Các cơ cấu tôn giáo vừa nói đều được Phật Thầy mệnh danh là trại ruộng. Tất cả tín đồ đều là cư sĩ tại gia, vừa làm lụng sanh nhai vừa tu hành tinh tấn. Các nông trại được coi như các chùa chiền và các đại đệ tử của Ngài được gọi là các Ông Đạo để làm những việc như các tăng sư truyền giáo.

Năm 1851, từng đoàn tín đồ của Phật Thầy chia nhau ra đi.

Đoàn khai hoang thứ nhất vào Thất Sơn, bên chân núi Két, nơi mà rừng bụi rậm rì, hổ báo lúc nào cũng có thể xuất hiện để đe dọa hoặc làm hại người ta được. Đoàn này chia làm hai nơi, một do ông Bùi Văn Thân tức Tăng Chủ Bùi Thiền Sư, một do ông Bùi Văn Tây tức Đình Tây chỉ huy. Nơi đây nông trại Hưng Thới và Xuân Sơn được dựng lên (9).

Đoàn khai hoang thứ hai do ông Quản Thành tức Đạo Thành (10) điều khiển, đem nhau đến Láng Linh, một vùng bùn lầy, mùa lụt như biển cả mà mùa hạn thì như bải cát hoang. Địa thế không thuận lợi mấy cho nông nghiệp nhưng rất đắc địa cho khách ẩn cư tịch mịch. Tại vùng này, một trại ruộng mệnh danh là Bửu Hương Các được dựng lên.

Đoàn thứ ba do ông Đặng Văn Ngoạn đưa về miền Cần Lố, bên kia bờ Tiền Giang (vùng Đồng Tháp Mười). Một ngôi chùa được dựng lên tại Trà Bông để các tín đồ chiêm bái; còn ruộng rẫy thì mở ra khắp nẻo rạch Trà Bông, trong lòng Cần Lố, lạch ông Bường (11).

Đoàn thứ tư về Cái Dầu, nay là xã Bình Long, sát hữu ngạn Hậu Giang, nơi có nhiều phù sa, tuy không phải chỗ hoàn toàn hoang lâm, nhưng vẫn còn mênh mông đất rộng, ông Nguyễn Văn Xuyến, tức Đạo Xuyến, đã cai quản các tín đồ sinh hoạt tại địa điểm này (12).

Tất cả các nhân vật điều khiển các nông trại Bửu Sơn Kì Hương mà chúng ta vừa biết đều là những người đạo đức gương mẫu, thông Phật pháp, giỏi võ nghệ, đầy lòng vị tha:

Bùa linh đốt cứu người đau đớn,
Phù Phật dành dưng kẻ thiện duyên…

Họ kiên nhẫn và bất vụ lợi, tinh thần khoáng đạt:

Giày cỏ đến lui trời đất rộng,
Áo sen xài xạc núi sông dài (13).

Cho nên với cuộc sống đơn bạc, họ đã động viên hằng ngàn nhân lực đến mỗi nơi để sau đó thành lập thôn ấp, phát triển đạo đức.

Nhiều làng xã như Hưng Thới, Xuân Sơn, Bình Long, Thạnh Mĩ, Vĩnh Hanh…(thuộc Long Xuyên – Châu Đốc) hoặc ở Đồng Tháp (thuộc Sa Đéc - Kiến Phong), ở Trà Bang (Rạch Giá)… đều đã do bàn tay, lưỡi cuốc khai phá của người tín đồ Bửu Sơn Kì Hương mà nên.

Chặng đời từ 1851 trở đi, tuy tiếng là tại núi Sam, nhưng thật ra Phật Thầy luôn luôn vân du hóa độ. Tài liệu chắc chắn có thể kiểm chứng được cho thấy ngoài Châu Đốc – Đông Xuyên, nơi có sự trông nom của Đức Phật Thầy và ông Đạo Thành, công việc truyền giáo về cao Miên có ông Đạo Lãnh, Bà Năm Chòm Dầu; về Sa Đéc – Vĩnh Long có ông Đạo Ngoạn; về các tỉnh Biên Hoà - Định Tường có ông Đạo Xuyến; về Hà Tiên - Rạch Giá có ông Đạo Lập (14). Những tu sĩ nầy được mật truyền tâm pháp và thảy đều nổi tiếng là những bậc chân sư.

Phật Thầy thọ 50 tuổi, viên tịch tại Chùa Tây An núi Sam vào giờ Ngọ, ngày 12 tháng 8 năm Bính Thìn (1856).

Nhìn Bửu Sơn Kì Hương qua hành chỉ của vị Giáo Tổ, qua giáo lí và các tổ chức sinh hoạt của tông phái này, chúng ta thấy thể hiện ở đây một cải cách lớn, một sáng tạo đặc biệt chẳng riêng cho Phật Giáo Việt Nam mà là một đóng góp xứng đáng cho cả một dân tộc (15).

