CHƯƠNG 5
Đầu Sách Cuối sách Mục Lục
ĐẤNG CHRIST TRONG THẦN THOẠI HỌC
Chúng ta đã thấy người ta sử dụng Thần Thoại để chống lại Tôn Giáo và đôi khi công kích nguy hại đến Đấng Christ. Sự ra đời của Ngài từ một Trinh Nữ vào lúc “Giáng Sinh”, sự giết hại các vật vô tội, những công việc huyền diệu và những giáo lý của Ngài, sự chịu đóng đinh, sống lại và thăng thiên của Ngài- tất cả những biến cố đó trong câu chuyện về đời sống của Ngài đều được nêu ra trong những câu chuyện về các đời sống khác, và vì các điểm giống nhau ấy, họ bác bỏ sự hiện hữu của Ngài trong lịch sử. Về các công việc Mầu Nhiệm, chúng ta có thể thông qua vì hầu hết các vị Đại Huấn Sư đều làm những công việc hồng trần có vẻ kỳ diệu trước người thế gian, nhưng các nhà Huyền Bí Học đều biết rằng những công việc ấy được thực hiện nhờ sử dụng các quyền năng mà tất cả người được Điểm Đạo trên một cấp bậc nào đó đều có được. Còn những giáo lý Ngài đưa ra cũng có thể bị xem là không có gì đặc biệt, nhưng nơi nào mà phái Thần Thoại Đối Chiếu đã chứng minh không có gì là cảm hứng thiêng liêng vì những giáo lý đạo đức tương tự như thế cũng phát xuất từ Đức Manu, Đức Phật, thì nơi ấy nhà Huyền Bí Học nói rằng chắc chắn Đức Jesus hẳn phải lập lại giáo lý của các vị tiền bối của Ngài vì Ngài là một sứ giả của cùng một Đại Đoàn. Những chân lý thâm sâu liên hệ đến Tinh Thần (Spirit) đều đúng thật hai chục ngàn năm trước khi Đức Jesus sinh ra ở Palestine cũng như sau khi Ngài ra đời. Nói rằng thế gian bị bỏ rơi không được dạy dỗ để con người bơ vơ trong sự tăm tối tinh thần từ các thời kỳ khởi đầu cho đến hai mươi thế kỷ qua, nói như thế tức là nói rằng có một nhân loại thiếu vị Huấn Sư, có những đứa trẻ không cha, có những linh hồn kêu gào ánh sáng vào chỗ tối tăm mà không nhận được hồi âm- một quan niệm vừa xúc phạm Thượng Đế vừa làm thất vọng con người, một quan niệm trái ngược với sự xuất hiện của các Thánh Nhân, với nền văn hóa rực rỡ, với những đời sống cao thượng trong hằng ngàn năm trước khi Đấng Christ xuất hiện.
Vậy khi thừa nhận Đức Jesus là Vị Đại Huấn Sư của Phương Tây, vị Sứ Giả lãnh đạo của Phân Bộ thế giới Tây Phương, chúng ta phải đương đầu với sự khó khăn phá hoại điều tin tưởng này trong trí nhiều người. Tại sao các lễ kỷ niệm các biến cố trong cuộc đời Đức Jesus lại được tìm thấy trong các tôn giáo tiền-Cơ Đốc, và trong các tôn giáo này các lễ ấy cũng tưởng niệm những biến cố đồng nhất với những biến cố trong cuộc đời của các Vị Huấn Sư khác.
Thuyết Thần Thoại Đối Chiếu đã thu hút được sự chú ý của quần chúng thời nay vào vấn đề này. Người ta có thể nói Thuyết này được phát sinh khoảng một trăm năm nay, kể từ khi xuất hiện các quyển sách: Lịch Sử Tóm Lược của những Sự Thờ Cúng khác nhau của Dulaure, Nguồn Gốc của Các Sự Thờ Cúng của Dupuis, Vạn Thần Miếu Ấn Độ của Moor, và Anacalypsis của Godfrey Higgin. Nhiều người khác nối tiếp công trình này, bộ sưu tập và so sánh của họ về các sự kiện càng ngày càng khoa học và vững chắc hơn đến đỗi không ai có học thức mà bác bỏ được các điểm tương tự và giống nhau hiện hữu trong mọi đường lối. Người ta đều biết rằng trong thế kỷ đầu tiên “sau Christ” các điểm giống nhau đều được mọi người thừa nhận và thuyết Thần Thoại Đối Chiếu chỉ lập lại chính xác những gì được mọi người thừa nhận trong Giáo Hội Đầu Tiên. Justin Martyr phản đối phái Thần Thoại, và nếu có ai công kích Cơ Đốc Giáo về các trường hợp giáo lý này đồng nhất với những giáo lý của các tôn giáo xưa, thì ông sẽ nêu ra những lời hướng dẫn của những người bảo vệ sống vào thế kỷ thứ hai. Những người này đã trích các giáo lý, chuyện tích và biểu tượng của phái Vô Thần, cho rằng chính sự giống nhau giữa giáo lý Cơ Đốc và các giáo lý xưa đã ngăn cản người ta loại bỏ ngay các giáo lý xưa vì chúng khó tin được. Thật vậy, họ đã gán cho sự đồng nhất ấy một lý do kỳ dị, một lý do khó được người thời nay ủng hộ. Justin Martyr nói: “Những người lưu truyền các chuyện thần thoại do các thi sĩ sáng tác không trưng dẫn được chứng cớ cho các lớp trẻ học hỏi chúng. Chúng ta chứng tỏ rằng các chuyện ấy do ma quỷ khiến đặt ra để đánh lừa nhân loại. Sau khi nghe các tiên tri tuyên bố rằng Christ sẽ đến và những ai không thánh thiện sẽ bị phạt hỏa ngục, họ bèn dựng lên nhiều nhân vật được gọi là con của Thần Jupiter để tạo cho con người có quan niệm rằng những điều nói về Đấng Christ chỉ là những chuyện tích lý thú, giống như các tiên tri đã nói”.
Để giải quyết sự khó khăn do các điều trùng hợp này, chúng ta phải nghiên cứu Đấng Christ trong Thần Thoại Học- Đấng Christ của những chuyện thần thoại về Thái Dương, những chuyện thần thoại này là những chuyện bằng tranh diễn tả vài chân lý thâm sâu nào đó cho thế gian.
Vậy thì chuyện “thần thoại” không có nghĩa như nhiều người cho là một câu chuyện hoang đường được dựng nên từ một sự kiện, hay cả đến không căn cứ trên sự kiện nào cả. Chuyện thần thoại có tính xác thật hơn lịch sử vì lịch sử chỉ cho ta một câu chuyện của các hình bóng, còn chuyện thần thoại đưa ra câu chuyện của các nguyên thể tạo nên các hình bóng ấy. Ở trên sao, ở dưới vậy; và trước tiên là ở trên, sau đó mới đến ở dưới.
Có vài nguyên lý vĩ đại và hệ thống thái dương của chúng ta được thành lập theo các nguyên lý ấy. Có vài quy luật nhờ đó các nguyên lý này được thể hiện ra chi tiết. Có vài Nhân Vật (Beings) mà hiện thân Ngài là các nguyên lý và các hoạt động của Ngài là các quy luật. Có những đại đoàn các nhân vật thấp hơn hành động như là vận cụ cho các hoạt động ấy, có những Chân Nhân của con người hòa lẫn vào tất cả các nhân vật trên, cùng tham dự vào bản kịch vĩ đại của vũ trụ. Những người làm việc đa dạng này từ trên các cõi giới vô hình đã cấu tạo những hình bóng của họ xuống cõi hồng trần và những hình bóng ấy là những “vật thể”, các thân thể, các vật hữu hình tạo nên vũ trụ vật chất. Các hình bóng ấy chỉ cho ta một ý niệm nghèo nàn về các nguyên thể đã in bóng nên chúng, cũng giống như nơi trái đất này chúng ta gọi “bóng” chỉ là một hình đen đặc không chi tiết bên trong, chỉ có đường nét bên ngoài, chỉ có bề ngang và bề rộng mà không có chiều sâu.
Lịch sử chỉ là một bản tường trình rất bất toàn và méo mó của màn vũ của những hình bóng này trong thế-giới-hình-bóng của vật chất. Ai đã xem hình chiếu bóng(Shadow-Play) và so sánh những vật hoạt động sau màn ảnh với chính bóng của nó trên màn ảnh thì sẽ có một ý niệm sống động về tính ảo ảnh của các hoạt động của bóng và có thể rút ra được nhiều điều tương tự đúng đắn.
Chuyện thần thoại là bản tường trình các hoạt động của những người đã tạo nên bóng, và ngôn ngữ trong bản tường trình là biểu tượng. Giống như ở đây, chúng ta có chữ để nói lên đồ vật; thí dụ như chữ “bàn” là một biểu tượng, một ký hiệu để chỉ một món đồ được nhận biết thuộc một loại nào đó. Như thế, những biểu tượng tượng tượng trưng cho những sự vật trên những cõi cao hơn. Chúng lá các mẫu tự có hình ảnh được các nhà viết chuyện thần thoại dùng và mỗi mẫu tự có một ý nghĩa riêng được thừa nhận.
Một biểu tượng được dùng để chỉ định một vật nào đó cũng như những chữ được dùng nơi đây để phân biệt một vật này với một vật khác. Như thế muốn đọc chuyện thần thoại, cần phải biết biểu tượng. Vì những người nguyên thủy kể các chuyện thần thoại vĩ đại đều mãi là những người được Điểm Đạo, họ quen dùng ngôn ngữ biểu tượng và hẳn nhiên họ dùng những biểu tượng ấy theo các ý nghĩa nhất định và đã được chấp nhận.
Một biểu tượng có một ý nghĩa chánh và kế đó là những ý nghĩa phụ thuộc liên quan. Thí dụ Mặt Trời là biểu tượng của Thượng Đế, đó là ý nghĩa chánh yếu, đầu tiên. Nhưng nó cũng có nghĩa một sự giáng sinh, một hóa thân của Thượng Đế, hoặc bất cứ một trong các Sứ Giả đại diện cho Ngài bấy giờ, một đại sứ đại diện cho một Quốc Vương. Những người được Điểm Đạo cao cấp nhận nhiệm vụ đặc biệt được phái đi nhập thế giữa thế gian và sống với họ một thời gian với tư cách là một người Cầm Quyền hay một Vị Huấn Sư cũng được mang biểu tượng Mặt Trời. Vì thế một biểu tượng không có ý nghĩa cá nhân, nó có ý nghĩa là tư cách của chức vụ.
Tất cả những người được mệnh danh dưới biểu tượng này đều có các đặc tính nào đó, đã trải qua các trạng huống nào đó, thực hiện các hoạt động nào đó trong đời sống của họ trên trái đất. Mặt Trời là cái bóng vật chất hay- như được gọi- là thể xác của Thượng Đế do đó mà vòng hành trình hằng năm trong thiên nhiên của mặt trời phản ánh một phần nào sự hoạt động của Ngài. Thượng Đế, “Người con của Thượng Đế”, nhập vào vật chất và tạo nên chuyển động hằng năm của Mặt Trời như bóng của mình. Lại cũng do đó mà một hóa thân của Thượng Đế hay một trong những Sứ Giả của Ngài cũng tượng trưng sự hoạt động đó là một hóa thân của Thượng Đế hay một trong những Sứ Giả của Ngài cũng tượng trưng sự hoạt động đó trong thể xác của Ngài. Vì thế mà tất nhiên những lịch sử về đời sống của các vị Sứ Giả ấy phải giống nhau. Thật vậy, nếu một nhân vật thiếu đi các điểm tương đồng ấy, điều này có nghĩa là y không phải là một Sứ Giả toàn quyền và sứ mạng của y thuộc cấp thấp hơn.
Vậy thì Thần Thoại Mặt Trời là một câu chuyện trước tiên tượng trưng cho sự hoạt động của Thượng Đế trong vũ trụ, thứ hai là áp dụng cho kiếp sống của một kỳ hóa thân của Thượng Đế và một vị Sứ Giả của Ngài. Người Anh Hùng trong chuyện thường được trình bày như một Thượng Đế hoặc Bán-Thượng Đế (Demi-God), và đời sống của y được phác họa theo hành trình của Mặt Trời, như cái bóng của Thượng Đế. Khoảng thời gian sống trong đời người rơi vào trong khoảng hành trình giữa đông chí và the reaching of the Zenith in Summer Người Anh Hùng sinh ra lúc đông chí, chết lúc xuân phân, và chiến thắng cái chết để lên cõi trời.
Liên hệ với vấn đề này có các điểm ghi chú sau đây rất lý thú: “Alfred de Vigny có nói rằng chuyện thần thoại thường chân thật hơn lịch sử vì nó kể lại chính cái thiên tài của những người và những quốc gia vĩ đại chớ không phải những hành động bất toàn và hư hỏng. Vậy rất nên áp dụng tư tưởng đẹp này cho Thánh Kinh vì Thánh Kinh không phải chỉ thuật lại những điều đã xảy ra mà nó còn tường thuật một cách cao siêu những gì đã và luôn luôn sẽ là. Vị Cứu Thế sẽ luôn được bậc hiền giả cảm phục; Ngài sẽ luôn gia tăng bánh Thánh Thể để nuôi dưỡng và khích lệ linh hồn chúng ta; khi chúng ta khẩn cầu Ngài trong đêm tăm tối và trong cơn bão bùng, bao giờ Ngài cũng đi trên mặt nước đến với chúng ta, bao giờ Ngài cũng đưa tay ra và giúp chúng ta vượt qua đỉnh các ngọn sóng to; Ngài luôn luôn chữa trị bịnh hoạn và khiến đôi mắt chúng ta thấy ánh sáng (Eliphas Lévis. The Mysteries of Magic).
