất để tạo một hình thể cho ý niệm ấy. Với một ý niệm khác, một bản thể khác, thì lúa mì và nước sẽ lấy một hình thức khác như khi chúng được đồng hóa trong xác thân. Cũng thế, các nhà hóa học đã khám phá rằng các nguyên tử hóa học, cùng loại và cùng số lượng, có thể được phối hợp theo nhiều cách khác nhau và trở nên những chất có các đặc tính hoàn toàn khác nhau mặc dầu các vật liệu không thay đổi. Các chất phức hợp ấy là một trong những phát minh lý thú của hóa học hiện đại. Sự sắp xếp các nguyên tử tương tự theo những ý niệm khác nhau sẽ tạo nên các chất khác nhau.
Vậy thì sự thay đổi bản thể nơi chất liệu dùng trong Lễ Thánh Thể là gì? Cái ý niệm tạo nên món đồ (object) đã được thay đổi. Trong tình trạng thông thường của chúng thì bánh mì và rượu là những vật liệu thực phẩm, diễn tả các ý niệm thiêng liêng về những món dinh dưỡng, những món thích ứng để xây dựng các thể. Ý niệm mới mẻ về bản chất và sự sống của Christ, thích ứng để xây dựng bản chất (nature) và sự sống của con người. Đó là sự thay đổi về bản thể. Món đồ vẫn không thay đổi các “vật ngẫu nhiên” của nó, vật liệu hồng trần của nó. Nhưng phần vật chất thanh bai liên hệ với nó đã thay đổi dưới áp lực của một ý niệm thay đổi, và do đó món đồ có thêm các đặc tính mới. Chúng tác động lên các thể thanh bai của người dự lễ, và chỉnh hợp chúng vào bản chất và sự sống của Đấng Christ. Mức độ chỉnh hợp này tùy thuộc”sự xứng đáng” (worthiness) của y.
Người hành lễ không xứng đáng mà chịu cùng phương thức ấy sẽ bị tác động rất nguy hiểm, vì bản chất y không thể đáp ứng với các mãnh lực cao siêu nên nó sẽ phản kháng lại và vì thế nó sẽ bị chúng phá tan nát.
Còn người dự lễ xứng đáng sẽ trở nên một với sự Hy Sinh, với Christ, và cũng trở nên một với Sự Sống Thiêng Liêng là Cha của Christ- vì hành động Hy Sinh trên khía cạnh hình thể là sự quy phục Sự Sống riêng rẽ vào Sự Sống chung, là sự dâng hiến cái vận hà riêng biệt để thành một vận hà cho Sự Sống duy nhất, nên chính do sự qui phục ấy mà người hy sinh hiệp nhất với Thượng Đế. Đó là sự dâng hiến bản thể thấp cho bản thể cao, biến dụng cụ xác thân của ý chí riêng rẽ thành một dụng cụ của ý chí thiêng liêng, và dâng “thân thể mình làm của lễ sống và thánh thiện, đẹp lòng Đức Chúa Trời” (Roma 12:1) Giáo lý này đã được giảng dạy rất đúng đắn trong Giáo Hội đến đỗi những người dự lễ Thánh lễ đều vui mừng hưởng sự sống Christ ban xuống cho con người. Sự biến thể bản chất thấp kém thành bản thể cao siêu là mục tiêu của Lễ này, cũng như của tất cả Bí Tích khác. Sự biến đổi mãnh lực thấp kém bằng cách hợp nhất nó với mãnh lực cao cả là điều mà người dự lễ mong đạt. Những ai biết được chân lý bên trong này và thông hiểu sự kiện của đời sống cao siêu, thì dầu y ở trong bất cứ tôn giáo nào, y cũng có thể nhờ các bí tích của nó mà tiến đến tiếp xúc đầy đủ hơn, hoàn toàn hơn với Sự Sống Thiêng Liêng đang nâng đỡ thế giới nếu trong cuộc lễ y có tâm trạng đón nhận, tin tưởng và cởi mở. Điều này rất cần thiết để Phép Bí Tích có thể được thực hiện.