Giữa khi mà đất nướcli loạn liên miên gây ra bởi tham vọng của con người đồng chủng (chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn Ánh, tranh chấp Minh Mạng – Lê Văn Khôi), bởi tham vọng của những kẻ dị chủng (mấy trận xâm lăng của Xiêm và những dấy loạn của Miên) kế đến là những tà quỉ mị đạo mê hoặc lợi dụng, những cướp của sát nhân của những tên gian đạo sĩ (đồng cốt bóng chàng lường gạt trân tráo đến phải phạt khổ sai mà không bỏ; nào loạn Sải Kế, nào giặc Sải Sâm), rồi tới nền kinh tế phát triển quá mức trên một vùng phì nhiêu nhất của đất nước làm thu hút đủ loại người chen đua, giành giựt, hư hèn (miền Hậu Giang hồi thế kỷ 19 đã tập trung nhiều giống người Chàm, Xiêm, Miên, Lào, Đồ Bà, Trung hoa ở lẫn với Việt Nam) v.v… giữa lúc ấy nếu không xuất hiện một phong trào chấn hưng đạo đức thích ứng như công đức hoằng hóa của Bửu Sơn Kì Hương thì chắc chắn miền Nam này sẽ trở thành cái rún biển chất chồng tội ác, hoặc là một trong những ung nhọt của thế giới văn minh rồi.

Nội bấy nhiêu đó cũng đủ làm bừng sáng ý nghĩa trong sự hiện diện của Bửu Sơn Kì Hương.


Sưu tầm từ nguồn:

GS Nguyễn Văn Hầu.

CHÚ THÍCH:
(1) Năm Gia Long thứ bảy (1808) bắt đầu đặt trấn Vĩnh Thanh, thuộc quyền Gia Định thành, có một phủ (Định Viễn) và ba huyện (Vĩnh Bình, Vĩnh an và Tân An).
(2) “Nửa Tháng Trong Miền Thất Sơn”, Hương Sen xuất bản, 1971.
(3) Phải chăng là để nhắc lại việc này, Đức Huỳnh Giáo Chủ có viết trong bài Thiên lý ca hai câu rất đúng với sự kiện và cảnh ngộ.
Bửa xưa Giảng kệ một nang,
Bởi vì ta mắc đời thoàn cảnh xa.
Đức Phật Thầy Tây An quả đã để lại đình thần Tòng Sơn một mo nang Giảng kệ và trên chiếc xuồng bần, Ngài đã dời thoàn ra đi, không trở lại
(4) Mục Minh Mạng nguyên niên, tờ 8a.
(5) Xem Thoại Ngọc Hầu và Những Cuộc Khai Phá Miền Hậu Giang, Hươ ng Sen xuất bả n, 1973.
(6) Bản Triều Bạn Nghịch Liệt Truyện, mục Thiệu Trị nguyên niên, tờ 21b.
(7) Đại Nam Nhất Thống Chí, phần An Giang tỉinh, mục Tự quan, tờ 29b. Trong quyển Mùa Đông đã chép sai chi tiết này.
(8) Nhận Thức Phật Giáo Hòa Hảo, Hương Sen xuất bản, 1969.
(9) Thất Sơn Mầu Nhiệm, Từ Tâm tái bản, 1972.
(10) Cuộc Khởi Nghĩa Bảy Thưa, Tân Sanh xb 1956.
(11) Theo Đạo Ông Giảng Tập của Đặng Công Hứa bản Nôm lục bát, không đề năm sang tác. Nội dung nói về cuộc đời hành đạo của ông Đạo Ngoạn.
(12) Sự Thôn Thuộc và Khai Thác Đất Tầm Phong Long. Sử Địa số 19, 20, 1970.
(13) Trích Liên Hoàn Thập Thủ của ông Đạo Lãnh (có thể do Phật Thầy bảo viết).
(14) Xem Thất Sơn Mầu Nhiệm, Từ Tâm tái bản, 1972.
(15) Những xưng hô về sau phần nhiều là những lạm dụng hoặc lợi dụng. Người ta bắt chước theo một vài điều gì đó của căn gốc Phật Thầy rồi tự xưng mình cũng thuộc tông phái của Ngài để lấy uy tín. Sự thật đều là sai lạc chánh truyền. Chẳng hạn họ thấy Bửu Sơn Kì Hương có ân đất nước, có tranh đấu cứu quốc nên lợi dụng để quyến rũ quần chúng. Trường hợp “Lá Cờ Phản Nghịch” có mang bốn chữ Bửu Sơn Kì Hương kèm theo những phù chú nhăng nhít của một nhóm Thiên Địa Hội làm từ năm Ất Mão (1915), bị thực dân Pháp bắt được năm 1916 mà giáo sư G. Coulet đã đề cập (Drapeau de l’insurrection de 1916 en Cochinchine) là một. Một trường hợp khác là có một số người lạm dụng tấm trần đỏ của Đức Phật Thầy để tôn thờ nhưng không tu học đúng tôn chỉ của Ngài. Điều này đã được Đức Giáo chủ PGHH minh giải: “Từ trước chúng ta thờ Trần Điều là di tích của Đức Phật Thầy Tây An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần điều tự xưng cùng tong phái với chúng ta làm sái phép, sái với tôn chỉ của Đức Phật, nên toàn thể trong đạo đổi lại màu dà. (Tôn Chỉ Hành Đạo, xb tháng 6 năm 1965).