Chúng ta sẽ thấy rằng những chuyện thần thoại liên quan rất mật thiết đến Huyền Môn, vì một phần của Huyền Môn nhằm đưa ra những hình ảnh sống động của các việc xảy ra trong các cõi cao siêu ẩn trong các chuyện thần thoại.
Những nét đại cương về câu chuyện của Thái Dương Thượng Đế (Sun God) rất rõ ràng, một đời sống đầy biến cố của Ngài được trải dài trong khoảng sáu tháng đầu tiên của năm dương lịch, còn sáu tháng kia dùng để bảo tồn và dự trữ. Ngài luôn luôn sinh vào đông chí, sau ngày ngắn nhất trong năm, vào giữa đêm của ngày 24 tháng 12 khi chòm sao Xử Nữ đang lên cao trên chân Trời. Sinh ra lúc dấu hiệu này đang lên cao, Ngài luôn luôn sinh từ một Trinh nữ, và nàng vẫn là Trinh nữ sau khi nàng sinh ra Con Thái Dương (Sun Child), vì Xử nữ trên trời luôn không thay đổi và luôn Tinh Khiết khi Thái Dương ra khỏi nàng. Yếu đuối như một đứa bé và được sinh vào lúc ngày ngắn nhất và đêm dài nhất (ở bắc xích đạo) tuổi thơ Ngài dẫy đầy nguy hiểm và sự tăm tối đã thống trị tronh những ngày đầu tiên. Nhưng Ngài đã vượt qua tất cả những nỗi hiểm nguy đe dọa, rồi ngày dài ra dần đến xuân phân, rồi đến kỳ vượt qua, sự đóng đinh vào thánh giá, ngày này thay đổi theo mỗi năm. Đôi khi người ta tìm thấy hình Thái Dương Thượng Đế được khắc trong vòng tròn của đường chân trời đầu và chân tiếp xúc với vòng tròn ở phương bắc và phương nam, còn hai tay dang ra phương đông và phương tây-“Ngài bị đóng đinh trên thập tự”. Sau đó Ngài thăng thiên vinh hiển tiến vào cõi trời, và làm chín ngũ cốc và nho, tặng chính sự sống của mình cho cây trái để chúng tăng trưởng và tặng cho tín đồ qua các cây trái ấy. Vị thượng Đế được sinh ra vào đầu ngày 25 tháng 12, bao giờ cũng thọ nạn vào thời xuân phân và tặng sự sống của Ngài làm thực phẩm cho tín đồ- đây là các điểm trong những điểm đáng chú ý nổi bật nhất về Thái Dương Thượng Đế. Tánh cách cố định của ngày sinh và tính cách thay đổi ngày cái chết rất có ý nghĩa vì chúng ta nhớ rằng mặt trời ở một vị trí cố định vào thời điểm trước và một vị trí thay đổi vào thời điểm sau. “Lễ Phục Sinh” là một biến cố lưu động được tính theo những vị trí tương đối giữa mặt trời và mặt trăng. Các ngày thay đổi này không áp dụng cho lịch sử một người, mà áp dụng cho vị Anh Hùng của chuyện thần thoại mặt trời.
Những biến cố này xảy ra trong những cuộc đời của các Vị Thái Dương Thượng Đế khác nhau và thời thượng cổ dẫy đầy những minh họa về họ. Nữ Thần Isis của Ai Cập cũng như Đức Mary ở Bethlehem là Đức Bà Vô Nhiễm, Ngôi Sao của Biển, Nữ Hoàng của Cõi Trời, Mẹ của Thượng Đế.Chúng ta thấy những hình ảnh Bà đang đứng trên vầng trăng khuyết, có ngôi sao kết vòng quanh trên đầu Bà, hoặc Bà đang bồng đứa bé Horus với dấu thập tự hiện ra phía sau. Trong các bức họa xưa, chòm sao Xử nữ trong Hoàng Đạo được tượng trung một người đàn bà đang cho con bú. Đevaki cũng được vẽ với Đức Krishna trong tay Bà, Istar của Babylon cũng có vòng ngôi sao trên đầu và đứa trẻ Tammuz trên gối Bà.
Mối liên hệ giữa Đông Chí với Đức Jesus cũng rất có ý nghĩa. Sự chào đời của Mithras được cử hành vào lúc Đông Chí rất tưng bừng. Horus cũng được sinh ra lúc đó: “Sự ra đời của Ngài là một trong những điều mầu nhiệm nhất của tôn giáo Ai Cập. Những hình ảnh ấy được treo trên các bức tường của các đền thờ. Vào lễ Giáng Sinh, hoặc lễ tương ứng với lễ Giáng Sinh của chúng ta, hình ảnh của Ngài được đem ra khỏi chánh điện với những nghi lễ đặc biệt, cũng giống như hình ảnh của trẻ thơ Bambino vẫn còn được mang ra và trưng bày ở La Mã.” (Bonwick: Tín Ngưỡng Ai Cập, trích từ Bộ Luật Lớn- Great Law của Williamson)
Về việc quyết định ngày 25 tháng 12 là ngày Giáng Sinh của Đức Jesus, Williamson viết như sau: Tất cả người Cơ Đốc đều biết rằng ngày nay ngày 25 tháng 12 là ngày lễ được thừa nhận (recognized) làm ngày sinh của Đức Jesus, nhưng ít người biết rằng không phải lúc nào cũng thế. Người ta nói có 136 ngày khác nhau do các giáo phái Cơ Đốc khác nhau ấn định. Phái Lighfoot chon ngày 15 tháng 9, còn những phái khác vào tháng 2 hoặc tháng 8. Epiphanius nói đến hai phái, một chọn tháng 4 và một chon tháng 6. Cuối cùng, vấn đề được Giáo Hoàng Julius I quyết định vào năm 337 sau T.C, và St.Chrysostom viết vào năm 390 sau T.C. Sau đó, ở La Mã, ngày sinh của Đấng Christ cũng được ấn định vào ngày 25 tháng 12, để trong khi những người tà giáo bận rộn với những nghi lễ của họ (Lễ Brumalia, ca ngợi Bacchus) thì người Cơ Đốc Giáo có thể hành lễ của mình mà không bị quấy rầy.
Trong tác phẩm: Sự Suy Đồi và Sụp Đổ của Đế Quốc La Mã, Gibbon : “Những người Cơ Đốc La Mã cũng không biết rõ ngày sinh của Ngài như các huynh đệ của họ, nên đã ấn định Lễ long trọng ấy vào ngày 25 tháng 12, Lễ Brumalia hay là Đông Chí, khi các người tà giáo (Pagan) cử hành hằng năm ngày sinh cùa Thái Dương. Trong quyển Triết Học Thần Bí và Những Di Cảo (Gnostics and Their Romains) King cũng nói: “cuộc lễ xưa diễn ra vào ngày 25/12 để mừng ngày sinh của Đấng Bất Khuất và được cử hành bằng các trò chơi lớn tại các Hý Trường sau đó biến thành lễ kỷ niệm ngày sinh của Đấng Christ. Rất nhiều Cha Cơ Đốc vẫn không biết chính xác ngày tháng ấy, và hiện nay Thầy Dòng Farrar viết rằng: “Mọi toan tính cố gắng khám phá ngày tháng ấy đếu vô hiệu. Không có dữ kiện hiện hữu nào cho phép ta xác định nó dù với một sự chính xác gần đúng đi nữa. Ngay từ đầu rõ ràng cuộc lễ lớn vào lúc Đông Chí này đã được cử hành trong nhiều thời đại trước và tại nhiều xứ cách nhau rất xa, để mừng ngày sinh của một vị Thượng Đế; hầu như lúc nào người ta cũng xem Ngài như một vị Cứu Thế và mẹ Ngài như một Thánh Đồng Trinh tinh khiết. Sự giống nhau kỳ lạ không những về ngày sinh mà còn về đời sống của nhiều vị Thượng Đế Cứu Thế (Saviour-Gods), những trường hợp giống nhau này nhiều đến nỗi ta không thể cho là trùng hợp được.” (Bộ Luật Lớn, Williamson).
Trong trường hợp Đức Phật Buddha, chúng ta có thể thấy một chuyện thần thoại tự liên kết với một nhân vật lịch sử như thế nào. Mọi người đều biết rõ lịch sử kiếp sống của Ngài, và trong những câu chuyện thường kể ở Ấn Độ thì sự ra đời của Ngài đơn giản và giống thế nhân. Nhưng chuyện Trung Hoa kể lại Ngài được sinh từ một nàng Trinh Nữ. Màyàdevi, chuyện thần thoại tối cổ nhìn thấy nơi Ngài một vị Anh Hùng mới.
Williamson cũng kể cho chúng ta nghe rằng từ trước đến giờ, vào ngày 25 tháng 12, các dân tộc Keltic thắp lửa trên những ngọn đồi. Điều này cũng xảy ra giữa những người thượng du vùng Irish và Scotch như Bheil và Baaltine, những ngọn lửa ấy mang tên Bel, Bal- Vị thần cổ của họ, Thái Dương Thượng Đế, mặc dầu ngày nay người ta thắp lửa để vinh danh Thượng Đế.
Ngày tử, như đã nói ở trên, không phải là một ngày cố định. Nó được tính toán theo các vị tử tương đối giữa Mặt Trời và Mặt Trăng vào kỳ xuân phân và thay đổi theo từng năm. Ngày tử của mỗi vị Anh Hùng Thái Dương được cử hành theo sự liên hệ trên. Con thú biểu tượng cho vị Anh Hùng là dấu hiệu trên Hoàng Đạo nơi đó Mặt Trời ở vào kỳ xuân phân vào thời đại của Ngài, và điều này thay đổi theo độ tuế sai. Oanne ở Assyria thuộc cung Song Ngư, Mithras thuộc cung Kim Ngưu và vì thế cưỡi con Bò Mộng. Khi Thái Dương ở Cung Bạch Dương, hay Chiên thì chúng ta lại thấy Osiris thuộc Bạch Dương, Astarte và Jupiter Ammon cũng thế, và dấu hiệu thú này cũng trở thành biểu tượng của Đức Jesus- Chiên của Chúa Trời. Việc dùng con Chiên thường đứng dựa vào thập tự- làm biểu tượng của Ngài rất phổ thông trong các bức tượng khắc trong các phần mộ. Về việc này, Williamson nói: “Theo dòng thời gian, hình ảnh con Chiên được đặt trên thập tự giá. Nhưng cho đến kỳ hội nghị thứ sáu ở Constantinople (Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ) vào năm 680, hội nghị ra lệnh phải đặt hình ảnh một người đóng đinh vào thập tự giá, thay thế cho biểu tượng cũ. Điều luật này được Giáo Hoàng Adrian I xác nhận”.
Sự tử và sự sống lại của vị Anh Hùng vào khoảng xuân phân cũng rất phổ thông như sự ra đời của Ngài vào kỳ Đông Chí. Osiris bị Typhon giết và Ngài được vẽ trên vòng tròn chân trời với hai tay dang ra giống như bị đóng đinh- nguyên thủy đó là một tư thế giáng phước chứ không phải tư thế đau khổ. Cái chết của Tammuz được dân tỏ lòng thương tiếc hằng năm vào kỳ xuân phân ở Babilonia và Syria, cũng như Adonis ở Syria và Hy lạp, và Attis ở Phrygia, dưới hình ảnh “một người có cột con cừu dưới chân”(Williamson) ngày chết của Mithras cũng được cử hành tương tự ở Ba Tư, của Bacchus(Dionysius) ở Hy Lạp- Tại xứ Mexico, cũng có quan niệm tương tự, kèm thêm thập tự giá.
Trong mọi trường hợp, nỗi đau khổ vì sự tử được nối tiếp ngay sau đó là sự vui sướng do sự sống lại, có một điều lưu ý lý thú là danh từ Phục Sinh(Easter) được truy tận nguồn từ chuyện người mẹ đồng trinh Ishtar của Tammuz.
Trong Huyền Môn Giả (Pseudo- Mysteries), câu chuyện về Thái Dương Thượng Đế trở thành một vở kịch; và trong các Huyền Môn cổ, câu chuyện ấy do một người được Điểm Đạo đóng. Vì thế mà các chuyện thần thoại về Thái Dương và các sự kiện lớn lao của sự Điểm Đạo dệt lẫn lộn với nhau. Khi Vị Huấn Sư Christ trở thành Đấng Christ của Huyền Môn thì những chuyện tích về các vị Anh Hùng xưa của những Huyền Môn ấy tụ tập lại quanh Ngài và những câu chuyện lại được kể lại với vị Huấn Sư Thánh Thiện cuối cùng được xem như là người đại diện cho Thượng Đế. Và lễ mừng Giáng Sinh của Ngài trở thành ngày kỷ niệm khi Thái Dương sinh ra từ người Trinh Nữ, khi bầu trời nửa đêm đầy tiếng reo mừng của những người cõi trời.
Vì chuyện tích về Thái Dương quy tụ quanh Ngài nên dấu hiệu con Chiên trở thành dấu hiệu của sự khổ hình của Ngài cũng như dấu hiệu Xử Nữ trở thành dấu hiệu của sự sinh của Ngài. Chúng ta đã thấy dấu hiệu Kim Ngưu được dâng cho Mithras và Song Ngư cho Oannes và Chiên cho Đấng Christ, đó là dấu hiệu của xuân phân; vào thời điểm lịch sử đó, Ngài vượt qua vòng tròn lớn của chân trời và bị “đóng trên thập tự trong không gian”.