Lễ Hôn Phối cũng có những điểm đặc biệt rõ ràng và xác định của một Phép Bí Tích như Lễ Báp tít và lễ Thánh Thể: dấu hiệu bên ngoài và ân huệ bên trong. Vật liệu là chiếc Nhẫn (ring) vòng tròn tượng trưng cho sự đời đời. Từ Quyền Lực là câu công thức cổ xưa: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Dấu quyền Lực là hai tay bắt nhau, biểu hiệu sự nối liền những đời sống. Chúng hợp thành các điều cần yếu bên ngoài của một Phép Bí Tích.
Ân huệ bên trong là sự hợp nhất tâm với tâm, trí với trí để có thể thực hiện sự duy nhất của tinh thần (unity of spirit). Không có sự duy nhất của tinh thần này, hôn phối không còn là một hôn phối, mà chỉ là một sự kết nối tạm thời giữa các thể. Cử chỉ tặng và nhận nhẫn, đọc câu công thức, hai tay bắt nhau, tạo nên một biểu tượng đẹp đẽ. Nhưng nếu không nhận được ân huệ bên trong, nếu người dự lễ không mở rộng lòng mình hướng về buổi lễ với niềm ước muốn kết hợp toàn thể bản chất của họ, thì đối với họ Phép Bí Tích mất đi những đặc tính ân phước của nó và chỉ còn là một hình thức mà thôi.
Nhưng Hôn Phối còn một ý nghĩa thâm sâu hơn nữa. Các tôn giáo đều đồng một lời tuyên bố rằng nó là hình ảnh thế gian biểu hiện cho sự hợp nhất giữa cõi trần và cõi trời, sự hợp nhất con người và Thượng Đế. Dẫu thế ý nghĩa của nó cũng chưa hết, nó còn là hình ảnh của tương quan giữa Tinh Thần và Vật Chất, giữa Tam Nguyên và Vũ Trụ. Ý nghĩa sự kết hợp người nam và nữ trong Lễ Hôn Phối rất là sâu xa và cao diệu.
Trong lễ ấy, người nam đứng tượng trưng cho Tinh Thần, Tam Nguyên của Sự Sống; người nữ tượng trưng cho Vật Chất,Tam Nguyên của chất liệu tạo hình. Một bên cho sự sống, một bên nhận lãnh và nuôi dưỡng nó. Hai bên đều bổ túc lẫn nhau, hai nửa không tách rời được của một toàn thể, bên này không thể hiện hữu xa cách bên kia. Cũng như Tinh Thần bao hàm (imply) Vật Chất và Vật Chất bao hàm Tinh Thần, người chồng bao hàm vợ và người vợ bao hàm chồng. Sự Hiện Hữu (Existence) trừu tượng biểu lộ trong trạng thái nhị nguyên:Tinh Thần và Vật Chất, cả hai đều không thể độc lập với nhau, cái này chỉ biểu lộ được cùng với cái kia, cũng thế, nhân loại biểu lộ trong hai trạng thái- chồng và vợ, xuất hiện cùng nhau, không thể hiện hữu ngoài nhau. Họ không phải là hai, nhưng là một, một đơn vị có hai mặt. Thượng Đế và Vũ Trụ được tiêu biểu trong Hôn Phối; như vậy chồng và vợ cũng được kết liền nhau như thế.
Ở trên có nói rằng Hôn Lễ là hình ảnh của sự hiệp nhất giữa Thượng Đế và con người, giữa Tinh thần đại đồng và Tinh Thần cá tính (individualized). Tất cả mọi Thánh Kinh lớn trên thế giới đều dùng biểu tượng này: Ấn Độ, Do Thái và Cơ Đốc. Ý nghĩa được nới rộng bằng cách xem Tinh Thần cá tánh là một Quốc Gia hay một Giáo Hội, một tập thể các Tinh Thần cá tánh ấy kết hợp trong một đơn vị.
Isaiah tuyên bố với Do Thái: “Chồng ngươi là Đấng đã tạo thành ngươi, danh Ngài là Đức Jehova vạn quân… chàng rể vui mừng vì vợ mới, Đức Chúa Trời ngươi cũng vui mừng vì ngươi” (Isaiah 54:5,62:5). Và Thánh Paul cũng viết rằng Lẽ bí nhiệm trong Hôn Phối tiêu biểu cho Christ và Giáo Hội (Ẹp:23-32).
Nếu chúng ta nghĩ về Tinh Thần và Vật Chất như thể còn tiềm ẩn thì chúng ta không thấy sự sanh sản. Còn khi chúng cùng biểu lộ với nhau thì đấy là sự tiến hóa. Và khi hai nửa của nhân loại không biểu lộ như chồng và vợ thì không có sự sanh hóa sự sống xác thịt. Hơn nữa họ nên hợp nhất nhau để đời sống có thể tăng trưởng trong mỗi người, một sự tiến hóa mau lẹ hơn, một sự tấn bộ nhanh chóng hơn; vì là phân nửa bên này có thể cho bên kia những gì bên kia khiếm khuyết. Hai nửa ấy nên hòa lẫn nhau thành một, khơi dậy những khả năng tinh thần của con người. Họ cũng tượng trưng cho Con Người trọn vẹn, trong bản thể của y, Tinh Thần và Vật Chất đều được phát triển toàn mỹ và quân bình tuyệt diệu. Họ cũng là Con Người thiêng liêng, y hợp nhất trong y chồng và vợ, các nguyên tố âm dương trong thiên nhiên, như” Thượng Đế và Con Người là một Christ” (Tín ngưỡng Atharasia).
Những ai nghiên cứu Bí Tích Hôn Phối như thế sẽ hiểu tại sao các tôn giáo luôn luôn xem hôn lễ không thể bị giải trừ được. Tôn giáo nghĩ rằng các cặp vợ chồng không kết hợp được ấy thà chịu đau khổ ít năm còn hơn là để cho lý tưởng của hôn phối bị hạ thấp mãi cho mọi người. Một quốc gia phải chọn lựa lý tưởng trong Hôn Lễ là một sự kết hợp hoặc là về tinh thần hoặc là về trần thế. Nó phải thấy trong lễ ấy một đơn nhất tinh thần hoặc nó chỉ xem lễ ấy là một sự kết hợp vật chất. Một bên là quan niệm tôn giáo xem Hôn Lễ là một Bí Tích, một bên là quan niệm vật chất xem Hôn Lễ như một khế ước thông thường có thể chấm dứt được. Bao giờ sinh viên Tiểu Bí Pháp cũng phải xem lễ ấy là một Bí Tích.
CHƯƠNG 14
Đầu Sách Cuối sách Mục Lục
KHẢI THỊ
Các tôn giáo đều là nơi gìn giữ những Kinh Sách thiêng liêng, và người ta thường tra cứu các sách ấy để giải quyết nghững vấn đề đang tranh luận. Chúng thường chứa đựng lời dạy của những Vị Sáng Lập hoặc của những vị thầy về sau được xem như có một nền kiến thức siêu nhân. Dẫu một tôn giáo phát sinh nhiều giáo phái bất hòa, thì mỗi giáo phái ấy vẫn bám lấy Quy Điều (Canon) thiêng liêng và giải thích chúng sao cho thích nghi nhất với những giáo lý đặc biệt riêng của mình. Tuy đức tin của người Cơ Đốc La Mã cực đoan khác với đức tin của người Tin Lành cực đoan rất nhiều, nhưng cả hai người đều cầu cứu đến cùng một Kinh Thánh. Tuy một triết gia Vedanta rất khác biệt với một người Vallabhacharya thất học nhất, họ cũng đều xem kinh Veda như tối thượng. Dầu người Shias và Sunnis chống đối kịch liệt, họ vẫn xem Kinh Kuran là thiêng liêng. Các cuộc đấu khẩu và bút chiến về ý nghĩa của các đoạn văn có thể gia tăng, nhưng chính Kinh Sách thì trong mọi trường hợp đều được kính trọng sâu xa nhất. Và quả thật vậy, vì tất cả các sách đều chứa các mảnh vỡ (fragments) của sự Khải Thị, được một trong các vị Cao Cả nắm giữ chọn lựa ra. Một mảnh như thế được chúng ta nơi đây gọi là một Khải Thị, một Thánh Kinh, và vài nơi trên thế giới vui mừng với Khải Thị ấy như một kho tàng vô giá. Mảnh được lựa chọn tùy theo nhu cầu của thời đại ấy, khả năng tiếp thu của dân chúng được truyền giảng, và mẫu giống dân mà nó muốn giáo hóa. Thường mảnh Khải Thị ấy được đưa ra dưới một hình thức đặc biệt mà trong đó lịch sử bên ngoài, câu chuyện, lời hát, thi thơ, hay lời tiên tri, hiện ra như một quyển sách trọn bộ đối với một độc giả tăm tối và hời hợt. Nhưng trong đó có những ý nghĩa sâu xa được che kín, đôi khi trong các con số, đôi khi trong những chữ được xây dựng theo một chương trình ẩn mật- một ám hiệu, đôi khi trong những biểu tượng mà các người tinh thông sẽ hiểu được, đôi khi trong những chuyện ngụ ngôn được viết như lịch sử, và trong nhiều hình thức khác nữa. Các sách này có đôi chút tính chất của bí tích, một hình thức bên ngoài và một sự sống bên trong, một biểu tượng bên ngoài và một chân lý bên trong. Chỉ có những ai đã được các Vị tinh thông huấn luyện mới có thể giải thích ý nghĩa ẩn mật ấy. Vì thế Thánh Peter có nói:” chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh Thánh lấy ý riêng giải nghĩa được (II Pet 1:20). Những lời giải thích tỉ mỉ những đoạn Thánh Kinh- mà văn chương các Cha thường đề cập- xem có vẻ kỳ quái và quá khó hiểu đối với một trí óc tầm thường ngày nay. Cách chơi số và chữ, các sự giải thích dị thường những đoạn văn mà bề ngoài có vẻ chỉ là những câu về lịch sử thông thường, lại làm nhọc trí độc giả thời nay. Y đòi hỏi những sự kiện phải được trình bày rõ ràng, chặt chẽ, và trên hết y đòi hỏi y phải cảm nghe vững chắc dưới chân. Y hoàn toàn từ chối chạy theo bước chân nhẹ nhàng của nhà thần bí bước trên một mảnh đất mà đối với y có vẻ là những vũng bùn lầy lay động, trong một cuộc rượt bắt quanh co khi ẩn khi hiện một cách bất thường, vô lý và điên đầu. Tuy nhiên những người đã viết những luận văn bí hiểm này là những người có một trí tuệ sáng suốt và một sự suy xét bình tĩnh, những bậc thầy xây dựng của Giáo Hội. Và đối với những người đọc chúng một cách đúng, chúng cũng còn chứa đầy các dấu hiệu và các gợi ý, và chúng chỉ nhiều lối đi tăm tối dẫn đến mục tiêu của kiến thức.
Chúng ta đã thấy Origen, một trong những người có tinh thần ổn kiện nhất, rành rẽ kiến thức huyền bí, dạy rằng các Thánh Kinh đều là xấp ba (threefold) gồm có Thể Xác, Linh Hồn và Tinh Thần. Ông nói Thể Xác được cấu tạo bằng những chữ bên ngoài của các lịch sử, các câu chuyện, và ông không ngần ngại cho biết chúng cũng chẳng đúng thật theo nghĩa đen (literally) mà chỉ là những câu chuyện để dạy dỗ kẻ ít học. Ông còn đi xa hơn nữa khi nhận xét rằng các lời tuyên bố trong những câu chuyện ấy rõ ràng là giả, cốt để cho các mâu thuẫn hiển nhiên ngoài mặt có thể khích động con người tìm tòi ý nghĩa thật sự của các sự liên hệ khó thể có được này. Ông cho rằng ngày nào con người còn tăm tối, thì Thể Xác này vẫn còn là khá đủ đối với họ; nó truyền đạt các giáo lý, đưa ra các huấn thị, và họ không nhìn thấy những sự tự mâu thuẫn và những điều bất khả trong các lời tuyên bố theo nghĩa đen, và vì thế mà chúng không quấy rầy họ. Khi trí óc tăng trưởng, khi sự khôn ngoan phát triển, những mâu thuẫn và bất khả ấy khiến y chú ý và kinh ngạc. Bấy giờ y bị thúc đẩy phải đi tìm một ý nghĩa thâm sâu hơn, và y bắt đầu tìm thấy Linh Hồn của Thánh Kinh. Linh Hồn ấy là phần thưởng cho người tầm kiếm khôn ngoan, y thoát khỏi những dây ràng buộc của mặt chữ giết chết ý nghĩa (II Cor3:6). Còn Tinh Thần của Thánh Kinh chỉ có thể được người đã giác ngộ tinh thần thấy mà thôi. Y hiểu ý nghĩa tinh thần:” Nếu không phải là Thánh Linh (Tinh Thần) của Đức Chúa Trời thì chẳng ai biết các sự trong Đức Chúa Trời… chúng ta nói về ơn đó, không cậy lời nói mà sự khôn ngoan của loài người đã dạy đâu, song cậy sự khôn ngoan mà Thánh Thần đã dạy” (I Cor 2:11,13).
Lý do tại sao Khải Thị lại viết theo cách thức ấy cũng dễ hiểu. Đây là một trong nhiều cách thức để một giáo lý có thể tiện lợi cho mọi tâm hồn thuộc nhiều giai đoạn tiến hóa khác nhau, và như thế không những nó huấn luyện trực tiếp những người thuộc thời nó nhưng còn cho các người sau này tiến hóa vượt hơn những người mà Khải Thị được truyền lần đầu. Con người luôn luôn tiến hóa, vì thế ý nghĩa bên ngoài trước kia truyền thụ cho các người chưa tiến hóa hẳn phải chịu rất nhiều hạn chế. Nếu không có gì sâu xa và đầy đủ hơn ẩn dưới ý nghĩa bên ngoài thì giá trị của Thánh Kinh sẽ tàn phai sau vài ngàn năm. Chính nhờ phương pháp những ý nghĩa nối tiếp nhau cao xa hơn mà Thánh Kinh có một giá trị vĩnh cửu. Những người tiến hóa có thể tìm thấy trong Thánh Kinh những kho tàng ẩn dấu, và cho đến một ngày họ nắm vững được toàn thể thì họ không còn cần đến phần tử nữa. Vậy thì những Thánh Kinh trên thế giới là những mảnh nhỏ- những mảnh của Sự Khải Thị.
Ý nghĩa kế tiếp sâu xa hơn của chữ Khải Thị là khối giáo lý được Đại Đoàn Huynh Đệ Các Vị Huấn Sư tinh thần gìn giữ cho con người. Giáo lý này được thể hiện trong các sách vở dưới dạng biểu tượng, chứa đựng những luật vũ trụ, những nguyên lý thành lập vũ trụ, những phương pháp tiến hóa của vũ trụ, tất cả vạn vật cấu tạo nó, quá khứ, hiện tại và tương lai của nó. Đây là Khải Thị, kho tàng vô giá mà những Vị Canh Gác của nhân loại có trách nhiệm bảo quản. Thỉnh thoảng Ngài lấy từ Khải Thị ấy vài mảnh để làm nên các Thánh Kinh của thế gian.
Thứ ba là Khải Thị, cao cả nhất, đầy đủ nhất, tốt đẹp nhất, là sự Biểu Hiện Tự Ngã của Thượng Đế trong vũ trụ (Self-unveiling of Deity), sự tiết lộ hết thuộc tính (attribut) nầy đến thuộc tính khác, hết quyền lực này đến quyền lực khác, hết mỹ lệ này đến mỹ lệ khác trong tất cả mọi hình thức đa dạng hợp thành vũ trụ. Ngài biểu lộ vẻ huy hoàng của Ngài trong mặt trời, sự vô tận của Ngài trong không gian đầy sao, sức mạnh của Ngài trong những dãy núi, nét tinh khiết của Ngài trong những đỉnh núi phủ đầy tuyết và trong không khí trong suốt, năng lực của Ngài trong những ngọn sóng biển cuồn cuộn, vẻ đẹp của Ngài trong dòng suối róc rách, trong mặt hồ trong suốt phẳng lặng, trong khu rừng thẳm mát mẻ, và trong đồng bằng ngập nắng, tánh vô úy của Ngài trong người anh hùng, tánh kiên nhẫn của Ngài trong vị Thánh, sự dịu dàng của Ngài trong tình yêu người mẹ, lòng chăm sóc bảo vệ của Ngài trong người cha và vua, minh triết của Ngài trong triết nhân, kiến thức của Ngài trong nhà khoa học, quyền năng chữa bệnh của Ngài trong vị y sĩ, sự công bình của Ngài trong người quan tòa, sự thịnh vượng của Ngài trong thương gia, năng lực giáo huấn của Ngài trong vị linh mục. Ngài thì thầm với chúng ta qua ngọn gió thoảng, Ngài cười với chúng ta qua ánh mặt trời. Ngài quở trách chúng ta qua bệnh tật, Ngài kích thích chúng ta khi bằng thành công khi bằng thất bại. Ngài cho chúng ta thoáng nhìn thấy Ngài ở khắp nơi và trong mọi vật để quyến rũ chúng ta yêu mến Ngài. Ngài ẩn trốn để chúng ta có thể đứng vững một mình. Nhận biết Ngài ở khắp nơi, ấy là Minh Triết chân chánh yêu thương Ngài trong mọi nơi, ấy là Ước Muốn chân chánh. Phụng sự Ngài khắp nơi, ấy là Hành Động chân chánh. Sự tỏ lộ Tư Ngã (Self revealing) của Thượng Đế là sự Khải Thị cao cả nhất, tất cả sự Khải Thị khác đều là thứ yếu và từng phần.
Người được cảm hứng là người nhận được vài sự Khải Thị ấy đến bằng một tác động trực tiếp của Tinh Thần đại đồng lên Tinh Thần riêng rẽ vốn là con của chính Ngài. Y cảm nghe ảnh hưởng giác ngộ của Tinh Thần đối với Tinh Thần. Không ai biết được chân lý mà lại có thể đánh mất và nghi ngờ nó nếu y được Khải Thị đến với y lúc y đứng vững một mình trên thế gian. Đó là Thiêng Liêng bên ngoài đã nói với Thiêng Liêng bên trong, trong đền thờ của tâm con người, và con người biết được như thế do chính mình chứ không phải do người khác.
Ở một mức độ thấp hơn, một người được cảm hứng khi có một người khác cao hơn y kích động nơi y những quyền năng hãy còn thụ động, hay cả đến sử dụng tạm thời thể xác y như một vận thể. Người được quang huy (illuminated) ấy, trong thời gian nhận cảm hứng, có thể nói những điều vượt quá kiến thức của y và phát biểu những chân lý không ngờ được. Đôi khi các chân lý được ban xuống xuyên qua một vận hà của con người để giúp đỡ thế giới. Một Vị cao cả hơn y truyền sự sống của Ngài vào y, và các chân lý ấy được thột ra xuyên qua môi y. Bấy giờ Vị Huấn Sư nói những điều trọng đại hơn. “Thiên Thần đã lấy lửa chạm môi y” (Isa 6:6,7. Đấy là những Tiên Tri của dân tộc, trong vài thời kỳ nào đó, đã nói với một sự xác quyết vô cùng, một sự sáng suốt rõ ràng, một sự thông hiểu các nhu cầu tinh thần của con người.Bấy giờ những lời ấy sẽ sống trường cửu và người phát ngôn quả thật là một sứ giả của Thượng Đế. Người nào đã biết được như thế thì không bao giờ có thể quên đi kiến thức ấy, và y luôn mang trong tâm y một lòng xác quyết không bao giờ biến mất hoàn toàn. Ánh sáng có thể lu mờ, tăm tối có thể phủ lên y, luồng sáng cõi trời có thể phai nhạt, mây đen có thể bao phủ lấy y, đe dọa, nghi nan, thử thách có thể tấn công y, nhưng Bí Mật của An Tịnh vẫn ngự trong lòng y- y biết hoặc biết rằng y đã biết.
Những ai nhận thức được- dầu theo bất cứ nghĩa nào- rằng Thượng Đế đang ở xung quanh họ, trong họ và trong vạn vật thì họ có thể hiểu được một nơi chốn hoặc một đồ vật có thể trở nên “thiêng liêng” (sacred) như thể nào bằng cách chỉ cần một chút khách quan hóa (slight objectivization) sự Hiện Diện khắp nơi và đời đời này. Thông thường công việc này do một người tiến hóa cao thực hiện. Nơi y, Thiêng Liêng bên trong đã được khai mở cao siêu vì thế những thể thanh nhẹ của y dễ đáp ứng với những làn rung động tinh tế của tâm thức. Những năng lực tinh thần có thể tuôn xuống qua một người như thế và chúng sẽ tự kết hợp với từ điển sinh động tinh khiết của y. Bấy giờ y có thể xạ chúng vào bất cứ đồ vật nào làm cho chất dĩ thái và các chất thanh nhẹ hơn của món đồ trở nên đồng nhịp với những làn rung động của y, và hơn nữa là Thiêng Liêng trong nó có thể biểu lộ rõ ràng hơn. Một món đồ như thế được “từ điển hóa”; và nếu việc từ điển hóa được thực hiện mạnh mẽ thì món đồ tự nó sẽ trở nên một trung tâm từ điển, nó lại có thể từ điển hóa những gì gần đó.
Một món đồ được làm cho trở nên “thiêng liêng” như thế giúp ích rất nhiều cho sự cầu nguyện và tham thiền. Các thể thanh bai của người thờ phượng cùng hòa nhịp với các rung động thanh cao của nó và y sẽ cảm nghe được yên lặng, êm dịu và hòa bình mà không cần cố gắng chi cả. Y được đưa vào một tình trạng cầu nguyện, tham thiền và dễ dàng có kết quả thay vì khó khăn và trở ngại, nhờ vậy công việc tập luyện chán ngắt ấy sẽ trở nên vô cùng thú vị. Nếu món đồ biểu hiệu cho một Nhân Vật Thiêng Liêng- Tượng Chúa trên Thánh Giá, Thánh Mẫu và Hài Đồng, Thiên Thần, Vị Thánh, thì ảnh hưởng còn nhiều hơn nữa. Nếu từ điển của Ngài đã được truyền vào hình tượng từ trước bởi Từ và Dấu Quyền Lực, thì Ngài có thể tăng cường từ điển ấy bằng cách sử dụng một chút năng lực tinh thần, và như thế Ngài sẽ ảnh hưởng kẻ mộ đạo. Đôi khi Ngài cũng có thể tự biểu lộ xuyên qua hình tượng ấy nữa mà nếu ở trường hợp khác Ngài sẽ không làm như thế. Trong thế giới tinh thần, năng lực cũng phải được tiết kiệm. Chỉ cần một số ít năng lực truyền vào một đồ vật, một nơi chốn, có thể tạo một ảnh hưởng lớn hơn nhiều năng lực dùng không đúng cách.
Người ta có thể dùng những định luật này để biện minh cho việc dùng tất cả các đồ vật được hiến dâng: thánh tích, bùa v.v… Chúng đều là những đồ vật được truyền từ điển, có khả năng mạnh mẽ hay yếu kém, hoặc cả đến vô dụng nữa, tùy theo kiến thức, sự trong sạch và tinh thần của người truyền từ điển.
Nơi chốn cũng có thể được làm cho linh thánh một cách tương tự bởi đời sống của một thánh nhân sống nơi đó. Từ khí tinh khiết của Ngài tỏa ra làm cho toàn thể bầu không khí nơi đó rung động một cách an bình. Đôi khi những Vị Thiêng Liêng từ các cõi trên trực tiếp từ điển hóa một nơi nào đó, như trường hợp Thánh John nói đến trong Thánh Kinh: “một thiên sứ thỉnh thoảng giáng xuống trong ao, làm cho nước động, truyền cho nước những đặc tính chữa bệnh.(S.John5:4). Tại những nơi ấy, dẫu một người trần tục lơ đễnh cũng đôi khi nhận thấy ảnh hưởng ân phước, tạm thời y sẽ ổn định lại và hướng về những sự việc cao cả hơn. Sự Sống Thiêng Liêng trong con người luôn luôn tìm cách chinh phục hình thể, uốn nắn nó để nó là một biểu hiện của Sự Sống. Rất dễ thấy công việc của Sự Sống sẽ dễ dàng hơn nếu hình thể được làm cho rung động điều hòa với những làn rung động của một Vị tiến hóa cao siêu, và những nỗ lực của Sự Sống sẽ được một quyền năng mạnh mẽ hơn tăng cường thêm. Sự nhận biết bên ngoài của hiệu quả này là một cảm giác yên lặng, an tĩnh và thanh bình, cái trí không còn xao động, cái tâm không còn âu lo. Ai tự cảm nghe trong mình sẽ thấy rằng có vài nơi chốn rất dễ đưa đến sự an tĩnh, sự tôn sùng thờ phượng, sự tham thiền hơn các nơi khác. Trong một căn phòng hoặc một ngôi nhà chứa đầy những tư tưởng thấp hèn, những chuyện tầm phào, và cuộc sống phàm tục náo động, thì khó mà an tịnh cái trí và tập trung tư tưởng hơn là tại một nơi có tư tưởng tôn giáo đã được thể hiện năm này sang năm khác, thế kỷ này sang thế kỷ khác. Những điều gì nơi trước đòi hỏi nhiều cố gắng thì nơi sau không cần gì cả.
Đây là sự hữu lý của các nơi hành hương, nơi ẩn dật tạm thời. Con người quay về nội tâm để tìm Thượng Đế trong lòng y. Y được giúp đỡ do bầu không khí của hằng ngàn người trước y đã cùng tìm kiếm như thế tại cùng nơi chốn này. Tại đây không những chỉ có từ điển của một Vị Thánh hoặc do cuộc viếng thăm của một Đấng Cao cả cõi vô hình, mà còn do những người viếng thăm nơi ấy với một tấm lòng đầy tôn kính và mộ đạo, họ rung động theo ảnh hưởng ấy, rồi họ lại tăng cường các rung động trước bằng chính đời sống họ, làm cho địa điểm này trở nên tốt hơn trước khi y đến. Năng lực từ điển sẽ tiêu tán từ từ, và một đồ vật hay một nơi chốn sẽ dần mất đi từ điển ấy nếu nó bị lãng quên. Còn nếu ta năng chú ý đến nó, thì từ điển sẽ mạnh mẽ thêm. Nhưng sự hiện diện của người ưa nhạo báng sẽ làm tổn thương đồ vật, hay nơi chốn bởi vì các làn rung động đối kháng của y làm suy yếu những làn rung động có sẵn ở đấy. Như một làn sóng âm thanh có thể gặp làn sóng khác đến dập tắt nó, tạo kết quả là sự yên lặng, những làn rung động của tư tưởng nhạo báng sẽ làm suy yếu hay đập tắt các làn rung động của tư tưởng tôn kính và yêu thương. Hậu quả nhiều hay ít tùy theo sức mạnh tương đối của các làn rung động, nhưng những làn rung động xấu xa không phải là không tạo được kết quả, vì những luật rung động ở các cõi cao cũng giống y như ở cõi vật chất, và những sự rung động của tư tưởng là sự biểu lộ của các năng lực hiện thực.
Lý do và hiệu quả của sự dâng hiến một nhà thờ, một nhà nguyện, một nghĩa trang rất dễ hiểu. Hành động hiến dâng không phải chỉ là sự công bố dành riêng nơi chốn ấy cho một mục đích đặc biệt, nó còn là sự từ điển hóa nơi ấy để tác động hữu ích cho những ai thường đến đó. Vì cõi hữu hình và các cõi vô hình xen lẫn vào nhau, đan dệt vào nhau, nên những người phụng sự cõi vô hình một cách tốt đẹp nhất là những người có thể sử dụng được các năng lực các cõi ấy.
LỜI KẾT
Đầu Sách Cuối sách Mục Lục
Chúng ta đã đến cuối quyển sách nhỏ trình bày một vấn đề trọng đại và chúng ta đã vén lên một góc Màn che dấu nàng Trinh Nữ của Chân Lý Vĩnh Cửu khỏi đôi mắt thờ ơ của con người. Cho đến nay người ta cũng chỉ mới thấy được lai viền y phục đầy vàng bạc châu báu của nàng mà thôi. Dẫu thế, nó cũng tỏa ra những hương thơm của các cõi thần tiên hơn cõi giới chúng ta. Một sự vinh quang không tưởng tượng nổi khi tấm Màn được nâng lên và chúng ta thấy được vẻ huy hoàng trên Gương Mặt của Đức Mẹ Thiêng Liêng và trong tay Bà là Hài Nhi tượng trưng Chân Lý. Trước Hài Nhi, Thiên Thần Tối Cao luôn che phủ gương mặt họ, vậy người hữu sanh hữu hoại nào có thể ngắm nhìn Ngài mà tồn tại được?
Tuy nhiên vì chính Bản Thể của Ngài ngự nơi con người nên ai sẽ ngăn cản được y vượt qua tấm màn che và thấy được “Vẻ Vinh Quang của Ngài”. Từ Hang Động đến Thiên Đường cao nhất: đó là con đường của Ngôi Lời biểu lộ thành xác thịt, và được biết như Con Đường của Thập Tự. Người nào chia xẻ nhân tính cũng chia xẻ Thiên tính, y có thể bước trên con đường Ngài đã đi. “Ngài là Điều gì, Con là Điều ấy”.
Vạn Vật Thái Bình.
1-2-1984.
Xin cảm ơn Người Bạn Tâm Hồn đã giúp tôi về ý nghĩa, lời văn và thời giờ. 15-4-1984.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks