CHƯƠNG 8

Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

SỰ SỐNG LẠI VÀ SỰ THĂNG THIÊN

Những giáo điều về Sự Sống Lại và Sự Thăng Thiên của Đấng Christ cũng thuộc về Tiểu Bí Pháp và là những đoạn trong toàn bộ về “Thần Thoại Thái Dương” và về câu chuyện Sự Sống của Christ trong con người.

Đối với chính Đấng Christ thì những giáo điều ấy quả có căn cứ trên những sự kiện lịch sử về việc Ngài tiếp tục dạy dỗ những môn đệ của Ngài sau khi Ngài chết, và Ngài hiện diện trong Đại Bí Pháp như một vị Đại Tư Giáo sau khi Ngài không còn trực tiếp dạy họ cho đến khi Đức Jesus thay thế nhiệm vụ của Ngài. Trong các chuyện thần thoại thì sự sống lại là sự vinh hiển của một vị anh hùng bao giờ cũng là đoạn kết của câu chuyện tử nạn. Trong Huyền Môn, thể xác của người thí sinh được đưa vào trạng thái mê man như chết, bấy giờ y là một linh hồn được giải phóng, y du hành khắp cõi giới vô hình rồi trở về và sống lại trong thể xác của y sau ba ngày. Còn trong câu chuyện về Sự Sống của mỗi cá nhân đang trở nên một Christ, chúng ta sẽ thấy rằng vở kịch Sống Lại và Thăng Thiên được diễn lại mãi. Nhưng trước khi chúng ta có thể theo dõi câu chuyện này một cách khôn ngoan, chúng ta phải nắm vững những nét đại cương về cơ cấu con người, hiểu các thể tự nhiên và thể tinh thần con người: “Có một thể tự nhiên (natural) và một thể tinh thần (Spiritual).” (I.Cor 15:44).

Vẫn còn những người xem con người chỉ như một nhị nguyên gồm có linh hồn (soul) và thể xác (body). Họ dùng chữ tinh thần và linh hồn cùng nghĩa như nhau; và họ nói đến “linh hồn và thể xác” cũng không khác gì với “tinh thần và thể xác”, họ muốn nói con người gồm có hai thành phần:một thể sẽ hư hoại đi sau khi chết trong khi đó thể kia sống mãi. Đối với những người đơn giản và không thông hiểu thì sự phân chia sơ sài này cũng tạm đủ nhưng nó sẽ không thể giúp ta hiểu được những lẽ bí nhiệm về sự Sống Lại và Thăng Thiên.

Mọi người Cơ Đốc nào chỉ nghiên cứu thô thiển về cấu tạo con người cũng nhận thấy được rằng nó có ba thành phần: Tinh Thần, Linh Hồn và Thể Xác. Sự phân chia này hợp lý mặc dầu chúng ta cần phải có thêm một sự phân chia một sự phân chia phụ nữa mới có thể nghiên cứu thâm sâu hơn. Thánh Paul đã dùng cách phân chia ấy trong lời cầu nguyện “nguyện tinh thần, linh hồn và thể xác của anh em đều được giữ vẹn, không chỗ trách được” (I.Thes 5:23). Thần học Cơ Đốc chấp nhận cách phân chia ba bậc ấy.

Thật ra, Tinh Thần là một Tam Nguyên, phản ánh của Tam Nguyên Tối Cao, chúng ta sẽ khảo cứu điều này trong chương 9: Tam Nguyên. Con người thật sự, con người bất tử, đó là Tinh Thần, là Tam Nguyên trong con người. Nó chính là sự sống,là tâm thức, và thể tinh thần (spiritual) thuộc về nó mỗi một trạng thái của Tam Nguyên có một thể riêng. Linh hồn là xấp hai gồm trí tuệ và tình cảm với những y phục tương ứng của nó. Và Thể là dụng cụ bằng cật chất của Tinh Thần và Linh Hồn. Có một quan điểm Cơ Đốc cho rằng con người là một xấp mười hai, 6 biến thể cấu tạo con người tinh thần, còn 6 biến thể kia cấu tạo con người tự nhiên. Một quan niệm Cơ Đốc khác lại cho rằng con người là một xấp mười bốn, bảy biến thể thuộc tâm thức và bảy biến thể thuộc các loại sắc tướng, hình thức. Quan điểm sau này hầu như đồng nhất với quan điểm do các nhà Thần Bí học hỏi được, họ thường nói rằng con người là một xấp bảy, vì thực sự y được phân làm bảy phần, mỗi phần là một xấp hai gồm khía cạnh sự sống và khía cạnh hình thể.

Các cách phân chia chánh và phụ này làm rối trí người ít học, vì vậy Origen và Clement đã nhấn mạnh về sự cần thiết của trí tuệ đối với những ai muốn trở thành người Duy Tri (Gnostic). Sau cùng những ai thấy cách phân chia làm rối trí họ thì có thể xếp chúng qua một bên và đừng ngăn cản các sinh viên nhiệt tâm vì những sing viên này chẳng những thấy chúng có tính cách soi sáng mà chúng còn tuyệt đối cần thiết để hiểu minh bạch những Mầu Nhiệm của Sự Sống và Con Người.

Chữ Thể (Body) có nghĩa là một vận thể (vehicule), hay một dụng cụ (instrument) của tâm thức (consciousness). Nó là một vận thể vì nó mang theo tâm thức trong nó, hoặc nó là một dụng cụ vì tâm thức dùng nó để tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta cũng có thể ví nó như cái lọ chứa tâm thức bên trong, giống như lọ đựng nước vậy. Đó là cái hình thể được sự sống sử dụng, và chúng ta sẽ không biết được điều gì về tâm thức trừ khi nó có liên quan đến các hình thể. Một hình thể có thể được cấu tạo bằng những vật chất thanh bai nhất và số lượng ít nhất, gần như trong suốt đến đỗi chúng ta chỉ ý thức được sự sống nội tại; tuy nhiên hình thể vẫn có ở đó và được cấu tạo bằng Vật Chất. Hình thể ấy có thể đông đặc đến đỗi nó che mất sự sống nội tại và chúng ta chỉ ý thức được hình thể; tuy nhiên sự sống vẫn có ở đó và được cấu tạo bằng Tinh Thần- đối cực với Vật Chất. Sinh viên phải nghiên cứu nhiều lần sự kiện căn bản này:tính nhị nguyên trong mọi sự hiện hữu, tính cộng sinh không chia ly được của Tinh Thần và Vật Chất trong một hạt bụi cũng như trong Đức Thượng Đế đã biểu lộ. Quan niệm ấy phải trở nên một thành phần của y; nếu không, y không thể tiếp tục việc nghiên cứu các Tiểu Bí Pháp, Christ trong Thượng đế hay trong Con Người cũng chỉ nêu ra cùng một sự kiện về tính nhị nguyên được lập lại khắp trong thiên nhiên. Mọi vật trong vũ trụ đều được cấu tạo trên tính nhị nguyên cơ bản đó.

Con người có một “thể tự nhiên” (natural body) nó gồm có bốn phần riêng rẽ và khác nhau, thể này sẽ chết. Hai trong bốn phần này làm bằng vật chất cõi trần và không bao giờ tách rời hoàn toàn với nhau cho đến khi chết, mặc dầu chúng cò thể tách rời một phần do thuốc mê hoặc bịnh tật- Hai phần này được xếp chung với nhau và được gọi là Thể Xác. Trong thể này, con người thực hiện các hoạt động có ý thức khi y thức tỉnh. Nói theo kỹ thuật thì thể này là một dụng cụ của tâm thức y trong cõi vật chất.

Phần thứ ba là Thể Tình Cảm (Desire Body), nó được gọi như thế bởi vì bản tính dục vọng, tình cảm của con người có ở trong dụng cụ đó. Trong giấc ngủ y rời bỏ thể xác và thực hiện các hoạt động có ý thức trong thể tình cảm tại cõi giới vô hình sát cận với trái đất hữu hình của chúng ta. Do đó nó là một dụng cụ của tâm thức tại cõi thấp nhất của những cõi siêu vật chất (superphysical worlds), đó là cõi thứ nhất mà con người bước sang sau khi chết.

Phần thứ tư là Thể Trí, bản tính lý trí hoạt động trong nó trên phương diện cụ thể. Nó là một dụng cụ của tâm thức tại cõi thứ hai của các cõi siêu vật chất. Đó cũng là cõi thứ hai hay cõi hạ thiên (lower heavenly world) mà con người bước sang sau khi chết và sau khi được giải phóng tự do khỏi cõi thứ nhất vừa nói ở đoạn trên.

Bốn phần này tạo thành thể tự nhiên mà thánh Paul nói đến. Sự phân chia khoa học này vượt khỏi giáo lý Cơ Đốc thông thường vốn dĩ mơ hồ và lẫn lộn về vấn đề này. Đó không phải là các giáo hội không nắm vững nó. Trái lại, sự hiểu biết về cơ cấu con người là một thành phần trong Tiểu Bí Pháp. Sự phân chia đơn giản thành Tinh Thần, Linh Hồn và Thể Xác chỉ là công truyền, một sự phân chia sơ lược làm nền tảng. Sự phân chia “Thể” thành các phần phụ sẽ được đề cập đến trong giai đoạn giáo huấn về sau, chuẩn bị cho việc huấn luyện mà vị Đạo sư sẽ dạy cho môn sinh tách rời một vận thể này khỏi vận thể khác và sử dụng mỗi vận thể như một dụng cụ của tâm thức tại cõi tương ứng của nó.

Người ta có thể hiểu được quan niệm này dễ dàng. Nếu ai muốn du hành trên mặt đất cứng thì y dùng chiếc xe như một vận thể của y. Nếu y muốn đi trên biển thì y thay đổi vận thể của y, y đi tàu. Nếu y muốn du lịch trên không thì y lại thay đổi vận thể của y lần nữa, y dùng khinh khí cầu. Y vẫn là một người suốt các cuộc hành trình ấy, nhưng y dùng ba vận thể khác nhau tùy theo loại vật chất mà y muốn du hành trong đó. Thí dụ này không đúng lắm nhưng nó không dẫn ta lạc đường. Khi con người bận rộn ở cõi trần, vận thể y là thể xác, tâm thức của y hoạt động trong và xuyên qua thể xác. Khi y bước sang cõi giới trên cõi hồng trần, trong giấc ngủ hoặc sau khi chết, vận thể y là thể tình cảm, và y có thể học cách dùng thể này một cách có ý thức như khi y dùng thể xác một cách có ý thức vậy. Hàng ngày y đã sử dụng nó một cách vô thức trong đời sống của y khi y đang cảm nghe hay đang ham muốn; hằng đêm y cũng đã sử dụng nó như thế. Khi y tiếp tục bước vào cõi hạ thiên sau khi chết, vận thể của y là thể trí; đó cũng là thể mà y đã sử dụng hằng ngày trong lúc sống khi y đang suy nghĩ, và trong bộ óc sẽ không có tư tưởng nào nếu trong thể trí không có gì cả.

Con người còn có them “một thể tinh thần”, nó gồm có ba phần riêng biệt, mỗi phần thuộc về một trong ba Ngôi trong Tam Nguyên của Tinh Thần con người. Thánh Paul nói ông được “cất lên đến từng trời thứ ba” và ở đó ông nghe được “những lời không thể nói mà người nào cũng không được phép nói ra.” (II Cor 12:2,4). Những người được Điểm Đạo đều biết đến các cõi trời này, họ cũng biết muốn vào cõi trời thứ nhất thì phải dùng thể tinh thần làm vận thể, và cõi trời nào mà họ có thể vượt vào được thì tùy thuộc sự phát triển của ba phần của thể ấy.

Phần thấp nhất trong ba phần này thường được gọi là Thể Nguyên Nhân (Causal Body), chỉ có người nào đã học hỏi giáo lý về sự Luân Hồi được dạy trong Giáo Hội Đầu Tiên- mới có thể hiểu rõ đầy đủ tên thể này. Họ biết rằng sự tiến hóa của con người cần rất nhiều kiếp liên tiếp nhau trên trái đất trước khi linh hồn mới phát triển của người hoang dã có thể trở thành linh hồn toàn thiện của Christ, và bấy giờ, toàn thiện như Cha ở trên Trời (S. Matt 5:48) y mới hiểu được sự hiệp nhất của Con với Cha (S.John 17:22.23). Đó là một thể tồn tại từ kiếp này sang kiếp khác và tất cả dĩ vãng đều được lưu trữ trong trí nhớ của nó. Những nguyên do để cấu tạo nên các hạ thể (các thể tự nhiên) phát xuất từ nó; các hạ thể được cấu tạo thế nào là do theo những đặc tính lưu trữ trong nó. Nó là nơi chứa nhận tất cả kinh nghiệm của một người trong suốt tất cả các kiếp sống của y, là trung tâm của Tâm Thức.

Phần thứ hai của thể tinh thần được Thánh Paul nói đến trong những câu ý tứ sau: “Chúng ta lại có ngôi nhà đời đời trên trời, bởi Đức Chúa Trời, không phải bởi tay người làm ra (II Cor 5:1).” Đó là Thể Chí Phước (Bliss Body), thể vinh hiển của Christ “Thể Sống Lại”. Đó không phải là một thể “do đôi tay làm nên” không phải do hành động của tâm thức trong các hạ thể, không do kinh nghiệm lập thành, cũng không phải do các vật chất mà con người thâu thập được trong cuộc hành trình lâu dài của y cấu hợp nên. Nó là một thể thuộc về sự sống Christ, đời sống của Sự Điểm Đạo, nó thuộc về sự phát triển thiêng liêng trong con người. Nó được Thượng Đế tạo nên, do hoạt động của Tinh Thần, và tăng trưởng trong toàn thể đời sống của người được Điểm Đạo; nó chỉ đạt đến sự toàn thiện vào lúc “Sống Lại”.

Phần thứ ba của thể tinh thần là một màn vật chất mỏng manh thanh nhẹ, nó tách Tinh Thần thành một Hữu Thể (Being) riêng, tuy nhiên nó vẫn cho phép sự thẩm thấu lẫn nhau của tất cả trong tất cả, và như thế nó biểu lộ đặc tính hiệp nhất căn bản. Vào ngày mà chính Con sẽ “phục Đấng đã khiến muôn vật phục mình hầu cho Đức Chúa Trời là mọi sự trong mọi sự” (I Cor 15:28) thì cái màn mỏng manh này sẽ phải bị vượt qua. Nhưng đối với chúng ta thì nó vẫn còn duy trì phần cao nhất của thể tinh thần, nhờ nó chúng ta sẽ tiến lên đến Cha và hiệp nhất với Ngài.

Cơ Đốc luôn luôn nhận biết sự hiện hữu của ba thế giới hay ba miền mà con người phải trải qua, một là cõi trần, hai là một trạng thái trung gian mà y phải bước vào sau khi chết, và thứ ba là cõi trời. Ba cõi này đều được mọi người Cơ Đốc có học tin tưởng; chỉ những người kém học mới tưởng tượng rằng một người sau khi chết liền bước ngay sang trạng thái chí phúc cuối cùng. Nhưng có vài ý kiến khác nhau về đặc tính của cõi trung gian. Công Giáo La Mã gọi là Luyện Ngục (Purgatory), và tin rằng mọi linh hồn đều vào đó ngoại trừ linh hồn Vị Thánh là người đạt đến sự toàn thiện hoặc linh hồn của một người đã chết với trọng tội. Khối nhân loại đông đảo đều bước vào miền tinh luyện trong đó một người ở lâu hay mau tùy theo các tội lỗi mà y đã phạm, và y chỉ ra khỏi nơi đó để vào cõi trời sau khi y đã trở nên tinh khiết. Còn các cộng đồng Tin Lành thí lại khác nhau về giáo lý lẫn đến chi tiết, và hầu hết đều không nhận quan niệm về sự tinh luyện sau khi chết, nhưng họ đều đồng ý rằng có một trạng thái trung gian, đôi khi được gọi là” thời kỳ chờ đợi”. Các Cơ Đốc nhân thời nay hầu hết đều xem cõi trời như một trạng thái cuối cùng mà họ không có một quan niệm đại cương hoặc rõ rệt về bản chất của nó, và họ cũng không biết những người đã đạt đến đó rồi thì tiếp tục tấn hóa thêm hay đứng yên ở tình trạng cũ. Trong Cơ Đốc Giáo đầu tiên thì cõi trời này được xem như là- và quả thật là- một giai đoạn trong hành trình tiến hóa của con người. Những giáo lý về sự luân hồi trong hình thể này hoặc hình thể khác, về sự tiền-hiện-hữu (pre existence) của linh hồn được dạy rất là đại cương. Kết quả là cái tình trạng trên cõi trời ấy là một tình trạng tạm thời, mặc dầu thường rất lâu, kéo dài “một thời đại” như được xác định trong Tân Ước Hy Lạp, thời đại này chấm dứt khi con người trở lại giai đoạn kế tiếp của sự sống và sự tiến hóa liên tục của y- chớ không “đời đời” như bản dịch được phép của Anh Quốc đã dịch sai (Ghi chú trong sách: Sự dịch sai này là điều tự nhiên vì công tác dịch thuật được thực hiện vào thế kỷ 17 và vì tất cả mọi ý tưởng về sự tiền-hiện-hữu của linh hồn và về sự tiến hóa của linh hồn đều đã phai mờ trước đó rất lâu khỏi Cơ Đốc Giáo, ngoại trừ những giáo lý của một ít giáo phái bị Giáo Hội La Mã xem là tà giáo)

Để hoàn tất những nét đại cương cần thiết để hiểu Sự Sống Lại và Thăng Thiên, chúng ta nên xem coi các thể ấy phát triển thế nào trong giai đoạn tiến hóa cao hơn.

Thể xác lúc nào củng ở trong tình trạng lưu chuyển, những phân tử của nó được thay mới luôn và được xây dựng luôn. Vì nó được cấu tạo bởi thức ăn và thức uống của chúng ta, bởi khí trời chúng ta thở và bởi những phân tử rút được từ môi trường xung quanh của cả người và vật, nên chúng ta có thể tinh luyện nó bằng cách chọn lựa những vật liệu tốt đẹp để biến nó thành một vận thể tinh khiết hơn, thụ cảm với những làn rung động thanh bai hơn, dễ đáp ứng với những ước vọng trong sạch hơn và với những tư tưởng cao quý hơn. Vì lý do này mà tất cả ai ước muốn đạt được các Lẽ Mầu Nhiệm đều phải tuân thủ các quy luật về dinh dưỡng, vệ sinh v.v… và phải rất cẩn thận với những người kết giao, những nơi lai vãng.

Thể tình cảm cũng thay đổi tương tự như thế nhưng các vật liệu được thải ra hay hút vào tùy theo tác động của dục vọng, tình cảm, cảm nghĩ. Nếu chúng thô kệch thì các chất được hút vào cũng thô kệch, còn khi chúng được tinh luyện thì thể tình cảm sẽ trở nên tinh tế và rất nhạy cảm với những ảnh hưởng thanh cao. Khi con người càng chế ngự bản tính thấp hèn của y, khi các ước muốn, cảm nghĩ và xúc động của y trở nên vô ngã, khi y yêu thương mọi người xung quanh một cách vị tha và không chiếm hữu, thì đó là y đang càng tinh luyện dụng cụ của tâm thức cao siêu này. Do đó kết quả là trong giấc ngủ y rời xác thân và học được những kinh nghiệm cao siêu hơn, bổ ích hơn; còn sau khi chết, y vượt qua trạng thái trung gian mau lẹ, thể tình cảm của y tan rã nhanh chóng không ngăn cản cuộc hành trình tiến lên của y.

Thể trí của y cũng đang được xây dựng như thế, bằng những tư tưởng, nguyện vọng, tưởng tượng, suy luận, xét đoán, năng khiếu thẩm mỹ của y và bằng cách sử dụng tất cả quyền năng của tư tưởng. Y tạo thể trí ra thế nào thì y phải mang lấy nó như thế ấy. Khoảng thời gian và sự phong phú của trạng thái trên cõi trời của y tùy thuộc vào loại bản chất và cơ cấu thể trí của y mà y đã thành lập trong kiếp sống của y dưới trần.

Khi một người bước sang giai đoạn tiến hóa cao siêu thì thể nguyên nhân bắt đầu hoạt động độc lập trong cõi vô hình và dần dần y ý thức được đời sống của y trên cõi trời ngay giữa cơn quay cuồng của cuộc sống thế nhân. Bấy giờ y trở nên “Con của người vẫn ở trên trời” (S.Jhon 3:13) y có thể nói các sự trên trời bằng chính năng lực hiểu biết của y. Khi y bắt đầu sống đời sống của Con và tiến bước trên Thánh Đạo (Path of Holiness) thì y đã sống trên cõi trời mặc dầu y vẫn còn đang ở cõi trần, y đã sử dụng thể này một cách có ý thức. Vì lẽ cõi trời không xa chúng ta mà lại bao quanh chúng ta khắp phía, chúng ta không có quan năng nhận thức các rung động của nó chớ không phải chúng không có, mà mọi giây phút chúng đều tác đông lên chúng ta, nên chỉ cần ý thức được chúng là chúng ta đã ở trên cõi trời. Muốn ý thức được, chúng ta phải xây dựng thể trời với các chất liệu cõi trời. Vì thế “Con của người” vẫn luôn ở cõi trời. Nhưng chúng ta biết rằng “Con của người” là một từ áp dụng cho người được Điểm Đạo đang trở nên toàn thiện, chớ không áp dụng cho Christ đã thăng thiên và vinh hiển.

Trong những giai đoạn tiến hóa dẫn đến Con Đường Dự Bị (Probationary path) và cả trên Con Đường này nữa, thì phần đầu của thể tinh thần phát triển nhanh chóng, giúp y- sau khi chết- tiến vào cõi trời thứ hai. Sau khi được Sinh Lần Hai tức Christ sinh ra trong người, Thể Chí Phúc “trong những cõi trời” (in the heavens) được bắt đầu thành lập. Đây là thể của Christ, phát triển trong khi Ngài còn đang thi hành chức vụ ở thế gian; và khi nó đã phát triển thì tâm thức của “Con của Trời” càng ngày càng rõ rệt và sự hiệp nhất với Cha sắp đến chiếu rọi vào Tinh Thần đang khai mở.

Trong Bí Pháp Cơ Đốc- cũng như trong các Bí Pháp cổ xưa Ai Cập, Chaldea v.v… có một biểu tượng bên ngoài tượng trưng những giai đoạn mà con người phải trải qua. Y được dẫn vào phòng Điểm Đạo, y giăng tay nằm dài trên đất, trên đá hay đôi khi trên thập tự giá bằng gỗ, theo tư thế của một người chịu đóng đinh. Vị Điểm Đạo dùng tượng Điểm Đạo điểm lên tim y- mũi “giáo” của sự tử nạn- y liền rời xác thân bước vào cõi giới trên. Xác thân y bấy giờ ở trong trạng thái mê man- cái chết của người tử nạn. Sau đó thể xác của y được đặt vào quan tài bằng đá và canh gác cẩn thận. Trong khi đó, trước tiên y sẽ trải qua những miền tối tăm lạ lùng, gọi là “tâm (heart) của trái đất”, và sau đó y sẽ tiến lên ngọn núi cõi trời và đặt lên đấy thể chí phước toàn thiện, bấy giờ đã được hính thành đầy đủ là một dụng cụ của tâm thức. Trong thể này, y trở về thể xác và làm linh hoạt nó lại. Thập tự giá mang thể xác- hoặc cái thể xác mê man và cứng ngắt này trong trường hợp không dùng thập tự- được đem ra khỏi quan tài đá và đặt trên một mặt phẳng nghiêng nhìn về hướng đông, sẵn sàng đón nhận mặt trời lên vào ngày thứ ba. Ngay khi những tia nắng mặt trời chiếu vào gương mặt, thì Christ, người được Điểm Đạo toàn thiện hay là Chân Sư (Master), lại nhập vào thể xác, làm vinh hiển nó bởi thể chí phúc mà Ngài đang mang, cho nó những đức tính mới, quyền lực mới, biến đổi nó giống như chính Ngài. Đó là sự sống lại của Đấng Christ, và sau đó thể xác ấy thay đổi, có bản chất mới.

Đó là lý do tại sao lúc nào mặt trời cũng được xem là biểu tượng của Đấng Christ đang tiến lên, và tại sao trong các thi ca Phục Sinh (Easter) luôn nói đến sự đang lên của Ngôi Mặt Trời Công Nghĩa. Thánh kinh cũng có viết về Đấng Christ chiến thắng: “Ta là Đấng sống và đã chết; nầy Ta sống đời đời, và cầm chìa khóa của sự chết và âm phủ.’ (Rev. 1:18). Tất cả mọi năng lực của các cõi giới thấp đều nằm dưới quyền lực của Con, người đã chiến thắng vinh quang, cái chết không còn uy quyền gì với Ngài nữa. Ngài nắm sự sống và sự chết trong đôi bàn tay mạnh mẽ của Ngài. Ngài là Đấng Christ thăng thiên, Đấng Christ chiến thắng.

Sự thăng thiên của Đấng Christ là một điều Bí Nhiệm của phần thứ ba của thể tinh thần, sự khoác vào cái Y Phục của Vinh Hiển, chuẩn bị cho sự hiệp nhất của Con với Cha, của con người và Thượng Đế, khi Tinh Thần lại bước vào sự vinh quang mà nó đã có trước khi chưa có thế gian.” (S.John 17:5). Sau đó Tinh Thần xấp ba trở thành một, tự biết mình vĩnh cửu, và Đấng Thượng Đế Ẩn Mật đã được tìm thấy. Đó là hình ảnh của giáo lý về sự Thăng Thiên khi nói về sự tiến hóa của một cá nhân.

Sự Thăng Thiên đối với nhân loại là khi toàn thể giống dân đã đạt đến trạng thái Christ, trạng thái của Con, là khi Con trở nên một với Cha, và Thượng Đế là tất cả trong tất cả. Đó là mục đích của nhân loại, được hình dung trước trong sự chiến thắng của người được Điểm Đạo, nhưng chỉ đạt đến khi giống dân được toàn thiện, bấy giờ “đứa con Nhân Loại mồ côi” không còn mồ côi nữa, Nó đã ý thức biết rằng Nó là Con của Thượng Đế.

Khảo cứu những giáo lý về sự Chuộc Tội, sự Sống Lại và sự Thăng Thiên, chúng ta mới thấy được chân lý ẩn trong Tiểu Bí Pháp, và chúng ta mới bắt đầu hiểu được đầy đủ chân lý trong lời dạy của các tông đồ rằng Christ không phải là một nhân vật duy nhất, mà là “những trái đầu mùa của những kẻ ngủ”. (I.Cor 15:20) và mỗi người đều trở nên một Christ. Vậy thì không nên nghĩ Đấng Christ là một Vị Cứu Thế bên ngoài, nhờ công nghĩa của Ngài mà con người được cứu khỏi cơn thạnh nộ của Trời. Trong Giáo Hội hiện phổ biến một giáo lý gây cảm hứng và vinh quang rằng Ngài là trái đầu mùa của nhân loại, là kiểu mẫu mà mỗi người sẽ tự tạo lại trong chính mình, là sự sống mà tất cả mọi người đều chia sớt. Những người được Điểm Đạo luôn luôn được xem là những trái đầu mùa, là sự hứa hẹn của một giống dân sẽ trở nên toàn thiện. Đối với người Cơ Đốc Đầu Tiên, Đấng Christ là biểu tượng sống động cho sự thánh thiện của y, là trái vinh hiển của hạt giống y mang trong tim y. Không phải được cứu chuộc bởi một Đấng Christ bên ngoài, nhưng được vinh hiển trong một Đấng Christ bên trong- đó là giáo lý của Cơ Đốc Giáo bí truyền, của Tiểu Bí Pháp. Giai đoạn đệ tử phải bước sang giai đoạn của Con. Đời sống của Con là phải sống giữa nhân loại cho đến khi nó kết thúc vào lúc Sự Sống Lại và Christ vinh hiển trở nên một với những Vị Cứu Thế toàn thiện.

Thánh kinh này rộng lớn hơn là Thánh kinh của thời nay biết bao nhiêu! Loại bỏ lý tưởng vĩ đại của phần gióa lý bí truyền, phần giáo lý ngoại truyền của các giáo hội thật là cạn hẹp và nghèo nàn.

CHƯƠNG 9

Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

TAM NGUYÊN

Tất cả sự nghiên cứu về sự Hiện Hữu Thiêng Liêng đều phải bắt đầu bằng sự xác nhận rằng Nó là Một (one). Tất cả nhà Hiền Triết đều tuyên bố Nó như thế, mỗi tôn giáo đều xác nhận Nó như thế, mỗi triết lý đều chủ trương Nó như thế. “Chỉ có một và không có hai” (Chandogyopanishad).” Nghe đây hỡi Israel! Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất” (Deut 6:4) Thánh Paul tuyên bố “Đối với chúng ta, chỉ có một Đức Chúa Trời” (I Cor 8:6). “Không có Thượng Đế nào ngoài Đấng Thượng Đế” Vị sáng lập Hồi Giáo xác nhận như thế và dùng câu ấy làm biểu tượng cho đức tin của Ông. Một Hiện Hữu Duy Nhất (One Existence) vô cùng, chỉ Nó mới biết sự đầy đủ của Nó mà thôi. Tiếng Nó (It) có vẻ tôn kính và bao gồm hơn tiếng Ngài (He). Đó là sự tăm tối Vĩnh Cửu, từ đó phát sinh ra Ánh Sáng.

Nhưng khi là Thượng Đế biểu lộ (Manifested God) thì Một hiện thành Ba, Một Tam Nguyên gồm Ba Vị Thiêng Liêng (Divine Beings). Một là Thượng Đế, còn Ba là những quyền lực được biểu lộ (Manifested Powers) bao giờ chân lý này cũng được tuyên bố như thế, nó rất quan trọng trong sự tương quan của nó đối với con người và sự tiến hóa của y đến nỗi nó luôn luôn là một phần cần yếu trong Tiểu Bí Pháp…

Các triết gia Ấn Độ nói về Đức Thượng Đế biểu lộ là Sat-Chit-Ananda, tức Hiện Hữu -Thông Tuệ - và Chí Phước. Còn quần chúng Ấn Độ thì xem Ngài là một Tam Nguyên: Shiva, Vishnou, Bhramâ, tức Đấng Khởi Đầu và Cuối Cùng, Đấng Bảo Tồn, Đấng Sáng Tạo Vũ Trụ…

Giáo lý Cơ Đốc về Tam Nguyên cũng hoàn toàn đồng ý với những tôn giáo khác về các nhiệm vụ của ba Ngôi Thiêng Liêng. Chữ Ngôi (Person) do từ chữ persona- mặt nạ, vật để che đậy, mặt nạ che Đấng Hiện Hữu Duy Nhất, sự Tự Biểu Lộ dưới một hình thể, Cha là Nguồn Cội và Chung Cuộc của mọi sự. Con có bản chất kép, là Lời (word), là Minh Triết (Wisdom). Thánh thần (Holy Spirit) là Thông Tuệ Sáng Tạo (Creative Intelligence), Ngôi này biến đổi vật chất hổn mang ngươn thỉ thành những vật chất sẵn sàng để tạo nên các hình thể.

Nhưng trước khi chúng ta tạm rời ý nghĩa công truyền về Tam Nguyên, chúng ta cần ghi nhớ một điểm khác là có một sự biểu lộ cơ bản thứ tư, Quyền Năng của Thượng Đế, luôn lấy hình thức âm (feminin form). Trong Ấn Giáo, mỗi Ngôi trong Tam Nguyên đều có quyền năng biểu lộ (manifested Power) của Ngài. Đấng duy nhất và sáu trạng thái (aspects) nầy tạo thành bảy thiêng liêng. Với nhiều Tam Nguyên của các Tam Nguyên thì có một hình thức âm xuất hiện, lúc nào cũng liên hệ đặc biệt vời Ngôi Hai, như thế ta có Xấp Bốn (Quaternary).

Bây giờ chúng ta hãy xem chân lý bên trong. Đấng Duy Nhất biểu lộ thành Đấng Đầu Tiên,Đấng Tự Hiện Hữu, Căn Nguyên của mọi sự Cha Tối Cao, Chữ Ý Chí (will)hay Quyền Năng (power) có lẽ là chữ thích hợp nhất để diễn tả Đấng Tự Biểu hiện nầy, vì trước khi ý chí biểu lộ thì không có sự biểu lộ nào, không có động lực thúc đẩy tiến hóa nào. Vũ trụ được xem bắt nguồn trong ý chí thiêng liêng. Kế tiếp đó là trạng thái thứ hai của Đấng Duy Nhất: Minh Triết. Quyền Năng được hướng dẫn bởi Minh Triết. “Ngoài Ngài chẳng có vật gì được tạo nên cả” S.John 1:3). Minh Triết có bản chất kép, như ta thấy sau đây. Khi hai trạng thái Ý Chí và Minh Triết biểu lộ thì một trạng thái thứ ba phải theo sau đó để làm cho hai trạng thái trên hữu hiệu: đó là Thông Tuệ Sáng Tạo, trí thiêng liêng trong Hành Động. Một tiên tri Do Thái viết: “Chính Ngài là Đấng đã lấy quyền năng mình dựng nên đất, lấy sự Khôn Ngoan (Wisdom) mình lập nên thế gian, lấy sự Sáng Suốt mình giương các tầng trời ra”. (Jer 51:15) sự tương quan giữa ba nhiệm vụ ấy rất rõ ràng. Ba Ngôi nầy không tách rời được, không phân ly được, đó là ba trạng thái của Đấng Duy Nhất. Để cho dễ hiểu người ta trình bày ba nhiệm vụ ấy riêng rẽ, nhưng chúng ta không hề cách chia nhau. Mỗi Ngôi này đều cần thiết cho Ngôi kia, mỗi Ngôi này đều hiện hữu trong Ngôi kia. Trong Ngôi Nhất, Ý Chí hay Quyền năng chiếm ưu thế, nhưng Mimh Triết và Hoạt Động Sáng Tạo đều hiện hữu. Trong Ngôi Hai, Minh Triết trội hơn, nhưng Quyền Năng và Hoạt Động Sáng Tạo cũng vẫn nội tại ở đấy. Trong Ngôi Ba, Hoạt Động Sáng Tạo có phần hơn nhưng quyền năng và Minh Triết cũng vẫn có mặt. Và mặc dầu các chữ Nhất, Nhì, Ba được dùng là để chỉ những Ngôi ấy biểu lộ trong thời gian, theo thứ tự của Sự Tự Khai Mở; tuy nhiên trong vĩnh cửu thì ba Ngôi ấy liên quan hỗ tương lẫn nhau và cùng bằng nhau. Không Ngôi nào lớn hơn hoặc kém hơn Ngôi khác.

Tam Nguyên nầy là một Ngã (self) thiêng liêng, Tinh thần(Spirit) thiêng liêng. Vị Thượng Đế Biểu Lộ, Đấng “đã có, hiện có và còn đến”.(Rev.1:8), Ngài là căn nguyên của mọi Xấp ba căn bản trong đời sống trong tâm thức.

Nhưng chúng ta thấy có Ngôi Tư- hoặc trong vài tôn giáo là Tam Nguyên thứ Hai, âm tính(feminine), Đức Mẹ. Nhờ Đó (that) mà sự biểu lộ có thể thực hiện được, Đó vẫn vĩnh cửu trong Đấng Duy Nhất và là căn nguyên của sự giới hạn và phân chia, một khi được biểu lộ thì được gọi là Vật Chất. Đây là Phi- Ngã (not-self), Vật Chất thiêng liêng, Thiên Nhiên(Nature) biểu lộ. Nhìn theo quan điểm Duy Nhất “Bà” (She) là Ngôi Tư, giúp cho Ba Ngôi có thể biểu lộ. Bà là Sân Trường(field) cho Ba Ngôi hoạt động nhờ vào đặc tính phân chia vô cùng của Bà. Bà cùng lúc là “Tớ gái của Ngài” (S.Luck 1:38) và là Mẹ của Ngài. Bà nhượng chất liệu (subtance) của Bà để cấu tạo Thân Thể cho Ngài (tức vũ trụ) khi Bà được Quyền Năng của Ngài phủ bóng lên Bà (S.Luke 1:35). Quan sát cẩn thận hơn, Bà cũng là Xấp ba, hiện hữu trong ba trạng thái bất khả phân ly, Bà không thể hiện hữu được nếu không có ba trạng thái này. Đó là Tĩnh Yên, Chuyển Động và Nhịp Nhàng (stability-Motion-Rhythm), những đặc tánh căn bản và cần yếu của Vật Chất. Chúng làm cho Tinh Thần trở nên hữu hiệu nên được xem là những Quyền năng biểu lộ của Tam Nguyên. Tĩnh Yên hay là Quán Tính (innertia) tạo một căn bản, điểm tựa của đòn bẫy. Chuyển Động được biểu lộ, nhưng chỉ tạo nên hỗn loạn. Sau đó nhịp nhàng xuất hiện, và rồi Vật Chất rung động sẵn sàng để được tạo hình. Khi ba trạng thái nầy quân bình nhau, đó là Một (One), là Vật Chất Trinh Nguyên, không sinh hóa (virgin matter). Khi Quyền Năng của Đấng Tối Cao phủ bóng lên Bà và hơi thở của Tinh thần (spirit) đến với Bà thì những đặc tính này bị mất quân bình và Bà trở thành Đức Mẹ Thiêng Liêng của các cõi.

Tác dụng hỗ tương đầu tiên xảy ra giữa Bà và ngôi Ba của Tam Nguyên. Do tác dụng của Ngôi ấy mà Bà có năng lực sanh hóa hình thể. Rồi Ngôi Hai được biểu lộ, tự bao mình trong vật chất đã được thành lập, và trở nên Vị Trung Gian, nối liền trong chính mình Tinh Thần và Vật Chất, Nguyên Hình (Archetype) của mọi hình thể. Chỉ xuyên qua Ngài mà Ngôi Nhất mới biểu lộ thành Cha của tất cả Tinh Thần.

Vì thế chúng ta mới thấy tại sao Ngôi Hai của Tam Nguyên Tinh Thần luôn luôn là Xấp Hai, Ngài là Đấng Duy Nhất tự bao mình trong vật chất, trong Ngài hai bán phần sinh đôi của Thượng Đế hiện ra trong sự hiệp nhất (union) chớ không như là một đơn nhất (one). Từ đấy Ngài cũng là Minh Triết; vì trên khía cạnh Tinh Thần, Minh Triết là Thuần Lý (Pure Reason), nó tự biết mình là Ngã Độc Nhất (One Self) và biết mọi sự là Ngã ấy; còn trên khía cạnh Vật Chất, nó là Tình Thương thu hút vô số hình thể sắc tướng lại với nhau, và tạo mỗi hình thể ấy thành một đơn vị chớ không phải chỉ là một đống phân tử hỗn tạp. Đó là nguyên lý hấp dẫn vạn vật, nó duy trì các cõi và giữ cho mọi vật trong đó hoàn toàn trật tự và quân bình. Vì thế người ta nói Minh Triết “điều khiển mọi sự một cách uy mãnh và dịu dàng”, Minh Triết nâng đỡ và bảo tồn vũ trụ.

Trong những biểu tượng thế giới tìm thấy trong mọi tôn giáo, Điểm (Poin, chỉ vị trí) được xem như Ngôi Nhất trong Tam Nguyên. Về biểu tượng này, S.Clement nhận xét rằng nếu ta loại bỏ đi khỏi một vật những đặc tính của nó, rồi kế đó là chiều cao, chiều rộng và chiều dài thì “điểm” (point) còn lại là một đơn vị (unit) có một vị trí. Từ đó, nếu chúng ta lại loại bỏ vị trí thì ta chỉ còn quan niệm về đơn vị. Từ nơi Tối Tăm vô cùng, Ngôi Nhất chiếu ra một Điểm Ánh Sáng, trung tâm của vũ trụ tương lai, một đơn vị trong đó mọi vật hiện hữu không phân ly. Vật chất dùng để thành lập vũ trụ, sân trường hoạt động của Ngài, được định biên giới bởi sự rung động lui và tới của Điểm ấy theo mọi hướng (H1)

H1

tạo thành một khối cầu giới hạn bởi Ý Chí, Quyền Năng của Ngài. Đây là sự tạo lập “Thế gian bởi Quyền Năng của Ngài” mà Jeremiah đã nói. Như thế biểu tượng đầy đủ là một Điểm trong một khối cầu, thường được trình bày là một Điểm trong một hình tròn (H2).

H2

Ngôi Hai được trình bày thành một Đường (line) H3, H3

đường kính của vòng tròn, một sự rung động đơn giản đầy đủ của Điểm. Đường này đều bằng nhau theo mọi hướng trong khối cầu, nó chia hình tròn ra làm hai và chỉ rõ Tính Nhị Nguyên của Ngài. Trong Ngài, Vật Chất và Tinh Thần vốn là một đơn vị trong Ngôi Nhất, lại được phân làm hai mặc dầu vẫn hiệp nhất. (H4)

H4

Ngôi Ba được trình bày bằng một chữ thập do hai đường kính thẳng góc nhau tạo thành . Đường kính thứ hai tách phần trên của hình tròn khỏi phần dưới. Đây là Thập Tự Hy Lạp. (H5)
H5

Khi Tam Nguyên được trình bày như một đơn vị thì người ta dùng biểu tượng tam giác, hoặc nội tiếp trong một vòng tròn (H6)

H6 H7 H8

hoặc tự do (h7). Vũ trụ được biểu tượng hóa thành hai hình tam giác xỏ tréo nhau (H8), Tam Nguyên Tinh Thần có đỉnh hướng lên trên, còn Tam Nguyên Vật Chất có đỉnh hướng xuống dưới. Nếu dùng màu thì Tam Nguyên Tinh Thần màu trắng, vàng hoặc lửa, còn Tam Nguyên Vật Chất có màu đen hay thuộc sắc tối.

Bây giờ thì chúng ta có thể sẵn sàng theo dõi tiến trình tạo dựng càn khôn. Một trở thành Hai, Hai trở thành Ba, Tam Nguyên biểu lộ. Vật Chất trong vũ trụ đã được định biên cương và chờ tác động của Tinh Thần. Đây là “lúc khởi đầu” trong Sáng Thế Ký, khi “Đức Chúa Trời (God) dựng nên trời và đất.” Lời tuyên bố này được giải thích thêm bằng những câu thường lập lại rằng Ngài “lập những nền của đất” (Job 38:4, zech 12:1). Nơi đây ta thấy sự định biên cương vật chất, nhưng hãy còn là hỗn mang, “không hình thể và trống không”.(Gen.1:2)

Từ căn bản này, Thông Tuệ Sáng tạo (Đức Thánh Thần, Ngôi Ba) bắt đầu tác động, “Ngài vận hành trên các mặt nước” (Gen 1:2), biển vật chất bao la. Hoạt động đầu tiên này do Ngài mặc dù Ngài thuộc Ngôi Ba- một điểm vô cùng quan trọng.

Trong Huyền Môn, công việc này được miêu tả chi tiết là sự chuẩn bị vật chất cho vũ trụ, sự thành lập các nguyên tử, sự thu hút chúng lại thành từng khối và kết hợp các khối này thành những nguyên tố, rồi từ những nguyên tố này tạo thành các hợp chất hơi, lỏng, đặc. Công việc này không phải chỉ riêng cho các loại vật chất cõi hồng trần mà còn cho tất cả các trạng thái vật chất mảnh mai tế vi khác trong các cõi vô hình. Hơn nữa Ngài còn là Tinh Thần của Sự Sáng Suốt (Spirit of Understanding) nên Ngài tưởng nghĩ ra các hình thể mà vật chất sau này sẽ được uốn nắn theo đó, chúng thường được gọi là các nghi hình, hình mẫu (prototypes) cõi trời. Đây là công việc được Thánh Kinh viết lại: “Ngài lấy sự sáng suốt mình mà giương các từng trời ra” (Jer 51:15).

Công việc của Ngôi Hai tiếp theo công việc của Ngôi Ba. Ngài dùng Minh Triết mình mà “tạo lập thế giới”, dựng nên các bầu hành tinh (globes) và mọi sự trên đó, “muôn vật bởi Ngài dựng nên” (S.John1:3). Ngài là Sự Sống cấu tạo của thế giới, và mọi vật đều có cội rễ trong Ngài (Bhagavad Gita 9:4). Sự sống của Con biểu lộ trong vật chất đã được Thánh Thần chuẩn bị (đây lại là một “Thần Thoại” về sự nhập thế) là sự sống tạo dựng, bảo tồn, và duy trì mọi hình thể, vì Ngài là Tình Thương, là năng lực thu hút, tạo sự kết dính trong các hình thể, giúp chúng tăng trưởng mà không bị rời rã. Ngài là Đấng Bảo Tồn, Đấng Nâng Đỡ, Đấng Cứu Thế. Chính vì vậy mà mọi sự đều thuộc về Ngài, mọi sự đều tụ tập trong Ngài, và có lý do tại sao “chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha” (S.John 14:6)

Công việc của Ngôi Thứ Nhất tiếp theo công việc của Ngôi Hai. Ngài (Ngôi Nhất) còn được gọi là “Cha của các Thần Linh (Spirits)” (Heb 12:9), là “Chúa các Thần Linh trong mọi xác thịt” (Num 16:22).Tinh Thần (Spirit) thiêng liêng-cái Ngã chân thật trong con người- là tặng phẩm của Ngài. Tinh Thần con người là Sự Sống Thiêng Liêng của Cha tuôn xuống vào bình chứa đã được Con chuẩn bị sẵn sàng bằng những vật liệu được Ngôi Ba làm linh hoạt. Và Tinh Thần con người này vốn phát xuất từ Cha- cũng là nơi phát xuất của Con và Thánh Thần- là một Đơn vị giống như Cha, với ba trạng thái trong Một. Vậy thì con người quả thật là “làm như hình Ngài và theo đặc tính Ngài” (Gen 1:26) và có khả năng trở nên “trọn vẹn như Cha trên trời trọn vẹn vậy” (S.Matt 5:48).

Đó là tiến trình của Vũ Trụ, nó được lập lại trong sự tiến hóa của con người. “Trên sao dưới vậy”.

Tam Nguyên của Tinh Thần trong con người vì cũng giống với thiêng liêng, nên hẳn phải biểu lộ các đặc tính thiêng liêng. Vì thế chúng ta thấy nơi y có Quyền Năng- hoặc dưới hình thức cao siêu là Ý Chí, hoặc dưới hình thức thấp kém là Dục Vọng- Quyền Năng này phú cho y động lực tiến hóa. Chúng ta cũng thấy trong y có Minh Triết, sự Thuần Lý biểu lộ thành Tình Thương trong thế giới hình thể. Sau cùng nơi y cũng có Thông Tuệ, hoặc Linh Trí, là một năng lực sáng tạo. Và trong sự tiến hóa của y, các đặc tính này cũng biểu lộ tuần tự từ đặc tính Thứ Ba sang qua Thứ Hai rồi Thứ Nhất. Quần chúng nhân loại đang mở mang thể trí, phát triển tính thông minh. Chúng ta có thể thấy hoạt động riêng rẽ của nó ở khắp nơi, phân cách nhân loại thành từng nhóm nhỏ và phát triển mỗi nhóm theo một cách khác nhau để họ có thể trở thành các vật liệu thích ứng cho việc xây dựng một Nhân Loại thiêng liêng. Nhân loại mới vừa đạt đến trình độ này mà thôi, và nó còn phải tiến thêm nữa.

Khi chúng ta khảo sát một thiểu số nhân loại, chúng ta thấy rằng trạng thái thứ hai của Tinh Thần thiêng liêng trong con người đang xuất hiện, giới Cơ Đốc gọi là “Christ trong người”. Như chúng ta đã thấy, sự tiến hóa của trạng thái thứ hai này vượt khỏi trình độ Điểm Đạo Thứ Nhất. Minh Triết và Tình Thương là những dấu hiệu của người được Điểm Đạo, chúng càng chiếu sáng khi y phát triển trạng thái thứ hai của Tinh Thần. Quả thật nơi đây cũng: “Chẳng bởi Ta thì không ai được đến cùng Cha”, vì chỉ khi nào sự sống của Con đạt đến toàn vẹn, Con mới có thể cầu nguyện: “Cha ơi, bây giờ xin lấy vinh hiển con vốn có nơi Cha trước khi chưa có thế gian mà tôn vinh. Con nơi chính mình Cha (S.John 17:5). Rồi Con lên đến Cha, trở nên một với Cha trong sự vinh hiển thiêng liêng.” Ngài biểu lộ sự tự hữu (self-existence), sự tự hữu này nội tại trong bản tánh thiêng liêng của Ngài, nó phát triển từ hạt giống đến bông hoa, “vì Cha đã có sự sống trong Ngài nên Ngài đã ban cho Con sự sống trong Ngài vậy.” (S.john 5:26). Con trở nên một Trung Tâm tự-ý-thức (self-conscious) sống động, một Trung Tâm tự tại không còn bị ràng buộc bởi các hạn chế của kiếp sống trước, một Trung Tâm sống động mãnh liệt trong Ngọn Lửa Thiêng.

Chu kỳ tiến hóa này có thể tạo được những Hóa Thân (Giáng sinh, Incarnations) cho tương lai, cũng như cuộc tiến hóa trước đã tạo được những Hóa Thân cho thế giới chúng ta. Những Trung tâm sống động này không bao giờ mất sự đồng nhất của Họ, cũng không mất đi những ký ức của quá khứ của Họ về những gì mà Họ đã kinh nghiệm lúc còn gian lao trên con đường dốc. Và một Vị Tự-Ý Thức như thế (Self-conscious Being) có thể xuất ra khỏi Lòng Cha, tự biểu lộ để giúp đỡ thế giới. Ngài vẫn duy trì trong Ngài sự hiệp nhất giữa Tinh Thần và Vật Chất, tính nhị nguyên của Ngôi Hai. (Mọi sự Hóa Thân thiêng liêng trong các tôn giáo đều liên hệ đến Ngôi Hai trong Tam Nguyên). Từ đó Ngài sẵn sàng khoác lại y phục để biểu lộ trong cõi trần và trở lại thành Người. Ngài vẫn giữ bản chất của Vị Trung Gian, vì thế Ngài là dây liên kết giữa Tam Nguyên thiêng liêng và Tam Nguyên con người. “Thượng Đế ở cùng chúng ta” (S. Matt 1:23), Ngài thường được gọi như thế.

Một Vị Cao Cả như thế, bông hoa vinh quang của một vũ trụ đã qua, có thể đến trong thế gian này với tất cả sự toàn thiện của Minh Triết và Tình Thương của Ngài, với tất cả ký ức của quá khứ của Ngài. Nhờ ký ức đó mà Ngài có thể trở thành Vị Phò Trợ mọi sinh linh. Ngài biết tất cả mọi giai đoạn tiến hóa vì Ngài đã sống qua, và Ngài có thể giúp đỡ mọi người ở mọi trình độ bởi Ngài đã kinh nghiệm tất cả. “Vì chính mình Ngài đã chịu đau khổ trong khi bị cám dỗ, nên có thể cứu giúp những kẻ bị cám dỗ vậy”. (Heb.2:18).

Trong khối nhân loại đi sau Ngài, có thể có sự Hóa Thân Thiêng Liêng. Ngài đã tiến lên cao nhưng Ngài lại trở xuống để giúp đỡ người khác trèo lên bực thang tiến hóa. Và khi chúng ta hiểu được những chân lý này và vài ý nghĩa về Tam Nguyên ở trên cao và ở dưới thấp, thì một tín điều ngày trước rất khó hiểu nay lại trở nên một chân lý linh hoạt. Chính nhờ sự hiện hữu của Tam Nguyên trong con người mà chúng ta có thể hiểu sự tiến hóa của y một cách minh bạch, và thấy được sự phát triển của y trong đời sống trí tuệ rồi sau đó bước sang đời sống của Christ. Thần bí học căn cứ trên sự kiện này, và chúng ta hy vọng chắc chắn sẽ nhận thức được Thượng Đế. Đó là lời dạy của Bậc Thánh Hiền; và khi chúng ta bước trên Con Đường Đạo mà các Ngài đã chỉ, chúng ta sẽ thấy chứng cớ của Ngài rất đúng thật.

CHƯƠNG 10

Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

SỰ CẦU NGUYỆN

Đôi khi một “tinh thần tân tiến” lại phản đối mạnh mẽ sự cầu nguyện vì nó không tìm thấy một nguyên nhân liên hệ nào giữa lời cầu xin với sự kiện xảy ra. Trong khi đó tôn giáo lại rất chú trọng vào sự cầu nguyện. Tuy nhiên cả đến một người sùng đạo đôi khi cũng cảm thấy khó nghĩ về tính cách thuần lý của sự cầu nguyện; Y có đang dạy Đấng Toàn Tri chăng? Y có đang thay đổi ý chí của Ngài, Người mà “trong Ngài chẳng có sự biến đổi, cũng không có bóng dời đổi” (S.James 1:17) chăng? Nhưng do kinh nghiệm của chính y và của cả những người khác, y lại thấy có “lời đáp ứng cho sự cầu nguyện”, một kết quả xác định cho một lời cầu xin.

Nhiều lời cầu nguyện không liên hệ đến các kinh nghiệm chủ quan, mà liên hệ đến những sự kiện khó hiểu của thế giới khách quan. Một người cầu xin tiền tài, và bưu điện đã đem đến cho y số bạc cần thiết. Một bà cầu xin thực phẩm, và người ta đã đem đến tận cửa cho bà. Đặc biệt với các công cuộc từ thiện, có rất nhiều chứng cớ về sự cầu xin trong cơn nguy cấp đã được đáp ứng cách mau lẹ và dồi dào. Mặt khác cũng có rất nhiều trường hợp cầu xin không được đáp ứng. Có người phải chết đói, có trẻ bị bệnh chết trong tay bà mẹ mặc cho những lời cầu cứu Thượng Đế thống thiết. Vậy đâu là quan điểm chân thật của sự cầu nguyện?

Nhưng cũng chưa phải là hết. Có nhiều sự kiện lạ kỳ và rối trí. Một lời cầu xin tầm thường được đáp ứng trong khi đó một lời cầu xin quan trọng lại thất bại; một khó khăn thoảng qua được giải quyết, còn lời cầu xin cứu giúp một sự sống vô cùng yêu quý lại không nhận được hồi âm. Hầu như một sinh viên không thể nào khám phá được một định luật nào để biết một lời cầu nguyện có kết quả hay không.

Điều cần thiết đầu tiên để tìm hiểu định luật này là phân tách chính sự cầu nguyện, vì chữ này bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của tâm thức. Có những lời cầu nguyện đòi hỏi các lợi lộc trần thế, các nhu cầu vật chất: thực phẩm, quần áo, tiền bạc, việc làm, công việc thành công, chóng khỏi bệnh.v..v. Chúng có thể xếp vào loại A. Sau đó có những lời cầu nguyện xin giúp đỡ trong các khó khăn về trí tuệ, về đạo đức và về sự tăng trưởng tinh thần, để vượt qua các cám dỗ, để có nghị lực và giác ngộ. Chúng được xếp vào loại B. Và sau cùng có những lời cầu nguyện không đòi hỏi điều gì, đó là sự tham thiền và chiêm ngưỡng Đấng Toàn Thiện thiêng liêng, một nguyện vọng nồng nhiệt hiệp nhất với Thượng Đế- trạng thái xuất thần của nhà thần bí, cơn thiền định của nhà hiền triết, niềm hoan hỷ của bậc thánh nhân. Đây là sự”giao tiếp chân thật giữa Thiêng Liêng và con người” khi một người đắm mình trong tình thương và tôn kính Thượng Đế vì Thượng Đế vốn thu hút và khơi động tình thương của trái tim. Chúng ta xếp những lời cầu nguyện này thuộc hạng C.

Trong các cõi vô hình, có các hạng Thông Tuệ (Intelligences) liên hệ tiếp xúc với con người, một cái thang jacob thật sự, “Các Thiên Sứ (Angels of God) đi lên xuống trên thang đó, và trên đầu thang là Đức Chúa Trời” (Gen.28:12,13). Vài hạng Thông Tuệ này là những Quyền Lực tinh thần mạnh mẽ; còn những hạng khác lại rất thấp kém, dưới trình độ tâm thức con người. Khía cạnh huyền bí của Thiên Nhiên này (xem chương 12) là một sự kiện được mọi tôn giáo thừa nhận. Khắp thế giới đều đầy dẫy những sinh linh vô hình trước mắt thường. Những cõi vô hình xuyên thấu cõi hữu hình này và những sinh linh khôn ngoan (intelligent beings) đông nghẹt mọi phía quanh ta. Có vài hạng đáp ứng lời khẩn cầu của con người, và vài hạng khác lại ngoan ngoãn tuân theo ý chí con người. Cơ Đốc Giáo thừa nhận sự hiện hữu của những hạng Thông Tuệ cao siêu hơn dưới tên chung là Thiên Thần (Angels), họ là “những linh hay phục dịch (ministering) được phái đi phục sự” (Heb.1:14). Nhưng chức vụ của họ là gì, bản chất công việc của họ như thế nào, sự liên hệ giữa họ với nhân loại ra sao, tất cả điều đó thuộc về giáo huấn trong Tiểu Bí Pháp trong khi đó sự giao tiếp thật sự với họ xảy ra trong Đại Bí Pháp. Nhưng ngày nay những chân lý ấy đã chìm sâu vào hậu cảnh, trừ một số ít được dạy trong các cộng đồng Hy Lạp và La Mã. Đối với người Tin Lành, “chức vụ của thiên thần” chỉ có chút giá trị hơn một câu văn mà thôi.

Ngoài ra, chính con người cũng là một tay sáng tạo thường xuyên những vật vô hình, vì các rung động của những tư tưởng và dục vọng của y đã tạo ra những hình thể làm bằng những chất mảnh mai hơn, sự sống duy nhất của chúng chỉ là cái tư tưởng và tình cảm đã phát sinh chúng. Như thế y tạo nên một đội ngũ vật phục dự vô hình. Tuy nhiên, trong những cõi vô hình ấy, còn có những người phụng sự, họ hoạt động trong các thể thanh nhẹ của họ trong lúc thể xác họ đang ngủ yên, họ chăm chú lắng nghe tiếng gọi giúp đỡ. Và trên hết là Sự Sống của Thượng Đế, luôn ý thức, luôn hiện hữu, uy mãnh và đáp ứng mọi nơi trong lãnh vực của Ngài. Không một chim sẻ nào rơi xuống đất, không một sinh vật khờ dại nào vui mừng hay đau khổ, không một em bé nào cười đùa hay nức nở mà Ngài không biết. Sự Sống và Tình Thương ấy quán xuyến tất cả, bao bọc tất cả, hộ trì tất cả “trong Ngài chúng ta sống, động và tồn tại” (Acts.17:28). Vì không có chi gây đau khổ hay sung sướng có thể chạm đến xác thân mà các dây thần kinh cảm giác không mang tín hiệu của sự va chạm ấy truyền lên những trung tâm trong bộ óc và từ đó phát ra mệnh lệnh đón nhận hay xua đuổi xuyên qua các dây thần kinh vận động. Cũng thế, mỗi sự rung động trong vũ trụ- thể xác của Thượng Đế- chạm đến tâm thức của Ngài và vì thế gợi sự đáp ứng. Các tế bào thần kinh, các dây thần kinh, các bắp thịt có thể được xem là các tác nhân thừa hành (agents) của cảm giác và hoạt động, nhưng chính con người mới cảm giác và hoạt động. Do đó hằng hà các Thông Tuệ ấy có thể là các tác nhân thừa hành, nhưng chính Thượng Đế mới là người biết và trả lời. Không có điều gì quá nhỏ bé đến đỗi không tác động được đến tâm thức thanh bai hiện hữu khắp nơi ấy, cũng không có gì quá lớn lao đến đỗi vượt qua nó được. Chúng ta còn rất hữu hạn đến đỗi chỉ cái quan niệm về tâm thức bao-gồm-tất-cả ấy cũng đủ làm chúng ta kinh ngạc và bối rối. Giáo sư Huxley, trong một đoạn đáng chú ý, đã tưởng tượng có sự khả hữu của những nhân vật có một trí thông minh vô cùng trác tuyệt, một tâm thức bành trướng thêm mãi, họ đạt đến một trình độ cao xa hơn con người rất nhiều trong khi trình độ con người chỉ hơn một loại côn trùng. Đó không phải là một điều tưởng tượng khoa học xa vời phóng đại, mà nó quả miêu tả một hiện thực. Có một Đấng mà tâm thức luôn hiện diện khắp mọi điểm trong vũ trụ của Ngài, vì thế mà chịu ảnh hưởng ở bất cứ nơi nào. Tâm thức ấy không những rộng lớn mà còn tinh nhuệ không tưởng tượng nổi, nó càng nhạy cảm và thông hiểu hơn là một tâm thức bị hạn chế. Đấng ấy càng cao cả bao nhiêu thì tâm thức Ngài càng sễ chịu ảnh hưởng bấy nhiêu.

Bấy giờ, Sự Sống bao-trùm-tất-cả này sử dụng những sự sống mà Ngài đã sinh ra như những vận hà (channels), bất cứ sự sống nào cũng được dùng như một tác nhân thừa hành của Ý-Chí ý-thức-tất-cả-ấy. Để Ý Chí ấy có thể biểu lộ ra thế giới bên ngoài, cần phải có một phương tiện để biểu lộ. Tùy theo năng lực tiếp nhận của họ, Ngài nhờ họ làm những người hoạt động trung gian giữa nơi này và nơi khác trong vũ trụ. Họ hoạt động như các dây thần kinh hoạt động trong thân thể Ngài và thực hiện động tác yêu cầu.

Bây giờ chúng ta hãy xét đến các loại lời cầu nguyện trên và xem chúng được đáp ứng bằng cách nào.

Đối với lời cầu nguyện của một người thuộc loại A có nhiều cách đáp ứng. Bản chất của một người như thế rất đơn giản, rõ ràng ở mực độ tiến hóa hiện nay của y thì tất nhiên y quan niệm Thượng Đế như một người cung cấp các nhu cầu cho y, tiếp xúc mật thiết và trực tiếp với những nhu yếu hằng ngày của y. Y hướng đến Ngài để xin lương thực hằng ngày một cách tự nhiên như khi một đứa trẻ đến với cha mẹ nó vậy. Một trường hợp điển hình này là trường hợp của Georges Muller. Trước khi được người đời biết đến là người nhân từ, ông đã bắt đầu công việc từ thiện với đôi bàn tay trắng, không bạn bè, không tiền bạc. Ông đã cầu xin thực phẩm cho các em, các em không có nguồn cứu trợ nào ngoài lòng nhân từ của ông.Và tiền bạc luôn luôn đến đủ số nhu cầu trực tiếp. Điều gì đã xảy ra? Lời cầu xin của ông là một ý muốn mãnh liệt, ý muốn ấy tạo một hình thể đầy sự sống và năng lực. Cái sinh vật này chỉ có một ý tưởng:cần giúp đỡ, cần thực phẩm. Nó đi khắp cõi trên, tìm kiếm. Có một nhà từ thiện muốn giúp đỡ những người cần dùng, y đang đi tìm cơ hội để cho. Giống như một nam châm hút lấy thép non, một người như thế hấp dẫn cái hình thể ý muốn ấy (desire-form). Nó gợi trong trí y những rung động đồng nhất với nó: G.Muller, đám trẻ mồ côi, các nhu cầu… và y đã tìm được lối thoát cho động lực từ thiện của y, y viết ngân phiếu và gửi đi. Tự nhiên là G.Muller sẽ nói Thượng Đế đã đặt lời cầu xin ấy vào tâm một người như y để y giúp đỡ. Theo ý nghĩa thâm sâu nhất thì lời nói của Muller rất đúng, bởi vì không có sự sống nào, không có năng lực nào trong vũ trụ mà lại không phát xuất từ Thượng Đế; nhưng vật tác nhân thừa hành trung gian, theo các luật thiêng liêng, chính là cái hình thể ý muốn đã được người cầu nguyện tạo nên.

Người ta cũng có thể nhận được một kết quả y như thế bằng cách sử dụng mạnh mẽ ý chí mà không cần đến lời cầu xin nào của một người biết các cơ năng của sự cầu nguyện. Người dùng phương pháp sau này sẽ nghĩ rõ rệt nhu cầu của y, thu hút về y loại vật chất mảnh mai thích hợp nhất với mục đích của y để bao lấy tư tưởng trên. Sau đấy, y dùng ý chí mạnh mẽ để hoặc là gởi nó đến một người xác định và trình bày nhu cầu của y, hoặc là phóng nó ra các vùng xung quanh để ai có lòng từ thiện sẽ thu hút lấy. Nơi đây không có lời cầu xin, mà chỉ có sự áp dụng ý thức về ý chí và hiểu biết.

Tuy nhiên đa số mọi người đều không biết về các mãnh lực trong các cõi vô hình và không quen sử dụng ý chí nên sự cầu nguyện đối với họ dễ tập trung tư tưởng và ý muốn nồng nhiệt hơn là việc cố gắng dùng tư tưởng để tạo nên sức mạnh của chính họ. Mặc dầu họ hiểu trên lý thuyết, nhưng họ nghi ngờ năng lực mình, và lòng nghi ngờ rất nguy hại cho sự áp dụng ý chí. Người cầu nguyện có hiểu cơ năng tư tưởng hay không cũng không ảnh hưởng gì đến kết quả. Một em bé đưa tay ra nắm lấy món đồ, em không cần hiểu chi vế cách vận động của bắp thịt, về các biến đổi điện và hóa do các cử động trong bắp thịt và dây thần kinh, em cũng không cần tính toán công phu khoảng cách món đồ bằng cách đo góc thị giác. Em muốn nắm lấy món đồ, các cơ quan trong thân thể em vâng lời ý chí của em dẫu em không biết đến sự hiện hữu của nó. Đối với người cầu nguyện cũng thế, y không cần biết đến mãnh lực sáng tạo của tư tưởng y, đến sinh vật sống động mà y đã phái đi. Y hành động một cách vô thức như đứa trẻ nắm lấy món đồ nó muốn. Trong tất cả hai trường hợp, Thượng Đế đều là Vị Tác Động chủ yếu, mọi quyền năng đếu phát xuất từ Ngài và công việc thật sự được các cơ quan thực hiện tuân theo các luật của Ngài.

Nhưng đây không phải là cách thức duy nhất để đáp ứng lời cầu nguyện loại A. Một người nào đó tạm thời rời thể xác và hoạt động trong các cõi vô hình, một vị Thiên Thần đi ngang qua đó, có thể nghe tiếng kêu cứu, rồi có thể y sẽ đưa tư tưởng ấy vào trong trí một người từ thiện nào đó. Người nấy sẽ nói: “Tư tưởng của ông nọ đã đến với tôi sáng nay. Tôi dám nói một tấm ngân phiếu sẽ hữu ích cho ông ta.” Nhiều lời cầu xin được đáp ứng theo cách này, đường liên kết từ nơi nhu cầu đến nơi cung cấp là do một vị Thông Tuệ nào đó. Đấy là chức vụ của các hạng Thiên Thần thấp, họ cung cấp cho các nhu cầu cá nhân và giúp đỡ vào các công việc từ thiện.

Sự thất bại của loại cầu xin này là do một nguyên nhân ẩn kín khác. Mỗi người đã tạo những món nợ phải trả; những tư tưởng, dục vọng, hành động sái quấy của y đã tạo trở ngại trên con đường y, đôi khi chúng giam y vào các bức tường ngục tù. Một món nợ xấu phải được trả bởi sự đau khổ, y phải gánh lấy những hậu quả các việc làm sái quấy của y. Một người, do việc làm sái quấy trong quá khứ, ngày nay phải chịu chết đói; y kêu gào cầu xin thoát khỏi số phận nhưng vô ích. Hình-thể-ý-muốn y sẽ tìm kiếm nhưng không thể gặp được; nó sẽ va phải luồng mãnh lực của hành động sái quá khứ và bị dội ngược trở lại. Khắp nơi, chúng ta sống trong môi trường của luật. Những mãnh lực này có thể bị biến đổi hoặc triệt tiêu hoàn toàn bởi những mãnh lực khác. Hai mãnh lực y hệt nhau có thể tác dụng vào hai trái banh giống y nhau. Nhưng trong khi một lực hướng trái banh đến đích nhắm thì lực kia làm cho trái banh kia lệch khỏi đường đi. Cũng vì thế với hai lời cầu xin giống nhau, một lời có thể thẳng tiến trên con đường của mình, không gặp trở ngại và chạm đến mục tiêu; còn lời kia thì bị văng xa bởi một mãnh lực mạnh mẽ hơn của hành động xấu quá khứ. Một lời cấu xin được đáp ứng, còn một lời kia không hồi âm, nhưng kết quả trong hai trường hợp đều là do luật mà thôi.

Chúng ta hãy xét đến loại B. Những lời cầu xin giúp đỡ trong các trường hợp khó khăn về đạo đức và trí tuệ có một kết quả kép: a) Chúng tác động trực tiếp để thu hút sự giúp đỡ và b) Đồng thời chúng tác động trở lại người cầu nguyện.

a)Chúng gây sự chú ý cho các Thiên Thần, cho các đệ tử hoạt đông ngoài thể xác, họ luôn luôn tìm kiếm để giúp đỡ những tâm hồn bối rối. Họ đưa lời khuyên nhủ, khuyến khích, ánh sáng vào tâm thức hồng trần của y.”Ngài quỳ xuống mà cầu nguyện… (S.Luke 22:41,43). Những tư tưởng được gợi ý sr4 xóa tan nỗi khó khăn về trí tuệ, chiếu rọi ánh sáng vào một vấn đề đạo đức bí hiểm, hoặc chúng sẽ xoa dịu cơn rối loạn và lo lắng. Và quả nếu không có Thiên Thần nào qua đấy, thì lời kêu cứu của kẻ thất vọng sẽ đạt đến “Trái Tim ẩn kín của Cõi Trời” (Hidden Heart of Heaven), một sứ giả dẽ được phái đi giúp đỡ, một Thiên Thần nào đó sẽ sẵn sàng bay đến ngay khi cảm nghe xung động ấy, mang theo ý chí phụng sự thiêng liêng.

b) Kết quả thứ hai có tính cách chủ quan: lời cầu nguyện tác động trở lại chính người cầu nguyện. Lời cầu của y đã đưa tâm tri1y vào trạng thái thụ cảm, làm bản tính thấp kém của y yên lặng lại và như thế giúp cho sức mạnh và năng lực khai sáng của bản tính thanh cao tuôn xuống tự do. Những luồng năng lực từ Con Người Bên Trong (Inner Man) luôn tuôn xuống và phát ra thế giới bên ngoài, tâm thức của một bộ óc hồng trần liền sử dụng các năng lực này để thực hiện các hoạt động hằng ngày. Nhưng khi tâm thức bộ óc quyết ý không hướng về thế giới bên ngoài mà hướng vào nội tâm thì nó sẽ trở nên một kho chứa tồn trữ thay vì chỉ là đường ống dẫn giữa thế giới nội tâm và thế giới ngoại cảnh. Trong cảnh yên lặng vì các hoạt động ồn ào bên ngoài chấm dứt, “tiếng nói yếu ớt nhỏ bé” của Tinh Thần có thể được nghe thấy, và sự chú ý tập trung của “cái trí đang chờ đợi” giúp nó ghi nhận được lời thì thầm êm dịu của Chân Ngã Nội Tâm.

Sự giúp đỡ từ bên ngoài và bên trong còn rõ rệt hơn nữa khi sự cầu nguyện hướng về sự tăng trưởng và giác ngộ tinh thần. Các vị phụng sự- thiên thần và nhân loại- không những nồng nhiệt thúc đẩy sự tiến hóa tinh thần mà còn nắm lấy mọi cơ hội do một linh hồn nguyện ước vươn lên tạo ra. Lòng mong mỏi một sự tăng trưởng tinh thần như thế giải phóng được năng lực cao siêu, lòng mong ước tinh thần ấy đã kêu gọi lời đáp ứng trên cõi tinh thần.

Một lần nữa, luật đồng thanh lại hiện hữu. Âm điệu của nguyện vọng cao cả được đáp ứng bởi âm điệu cùng loại, bởi sự giải phóng một năng lực cùng loại, bởi sự rung động đồng nhịp với nó. Sự Sống thiêng liêng từ trên luôn luôn đè ép xuống màn giới hạn phía dưới, vì thế khi một mãnh lực từ dưới vượt lên phá vỡ màn giới hạn ấy thì Sự Sống thiêng liêng tuôn xuống tràn ngập cả linh hồn. Khi một người cảm nghe dòng sự sống tinh thần ấy, y kêu lên: “Lời cầu nguyện của tôi được đáp ứng, và Thượng Đế đã khiến Thánh Linh của Ngài vào tâm tôi”. Quả thật vậy, nhưng hiếm khi y biết rằng Thánh Linh (Spirit) ấy luôn luôn tìm lối vào, và “Những kẻ thuộc về Ngài chẳng tiếp nhận Ngài” (S.John 1:11). “Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ, nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy” (Rev. 3:20).

Nguyên tắc đại cương đối với tất cả lời cấu nguyện loại này là: sự đáp ứng của đời sống bao la bên ngoài và bên trong chúng ta thì tỉ lệ với mức dộ tiêu tan phàm ngã và với cường độ của nguyên vọng hướng thượng. Nếu chúng ta đừng chia rẽ với nhau và hợp nhất đại đồng hơn, chúng ta sẽ thấy ánh sáng, sự sống và sức mạnh tràn ngập lòng ta. Khi ý chí chia rẽ không còn nhắm mục tiêu riêng tư của nó nữa và bắt đầu phụng sự thiên ý, thì bấy giờ sức mạnh của Thiêng Liêng sẽ tuôn vào nó. Khi một người lội ngược dòng, y tiến rất chậm; nhưng khi y xuôi dòng thì cả sức mạnh của dòng nước lôi cuốn y theo. Những năng lực thiêng liêng ấy đang hoạt động trong mọi ngành của Thiên Nhiên. Những công trình lớn lao nhất của y được thực hiện không phải do năng lực của y, mà do tài khéo léo y đã chọn lựa và phối hợp các mãnh lực giúp đỡ y, dùng những mãnh lực thuận lợi để tiêu trừ các mãnh lực đối kháng. Các mãnh lực cuốn xoáy ta như rơm rạ trong cơn gió lốc sẽ trở nên những động lực giúp đỡ chúng ta hữu hiệu nhất khi ta hành động thuận theo chúng. Vậy ra có thể nào ngạc nhiên rằng trong sự cầu nguyện- cũng như trong các công việc khác- những năng lực thiêng liêng sẽ kết hợp với một người đang tìm cách hoạt động như là một thành phần của Thiêng Liêng?

Hình thức cao nhất của sự cầu nguyện loại B hầu như hòa lẫn với loại C, lúc ấy lời cầu nguyện không còn đặc tính thỉnh cầu mà trở nên sự tham thiền về Thượng Đế hoặc thờ phượng Thượng Đế. Tham thiền là sự yên lặng tập trung tư tưởng cố định vào Thượng Đế, bấy giờ thể hạ trí được giữ yên tĩnh và trống không để cho tinh thần vượt lên cao trong sự chiêm ngưỡng Đấng Toàn Thiện thiêng liêng và phản ánh trong nó Hình Ảnh thiêng liêng ấy. “Tham thiền là sự cầu nguyện im lặng, không bày tỏ (unuttered),” hoặc như Plato đã diển tả nó là “Linh Hồn nồng nhiệt quay về với Thiêng Liêng; không cầu xin điều gì đặc biệt, mà chỉ chính vì điều thiện, vì Đấng Thiện Tối Cao Đại Đồng” (Universal Supreme Good).

Sự cầu nguyện này giải phóng Tinh Thần nên nó là phương tiện hợp nhất giữa con người và Thượng Đế. Do tác động của các luật về tư tưởng mà con người trở nên điều y suy nghĩ. Vậy khi y tham thiền về sự toàn thiện thiêng liêng, y dần dần tạo trong y sự toàn thiện ấy. Một cái trí được uốn nắn theo điều cao siêu và không theo điều thấp hèn thì không thể ràng buộc được Tinh Thần, và khi Tinh Thần được giải phóng vọt lên đến nguồn cội của nó thì bấy giờ sự chia rẽ bị bỏ rơi lại phía sau và sự cầu nguyện tan hòa trong sự hiệp nhất.

Thờ phượng cũng thế, sự trầm tư chiêm ngưỡng không có tính khẩn cầu, nó tìm cách đắm mình trong tình yêu chân thật của Đấng Toàn Thiện. Nó là một phương tiện dễ dàng nhất để hiệp nhất với Thượng Đế. Bị giới hạn bởi bộ óc xác thịt, tâm thức này chỉ chiêm ngưỡng được phần nào Hình Ảnh mà nó tạo ra về Ngài và nó cũng biết rằng Ngài vượt xa hơn sự tưởng tượng của nó rất nhiều. Nhưng con người, nhờ tình yêu mãnh liệt đã vượt qua khỏi giới hạn của trí tuệ, bấy giờ y như một Tinh Thần tự do bay bổng lên cao tiến vào các lãnh vực cao siêu, y cảm nhận và hiểu biết được rất nhiều mà y không thể diễn tả lại được khi trở về cõi giới hồng trần.

Như thế, nhà Thần Bí ngắm nhìn Linh Cảnh Hạnh Phúc (Beatific Vision), Vị Hiền Triết vượt khỏi sự hiểu biết, Vị Thánh Nhân đạt đến sự tinh khiết có Thượng Đế hiện diện trong đó. Sự cầu nguyện như thế chiếu sáng cho người thờ phượng; và từ trên đỉnh núi cao của sự hiệp nhất xuống đến những đồng bằng của trần thế, gương mặt thể xác rạng rỡ vẻ vinh hiển cõi trời, chiếu ngời ngọn lửa đang bùng cháy bên trong. Hạnh phúc thay cho ai biết được thực tại này mà không ngôn từ nào có thể diễn đạt lại cho người chưa biết. Những ai mắt đã thấy “Vị Vua trong sự tốt đẹp của Ngài” (Isa 33:17), sẽ nhớ lại và họ sẽ hiểu.

Khi sự cầu nguyện được hiểu như thế thì các người tin tưởng nơi tôn giáo sẽ cảm thấy sự cần thiết lâu bền của nó và chúng ta thấy tại sao người nào nghiên cứu về đời sống cao siêu cũng đều khuyên nên cầu nguyện. Lời cầu nguyện của các sinh viên Tiểu Bí Pháp nên thuộc loại B, và y nên cố gắng tiến sang sự tham thiền hay thờ phượng thuần túy của loại C, tránh đi các loại cầu nguyện thấp.

Nhờ học hỏi và thực hành như thế, một kết quả tất nhiên xảy đến không thể tránh khỏi khi một người bắt đầu hiểu được và khi đời sống nhân loại mở rộng ra hơn trước mắt y. Y thấy rằng nhờ hiểu biết, sức mạnh của y gia tăng rất nhiều; rằng xung quanh y có những mãnh lực mà y có hiểu rõ và kiểm soát được; rằng quyền năng của y gia tăng cùng với sự hiểu biết. Bấy giờ y học biết rằng Thiêng Liêng ẩn trong lòng y, rằng điều phù du mộng ảo không làm thỏa mãn Đấng Thượng Đế bên trong, rằng chỉ có đưa y đến sự hiệp nhất với Thiêng Liêng. Y không còn cố tìm cách thay đổi hoàn cảnh, và không còn gieo những nhân mới vào dòng sự hiệp nhất với Đấng Duy Nhất, Đấng Toàn Thiện mới có thể xoa dịu nỗi khắc khoải của y. Bấy giờ trong y, ý chí dần dần gia tăng hậu quả nữa. Y nhận thức chính y là người thừa hành hơn là một diễn viên, một vận hà hơn là hơn là một nguồn cội, một người tôi tớ hơn là một người chủ. Y tìm cách khám phá những mục đích thiêng liêng và hành động điều hòa với chúng.

Khi con người đã đạt tới điểm ấy, y đã vượt lên trên tất cả các lời cầu nguyện ngoại trừ sự tham thiền và thờ phượng. Y không còn điều gì để cầu xin trong thế giới này cũng như trong thế giới khác. Y luôn ngụ trong sự thanh khiết, chỉ chăm lo phụng sự Thượng Đế. Đó là trạng thái của Con, Ý Chí của Con là một với Ý Chí của Cha, “Hỡi Thượng Đế, con đến làm theo ý Ngài. Con rất vui mừng làm theo ý Ngài. Luật của Ngài ở trong lòng con”(Ps 40:7,8).