Những chuyện thần thoại về Thái Dương này cứ mãi tái lai xuyên qua nhiều thời đại, mỗi lần vị Anh Hùng mang một tên khác. Các học giả không thể nào không biết được điều này mặc dầu các tín đồ tự nhiên- và có quyền- không biết đến. Và khi người ta dùng các chuyện thần thoại ấy để phá hoại hình ảnh oai nghi của Đấng Christ, thì chúng ta phải xem xét chúng không phải bằng cách phủ nhận các sự kiện thực tế, mà bằng sự hiểu biết các nghĩa sâu xa hơn của các câu chuyện, các chân lý tinh thần ẩn sau lớp màn che.
Tại sao những chuyện thần thoại này lại trộn lẫn với lịch sử của Đức Jesus và kết tinh quanh Ngài là một nhân vật lịch sử. Thật sự, chúng không nói về một cá nhân đặc biệt có tên là Jesus, mà nói đến Đấng Christ đại đồng: một Người biểu tượng cho một Nhân Vật Thiêng Liêng và Người ấy trình bày một chân lý trong thiên nhiên; một Người đã làm tròn một sứ mạng nào đó và đã giữ một vị trí đặc biệt nào đó đối với nhân loại, một Người đứng hướng về phía nhân loại với một tương quan đặc biệt; Người được đổi tươi mới thời đại này sang thời đại khác khi thế hệ này nối tiếp thế hệ khác và giống dân này nhường chỗ cho giống dân khác. Như thế Người đã là- cũng như tất cả những Người như thế là- “Con Của Người” (Son of Man), một danh hiệu minh bạch và đặc biệt, danh hiệu của một nhiệm vụ chớ không phải của một cá nhân. Đấng Christ trong Thần Thoại Thái Dương là Đấng Christ trong Huyền Môn, và chúng ta tìm thấy sự bí ẩn của Đấng Christ thần thoại trong Đấng Christ thần bí vậy.
CHƯƠNG 6
Đầu Sách Cuối sách Mục Lục
ĐẤNG CHRIST TRONG THẦN BÍ HỌC
Bây giờ chúng ta tiến đến một phía cạnh thâm sâu hơn về câu chuyện của Đấng Christ, đề cập đến một sự sống triền miên nó đầy sự chói sáng đến đỗi những tâm hồn con người vây lấy quanh đấng Christ, và cảm thấy họ sẵn sàng loại bỏ những sự kiện lịch sử bên ngoài hơn là từ chối một điều mà do trực giác họ cảm biết đó là một chân lý quan trọng, một nhân lý thiết yếu của đời sống cao cả hơn. Chúng ta vượt gần đến cánh cổng thiêng liêng của Huyền Môn và vén một góc màn che chánh điện.
Ngược về thời thượng cổ, chúng ta đã thấy mọi nơi đều thừa nhận sự hiện hữu của một giáo lý ẩn mật, nó chỉ được các Chân Sư Minh Triết truyền cho các đệ tử đã được chấp nhận và trong những điều kiện rõ ràng và nghiêm nhặt. Các thí sinh ấy được Điểm Đạo vào “Huyền Môn” một danh từ thời thượng cổ bao trùm tất cả những gì thiêng liêng nhất trong tôn giáo, tất cả những gì thâm sâu nhất trong triết lý, tất cả những gì quý giá nhất trong khoa học. Mỗi vị Đại Giáo Chủ đều phải tiến qua Huyền Môn và những vị cao cả nhất là những Đại Tư Giáo của Huyền Môn; các vị giáng trần để nói về các cõi vô hình, đều đã bước qua cửa Điểm Đạo và đã học lẽ mầu nhiệm do những Vị Thánh Thiện từ chính miệng của Ngài, họ đều ra đi với cùng một câu chuyện như nhau, và các chuyện thần thoại về Thái Dương đều là các cách diễn tả câu chuyện này, đồng nhất về những đặc tính cốt yếu và chỉ thay đổi theo mầu sắc mỗi nơi.
Câu chuyện này thoạt đầu là câu chuyện nói về Đức Thượng Đế (Logos) giáng nhập vào vật chất, và Thái Dương Thượng Đế (Sun-God) là biểu tượng thích ứng của Ngài vì Mặt Trời là thân thể của Ngài và Ngài thường được miêu tả như “Ngài cư ngụ trong Mặt Trời”. Theo một phương diện thì Đấng Christ của Huyền Môn là Đấng Thượng Đế giáng nhập vào vật chất, và Thần Thoại Thái Dương là lời dạy phổ thông về chân lý cao cả này. Như trong trường hợp trước, Vị Giào Chủ Thiêng Liêng đã đem Minh Triết Nghìn Xưa phổ truyền lại cho thế gian, được nhân loại quan niệm như một sự biểu lộ đặc biệt của Thượng Đế, và Đức Jesus của các Giáo Hội dần được bao quanh với những câu chuyện nói về vị Cao Cả này. Như thế, theo ngôn từ Cơ Đốc, Ngài trở nên Ngôi thứ Hai trong Tam Nguyên- The Logos hay Ngôi Lời của Thượng Đế (Word of God) và những biến cố nổi bật trong chuyện thần thoại về Thái Dương Thượng Đế trở thành những biến cố nổi bật trong câu chuyện của Đức Jesus, được xem như một vị Thần hóa thân (Incarnate Deity), Đấng “Christ thần thoại”. Vì trong Đại Vũ Trụ (càn khôn), đấng Christ của Huyền Môn tượng trưng cho Thượng Đế, Ngôi Hai trong Tam Nguyên, nên trong Tiểu Vũ Trụ (con người) Ngài biểu thị cho trạng thái thứ hai tinh thần Thiêng Liêng (Divine Spirit) trong con người. Vậy phương diện thứ hai của Đấng Christ trong Huyền Môn là đời sống của người được Điểm Đạo, một đời sống bắt đầu vào kỳ Điểm Đạo lần thứ nhất, vào lúc này, Đấng Christ được sinh ra trong con người và sau đó Ngài phát triển trong con người. Để hiểu rõ điều này, chúng ta phải xem xét những điều kiện đặt để cho các thí sinh để được Điểm Đạo và bản chất của Tinh Thần (spirit) trong con người.
Chỉ những người nào đã thật tốt đẹp theo những phương cách khắc khe của quy luật mới được thừa nhận làm thí sinh cho kỳ Điểm Đạo. Tinh khiết, thánh thiện, không bợn nhơ, không tội lỗi. Đó là vài đức tính trong số những đức tính cần có. Họ cũng phải thông minh và có một cái trí đã phát triển và được huấn luyện đúng đắn. Bền gan tiến hóa hết kiếp này đến kiếp khác ở thế gian, phát triển và làm chủ những quyền năng của tư tưởng, tình cảm và lương tri, học hỏi xuyên qua các tôn giáo công truyền, chu toàn những bổn phận, tìm cách giúp đỡ và nâng cao những người khác- tất cả những điều này đều tùy thuộc vào đời sống thông thường của một người đang tiến hóa. Khi đã làm xong các điều này, y trở thành “một người tốt đẹp”. Sau khi đã hoàn tất cuộc sống công truyền một cách tốt đẹp, y trở nên một thí sinh trong đời sống nội môn và bắt đầu chuẩn bị cho sự Điểm Đạo, y phải làm tròn vài điều kiện nào đó.
Những điều kiện này nêu ra các đức tính mà y phải hoạch đắc, và trong khi y đang cố gắng tập luyện chúng, y bước trên con đường Tập Sự, con đường dẫn y lên đến cái “Cổng hẹp”, và sau đó là “Ngõ chật” hay “Con Đường Thánh Thiện”, “Con đường của Thập Tự”. Người ta không mong ước y phát triển toàn hảo những đức tính ấy, nhưng y phải thực hiện được vài sự tiến bộ trong tất cả các đức tính ấy, trước khi Christ có thể sinh ra trong y. Y phải chuẩn bị một ngôi nhà tinh khiết cho Hài Nhi Thiêng Liêng phát triển trong y.
Những đức tính ấy đều thuộc về lý trí và đạo đức. Đức tính đầu tiên là Sự Phân Biện. Nó có nghĩa là người chí nguyện phải bắt đầu phân tách trong trí y điều Vĩnh Cửu với điều Tạm Thời, điều Chân với điều Giả, điều Cõi Trời với điều Cõi Trần. Vị Tông Đồ nói: “những điều thấy được chỉ là tạm thời, còn điều không thấy mới là trường cửu”(II cor 4:13). Thế nhân luôn sống trong sự mê hoặc của điều hữu hình, nó che lấp điều vô hình. Người chí nguyện phải tập cách phân biệt chúng để cho điều giả đối với thế giới có thể trở nên chân thật với y, còn điều chân thật đối với thế giới lại là giả với y, vì chỉ thế ấy y mới có thể” bước đi bởi đức tin, chớ chẳng phải mắt thấy”.(II cor.5:7). Và cũng thế ấy mà một người trở thành một trong những người mà Vị Tông Đồ nói rằng họ là “kẻ trưởng thành, cả đến những người nhờ sự hay sử dụng mà luyện tập những quan năng của mình để phân biệt thiện ác”.(Heb. 5:14). Sau đó cái ý thức về sự giả phát sinh trong y sự Ghê Tởm những gì không thật và phù du, những lớp vỏ của sự sống, không đủ làm thỏa ý người đang khát khao. Giai đoạn này được diễn tả trong câu nói quả quyết của Đức Jesus “Nếu ai đến cùng Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đồ Ta”.(S.Luke 15:16). Quả thật là một câu bí hiểm. Tuy nhiên từ lòng ghét đó lại nổi vọt lên một tình thương sâu xa hơn và chân thật hơn- và người ta không thể tránh được giai đoạn này trên con đường dẫn đến Cổng Hẹp. Sau đó người chí nguyện phải tập Kiểm Soát Tư Tưởng và điều này sẽ dẫn đến Kiểm Soát Hành Động. Đối với nhãn quang nội tâm thì tư tưởng cũng chính là hành động: “Hễ ai ngó đàn bà mà động lòng gian dâm thì trong lòng đã phạm tội gian dâm cùng người đó rồi” (S. Matt 5:28).Y cũng phải đạt tính Bền chí vì những ai nguyện đi “Con Đường Thập Tự” sẽ phải chịu đựng những nỗi đau khổ lâu dài và cay đắng, họ phải kiên nhẫn “như thấy Đấng không thấy được”.(Heb. 11:27) Y phải có thêm Lòng Khoan Dung. Nếu y muốn làm con trẻ của Ngài “bởi vì Ngài Khiến cho mặt trời soi trên kẻ ác cùng người thiện, mưa cho kẻ công nghĩa cùng kẻ bất nghĩa”, Ngài đã bảo “những tông đồ của Ngài không được cấm một người nhân danh Ngài vì người đó không theo với họ”(S.Luke 9:49-50). Hơn nữa, y phải có Đức Tin rằng không điều gì mà không làm được (S.Matt 17:20) và tính Thăng Bằng như vị Tông Đồ đã miêu tả (IICor 6:8-10). Cuối cùng y phải tìm “những sự ở trên”(Col 3:1) và mong mỏi đạt đến trạng thái chí phúc của sự thấy được và hợp nhất được với Thượng Đế (S.Matt 5:8 và S.John 17:21). Khi một người đã biến những đức tính ấy thành bản tính của y, thì y được xem như thích ứng để được Điểm Đạo, và những Vị Canh Gác Huyền Môn sẽ mở Cổng Hẹp cho y. Như thế, và chỉ như thế, y mới trở thành một thí sinh đã được chuẩn bị.
Bây giờ, Tinh Thần trong con người là tặng phẩm của Thượng Đế Tối Cao, nó có ba trạng thái của Sự Sống Thiêng Liêng-Minh Triết, Tình Thương và ý chí- Hình Ảnh của Đức Thượng Đế. Khi tiến hóa, trước tiên nó phát triển trạng thái Minh Triết, phát triển trí khôn; sự tiến hóa này đang được tác động trong đời sống thông thường của thế gian. Khi người chí nguyện đã thực hiện trạng thái này đến một trình độ cao, kèm theo sự phát triển đạo đức, thì y có điều kiện làm thí sinh. Trạng thái thứ hai của Tinh Thần là Tình Thương, và sự tiến hóa của trạng thái này là sự tiến hóa của Christ. Sự tiến hóa này diễn ra trong Huyền Môn chân chánh- đời sống của người đệ tử là một Bản Kịch Huyền Bí và những Kỳ Đại Điểm Đạo sẽ đánh dấu các giai đoạn của nó. Và nếu Huyền Môn được cử hành ở cõi vật chất, thì những giai đoạn này thường được trình bày như một vở kịch và những nghi lễ diễn lại các “khuôn mẫu” đã được diễn ra”trên Núi” bởi vì chúng là các hình bóng trong một thời đại đang suy tàn của những Thực Tại hùng cường trong thế giới tinh thần.
Vậy thì Đấng Christ Thần Bí có hai phương diện: Thượng Đế Ngôi Hai của Tam Nguyên nhập mình vào vật chất, và Tình Thương hay là trạng thái thứ hai của sự khai mở tinh thần thiêng liêng trong con người. Phương diện đầu tượng trưng cho các tiến trình trong vũ trụ đã thực hiện trong quá khứ và là nguồn gốc của Thần Thoại Thái Dương; phương diện sau tượng trưng cho một tiến trình thực hiện trong từng cá nhân, giai đoạn kết thúc trên con đường tiến hóa nhân loại của y, và phụ thêm nhiều chi tiết trong Thần Thoại. Cả hai phương diện này đều có trong câu chuyện của Thánh Kinh, và hợp thành Hình Ảnh của “Đấng Christ Thần Bí”.
Khởi đầu chúng ta hãy khảo sát ý nghĩa Christ trong vũ trụ, Đức Thượng Đế dấn mình trong vật chất, hóa thân của Ngài, y phục xác thịt của Ngài.
Khi phần vật chất để thành lập Thái Dương Hệ của chúng ta được tách ra khỏi biển vật chất vô tận của không gian, thì Ngôi Thứ Ba của Tam Nguyên- Thánh Thần- Tuôn Sự Sống của Ngài vào phần vật chất ấy làm cho nó linh động để có thể uốn nắn được. Sau đó nó được Ngôi Thứ Hai kết hợp lại để tạo nên các hình thể. Ngôi Thứ Hai đã tự hy sinh giam mình vào trong những giới hạn của vật chất, và trở thành “Người Trời” (Heavenly man), mọi hình thể đều hiện hữu trong Thân Thể Ngài. Mọi hình thể đều là thành phần của Thân Thể Ngài. Đây là câu chuyện của Vũ Trụ, được diễn lại trong Huyền Môn chân chánh. Trong cõi hồng trần những điều Mầu Nhiệm ấy được trình bày lại bằng pháp môn hoặc bằng những phương tiện khác, và có vài phần bằng các diễn viên.
Những tiến trình này được xác định rất rõ ràng trong Kinh Thánh; khi “Thần Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước” trong tăm tối là ở trên mặt vực, cái vực rộng lớn của vật chất không có biểu lộ hình thể, nó trống không và sơ khai. Hình thể được Ngôi Lời tạo nên. “Muôn vật bởi Ngài dựng nên, ngoài Ngài chẳng có vật gì được dựng nên cả.” (S.John 1:3).C.W.Leadbeater có nói: “Kết quả của luồng sóng phát ra vĩ đại thứ nhất này (sự vận chuyển của Thánh Thần) là sự thúc đẩy nguồn sinh lực kỳ diệu tuôn tràn ra khắp vật chất (nó có vẻ trì trệ đối với đôi mắt thịt mờ đục của chúng ta) để cho các nguyên tử của nhiều cõi khác nhau phát triển các sức hấp dẫn và sức xô đẩy tiềm tàng sẵn trong chúng, và phối hợp thành nhiều loại”. (Tín Điều Cơ Đốc- The Christian Creed- Đây là quyển sách nhỏ có giá trị về ý nghĩa thần bí của các tín điều).
Chỉ sau khi Thánh Thần- Ngôi Ba- đã làm xong công việc trên, thì Ngôi Hai- Đấng Christ Thần Bí trong vũ trụ mới khoác lấy áo vật chất, đi vào tử cung của Người Trinh Nữ, tử cung của Vật Chất hãy còn trinh nguyên, chưa sinh hóa. Vật chất này đã được linh hoạt bởi Thánh Thần (Ngôi Ba), Ngài bao phủ Người Trinh Nữ và tuôn vào sự sống của Ngài để chuẩn bị cho Nàng tiếp nhận Sự Sống của Ngôi Hai, Ngôi Hai sẽ dùng vật chất này làm vận cụ cho các năng lực của Ngài. Đó là sự hóa thân của Đấng Christ lấy xác thịt.
Trong bản dịch La Tinh và Anh Ngữ, từ bản nguyên thủy tiếng Hy Lạp về Tín Điều Nicence, câu văn miêu tả giai đoạn giáng hạ này đã thay đổi các giới từ do đó thay đổi luôn cả ý nghĩa của nó. Câu văn nguyên thủy là: “và là hóa thân của (of) Thánh Linh và (and) Trinh Nữ Mary”; trong khi đó bản dịch viết là: “và được hóa thân bởi (by) Thánh Linh của (of) Trinh Nữ Mary.” Đấng Christ lấy hình thể không phải từ vật chất của (of) Nàng Trinh Nữ mà từ vật chất đã đầy sinh lực và đập cùng nhịp với sự sống của Ngôi Ba do đó cả hai sự sống và vật chất đều bao quanh Ngài như một y phục.
Đây là sự giáng thế của Ngôi Hai vào vật chất, được diễn tả như sự sinh của Đấng Christ từ Nàng Trinh Nữ; và trong Thần Thoại Thái Dương điều này trở thành sự sinh của Thái Dương Thượng Đế (Sun-God) khi chòm sao Xử Nữ đang lên cao.
Kế đến là những công việc đầu tiên của Ngôi Hai trong vật chất, thích ứng với những thời kỳ thơ ấu trong chuyện thần thoại. Đối với tất cả sự yếu đuối của thời ấu thơ, những quyền năng uy nghi của Ngài phải nhượng bộ, chỉ tác động đôi chút lên các hình thể mảnh mai mà chúng nhập vào. Vật chất giam cầm vị Vua non trẻ của nó, xem chừng như có nguy cơ giết chết Ngài. Nhưng dần dần Ngài uốn nắn nó theo những mục đích thanh cao, nâng nó lên trình độ con người, sau đó Ngài tự vươn mình lên thập tự của vật chất để từ thập tự ấy Ngài có thể tuôn ra tất cả các quyền năng của sự sống bị giam hãm của Ngài. Đây là Ngôi Hai, Plato nói rằng Ngài ở trong hình ảnh của thập tự trong vũ trụ: đây là Người Trời (Heavenly Man), đứng giữa không gian, hai tay dang ra ban phước, đây là Đấng Christ bị đóng đinh, cái chết của Ngài trên thập tự vật chất sẽ làm cho tất cả vật chất đầy tràn sự sống của Ngài. Ngài có vẻ chết rồi, chôn vùi không ai còn thấy, nhưng Ngài lại sống lại, khoác vào chính vật chất mà trong đó hình như Ngài đã tàn tạ, và mang thể xác của Ngài bây giờ làm bằng vật . chất sáng chói vào cõi trời, nơi đó nó nhận được sự sống của Cha ban xuống và trở nên một vận cụ của sự sống bất tử của con người. Vì chính sự sống của Ngôi Hai đã tạo nên y phục cho Linh Hồn trong con người để con người có thể sống qua nhiều thời đại và tăng trưởng đến tầm vóc của Ngài. Quả thật chúng ta đều được bao bọc trong Ngài trước tiên bằng vật chất, sau đó bằng tinh thần. Ngài đã tự hy sinh để đưa con vào cõi vinh quang, Và Ngài luôn luôn ở với chúng ta, đến cả cuối thời kỳ.
Vậy thì sự chịu chết của Đấng Christ là một phần của sự hy sinh vĩ đại trong càn khôn; sự trình bày điều này bằng biểu tượng trong Huyền Môn ở cõi trần, và biểu tượng thiêng liêng của một Người bị đóng đinh trong không gian đã cụ thể hóa thành sự chết hiện thực bởi sự đóng đinh và một thánh giá mang một hình thể con người đang chết. Rồi thì câu chuyện này- bây giờ là câu chuyện của một người- được liên kết vào vị Giáo Chủ Thiêng Liêng Jesus và trở thành câu chuyện về cái chết xác thịt của Ngài; trong khi đó sự sinh từ một Trinh Nữ, thời thơ ấu dẫy đầy nguy hiểm, sự sống lại và sự thăng thiên cũng trở thành những sự việc xảy ra trong đời sống con người của Ngài. Những lẽ mầu nhiệm biến mất, nhưng các sự trình bày đại quy mô và sống động về công việc của Ngôi Hai trong càn khôn đã bao quanh và nâng cao hình ảnh yêu quý của Vị Giáo Chủ Xứ Juđê, và Đấng Christ của Huyền Môn trong Vũ Trụ- với những dáng dấp của Đức Jesus trong lịch sử đã biến thành Nhân Vật trung tâm của Giáo Hội Cơ Đốc.
Nhưng thế cũng chưa phải là hết, còn một điểm kinh ngạc khác phụ thêm vào câu chuyện Đấng Christ, đó là có một Christ khác của Huyền Môn, gần gũi và thân mật với tâm con người- Đấng Christ của Tinh Thần con người, Ngài ở trong mỗi một chúng ta, sinh và sống, chịu đóng đinh, sống lại từ kẻ chết, thăng lên cõi trời, trong mỗi “Con của Người” (Son of Man) chịu đau khổ và chiến thắng.
Câu chuyện về đời sống của mỗi người được Điểm Đạo vào Huyền Môn chân chánh được Kinh Thánh đề cập đến trong những điểm nổi bật. Vì lý do này, Thánh Paul đã nói về sự sinh của Christ trong người đệ tử, về sự tiến hóa của Ngài và về tầm vóc đầy đủ của Ngài. Mỗi người là một Christ đầy tiềm năng, và sự khai triển đời sống Đấng Christ trong một người được Kinh Thánh diễn tả lại một cách đại cương và tuần tự theo những biến cố nổi bật, những biến cố này có tính chất đại đồng cho mọi người chớ không phải cho riêng ai.
Có năm ký Điểm Đạo lớn trong đời sống của một Đấng Christ, mỗi kỳ đánh dấu một giai đoạn phát triển sự sống của Tình Thương. Từ xưa đến nay, các ký Điểm Đạo ấy vẫn xảy ra, và kỳ Điểm Đạo thứ năm đánh dấu sự chiến thắng chung kết của Con Người (Man) đã phát triển đến Thiêng Liêng, đã vượt khỏi nhân loại và đã trở nên một Vị Cứu Thế.
Chúng ta hãy dò theo câu chuyện của đời sống này, nó luôn luôn được lập lại một cách mới mẻ trong các kinh nghiệm tinh thần, và chúng ta hãy xem một người được Điểm Đạo sống suốt đới sống của Đấng Christ như thế nào.
Vào kỳ Điểm Đạo thứ nhất, Đấng Christ được sinh ra trong người đệ tử; chính bấy giờ, lần đầu tiên y mới nhận thức được trong y nguồn Tình Thương thiêng liêng tuôn xuống, y kinh nghiệm được sự thay đổi kỳ điệu nó làm cho y cảm thấy mình là một với tất cả mọi sự sống. Đây là sự “Sinh lần Thứ Hai. Vào lúc sinh này, các người cõi Trời vui mừng vì y được sinh vào”vương quốc của trời” như một “đứa trẻ”, một “đứa bé nhỏ”, bao giờ những danh từ này cũng để gọi mấy người mới được Điểm Đạo. Đó là ý nghĩa của những lời của Đức Jesus: “một người phải trở nên trẻ thơ để bước vào Thiên Đường” (S.Matt 17:3). Vài vị Cơ Đốc đầu tiên rất có ngụ ý khi nói rằng Đức Jesus “được sinh trong hang”-“cái máng” trong câu chuyện Kinh Thánh. “Hang Điểm Đạo” là một từ cổ xưa được biết nhiều. Trên hang đá nơi “trẻ thơ” được sinh, “Ngôi Sao Điểm Đạo” bừng cháy, bao giờ Ngôi Sao ấy cũng chiếu sáng từ Phương Đông khi Trẻ thơ Christ sinh ra đời. Xung quanh mỗi trẻ thơ ấy đều đầy dẫy nỗi nguy hiểm và đe dọa, những sự nguy hiểm lạ kỳ không xảy đến cho các trẻ thơ khác, vì em đã được xức dầu thánh vào lần sinh thứ hai và các Mãnh Lực Hắc Ám của thế giới vô hình luôn tìm cách phá hoại. Tuy nhiên, mặc cho mọi thử thách ấy, em vẫn trưởng thành vì một khi Christ đã sinh ra thì không bao giờ hư mất, một khi Christ đã bắt đầu phát triển thì không bao giờ thất bại trong sự tiến hóa: sự sống tốt đẹp của em rộng mở và tăng trưởng, mãi có thêm hiểu biết và phong độ tinh thần cho đến khi kỳ Điểm Đạo Thứ Hai xảy đến, Lễ Báp Têm của Đấng Christ bằng Nước và Thánh Linh (Spirit) truyền cho y những quyền năng cần thiết cho một Vị Giáo Chủ- như một “Đứa Con yêu quý” ra đi làm việc gian khổ trong cõi thế.
Sau đó Thánh Linh tuôn xuống dồi dào cho y và sự vinh quang của Người Cha vô hình cũng chiếu rọi rực rỡ xuống y. Nhưng từ trạng thái ân phước đó, y được Thánh Linh dẫn vào nơi hoang vu, và một lần nữa, y phải chịu sự thử thách của các cám dỗ ác liệt. Vì bây giờ các quyền năng của Thánh Linh đang phát triển trong y và Phái Tà Đạo cố gắng mê hoặc y bằng chính những quyền năng này, xúi y dùng chúng để giúp đỡ cho riêng y thay vì tin cậy kiên nhẫn vào Cha y. Trong những giai đoạn chuyển tiếp bất thần và mau lẹ có mục đích trắc nghiệm sức mạnh và lòng tin của y, tiếng thì thầm của Ma Quỷ Cám Dỗ giả hình tiếp theo tiếng nói của người Cha, và lớp cát nóng bỏng của vùng hoang vu đốt cháy xém đôi chân trước đây đã được rửa trong nước mát của sông thiêng. Chiến thắng những thử thách này y bước vào thế giới nhân loại và dùng những quyền năng này để giúp đỡ họ thay vì cho nhu cầu riêng tư. Y không biến đá thành bánh mì (Matt 4:3) để xoa dịu nỗi ham muốn riêng của y, nhưng y dùng vài ổ bánh mì để nuôi “năm ngàn người, ngoài đàn bà và trẻ con” (Matt 14:21)
Một thời kỳ vinh quang ngắn khác sẽ đến trong cuộc đời phụng sự không ngừng của y, khi y trèo lên “một ngọn núi cao riêng biệt”- Ngọn núi Điểm Đạo thiêng liêng. Nơi đó y được biến hình và nơi đó y gặp được vài Vị trong các Vị Tiền Phong, những vị Cao Cả thời xưa đã bước qua nơi bây giờ y đang bước qua. Như thế y vượt qua kỳ Điểm Đạo lần ba, bấy giờ bóng dáng của nỗi khổ Nạn sắp đến của y hiện ra cho y thấy. Y từ chối các lời xúi dục và cương quyết thẳng tiến về Jerusalem, nơi đó lễ Báp têm bởi Thánh Linh và bởi Lửa đang chờ đợi y.
Sau khi ra đời là sự tấn công của Herod, sau lễ Báp têm là sự Cám Dỗ trong vùng hoang vu, sau sự Biến Hình là sự tiến bước về giai đoạn cuối cùng của Con Đường Thập Tự. Bao giờ sau chiến thắng cũng là cơn thử thách, cho đến khi đạt mục đích.
Nhưng sự sống của tình thương vẫn còn tăng trưởng, người Con của Người (Son of Man) chiếu sáng rõ ràng hơn như Con của Thượng Đế (Son of God) cho đến lúc gần trận chiến cuối cùng của y. Và kỳ Điểm Đạo lần bốn dẫn y chiến thắng vào Jerusalem, vào quanh cảnh của Gethsemane và Calvary. Bây giờ y là Christ sẵn sàng để được dâng hiến, sẵn sàng để hy sinh trên thập tự. Bây giờ y đối diện với cơn ác mộng kinh khủng trong khu vườn, nơi đó cả các đệ tử chọn lọc của y cũng ngủ thiếp đi trong khi y chiến đấu với nỗi thống khổ kinh khủng, và có lúc y đã cầu xin cho chén đắng được cất đi khỏi đôi môi. Nhưng ý chí mạnh mẽ đã chiến thắng, y đưa tay ra đón lấy chén mà uống. Trong sự cô đơn của y, một thiên thần đã hiện đến và khích lệ y, vì các thiên thần thường có thói quen giúp đỡ khi thấy một người Con của Người oằn mình dưới sức nặng của nỗi thống khổ, chén đắng của bội phản, của cô đơn, của chối bỏ, đón chờ y khi y bước tới, y đơn độc một mình đi qua đám kẻ nghịch chế diễu để đến cuộc thử thách ác liệt cuối cùng của y. Chịu roi quất đau đớn vào người, gai nhọn của lòng nghi ngờ đâm thủng, những y phục tốt đẹp của sự thanh khiết bị lột bỏ trước mắt thế nhân, bị giao vào tay kẻ nghịch, hình như Thượng Đế và con người bỏ rơi cô đơn, xa lánh, y kiên nhẫn chịu đựng tất cả những gì xảy đến cho y, mong mỏi tuyệt vọng sự giúp đỡ vào lúc sức cùng lực tận. Bị bỏ yên để chịu đau khổ, chịu đóng đinh, để sự sống của hình thể sắc tướng phải chết đi, để chịu khuất phục mọi sự sống trần thế, bị kẻ nghịch chiến thắng bao quanh chế nhạo. Sự tăm tối lớn lao kinh khủng cuối cùng vây quanh y, và trong sự tăm tối đó, y gặp tất cả các mãnh lực ác. Nhãn quang nội tâm của y bị che mù, y cảm thấy cô đơn, vô cùng cô đơn đến khi con tim mạnh mẽ của y chìm sâu trong tuyệt vọng phải thốt lời kêu gọi Cha, Ngài hình như bỏ rơi y. Trong sự cô đơn cùng tận, linh hồn con người đối diện với nỗi thống khổ dày vò và có vẻ thất bại. tuy nhiên khi y tập trung hết sức lực của”tánh linh bất khuất” thì đời sống thấp kém phải nhượng bộ và chết đi, dục vọng bị bỏ rơi, và người được Điểm Đạo “sa xuống địa ngục” để không có miền nào trên thế giới mà y không trải qua để giúp đỡ, để không ai quá bơ vơ vượt khỏi- tình thương bao gồm- tất-cả của y. Và sau đó, vượt lên khỏi sự tăm tối, y lại thấy ánh sáng một lần nữa, y lại cảm thấy mình là Con, một người Con không bao giờ tách biệt với Cha mình, y tiến xa hơn vào một đời sống không bao giờ chấm dứt, y tận lực giúp đỡ mọi trẻ thơ của con người, tuôn phát sự sống của y vào mọi linh hồn đang chiến đấu. Y lưu lại giữa nhóm đệ tử một thời gian để dạy dỗ họ, vén màn bí mật của những cõi giới tinh thần, chuẩn bị cho họ bước vào đường đạo mà y đã đi, cho đến khi đời- sống- cõi- thế của y chấm dứt, y tiến lên với Cha. Và vào kỳ Điểm Đaọ thứ năm, y trở nên vị Chân Sư chiến thắng, người nối liền Thượng Đế với con người.
Đó là toàn thể câu chuyện trong Huyền Môn chân chính thời xưa và nay, được miêu tả một cách thi kịch qua những biểu tượng trong Huyền Môn hồng trần, nửa ẩn nửa hiện. Đó là Christ của Huyền Môn trong trạng thái nhị nguyên của Ngài, Ngôi Hai và Con người, vũ trụ và cá nhân. Người ta có ngạc nhiên chăng khi câu chuyện này đã tự đan dệt trong tâm con người và tạo nguồn cảm hứng cho mọi tâm hồn cao thượng? Đối với phần lớn câu chuyện, Đấng Christ trong thâm tâm con người là Đức Jesus được coi như hiện thân của Đấng Christ thần bí. Ngài chiến đấu, đau khổ, chết đi và cuối cùng chiến thắng; Ngài là Người mà trong đó người ta nhìn thấy nhân loại bị đóng trên thập tự và thăng thiên; là người mà sự chiến thắng của Ngài là một lời hứa hẹn chiến thắng cho mọi người; là Đấng Christ không bao giờ bị quên lãng được vì Ngài cứ mãi được sinh ra trong nhân loại, và rằng thế gian cần những Vị Cứu Thế, và những Vị Cứu Thế hiến mình cho thế gian.
CHƯƠNG 7
Đầu Sách Cuối sách Mục Lục
SỰ CHUỘC TỘI
Chúng ta sẽ khảo sát vài phương diện của Đời Sống Christ (Christ life) nêu ra trong các giáo lý Cơ Đốc. Theo giáo lý ngoại truyền, chúng có vẻ kết buộc vào con người của Đấng Christ; nhưng theo giáo lý bí truyền thì quả thật chúng thuộc về chính Ngài vì theo nghĩa ban sơ- nghĩa đầy đủ nhất và sâu xa nhất của chúng, thì chúng là một tronh những hoạt động của Thượng Đế (Logos), rồi sau đó chúng mới phản ảnh trong Đấng Christ và kế tiếp là trong mỗi Linh Hồn Christ (Christ-Soul) dấn bước trên con đường Thập tự. Nghiên cứu là thế, chúng ta mới thấy được các phương diện ấy một cách chân thật sâu xa, còn hình thức ngoại truyền của chúng chỉ làm bối rối trí khôn và xáo trộn tình cảm.
Trong các phương diện ấy, nổi bật hơn hết là giáo lý về Sự Chuộc Tội. Chẳng những nó là một mục tiêu tấn công ác liệt của giới ngoài Cơ Đốc Giáo, mà nó còn dày vò nhiều tâm hồn nhạy cảm trong Giáo Hội. Vài người Cơ Đốc biết suy nghĩ sâu xa của hậu bán thế kỷ 19 đã đau khổ hoài nghi về lời dạy của các Giáo Hội về vấn đề này, Họ đã cố gắng nhận thức và trình bày nó một cách nhẹ nhàng hơn những ý niệm gay gắt do cách đọc không khôn ngoan vài đoạn kinh thần bí thâm sâu. Nơi đây ta cần lưu ý đến lời cảnh giác của Thánh Peter: “Cũng như Paul, anh yêu dấu của chúng ta, theo sự khôn ngoan đã ban cho mình mà viết cho anh em- Trong các thơ của ông cũng có nói đến sự ấy, trong đó có mấy điều khó hiểu, mà kẻ dốt nát không vững bền giải thích sai nghĩa, cũng như họ giải sai nghĩa các kinh văn khác, đều chuốc lấy sự hư mất cho mình”. ( II Pet 3:16) Các đoạn văn nói lên sự đồng nhất giữa Đấng Christ và các người anh em của Ngài đã bị giải sai lạc thành sự thay thế của chính Ngài cho họ và được sử dụng để trốn tránh những kết quả của tội lỗi, thay vì để có cảm hứng hướng về điều chân thiện.
Lời dạy tổng quát trong Giáo Hội Đầu Tiên về giáo điều Chuộc tội là Đấng Christ, Người Đại Diện cho Nhân Loại, đã đương đầu và chiến thắng Satan tượng trưng cho các Mãnh Lực Hắc Ám xiềng xích nhân loại. Ngài đã cướp lại và giải thoát nhân loại. Nhưng về sau, các thầy Cơ Đốc mất dần những chân lý tinh thần, đồng thời họ phản ánh tính khắc khe riêng tư của họ vào Người Cha Tinh Khiết và đầy yêu thương trong những lời dạy về Đấng Christ, họ trình bày Ngài ưa nổi giận với con người, và Ngài được tạo nên để cứu chuộc con người khỏi cơn thịnh nộ của Thượng Đế thay vì khỏi sự ràng buộc của ma quỷ. Sau đó họ đã chính thức đem vào những câu càng vật chất hóa cái quan niệm tinh thần trước kia hơn nữa, và họ đã vạch ra một “chương trình chuộc tội”.
Trong tác phẩm Cur Deus Homo, ông Ansalm đã tán đồng “chương trình chuộc tội” và cái giáo điều ấy trước đây đã phát triển dần trong thần học Cơ Đốc từ nay lại được chứng nhận bởi dấu ấn của Giáo Hội. Vào thời Phục Hưng, người Cơ Đốc La Mã và người Tin Lành đều tin vào tính chất thay thế (nhờ người khác làm giùm mình) chuộc tội được Đấng Christ gánh chịu.
Tôi (A.Besant) muốn để các vị Cơ Đốc tự nói về ý nghĩa của sự chuộc tội. Luther dạy rằng Đấng Christ đã cảm lấy cơn thịnh nộ của Thượng Đế, sự nguyền rủa, sự chết cho tất cả mọi người. Flavel nói rằng Đấng Christ được phái đi để gánh chịu lấy cơn thịnh nộ của vị Thượng Đế vô cùng và các nỗi đau đớn dày vò khủng khiếp. Giáo Hội Anh Quốc dạy rằng: tội lỗi đã đưa Thượng Đế ra khỏi Thiên Đàng để Ngài cảm nghe những nỗi kinh hãi và những nỗi đau đớn của sự tử, và con người như một khúc củi cháy trong hỏa ngục, một kẻ nô lệ cho ma quỷ- được cứu chuộc bởi sự chết của người con một yêu dấu của Ngài; cơn thịnh nộ bùng cháy của Ngài chỉ có thể được xoa dịu bởi Đức Jesus, sự hy sinh và sự dâng hiến cái chết của con Ngài làm Ngài hài lòng. Edwards hữu lý hơn, thấy rằng có sự bất công lớn lao vì lẽ tội lỗi bị phạt hai lần, trước tiên Đức Jesus là người chịu thay cho nhân loại và sau đó trên các người hư mất. Do đó mà ông cùng quan điểm với hầu hết người Calvin, đành phải giới hạn sự chuộc tội chỉ dành cho các người được chọn lên thiên đàng mà thôi và tuyên bố rằng Đấng Christ đã gánh lấy các tội lỗi- không phải của thế gian- mà của những người đã được chọn lựa trong thế gian; Ngài chịu đau khổ không phải cho tất cả thế giới, mà chỉ cho những người mà con đã cho Ta. Nhưng Edwards tin tưởng chắc chắn vào sự chịu tội thế, và loải bỏ sự chuộc tội đại đồng vì lý do rằng “Tin tưởng Đấng Christ chết cho tất cả mọi người là một phương cách chắc chắn nhất để chứng tỏ rằng Ngài chẳng chết cho ai, theo nghĩa như các người Cơ Đốc tin tưởng từ trước đến nay”. Còn Owen thì xem những sự đau khổ của Chúa như một sự đền bù quý giá đầy đủ cho tất cả tội lỗi của những người được chọn lên thiên đường đối với sự công bình của Thượng Đế, và Chúa phải chịu đựng chính sự trừng phạt mà họ phải chịu.
Để chứng tỏ những quan điểm ấy vẫn còn được dạy một cách mạnh mẽ tại những nhà thờ, tôi có viết thêm: Stroud khiến cho Đức Christ uống ‘chén thịnh nộ của Trời’. Jenkyn nói ‘Ngài chịu đau khổ như một người bị Trời bỏ rơi, đầy xuống địa ngục, bắt chịu hình phạt đời đời’. Tổng Giám Mục Thomson dạy rằng ‘những đám mây thịnh nộ của Trời tụ đầy đặc trên nhân loại chúng chỉ trút xuống Đấng Jesus mà thôi’. Liddon cũng vang cùng âm điệu ấy. ‘Các vị tông đồ dạy rằng con người nô lệ và Đấng Christ trên thập tự đang trả tiền chuộc cho họ. Liddon còn nói đến cả số lượng chính xác về sự sỉ nhục và đau khổ cần thiết để chuộc tội, và “nạn nhân thiêng liêng” còn trả nhiều hơn là lượng cần thiết’.
Dr. Mcleod Campbell, một người vô cùng sùng tín và uyên thâm đã viết quyển “Luận về sự Chuộc Tội” nổi tiếng chứa nhiều tư tưởng chân chính và đẹp đẽ để chống lại những quan điểm trên kia. F.D.Maurice và nhiều người Cơ Đốc khác đã cố gắng gỡ bỏ khỏi Cơ Đốc Giáo một giáo điều nặng nề tàn phá các ý tưởng chân chánh và các tương quan giữa Thượng Đế và con người.
Nhưng sự tin tưởng này không liên hệ gì đến vài sự phát triển rất cao về đức hạnh Cơ Đốc, và vài gương thanh cao đã nhờ giáo điều ấy mà có được sức mạnh, cảm hứng và vững lòng. Thật là bất công nếu không nhận thức sự kiện này. Khi nào chúng ta gặp phải một sự kiện có vẻ lạ lùng, phi lý, chúng ta nên dừng lại và cố gắng tìm hiểu nó. Vì nếu giáo điều ấy không chứa điều gì khác hơn những gì người khác công kích thì nó không thể nào làm say mê tâm trí con người, nó không thể nào là căn nguyên của các sự quy phục hào hùng, của các gương hy sinh cảm động để phụng sự cho con người. Hẳn phải có một điều gì đó nằm ẩn dưới mặt ngoài đã gợi cảm hứng cho họ. Khi nghiên cứu giáo lý ấy như một trong các Tiểu Bí Pháp, chúng ta sẽ thấy được sự sống ẩn mật mà những tâm hồn cao thượng đã thâu hút vào đó một cách vô tình, những tâm hồn này hợp nhất vào sự sống đó mật thiết đến đỗi cái hình thức che đậy sự sống ấy không thể khước từ họ được.
Chúng ta sẽ cảm thấy rằng muốn hiểu được sự sống ấy, người ta cần phải phát triển đôi chút về tinh thần và nhãn quang nội tâm. Chỉ người nào thực tế đã biết được vài ý nghĩa của sự quy phục (self surrender) mới có thể thoáng thấy được tín điều ấy muốn ám chỉ điều gì trong giáo lý bí truyền. Đó là sự biểu lộ kiểu mẫu của luật Hy Sinh đại đồng, một phản ảnh dưới thấp của một Nguyên Hình (Pattern) trên cao, nó cho chúng ta biết ý nghĩa của sự hy sinh trong đời sống cụ thể của con người.
Luật Hy Sinh ẩn tàng trong hệ thống thái dương của chúng ta và tất cả hệ thống khác. Mọi vũ trụ đều được thiết lập trên Luật này. Nó nằm ngay cội rễ của sự tiến hóa. Trong giáo điều về Sự Chuộc Tội, Nó khoác lấy một hình thức cụ thể liên hệ với những người đã đạt đến một giai đoạn phát triển tinh thần nào đó có thể guip1 họ thực hiện được sự hiệp nhất với nhân loại và trở nên những vị Cứu Thế- theo đúng nghĩa thực tế và chân lý.
Tất cả tôn giáo lớn trên thế giới đều tuyên bố rằng vũ trụ khởi đầu bằng một hành động hy sinh và họ đã đưa ý niệm hy sinh ấy vào các nghi lễ long trọng nhất của họ. Ấn Độ Giáo cho rằng buổi đầu của sự biểu lộ là do sự hy sinh; nhân loại được xuất phát với một sự hy sinh, và chính Thượng Đế đã tự hy sinh Ngài; mục tiêu của sự hy sinh là sự biểu lộ; Ngài không thể trở nên biểu lộ trừ khi một hành động hy sinh được thực hiện, không có điều gì được biểu lộ đến khi Ngài biểu lộ; hành động hy sinh được gọi là hành động khởi đầu của sự sáng tạo.
Hỏa giáo cũng dạy rằng trong Hiện Hữu vô biên, vô danh, bất khả tri, sự hy sinh được thực hiện và vị Thượng Đế-biểu-lộ hiện ra; Đức Ahura-mazdâo được sinh ra bởi một hành động hy sinh.
Trong Cơ Đốc Giáo, cũng một quan niệm ấy được nêu rõ trong câu: “Chiên con đã bị giết từ buổi sáng- thế” (Khải thị 13:8), đã bị giết ngay từ nguồn gốc của mọi sự. Những lời này chỉ có thể nói đến một chân lý quan trọng là không có sự sáng tạo vũ trụ cho đến khi Thượng Đế đã làm một hành động hy sinh. Hành động này được giải thích như là một sự giới hạn Ngài để trở nên biểu lộ”Luật Hy Sinh có thể được gọi một cách đúng thật hơn là Luật Biểu Lộ hoặc Luật của Tình Thương và Sự Sống, vì khắp cả vũ trụ từ điều cao nhất đến điều thấp nhất, nó là nguyên nhân của sự biểu lộ và sự sống” (W.Williamson).
Bây giờ nếu ta khảo sát cõi trần này, chúng ta thấy rằng mọi sự sống trong đó, mọi sự tăng trưởng, mọi sự tiến triển, đối với đơn vị cũng như đối với tổng thể, đều tùy thuộc vào sự hy sinh liên tục và sự bền bỉ chịu đựng đau khổ. Kim thạch hy sinh cho thảo mộc, thảo mộc hy sinh cho thú vật và con người, con người hy sinh cho con người, và mọi hình thể cao hơn lại tan vỡ ra thành các cấu tử để nuôi các loài thấp kém nhất. Đó là một chuỗi hy sinh liên tục; dấu hiệu chỉ rõ sự tiến hóa là sự hy sinh từ cưỡng bách trở thành tự nguyện. Các người được thừa nhận là cao cả nhất và được yêu thương nhất trong tâm trí con người chính là các người đã chịu đựng đau khổ cùng cực, những linh hồn anh hùng ấy đã quặn thắt, cam chịu và chết đi để giống nòi có thể hưởng dụng sự đau khổ của họ. Nếu thế giới này là công trình của Thượng Đế và luật tiến hóa trong toàn thể và trong cấu tử là sự hy sinh, thì luật Hy Sinh phải ám chỉ một điều gì trong bản chất thật sự của Ngài, nó phải có cội rễ trong chính Thiêng tánh. Nếu suy nghĩ thêm một chút, ta sẽ thấy rằng một thế giới, một vũ trụ có được là chỉ bởi Đấng Tự Hữu (Existence) Duy Nhất đã hạn chế mình và như thế mới biểu lộ được. Thượng Đế Biểu- lộ(Logos) là Thượng Đế Tự-Giới-Hạn (Self-limited God). Giới hạn để trở nên biểu lộ, biểu lộ để vũ trụ hiện hữu. Sự tự giới hạn và sự biểu lộ thế ấy chỉ có thể là một hành động hy sinh.
Hơn nữa nhờ hành động hy sinh mà các cá nhân mới hiện hữu để chia xẻ ân phước Thiêng Liêng, đó mới quả thật là một hành động thay thế- một hành động được thực hiện vì người khác. Vì thế, như đã nói ở trên, sự tiến hóa được đánh dấu khi sự hy sinh trở nên tình nguyện và tự chọn, và chúng ta hiểu rằng nhân tính của một người đạt đến trạng thái toàn mỹ của nó khi y hiến mình cho thế gian và nhờ sự đau khổ của riêng y mà y tạo được vài điều tốt đẹp cao cả cho dòng giống.
Chân lý thâm sâu của sự hy sinh thay thế này chỉ có ở những cõi giới cao siêu nhất; và mặc dầu nó có thể bị suy hóa và biến dạng, nó vẫn luôn trường cửu và bất hoại. Cội nguồn ấy tuôn trào ra dòng năng lượng tinh thần- theo nhiều hình thể và cách thức đa dạng- cứu chuộc thế gian khỏi điều ác và lôi cuốn trở vế Thượng Đế.
Khi Con (Logos) xuất ra khỏi”Lòng Cha” vào”Ngày” ấy, khi Con được sinh ra, vào buổi đầu của Ngày Sáng Tạo, Ngày Biểu Lộ, khi’nhờ Con mà Ngài đã dựng nên các thế giới’ (Hebơrơ 1:2), bởi ý chí của Ngài mà Ngài đã tự giới hạn Ngài, tạo một bầu tròn bao trùm Sự Sống Thiêng Liêng; Tinh Thần Thiêng Liêng ở trong và sự giới hạn hay Vật Chất ở ngoài. Chính nhờ lớp màn vật chất mà Con mới được sinh ra. Lớp vật chất ấy là Mary. Người Mẹ Thế Giới- cần cho Đấng Vĩnh Cửu biểu lộ trong thời gian và xây dựng các thế giới.
Sự tự hạn chế ấy là một hành động hy sinh, một hành động tự nguyện được thực hiện vì tình thương để cho các sự sống khác có thể được sinh ra khỏi Ngài. Một sự biểu lộ như thế được xem như là cái chết, vì khi so sánh với sự sống vô biên của Thượng Đế trong chính Ngài thì sự giới hạn trong vật chất có thể được gọi thật sự là cái chết. Như chúng ta đã thấy, nó được xem như sự tử nạn trong vật chất- nguồn gốc chân thật của biểu tượng thập tự, hoặc theo hình dáng Hy Lạp+ chú trọng về sự linh hoạt hóa vật chất do Thánh Thần (Holy Ghost) tạo nên, hoặc theo hình dáng Latin + chú trọng đến Người Trời (heavenly Man), Đấng Christ của Trời (Supernal Christ).
Sự hy sinh này là một điều bí mật của sự tiến hóa. Sự sống Thiêng Liêng gò bó trong hình thể, luôn đè ép ra ngoài để hình thể có thể bành trướng ra, nhưng lực ép này chỉ nhẹ nhàng mà thôi vì e rằng hình thể sẽ tan vỡ trước khi nó đạt tới giới hạn trương nở cuối cùng. Với một sự kiên nhẫn, khôn khéo và thận trọng vô biên, Đấng Thiêng Liêng duy trì một áp lực đều đặn để không gây tan vỡ. Trong mỗi hình thể, trong loài kim thạch, thảo mộc, thú cầm và con người, năng lực bành trướng này của Thượng Đế (Logos) đang hoạt động không ngừng. Đó là mãnh lực tiến hóa, sự sống có hiệu lực nâng cao hình thể, nguồn năng lượng đang tăng trưởng mà khoa học mới vừa thoáng thấy được nhưng không biết nó đến từ đâu. Nhà thực vật học kể đến một năng lực ẩn trong thảo mộc, nó luôn luôn lôi kéo hướng lên; y không biết nó thế nào và tại sao, nhưng y đặt cho nó một tên: vis a fronte (sức mạnh tiền phong) vì y tìm thấy nó có ở đó, hay đúng hơn là y tìm thấy kết quả của nó. Năng lực ấy cũng ở trong các hình thức khác nữa, nó làm cho chúng càng ngày càng biểu lộ sự sống bên trong chúng. Khi một hình thể tiến hết giới hạn, thì linh hồn trong đó không thể tăng trưởng hơn nữa; Bấy giờ Ngài thâu hồi năng lực của Ngài và hình thể ấy tan rã đi, chúng ta gọi là sự chết. Nhưng linh hồn ở với Ngài và Ngài lại tạo một hình thể khác cho nó, vậy sự chết của hình thể là sự sinh của linh hồn vào một đời sống đầy đủ hơn. Nếu chúng ta nhìn bằng đôi mắt của Tinh Thần thay vì đôi mắt của xác thể, thì chúng ta sẽ không khóc lóc cho một hình thể, nó chỉ là một cái xác chết đang trả lại những chất liệu cấu tạo nên nó. Chúng ta sẽ vui mừng vì sự sống đã tiến lên vào một hình thể thanh cao hơn để phát triển những quyền năng còn tiềm tàng bên trong.
Nhờ sự hy sinh không ngừng của Thượng Đế mà mọi sự sống hiện hữu được. Sự sống này là Một, nhưng nó đã nhập vào muôn vàn hình thể và luôn luôn lôi kéo chúng lại với nhau. Như thế nó là mãnh lực của sự hiệp nhất, một mãnh lực kết hợp, nhờ nó mà mọi sự sống riêng rẽ dần dần nhận thức được sự duy nhất của chúng; mỗi sự cố gắng phát triển một tâm thức bản ngã và cuối cùng sẽ biết rằng chính nó là một với tất cả sự sống khác, cùng một nguồn gốc thiêng liêng chung.
Đây là sự hy sinh đầu tiên và liên tục; một sự tuôn phát sự sống ra ngoài được hướng dẫn bởi Tình Thương, một sự tuôn phát tự nguyện và vui sướng của Tự Ngã để tạo các Ngã khác. Đây là”sự vui mừng của Chủ” mà người đầy tớ trung thành nhập vào, câu này được tiếp nối một cách có ý nghĩa bởi lời tuyên bố rằng Ngài đói khát, trần truồng, đau yếu, xa lạ, bị tù đày, giữa những đám người tốt và xấu. (S.Matt 15:21-45).Đối với một Tinh Thần tự do thì sự hy sinh là một niềm vui. Nó cảm thấy sự sống của nó càng mãnh liệt hơn khi Nó càng tuôn ra ngoài. Nó càng cho thì Nó càng tăng trưởng, vì luật tăng trưởng của sự sống là Nó gia tăng bằng cách tuôn ra ngoài chớ không thâu từ ngoài vào, bằng cách cho chớ không bằng cách nhận. Vậy Hy Sinh, theo ý nghĩa đầu tiên, là một niềm vui. Thượng Đế đã tự tuôn ra để tạo lập một thế giới và thấy công việc của Ngài thì rất bằng lòng.
Nhưng từ-ngữ ấy đã liên kết với nỗi đau khổ, và trong tất cả nghi lễ hy sinh đều có sự hiện diện của một sự đau khổ, dù nó chỉ là một mất mát nhỏ cho người hy sinh. Khi nói đến chữ hy sinh tự nhiên ta nghĩ đến sự đau khổ, vậy ta cũng nên hiểu sự thay đổi này đã xảy ra như thế nào.
Chúng ta sẽ hiểu được khi chúng ta chuyển từ quan điểm của Sự Sống đang biểu lộ sang quan điểm của hình thể mà Nó đang trú ngụ để xét vấn đề hy sinh. Trong khi đời sống của sự sống luôn luôn cho ra thì đời sống của Hình Thể lại thâu nhận vào, vì Hình Thể sẽ tiêu hao khi bị sử dụng. Để được tồn tại, nó phải thu hút những chất liệu tươi mới bên ngoài vào bù đắp chỗ mất mát. Như thế luật tăng trưởng của Hình Thể là thâu lấy và đồng hóa những gì mà vũ trụ rộng lớn hơn cung cấp cho nó. Khi tâm thức đồng hóa nó với hình thể, xem hình thể là nó thì sự hy sinh mang trạng thái đau khổ. Cho ra, quy phục, mất mát những gì đã thâu được- những điều đó hình như phá hủy dần tính vững bền của hình thể, và như thế luật Hy Sinh trở thành luật của nỗi khổ đau thay vì luật của niềm vui sướng.
Vì hình thể cứ mãi đổ vỡ, gây cho nỗi khổ đau gia tăng, nên con người phải học nhận thức rằng y không nên đồng nhất mình với sự sống mãi tăng trưởng. Bài học của y không những do thiên nhiên bên ngoài dạy, mà còn do những vị Huấn Sư trong tôn giáo chủ tâm dạy y nữa.
Trong các tôn giào trên thế giới, chúng ta có thể tìm thấy bốn trình độ giáo huấn về luật Hy Sinh.
1.Trước tiên, con người được dạy nên hy sinh một phần của cải vật chất của y để được sự thịnh vượng vật chất nhiều hơn. Y hy sinh bằng của từ thiện cho người khác và bằng các lễ vật dâng lên Thần Thánh; chúng ta có thể đọc thấy trong các kinh Ấn Độ, Hỏa Giáo, Do Thái…trên khắp thế giới. Y bố thí một điều gì mà y cho là quý báu để bảo đảm sự thịnh vượng cho y, cho gia đình, cho cộng đồng và quốc gia y. Y hy sinh trong hiện tại để thâu hoạch trong tương lai.
2. Rồi đến một bài học khó hơn, thay vì sự giàu sang và những điều trần thế, thì hy sinh cốt để nhận được ân phước cõi Trời. Sống trên Thiên Đàng và hưởng hạnh phúc sau khi chết- đó là phần thưởng do các điều hy sinh thực hiện đưới trần thế.
Y đã bước một bước tiến đáng kể khi y biết từ bỏ những điều hồng trần mà y đã bám víu để được những điều tốt lành xa xăm mà y không thể thấy hay chứng minh được. Y học nhường sự việc hữu hình cho sự việc vô hình, và khi làm như thế y tiến lên cao. Vì các việc hữu hình và các việc đạt đến được rất là quyến rũ đến nỗi nếu y có thể khuất phục chúng dưới thế giới vô hình mà y tin tưởng thì y đã luyện được sức lực mạnh mẽ và đã tiến xa trong việc nhận thức được thế giới vô hình đó. Mãi chịu đựng dồn dập các khổ nạn, đương đầu với các lời sỉ nhục, y tập đứng vững một mình, nhận lấy tất cả nỗi đau đớn, khốn khổ, tủi nhục do người đời đổ trút lên y, y chỉ chăm nhìn các điều vô hình sau cửa tử. Quả thật y vẫn còn mong muốn sự vinh quang cõi trời; nhưng có thể đứng vững đơn độc trên mặt đất, kết bạn với tinh thần, bám chắc vào đời sống nội tâm khi đời sống bên ngoài đầy đau khổ, đó không phải là một điều dễ dàng.
3. Bài học thứ ba xảy đến khi y nhận thấy mình là một phần tử của một sự sống rộng lớn hơn, y muốn hy sinh cho lợi ích của toàn thể. Do đó y đủ sức nhận thức rằng sự hy sinh là đúng, rằng một đơn vị phải tùy thuộc toàn thể. Rồi y học hành động đúng đắn mà không bị xao động vì cái kết quả đến cho cá nhân y; y làm nhiệm vụ mà không mong muốn kết quả cho y; y bền chí vì bền chí là đúng chớ không phải để được khen thưởng, y cho chỉ vì tặng phẩm là của nhân loại chớ không phải để được Ngài hoàn lại.
4. Được huấn luyện như thế, bấy giờ linh hồn anh hùng đã sẵn sàng bước sang bài học thứ tư; y cũng phải dâng hiến luôn sự hy sinh tất cả những sở hữu của y, bởi vì Tinh Thần không riêng rẽ thật sự mà chỉ là thành phần của Sự Sống Thiêng Liêng. Hiểu rằng không có sự khác biệt, không cảm thấy sự chia cách, y tuôn tràn ra như một thành phần của Sự Sống Đại Đồng, và khi biểu lộ Sự Sống ấy y chia xẻ niềm vui của Ngài.
Chính trong ba giai đoạn đầu mà người ta thấy sự hy sinh có trạng thái đau khổ. Giai đoạn đầu chỉ là các nỗi khổ đau nho nhỏ; trong giai đoạn hai y có thể hy sinh đời sống hồng trần và tất cả những gì mà trần thế cho y; còn giai đoạn thứ ba là thời điểm trọng đại cho sự trắc nghiệm, sự cố gắng, sự tăng trưởng của linh hồn con người. Vì trong giai đoạn này y có thể bị đòi hỏi tất cả những gì mà sự sống có vẻ hiện hữu trong đó; và con người trên lý thuyết biết rằng mình vượt quá hình thể, nhưng trong cảm nghĩ y vẫn còn đồng hóa mình với nó, y thấy rằng tất cả những gì mà y cảm thấy là sự sống thì đều bị đòi hỏi rời bỏ y, nên y hoang mang:”Nếu tôi bỏ điều này ra, thì còn lại gì?” Hình như thể tâm thức y sẽ bị chấm dứt với sự từ bỏ này, vì tâm thức y không còn bám víu được vào những điều mà nó đã biết, trong khi đó bên kia lại không có điều gì để y có thể nắm được. Một niềm xác tín mạnh mẽ, một tiếng nói uy nghiêm kêu gọi y hãy từ bỏ chính đời sống của y. Nếu y thoái thác thì y vẫn tiếp tục sống lại đời sống cảm giác, đời sống lý trí, đời sống thế gian, và khi y đã có các thú vui thì y không dám từ chối, nhưng rồi y sẽ cảm thấy một sự bất mãn triền miên, một lòng khắc khoải day dứt, một nỗi hối tiếc không nguôi và không còn vui thú ở đời, bấy giờ y hiểu được chân lý trong lời nói của Đấng Christ:”Hễ ai muốn cứu đời sống mình thì phải mất nó.” (S.Matt16:25). Còn nếu như y bạo gan nghe theo lời kêu gọi ấy mà bỏ đới sống của y, thì trong khi mất nó, y lại thấy y bước vào sự sống đời đời (S.John 12:25)và y khám phá ra rằng đời sống mà y từ bỏ chỉ là sự chết trong sự sống. Tất cả những gì mà y bỏ đi chỉ là ảo ảnh, và nay y đã tìm thấy thực thể. Trong sự chọn lựa đó, linh hồn đã chứng tỏ bản chất của mình và chỉ có vàng ròng mới có thể ra khỏi lò đốt ác liệt đó. Nơi nào mà đời sống có vẻ bị khuất phục thì chính nơi đó đời sống lại thắng. Và bấy giờ y sẽ viu mừng khám phá rằng đời sống được chiến thắng như thế là chiến thắng cho tất cả chứ không phải cho một ngã riêng biệt, rằng sự từ bỏ cái ngã riêng biệt ấy có nghĩa là sự thực hiện Đại Ngã trong con người.
Đó là nét đại cương về luật Hy Sinh, đặt nền tảng trên Sự Hy Sinh đầu tiên của Thượng Đế, Sự Hy Sinh mà tất cả mọi sự hy sinh khác đều là những phản ánh của nó.
Chúng ta đã thấy Đức Jesus, người đệ tử Do Thái, đã vui lòng nhượng lại thể xác của Ngài để cho một Sự Sống cao cả hơn có thể giáng nhập vào, và bởi hành động ấy mà Ngài trở nên một đấng Christ đầy đủ tư cách, Ngài trở thành Người Trông Nom Cơ Đốc Giáo, Ngài tuôn tràn Sự Sống của Ngài vào tôn giáo ấy đã được một Vị Cao Cả sáng lập, và hành động hy sinh của Ngài đã đồng nhất Ngài với Vị ấy. Chúng ta đã thấy linh hồn Christ (Christ-Soul) vượt qua các lễ Điểm Đạo lớn- sinh ra đời, bước vào dòng sông đầy đau khổ của trần thế, được làm lễ báp têm bằng nước để nhận nhiệm vụ hoạt động, được biến hình trên Núi, được đưa đến quang cảnh của trận chiến cuối cùng và đã chiến thắng cái chết. Bây giờ chúng ta hãy xem Ngài là người chuộc tội theo ý nghĩa nào, và Luật Hy Sinh đã biểu lộ toàn mỹ trong đời sống Christ (Christ-life) như thế nào.
Ngài đến với nhân loại, thi hành chức vụ bằng một tấm lòng thiện cảm nồng nàn trường cửu với nỗi khổ đau của thế giới, được tượng trưng bằng hành động bước xuống dòng sông. Từ đó trở đi, đời sống của Ngài được tóm tắt trong câu”Ngài đi khắp nơi làm điều lành”. Vì đối với những người đã hy sinh đời sống riêng tư của mình để thành một vận hà cho sự sống thiêng liêng thì họ không còn quan tâm điều gì ở thế gian ngoại trừ sự giúp đỡ người khác. Ngài tập đồng nhất mình với những tâm thức của người xung quanh, cảm thấy như họ cảm thấy, suy nghĩ như họ suy nghĩ, vui sướng như họ vui sướng, đau khổ như họ đau khổ. Như thế Ngài đem vào đời sống thức tỉnh hằng ngày của Ngài một tinh thần hợp nhất với những người khác. Ngài phải phát triển một lòng thiện cảm rung động hòa hợp hoàn toàn với âm điệu đa dạng của đời sống nhân loại; nhờ vậy Ngài có thể nối liền trong Ngài những đời sống nhân loại với những đời sống thiêng liêng, và trở nên người trung gian giữa thiên đàng và thế gian.
Bấy giờ quyền năng biểu lộ trong Ngài vì Tinh Thần (Spirit) ngự trong Ngài. Ngài bắt đầu nổi bật trước mắt thế nhân như một trong những người có thể giúp đỡ những người em nhỏ bước trên con đường của Sự Sống. Khi tụ tập quanh Ngài, họ cảm nghe quyền năng phát xuất từ Ngài, Sự Sống thiêng liêng trong Người Con được tin yêu của Đấng Tối Cao. Những linh hồn khát khao tìm đến Ngài và Ngài nuôi họ với bánh của sự sống. kẻ bệnh hoạn vì tội lỗi hướng về Ngài và Ngài chữa bệnh cho họ bằng lời nói linh động. Người mù lòa vì vô minh tiến gần Ngài và Ngài chữa sáng mắt cho họ bằng ánh sáng của minh triết. Điểm chính yếu trong khi Ngài thi hành chức vụ là người thấp kém nhất, người nghèo nàn nhất, người thất vọng nhất và người suy đồi nhất khi đến với Ngài đều cảm nghe không có bức tường ngăn cách, không bị xua đuổi mà được đón tiếp nồng nhiệt. Dẫu cho một linh hồn thấp kém đến đâu, y cũng không cảm thấy Linh Hồn Christ đứng trên y mà đúng ra là đang đứng bên cạnh y và đang bước đi với đôi chân con người trên mảnh đất mà y cũng hiện đang bước, y cảm nghe trong y đầy tràn một năng lực lạ lùng nâng cao y, cùng với một động lực mới mẻ, một cảm hứng tươi nhuận.
Ngài sống và làm việc tận lực, một Vị Cứu Thế thật sự, cho đến lúc Ngài phải học một bài học mới. Trong một thời gian, Ngài mất đi ý thức về Sự Sống Thiêng Liêng mà sự sống của chính Ngài là sự biểu lộ càng ngày càng mạnh mẽ hơn của Sự Sống ấy. Bài học này là:trung tâm thật sự của Sự Sống Thiêng Liêng ở bên trong chớ không phải ở bên ngoài. Đại Ngã có tâm (centre) của Nó ở trong mỗi linh hồn con người, quả thật là” tâm ở mọi nơi, vì Christ ở trong tất cả. Không gì” ngoài Đấng Vĩnh Cửu” có thể giúp được nhu cầu trực tiếp của Ngài. Ngài phải học rằng sự hiệp nhất đúng đắn giữa Cha và Con phải được tìm ở bên trong chớ không phải ở bên ngoài. Bài học này chỉ có thể đến trong sự cô đơn tuyệ cùng. Khi Ngài cảm thấy vị Thượng Đế bên ngoài bỏ rơi. Khi sự thử thách đến gần,Ngài kêu gọi những người gần kề nhất để trông chừng với Ngài qua giờ đen tối của Ngài. Nhưng bấy giờ vìmọi thiện cảm và tình thương của nhân loại đều bị cắt đứt nên Ngài thấy mình bị ném trở lại vào đời sống của Tinh Thần thiêng liêng. Khi ý thức mình hiệp nhất với Cha, Ngài xin Cha hãy cất chén đắng. Đứng vững một mình, Ngài rất xứng đáng đương đầu với trận thử thách cuối cùng. Trong trận này, Thượng Đế bên ngoài tiêu tan và chỉ còn lại Thượng Đế bên trong.”Cha ơi,Cha ơi,sao Cha nỡ bỏ con?” Đó là tiếng kêu thống thiết của tình thương và sợ hãi. Sự cô đơn cuối cùng đến với Ngài. Tuy nhiên không bao giờ Cha lại gần gũi với con hơn lúc mà Linh Hồn Christ cảm thấy mình bị bỏ rơi, vì chính lúc Ngài tiếp xúc đến mức cuối cùng của nỗi khổ đau thì đó là lúc thắng trận của Ngài bắt đầu. Vì bây giờ Ngài học rằng chính Ngài phải trở nên Thượng Đế mà Ngài đã kêu gọi. Chính nhờ cảm nghe nỗi thống khổ cuối cùng của sự chia cách mà Ngài tìm thấy được sự duy nhất vĩnh cửu, Ngài cảm thấy nguồn sống ở trong Ngài và biết rằng chính Ngài cũng vĩnh cửu như thế.
Không ai có thể trở nên một vị Cứu Thế trọn vẹn hoặc có lòng thiện cảm toàn hảo với tất cả nỗi đau khổ của nhân loại trừ khi nào y đã đương đầu và chiến thắng sự đau đớn, sự sợ hãi và sự chết trong cô đơn, không được ai giúp đỡ ngoài vị Thượng Đế nội tâm. Người ta dễ chịu đựng đau khổ khi tâm thức cẫn còn liên lạc giữa phần thấp và phần cao của y. Nói cho đúng hơn, không có sự đau khổ khi tâm thức chưa bị đứt rời, vì ánh sáng của phần trên sẽ xua đuổi tăm tối khỏi phần dưới, và nỗi khổ sở không phải là khổ sở khi nó được sinh ra trong nụ cười của Thượng Đế. Có một niềm khổ đau mà con người phải đương đầu, đó là khi sự tăm tối choán đầy trong tâm thức con người và không một tia sáng lờ mờ nào có thể chiếu rọi qua được. Y phải học biết sự thống khổ của nỗi tuyệt vọng khi linh hồn con người cảm thấy khắp xung quanh toàn là tăm tối, và tâm thức mò mẫm khôn thể tìm được một bàn tay để nắm. Mỗi người Con của Người (Son of Man) đều phải xuống tận miền tăm tối ấy trước khi y tiến lên chiến thắng. Kinh nghiệm ác liệt ấy mỗi Christ đều trải qua trước khi y tìm thấy Thiêng Liêng xuyên qua y và” có thể cứu người khác toàn vẹn” (Heb 7:25).
Một người như thế quả thật trở nên thiêng liêng, một Vị Cứu Thế. Ngài gánh lấy công việc trần gian và Ngài đã chuẩn bị mọi điều để làm công việc ấy. Ngài phải nhận tất cả các mãnh lực kình chống con người vào trong Ngài để chúng có thể biến đổi thành những mãnh lực giúp đỡ. Như thế Ngài trở thành một trong những trung tâm Hòa Bình của Thế Giới. Vì những Christ của thế giới là những trung tâm Hòa Bình mà mọi mãnh lực tranh đấu đều đổ xô vào để được biến đổi và phát ra trở lại thành các sức mạnh hoạt động cho sự điều hòa.
Khi nói Đấng Christ chịu đau khổ cho “con người”, sức mạnh của Ngài thay thế cho sự yếu đuối của họ, sự tinh khiết cùa Ngài thay thế cho tội lỗi của họ, và sự minh triết của Ngài thay thế cho sự vô minh của họ, thì đó là một chân lý; vì Đấng Christ đã trở nên một với con người đến đỗi họ chia xẻ với Ngài và Ngài chia xẻ với họ. Ngài không thay thế cho họ được,nhưng Ngài đem sự sống của họ vào trong sự sống của Ngài, và Ngài tuôn sự sống của Ngài vào trong sự sống của họ. Vì thế khi đã tiến lên đến cõi hiệp nhất thì Ngài có thể chia sớt tất cả những gì Ngài đã đạt được. Vượt khỏi cõi giới chia rẽ và nhìn xuống những linh hồn đang ngụp lặn trong sự phân cách, Ngài có thể tiến đến với họ trong khi họ không thể đến với nhau. Nước có thể từ trên tuôn chảy vào nhiều đường ống, chúng cùng thông mở đối với bồn chứa nhưng lại là đóng kín đối với nhau. Chỉ cần một điều kiện để Christ có thể chia sớt sức mạnh của Ngài với một người em bé nhỏ là: trong đời sống ngăn cách ấy, tâm thức của y phải mở rộng hướng về tâm thức thiêng liêng, tự chứng tỏ dễ thụ cảm với sự sống đã được trao, sẵn sàng đón nhận quà tặng ấy. Vì Thượng Đế rất tôn trọng Tinh Thần (cũng chính là Ngài trong con người) đến đỗi Ngài không thể tuôn sức mạnh và sự sống của Ngài vào linh hốn con người trừ phi linh hồn ấy sẵn lòng chấp nhận nó. Ở dưới phải có cửa mở cũng như ở trên có sẵn nguồn. Bản tánh thấp phải có trạng thái đón nhận cũng như bản tánh cao sẵn sàng cho ra. Đó là dây liên kết giữa Christ và con người, điều mà các giáo hội gọi là sự tuôn xuống “ân điển thiêng liêng”, điều mà bởi “đức tin” để có được ân điển hữu hiệu. Như Giordano Bruno có nói: Linh hồn con người có những cửa sổ và nó có thể đóng lại. Mặt trời bên ngoài vẫn đang chiếu sáng, ánh sáng không hề thay đổi; hãy mở cửa sổ ra và ánh nắng sẽ tràn vào. Ánh sáng của Thượng Đế vẫn luôn đập vào cửa sổ của mỗi linh hồn con người, và khi cửa sổ mở ra thì linh hồn được chiếu sáng. Không có sự thay đổi trong Thượng Đế nhưng có sự đổi thay trong con người. Nhưng không nên cưỡng bức ý chí con người, nếu không, Sự Sống thiêng liêng trong y sẽ bị chận đứng trong bước đường tiến hóa của nó.
Như thế, trong mỗi Christ đang tiến lên tất cả nhân loại được nâng lên một bậc cao hơn và nhờ sự Minh Triết của Ngài mà sự vô minh của toàn thế giới được giảm bớt. Mỗi người bớt yếu hơn nhờ sức mạnh của Ngài tuôn ra cho tấ cả nhân loại và thấm nhuần vào mỗi linh hồn. Vì hiểu cạn hẹp và sai lầm giáo lý ấy, nên đã phát sinh một quan niệm về sự Cứu Chuộc thay thế như một sự giao tiếp chính thức giữa Thượng Đế và con người, trong đó đức Jesus giữ vai trò kẻ tội lỗi. Người ta không biết rằng Vị nào đã tiến hóa đến mức độ ấy quả thật là một với tấ cả những huynh đệ của Ngài. Sự đồng nhất về bản chất bị hiểu lầm thành sự thay thế cá nhân, và như thế chân lý tinh thần lạc mất đi.
Bấy giờ Ngài hiểu được vị trí của Ngài trong thế gian và nhiệm vụ của Ngài trong thiên nhiên- trở nên một Đấng Cứu Thế và cứu chuộc tội lỗi cho thế gian. Ngài đứng trong Nội Tâm của thế nhân như một Thầy Tư Tế Thượng Phẩm (High Priest) của nhân loại. Ngài là một với tất cả người huynh đệ, không phải bằng sự thay thế dùm, mà bằng sự đồng nhất trong một sự sống chung. Có tội lỗi chăng? Ngái cũng tội lỗi trong họ để cho sự tinh khiết của Ngài tinh luyện họ. Có khổ đau chăng? Ngài cũng là người đầy khổ đau trong họ, mỗi một trái tim tan vỡ làm tan vỡ tim Ngài. Có vui mừng chăng? Trong họ, Ngài cũng vui mừng và tuôn phát niềm chí phước của Ngài. Có khao khát chăng? Trong họ, Ngài cảm thấy niềm ước muốn sự hài lòng của Ngài tràn đầy người họ. Ngài có mọi điều vì những gì của họ đều là của Ngài. Ngài là toàn vẹn, vậy họ cũng toàn vẹn trong Ngài. Ngài mạnh mẽ, vậy ai có thể yếu hèn khi Ngài ở trong họ? Ngài tiến lên điểm cao để Ngài có thể tuôn xuống cho mọi người, và Ngài sống để mọi người cò thể chia sớt sự sống cùa Ngài. Ngài nâng cao toàn thể thế gian cùng lên với Ngài. Con đường đạo sẽ dễ dàng hơn cho tất cả mọi người vì Ngài đã bước qua. Mỗi người con của người ( son of man) có thể trở nên một người con của Thượng Đế (Son of God) biểu lộ ấy, một vị Cứu Thế. “Thượng Đế biểu lộ trong xác thịt) (I.Tim 3:16) trong mỗi người Con ấy. Để cho Quyền Năng ấy có thể biểu lộ trong linh hồn mỗi người, chỉ cần một điều là: linh hồn phải mở cửa đón Ngài vào. Dẫu Ngài thâm nhập tất cả, nhưng Ngài không thể ép buộc ý chí họ để vào được. Ý chí con người có thể chống lại Thượng Đế và con người. Nhưng theo luật tiến hóa, nó hẳn sẽ pải tình nguyện tự kết hợp với hành đông thiêng liêng. Không nên ép buộc nó khuất phục bất mãn. Hãy để cho ý chí tự mở cửa, rồi sự sống sẽ tràn vào linh hồn. Khi cửa còn đóng thì làn hương thơm chỉ nên thổi ngang qua dịu dàng để cho vị hương ngọt ngào có thể thắng lợi.
Trở thành một Đấng Christ là như thế. Nhưng làm sao một cây viết khả hoại có thể viết lại những điều bất hoại, hay những lời trần tục có thể kể lại những sự vượt quá khả năng của ngôn từ. Lưỡi không thể nói lên và trí khôn chưa giác ngộ không thể hiểu được sự mầu nhiệm của người Con đã trở thành một với Cha, mang theo vào lòng Ngài những đứa con của người.
Những ai muốn chuẩn bị tiến lên một đời sống như thế trong tương lai, thì ngay bây giờ, tại đời sống trần thế này, phải bắt đầu dấn thân trên con đường Bóng (Shadow) của Thập Tự. Họ không nên nghi ngờ khả năng tiến lên của họ vì như thế là nghi ngờ Thượng Đế ngự trong họ. “Hãy tin nơi bạn” đó là một trong những bài học phát xuất từ quan điểm cao siêu của con người, vì đức tin ấy thật sự ở trong Thượng đế nội tâm. Có một phương thức để cho bóng của đời sống Christ (Christ-life) có thể chiếu rọi vào đời sống thông thường của con người, đó là làm mỗi hành động như một hành động hy sinh, không phải để đem lại kết quả cho người làm mà là cho người khác; và trong những bổn phận nho nhỏ hàng ngày, những hoạt động tầm thường, những quan tâm nhỏ bé, hãy thay đổi động lực (motive) hành động, và như thế là thay đổi tất cả. Không cần phải thay đổi một điều gì trong đời sống bên ngoài. Trong bất cứ cuộc sống nào, người ta cũng có thể dâng hiến hy sinh. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, người ta cũng có thể phụng sự Thượng Đế. Sự tiến bộ tâm linh được đánh dấu không phải bằng công việc làm, mà bằng cách thức làm như thế nào. Cơ hội tăng trưởng không lệ thuộc hoàn cảnh, mà do theo thái độ của y đối với chúng. Và quả thật, biểu tượng thập tự + này đối với chúng ta là một tiêu chuẩn trắc nghiệm sự phân biệt điều tốt với điều xấu trong các trường hợp khó khăn của đời sống. “Chỉ những hành động nào có ánh sáng của thập tự chiếu rọi qua mới xứng đáng với đời sống của người đệ tử”, câu thi trong một quyển sách châm ngôn huyền bí có nói như thế. Nó có nghĩa là tất cả những gì mà người chí nguyện làm đều phải do lòng nhiệt tâm của tình thương hy sinh mách bảo. Câu thi sau cũng cùng tư tưởng trên: “Khi một người bước vào đường đạo, y đặt trái tim y lên trên thập tự. Khi thập tự và trái tim trở thành một, bấy giờ y đã đạt đến mục đích”. Như thế, bất đồ, chúng ta có thể đo lường mức tiến hóa của chúng ta bằng cách nhìn xem lòng vô ngã, tính hy sinh có ưu thế trong đời sống của chúng ta hay không.
Khi mỗi sự sống bắt đầu tự uốn nắn như thế, tức là nó đang chuẩn bị cái hang động để Trẻ Christ sẽ được sinh trong đó, và sự sống càng ngày hiệp nhất với sự sống thiêng liêng, càng ngày đem đời sống thiêng liêng vào trong đời sống con người. Mỗi một đời sống như thế sẽ tăng trưởng thành đời sống của một người “con yêu dấu” và có được sự vinh quang của Christ. Mỗi người có thể hoạt động theo chiều hướng đó để biến mỗi hành động thành một sự hy sinh, cho đến khi mỏ vàng được loại bỏ chất bẩn, chỉ còn lại chất vàng tinh anh.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks