Đức Phật bị lửa phỏng da bàn chân

Trong quá khứ, Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là đứa trẻ nghịch ngợm đang chơi ở ngoài đường, nhìn thấy Đức Phật Độc Giác đang đi khất thực, Đức Bồ Tát đốt lửa vây quanh Ngài.

Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới, chịu quả khổ cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát khỏi cõi địa ngục.

Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, do năng lực của nghiệp ác ấy còn dư sót chút đỉnh, nên Đức Phật bị lửa phỏng da bàn chân.

Tuyển chọn nhóm xạ thủ bắn Đức Phật

Trong quá khư, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là một tướng lĩnh giết hại nhiều kẻ thù.

Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác sát sanh cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục.

Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, do năng lực của nghiệp ác cũ ấy còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ-khưu Devadatta tuyển chọn nhóm xạ thủ cung nỏ bắn tên, để giết hại Đức Phật. Nhóm xạ thủ không thể bắn mũi tên ra được, đến đảnh lễ sám hối; Đức Phật thuyết pháp tế độ, họ đều trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Đức Phật bị đụng mảnh đá nơi ngón chân cái (Silāvedho)

Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình giàu sang, có một người em trai cùng cha khác mẹ. Khi cha mẹ qua đời, để lại một gia tài lớn. Hai anh em mỗi người có một đám gia nhân tùy tùng riêng; vì nghe lời xúi giục của đám gia nhân ấy, nên hai anh em gây gỗ, sát hại lẫn nhau, để chiếm đoạt toàn bộ tài sản của cải về mình. Đức Bồ Tát là anh có sức mạnh hơn người em, xô đẩy người em té xuống hốc đá, rồi dùng đá lăn đè chết người em trai.

Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác sát sanh cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài nhiều ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục.

Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, còn Tỳ-khưu Devadatta cùng trong dòng dõi là con trai bà cô và ông cậu, cũng là hoàng huynh của Công chúa Yasodharā.

Tiền kiếp của Tỳ-khưu Devadatta và tiền kiếp của Đức Bồ Tát Siddhattha là hai người buôn bán nữ trang được tóm lược như sau:

Thuở quá khứ, Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật, là người buôn bán nữ trang lương thiện, và tiền kiếp của Tỳ-khưu Devadatta cũng là người buôn bán nữ trang, nhưng có tánh tham lam và gian ác. Một gia đình trước kia là phú hộ, nhưng bây giờ tất cả tài sản đều bị khánh kiệt, chỉ còn cái mâm bằng vàng ròng bị bụi bám đầy. Thừa kế gia đình ấy chỉ còn một bà ngoại già và đứa cháu gái, họ không hề biết gì về giá trị của chiếc mâm vàng ấy.

Một hôm, có người buôn bán nữ trang (tiền kiếp của Tỳ-khưu Devadatta) từ xa đến, đi ngang nhà, cô cháu gái thấy, liền năn nỉ xin bà ngoại mua cho mình một món nữ trang.

Bà ngoại già âu yếm bảo với cháu gái rằng: “Này cháu yêu quý! Ngoại không tiếc gì cho cháu cưng đâu. Hiềm một nỗi gia đình mình hiện nay nghèo quá, cơm áo không đủ dùng, thì lấy đâu có tiền bạc mà mua nữ trang cho cháu. Chỉ còn cái mâm cũ kỹ kia, để ngoại hỏi người lái buôn xem thử có đổi được món nữ trang nhỏ nào cho cháu không”.

Bà liền gọi người lái buôn vào, đưa cái mâm cũ kỹ cho y xem. Sau khi săm soi kỹ, với con mắt nhà nghề, người lái buôn biết rõ là cái mâm bằng vàng ròng quý giá, mà hai bà cháu không hề biết được giá trị của nó. Tánh vốn tham lam và gian ác, y tự nghĩ: “Ta phải chiếm đoạt cái mâm vàng này, mà chỉ cần đổi một món nữ trang nho nhỏ không đáng giá”. Nghĩ xong, y giả vờ bực dọc ném cái mâm xuống đất rồi nói:

- Cái mâm cũ kỹ này chẳng có giá trị gì cả, nó không đáng giá 12 xu rưỡi! Lấy đâu để đổi lấy một món nữ trang?

Nói xong, người lái buôn tham lam và gian ác kia liền bỏ đi nơi khác.

Ngày hôm sau, người lái buôn lương thiện (Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật) đi ngang nhà, cô cháu gái khóc lóc năn nỉ đòi nữ trang cho bằng được. Vì rất thương yêu và muốn vừa lòng cháu, bà gọi người lái buôn vào nhà, lại đem cái mâm cũ kỹ kia đưa cho người lái buôn này xem. Lần này, thì bà kể lể về hoàn cảnh khốn khổ của mình cho người lái buôn nghe, với hy vọng đổi được món nữ trang nhỏ nào đó cho cháu.

Nhà lái buôn lương thiện cầm cái mâm, lau chùi lớp bụi, phát hiện ra cái mâm này không chỉ là một cái mâm bằng vàng ròng tinh chất quý giá, mà còn chạm trổ những phù điêu, hoa văn tinh tế, công phu, thật là một nghệ thuật tuyệt vời.

Đức Bồ Tát hai tay nâng niu cái mâm và từ tốn thưa rằng:

- Thưa mẹ, cái mâm này không những bằng vàng ròng tinh chất, mà còn là một cổ vật quý giá, ít nhất khoảng trên 100 ngàn Kahāpana (đồng tiền vàng Ấn Độ thời xưa). Tất cả giá trị nữ trang và tiền bạc của con mang theo bên người chưa bằng được một phần trăm, thì con đâu dám đụng đến cổ vật vô giá ấy.

Bà ngoại già vô cùng cảm kích trước tấm lòng chân thật của người lái buôn lương thiện, chân thành nói:

- Này con, chính tấm lòng chân thật của con quý hơn cả cổ vật này. Hôm trước có người lái buôn nữ trang như con đã chê cái mâm này. Y nói cái mâm này chưa đáng giá 12 xu rưỡi. Khi đi, y còn ném cái mâm xuống đất và thốt lên những lời hằn học nữa. Nếu quả thật, nó bằng vàng quý giá như con nói, thì đó chính là quả phước của con. Vậy, con hãy lấy đi rồi cho cháu ta một món nữ trang nào cũng được, con đừng ái ngại.

Sau nhiều lần từ chối không được, Đức Bồ Tát đành trao lại tất cả số nữ trang và trọn số tiền của mình, tổng cộng giá trị khoảng một ngàn (1.000) đồng tiền vàng cho hai bà cháu, chỉ xin lại tám đồng để chi phí dọc đường.

Đức Bồ Tát đã đem cái mâm vàng ra đi. Sau đó, thì người lái buôn tham lam gian ác trở lại tìm bà cụ, y bảo:

- Này bà già, hãy đem cái mâm cũ kỹ kia ra đây, tôi sẽ bố thí cho cháu bà một món nữ trang nho nhỏ!

Bà cụ nhìn thấy y, con người gian giảo đáng khinh bỉ, bà bảo:

- Này ông kia, cái mâm vàng của tôi đáng giá 100 ngàn đồng, sao trước đây ông chê, cho rằng nó chưa đáng giá 12 xu rưỡi? Tôi đã bán cho một người lái buôn nữ trang lương thiện, ông ấy đã trao cho tôi trọn số tiền 500 đồng của mình và tất cả số nữ trang còn lại. Tôi đã trao cái mâm vàng cho người ấy mang đi xa rồi.

Nghe nói vậy, người lái buôn tham lam và gian ác cảm thấy vô cùng tiếc rẻ gào lên:

- Ôi! Ta đã bị thiệt hại quá lớn rồi! Tên lái buôn kia đã cướp cái mâm bằng vàng đáng giá 100 ngàn đồng của ta rồi!

Gào thét đến khô hơi tắt tiếng, tâm uất hận đến cực độ, tên lái buôn nằm lăn xuống đất ngất xỉu. Khi tỉnh dậy, như người điên, y xả bỏ quần áo, đồ nữ trang vung vãi, với đầu bù tóc rối, y chạy đuổi theo Đức Bồ Tát. Lúc ấy, Ngài đã qua quá nửa dòng sông, vẫn nghe văng vẳng tiếng gào thét của y: “Hãy trở lại! Hãy trở lại!”. Ngài bảo người lái đò chèo thẳng qua bên kia sông.

Bên bờ sông này, quá thất vọng và tiếc của, quá uất hận, cơn nóng giận cực độ làm cho người lái buôn máu trào ra miệng, lăn ra chết ngay tại chỗ. Trước khi tắt thở, với tâm sân hận y thốt ra lời nguyền độc địa kết oan trái với Đức Bồ Tát: “Ta sẽ kết oan trái với ngươi dù bất cứ ở địa vị nào”. Đó là lần kết oan trái đầu tiên giữa tiền kiếp của Tỳ-khưu Devadatta với tiền kiếp của Đức Phật.

Bởi vậy, trong suốt khoảng thời gian tử sinh luân hồi, hễ mỗi khi hai người gặp lại nhau, ở hoàn cảnh nào, địa vị nào, hậu kiếp của người lái buôn tham lam gian ác kia cũng tìm cách giết hại hoặc làm khổ Đức Bồ Tát; dù ở địa vị làm cha, Đức Bồ Tát làm con, thì người cha ấy cũng tìm đủ lý do để giết hại Đức Bồ Tát. Thậm chí cho đến kiếp cuối cùng; hậu kiếp của người lái buôn nữ trang lương thiện trước kia, nay là Thái tử Siddhattha, đã chứng đắc thành bậc Chánh Đẳng Giác, và hậu kiếp của người lái buôn tánh tham lam gian ác trước kia, nay là Hoàng tử Devadatta dòng Sakya (thân quyến của Thái tử Siddhattha) xuất gia trở thành Tỳ-khưu Devadatta, đệ tử của Đức Phật; Tỳ-khưu Devadatta tìm đủ mọi mưu mô thâm độc để giết hại Đức Phật. Nhưng do oai lực của Đức Phật Chánh Đẳng Giác, cho nên không một ai trên thế gian có khả năng giết hại được Ngài.

Do năng lực nghiệp ác cũ sát sanh của Đức Phật ấy còn dư sót chút đỉnh, nên khiến Tỳ-khưu Devadatta leo lên núi Gijjhakūṭa xô tảng đá lăn xuống, trên đường Đức Phật đi kinh hành, tảng đá bị ngăn lại, chỉ vỡ một mảnh đá nhỏ rơi xuống đụng phải đầu ngón chân cái của Đức Phật, làm bầm máu mà thôi. Như vậy, Tỳ-khưu Devadatta phạm phải một trong năm trọng nghiệp vô gián.

Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài:

Trong tiền kiếp quá khứ, Như Lai đã giết người em trai cùng cha khác mẹ, vì nguyên nhân tranh đoạt gia tài của cha mẹ để lại, Như Lai đã xô em trai xuống hốc đá, rồi lăn đá đè chết.

Do quả của nghiệp ác cũ ấy, kiếp chót này, Như Lai bị Tỳ-khưu Devadatta xô tảng đá lăn xuống, nhưng tảng đá bị ngăn lại, chỉ vỡ một mảnh đá nhỏ văng ra đụng vào ngón chân cái của Như Lai.

Đức Phật bị mảnh đá đụng ngón chân cái làm bầm máu (Sakalikāvedha)

Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong một gia đình bình thường; khi còn nhỏ rất tinh nghịch, cậu bé đang chơi giữa đường lớn, nhìn thấy Đức Phật Độc Giác đang đi khất thực, cậu bé nghĩ: “Samôn trọc đầu đi đâu?”, rồi cầm một mảnh đá ném vào sau lưng Đức Phật Độc Giác, đụng phải gót chân của Ngài làm trầy da, chảy máu.

Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục.

Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Đức Phật đang đi kinh hành tại núi Gijjhakūṭa, do năng lực của nghiệp ác cũ trong quá khứ còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ-khưu Devadatta xô tảng đá lăn xuống, tuy tảng đá bị cản lại, nhưng một mảnh đá nhỏ vỡ văng ra đụng vào ngón chân cái của Đức Phật, làm cho bầm máu. Đó là do quả của nghiệp ác cũ quá khứ của Ngài.

Đức Phật bị mổ vết thương bằng dao (Satthaccheda)

Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là Đức vua một nước nhỏ ngoài trung xứ, Đức vua Bồ Tát gần gũi thân cận với các vị quan cận thần ác, nên trở thành Đức vua ác. Một ngày nọ, Đức vua nổi khùng cầm gươm, đi chân trần (không mang dày dép) ra khỏi cung điện chạy vào thành giết chết nhiều người vô tội.

Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác sát sanh ấy cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, ngạ quỷ, atula, súc sinh, chịu quả khổ cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi 4 cõi ác giới.

Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Do năng lực của nghiệp ác cũ trong quá khứ còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ-khưu Devadatta xô tảng đá lăn xuống, một mảnh đá nhỏ văng đụng, làm ngón chân cái của Ngài bị bầm máu.

Về sau, thái y Jīvaka dùng con dao bén mổ vết thương lấy máu bầm ra với tâm từ; đó là nghiệp thiện, để chữa trị vết thương ở đầu ngón chân cái của Đức Phật.

Tỳ-khưu Devadatta làm bầm ngón chân Đức Phật, bằng mảnh đá với tâm sân, nên phạm phải trọng ác nghiệp gọi là nghiệp vô gián (anantariyakamma) chắc chắn sẽ cho quả tái sinh trong cõi địa ngục Avecī.

Đức Phật dạy về nghiệp cũ của Ngài:

Trong tiền kiếp quá khứ, Như Lai là Đức vua đi chân trần cầm gươm vào thành giết người vô tội. Sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ bị hành hạ thiêu đốt trong địa ngục suốt thời gian lâu dài, cho đến mãn nghiệp ác ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa ngục.

Do quả của nghiệp ác cũ còn dư sót chút đỉnh, kiếp hiện tại, kiếp chót này, Như lai bị mổ lấy máu bầm ở vết thương đầu ngón chân cái của Như Lai; bởi vì nghiệp cũ còn năng lực cho quả.

Đức Phật bị voi Nāḷāgiri rượt đuổi

Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là người nài voi, đang cỡi voi đi, nhìn thấy Đức Phật Độc Giác đang đi trên đường, Đức Bồ Tát nài voi liền nghĩ rằng: “Samôn đầu trọc này từ đâu đến đây?”. Y phát sinh tâm sân làm cho con voi nổi giận rượt theo Đức Phật Độc Giác.

Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục.

Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Do năng lực của nghiệp ác cũ trong quá khứ còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ-khưu Devadatta đến gặp Vua Ajātasattu trình tâu âm mưu dùng voi Nāḷāgiri hung dữ để sát hại Đức Phật; Đức vua chấp thuận.

Tỳ-khưu Devadatta ra lệnh người quản tượng:

- Ngày mai, ngươi phải cho hung tượng Nāḷāgiri uống 16 hũ rượu, say điên cuồng rồi thả ra theo con đường mà Samôn Gotama thường hay đi vào thành khất thực, để nó chạy thẳng đến chà chết Samôn Gotama.

Sáng hôm ấy, Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng đang ngự vào thành Rājagaha, voi Nāḷāgiri nhìn thấy Đức Phật từ xa ngự đến, liền cuộn vòi, quạt hai lỗ tai, cong đuôi chạy thẳng đến nơi Đức Phật, ví như một quả núi đang bổ nhào về phía Ngài. Đức Phật liền niệm rải tâm từ đến voi Nāḷāgiri, rồi gọi bằng một giọng phạm âm ngọt ngào trìu mến:

- Này Nāḷāgiri con yêu quý! Người ta cho con uống 16 hũ rượu mạnh, làm cho con say điên cuồng, để con giết hại Như Lai.

Con hãy đến đây với Như Lai, này Nāḷāgiri yêu quý!

Voi Nāḷāgiri hung ác nghe giọng phạm âm ngọt ngào trìu mến của Đức Phật, liền mở mắt, ngẩng đầu nhìn thẳng thấy kim thân Đức Phật tỏa ra ánh từ bi, thì lập tức cơn say điên cuồng tan biến mất, tâm thức tỉnh. Do nhờ oai lực tâm từ của Đức Phật, voi Nāḷāgiri hạ vòi xuống, ngoan ngoãn đi lần đến, quỳ một cách cung kính dưới đôi bàn chân của Đức Phật.

Đức Phật thuyết pháp tế độ voi Nāḷāgiri, toàn thân tâm của voi Nāḷāgiri phát sinh hỷ lạc chưa từng có. Nếu không phải là loài súc sanh, thì sau khi nghe pháp xong chắc chắn voi Nāḷāgiri đã chứng đắc một trong những Thánh Đạo - Thánh Quả nào đó của các bậc Thánh; nhưng vì voi Nāḷāgiri là loài súc sanh, nên không thể chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả được.

Từ đó về sau, voi Nāḷāgiri trở thành voi hiền lành dễ mến cho đến trọn đời của nó.

Đức Phật dạy về nghiệp cũ của Ngài:

Trong tiền kiếp quá khứ, Như Lai là người quản tượng, đang cỡi voi đi trên đường, Đức Bồ Tát quản tượng làm cho con voi nổi giận rượt đuổi Đức Phật Độc Giác đang đi khất thực, sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới chịu quả khổ cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới thoát ra khỏi 4 đường ác đạo.

Do năng lực của nghiệp ác cũ còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ-khưu Devadatta sai người quản tượng thả voi Nāḷāgiri chạy nhào đến trước mặt Như Lai đang đi vào kinh thành Rājagaha để khất thực.

Đức Phật bị bệnh đau đầu (sīsadukkha)

Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình ngư dân, Đức Bồ Tát cùng đám ngư dân đến chỗ bắt cá, nhìn thấy đám ngư dân bắt được cá rất nhiều gom thành đống lớn, Đức Bồ Tát cùng tất cả đám ngư dân liền phát sinh tâm hoan hỷ về sự sát sanh ấy.

Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi cõi ác giới.

Kiếp hiện tại, kiếp chót Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Do quả của nghiệp ác cũ hoan hỷ sự sát sanh, trong quá khứ ấy còn dư sót chút đỉnh, nên đôi khi Đức Phật bị bệnh đau đầu; còn tiền kiếp của đám ngư dân trong quá khứ, nay kiếp hiện tại sinh trong hoàng tộc dòng Sakya đều bị tiêu diệt bởi Đức vua Viḍaḍūbha.

Đức Phật dạy về nghiệp cũ của Ngài:

Tiền kiếp của Như Lai sinh trong xóm ngư dân. Nhìn thấy đám ngư dân bắt được cá rất nhiều, Như Lai phát sinh tâm hoan hỷ.

Do năng lực của nghiệp ác cũ còn dư sót chút đỉnh đôi khi cho quả bệnh đau đầu phát sinh trong kiếp chót của Như Lai, còn đám ngư dân trong quá khứ, nay là dòng họ Sakya bị Đức vua Viḍaḍūbha tàn sát tất cả.

Đức Phật độ cơm gạo đỏ (yavakhādana)

Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình thuộc giai cấp thấp, kém học thức, là kẻ si mê (andhabāla). Đức Bồ Tát nhìn thấy chư Tỳ-khưu Thanh Văn đệ tử của Đức Phật độ vật thực ngon lành, cơm gạo sāli, nên Đức Bồ Tát đã xúc phạm rằng: “Các Samôn đầu trọc này hãy dùng cơm gạo đỏ, đừng dùng cơm gạo sāli...”.

Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác khẩu ấy cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi 4 cõi ác giới.

Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Ngài cùng chư Tỳ-khưu Tăng du hành khắp mọi nơi, thuyết pháp tế độ cho chúng sinh có duyên lành nên tế độ.

Một thuở nọ, Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ-khưu Tăng ngự đến xứ Verañjā. Hay tin Đức Phật đã ngự đến, ông Bàlamôn Verañja đến hầu Đức Phật, để đấu khẩu tranh tài với Đức Phật, nhưng ông Bàlamôn không thể thắng được Đức Phật, liền hồi tâm tỉnh trí phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, lắng nghe chánh pháp liền chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu. Ông thành kính đảnh lễ Đức Phật, thỉnh cầu Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng an cư nhập hạ 3 tháng mùa mưa tại xứ Verañjā này.

Đức Phật im lặng nhận lời thỉnh cầu của ông Bàlamôn.

Từ ngày ấy, Ma vương tâm ác làm cho tâm của dân chúng xứ Verañjā mê muội, và đồng thời khi ấy tại xứ Verañjā đang gặp phải hạn hán mất mùa, nạn đói phát sinh, dân chúng bị chết đói rất đông; bởi do thiếu thốn vật thực, cho nên Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ-khưu Tăng đi khất thực, không có một ai cúng dường để bát.

Đoàn người lái buôn từ xứ Uttarāpatha cùng với 500 cỗ xe ngựa vừa đến xứ Verañjā gặp mùa mưa, nên đành phải trú lại. Họ nhìn thấy chư Tỳ-khưu đi khất thực nhưng không được gì, họ phát sinh thiện tâm làm phước thiện bố thí cúng dường phần lúa đem theo làm vật thực cho ngựa, giã ra thành gạo đỏ, nấu cơm, chư thiên bỏ thêm vào hương vị trời, rồi cúng dường để bát đến Đức Phật cùng nhóm 500 chư Tỳ-khưu Tăng đệ tử của Ngài.

Như vậy, Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ-khưu Tăng độ cơm gạo đỏ suốt 3 tháng trong mùa an cư nhập hạ năm ấy, cho đến ngày làm đại lễ Pavāraṇā (lễ yêu cầu thỉnh mời chỉ lỗi của mình) trước ngày mãn hạ, Ma vương tâm ác không còn làm cho dân chúng xứ Verañjā mê muội nữa. Thật vậy, ông Bàlamôn Verañja nhớ lại trước đây 3 tháng, có thỉnh mời Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ-khưu Tăng đê tử của Ngài an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại xứ Verañjā này, mà ông đã quên hẳn, nên suốt thời gian nhập hạ ông không cúng dường bốn thứ vật dụng đến Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ-khưu Tăng.

Ông Bàlamôn Verañja đến hầu Đức Phật, kính thỉnh Ngài cùng nhóm 500 Tỳ-khưu Tăng ngày hôm sau, ông xin làm phước đại thí cúng dường đến chư Tỳ-khưu Tăng có Đức Phật chủ trì, đồng thời ông kính xin Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng tha thứ tội lỗi mê muội quên hẳn bổn phận của ông.

Thật ra, đó là nghiệp ác cũ mà Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama. Nghiệp ác cũ ấy cho quả không những một mình Đức Phật phải chịu quả khổ, mà nhóm 500 Tỳ-khưu Tăng đệ tử của Ngài cũng bị ảnh hưởng quả của nghiệp ác ấy.

Đức Phật bị bệnh đau lưng (piṭṭhidukkha)

Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình giàu sang, Đức Bồ Tát có dáng vóc lùn, nhưng có sức mạnh phi thường.

Thời ấy, có một võ sĩ đô vật thân hình vạm vỡ, qua những trận đọ sức với các đối thủ từ khắp tỉnh thành cho đến thủ đô, y đều toàn thắng, y tự cho mình là người vô địch. Một hôm, võ sĩ này đến quê hương của Đức Bồ Tát, cũng như các nơi khác, không có một đối thủ nào có thể đọ sức nổi với y; cho nên, y huyênh hoang tự đắc cho mình là người vô địch, rồi hãnh diện lên đường đi đến nơi khác.

Khi ấy, Đức Bồ Tát nghĩ rằng:

“Người võ sĩ này đã thắng tất cả các võ sĩ đô vật trên quê hương của ta, rồi ra đi với vẻ tự cao ngã mạn như vậy”.

Đức Bồ Tát liền đến gặp y vỗ tay bảo rằng:

- Ngươi hãy đến đây, đọ sức với ta rồi đi!

Võ sĩ đô vật cười khanh khách và nghĩ rằng:

- Các địch thủ to lớn, ta còn thắng một cách dễ dàng, huống gì dáng người thấp lùn này, ta chỉ cần dùng một tay là đủ.

Y vỗ tay đi đến gặp Đức Bồ Tát. Hai người bắt tay lẫn nhau trước khi đọ sức.

Đức Bồ Tát vồ đến ôm gọn thân hình vạm vỡ của y, nhấc hỏng chân lên, đưa lên hư không, quay vòng tròn, rồi dộng vai mạnh xuống mặt đất làm y sụn cột xương sống, rồi để y nằm dài trên mặt đất, không còn cựa quậy được nữa.

Dân chúng trong xứ thấy vậy vỗ tay tán dương khen thưởng Đức Bồ Tát đã thắng được một võ sĩ đô vật lừng danh, rồi họ tặng cho Đức Bồ Tát những phần thưởng vô cùng quý giá.

Đức Bồ Tát chữa trị lại phần xương vai, xương cột sống cho võ sĩ, rồi đỡ y đứng dậy và dạy bảo y, từ nay về sau không nên đọ sức so tài với ai nữa.

Mỗi khi Đức Bồ Tát được tái sinh làm người, nghiệp ác làm khổ võ sĩ đô vật ấy, nếu có cơ hội cho quả, thì Đức Bồ Tát thường bị đau lưng, đau mình nhức mỏi.

Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoàn toàn không còn khổ tâm do phiền não nữa; nhưng Đức Phật vẫn còn khổ thân tứ đại, thường mắc bệnh đau lưng... Cho nên, đôi khi Đức Phật đang thuyết pháp, bệnh đau lưng phát sinh, Ngài truyền dạy Đại đức Sāriputta hoặc Đại đức Mahāmoggallāna thay thế Ngài tiếp tục thuyết pháp; còn Ngài cho đệ tử trải y nằm nghỉ, để giảm bớt cơn đau lưng. Đó là quả của nghiệp cũ.

Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài:

Trận đô vật, Như Lai đã làm khổ võ sĩ đô vật trong thời quá khứ; nay kiếp hiện tại, do quả của nghiệp cũ ấy, nên bệnh đau lưng phát sinh đến cho Như Lai.

Đức Phật bị bệnh đại tiện ra máu (atisāra: bệnh kiết lỵ)

Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình thầy thuốc. Đức Bồ Tát trưởng thành sinh sống bằng nghề làm thầy hốt thuốc chữa bệnh cho mọi người. Khi Đức Bồ Tát chữa bệnh cho con trai một phú hộ; người con trai phú hộ trả tiền công hốt thuốc không xứng đáng. Vì không hài lòng nên Đức Bồ Tát đã hốt thuốc xổ cho con trai phú hộ uống.

Khi Đức Bồ Tát được tái sinh làm người, do nghiệp ác cho uống thuốc xổ ấy, nếu có cơ hội cho quả, thì Đức Bồ Tát bị bệnh kiết lỵ, đi đại tiện ra máu.

Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vào năm 35 tuổi. Từ đó về sau, suốt 45 năm thuyết pháp tế độ cho chúng sinh giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Lúc Đức Phật tròn 80 tuổi, đúng vào ngày rằm tháng tư âm lịch, ngày cuối cùng Ngài tịch diệt Niết Bàn. Sau khi Đức Phật độ món ăn đặc biệt bổ dưỡng sūkuramaddava của ông Cunda kammāraputta, và có thêm phần hương vị của chư thiên ở các cõi trời bỏ vào món ăn ấy, để bồi bổ tăng thêm sức mạnh trong cơ thể của Ngài. Trên đường đến khu rừng Kusinārā, Đức Phật cùng chư Tỳ-khưu Tăng trên đường ngự đến khu rừng Kusinārā, Ngài bị lâm bệnh kiết lỵ đi đại tiện ra máu, làm cho cơ thể mệt nhoài, lại thêm khát nước, Ngài phải ngừng lại nằm nghỉ ngơi một lúc, rồi mới tiếp tục ngự đến khu rừng Kusinārā, Đức Phật tịch diệt Niết Bàn vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch).

Đức Phật là bậc cao thượng nhất trong tam giới, thế mà vẫn không sao tránh khỏi nghiệp ác cũ.

Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài:

Tiền kiếp Như Lai làm nghề thầy thuốc, làm vị thầy chữa bệnh cho con phú hộ; do không hài lòng, vị thầy đã hốt thuốc xổ cho con trai phú hộ uống. Do quả của nghiệp ác ấy cho quả, nên bệnh đại tiện ra máu phát sinh đến Như Lai.

Đức Phật khát nước

Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là người chăn bò, dẫn đàn bò ra đồng ăn cỏ, Đức Bồ Tát nhìn thấy con bò mẹ đang uống nước đục, nên ngăn cấm không cho nó uống theo ý muốn.

Do quả của nghiệp ác ấy, Đức Bồ Tát Siddhattha kiếp chót trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, trước khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, trên đường từ thành phố Pāvā đến khu rừng Kusinārā, Đức Phật bị lâm bệnh kiết lỵ đi đại tiện ra máu, mệt nhoài và khát nước. Ngài truyền dạy Đại đức Ānanda đi lấy nước. Ngài Đại đức Ānanda đi đến con sông còn ít nước, vả lại vừa có 500 chiếc xe bò băng qua sông làm nước sông đục ngầu, nên Ngài Đại đức Ānanda không muốn lấy nước ấy. Về phần Đức Phật vì khát nước quá không chịu đựng nổi, nên Ngài truyền dạy Đại đức Ānanda phải lấy nước đem về độ cho qua cơn khát. Ngài Đại đức Ānanda bước xuống sông, thật phi thường thay!, dòng nước sông đang đục ngầu liền trở nên trong xanh sạch sẽ. Ngài lấy nước ấy đem về dâng cho Đức Phật độ.

Đó là do quả của nghiệp ác cũ ngăn cấm con bò mẹ đang uống nước, trong tiền kiếp của Ngài.

Đức Phật đã thuyết những nghiệp ác cũ đã tạo trong những tiền kiếp quá khứ của Ngài đến chư Tỳ-khưu Tăng tại ven rừng gần hồ Anotatta.

Tất cả mọi chúng sinh nói chung, mỗi người nói riêng đều tùy thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của chính mình. Trong hiện tại, con người có quyền chọn lựa nghiệp nào, rồi có quyền tạo nên nghiệp thiện hoặc nghiệp ác ấy; song quả của nghiệp thiện hoặc quả của nghiệp ác phát sinh do hội đủ nhân duyên, hoàn toàn không do mình chọn lựa. Hễ nghiệp thiện là cho quả tốt, quả an lạc...; ngược lại, hễ nghiệp ác là cho quả khổ...

Như vậy, muốn quả tốt, quả an lạc, thì nên tạo mọi nghiệp thiện; và không muốn quả xấu, quả khổ não, thì không nên tạo mọi nghiệp ác.

Nếu chúng sinh nào đã tạo nghiệp thiện hoặc nghiệp ác nào rồi, đến khi nghiệp nào có cơ hội cho quả của nó, thì chúng sinh ấy thọ nhận quả của nghiệp ấy, như là người thừa kế quả của nghiệp mà chính mình đã tạo.

Đức Phật dạy về nghiệp rằng:

“Kammassako mhi kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammapaṭisaraṇo yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇam vā pāpakaṃ vā, tassa dāyado bhavissāmi” (Anguttaranikaya, trong Kinh Abhinhasutta)

“Ta có nghiệp là của riêng, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ta ra, nghiệp là bà con thân quyến, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào: là thiện nghiệp, hoặc ác nghiệp, ta sẽ là người thừa hưởng quả của thiện nghiệp, hoặc ác nghiệp ấy”.

Mỗi nghiệp thiện, mỗi nghiệp ác, nếu có đầy đủ nhân duyên và cơ hội, thì nó có thể cho quả ngay trong kiếp hiện tại, cho quả tái sinh trong kiếp sau, và những kiếp kế tiếp cho đến trước khi tịch diệt Niết Bàn, đối với bậc Thánh Arahán.

Vậy chúng ta nên có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp của mình; còn muốn biết rõ nghiệp quá khứ nào, cho quả như thế nào, trong kiếp hiện tại, không phải là điều dễ biết, đối với tất cả mọi chúng sinh. Duy nhất chỉ có Đức Sabbaññū (Đức Phật Toàn Giác) mới thấy rõ, biết rõ nghiệp và quả của nghiệp trải qua vô số tiền kiếp quá khứ, kiếp hiện tại, kiếp vị lai của Ngài và của tất cả mọi chúng sinh. Và một số chư Thánh Arahán cũng có khả năng biết được nghiệp thiện, nghiệp ác của mình trong những tiền kiếp có giới hạn. Quý Ngài thuật lại được ghi vào trong bộ Apādāna.

Ngoài Đức Phật và một số chư bậc Thánh Arahán ra, còn lại tất cả chúng sinh khác, không một ai có khả năng biết rõ nghiệp của mình đã tạo trong những tiền kiếp quá khứ.

Thật vậy, bởi vì nghiệp và quả của nghiệp là một trong bốn điều bất khả tư nghì (acinteyya); không nên tư duy suy nghĩ về nghiệp và quả của nghiệp; mà chỉ nên có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp mà thôi. Nếu người nào tư duy suy nghĩ về nghiệp và quả của nghiệp thì người ấy có thể bị loạn trí.

Đức Phật Toàn Giác biết rõ nghiệp ác cũ trong vô số tiền kiếp của Ngài không sao kể xiết, song những nghiệp ác cũ nào mà Ngài nêu ra, là vì những nghiệp ác cũ ấy có liên quan cho quả khổ trong kiếp chót của Ngài, trước khi tịch diệt Niết Bàn.

Những người nào có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp của mình. Nếu những người ấy, khi đang hưởng quả của nghiệp thiện được giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng v.v... họ cảm thấy hoan hỷ, đời sống được hạnh phúc an lạc; thì họ càng có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp của họ; cho nên họ tìm mọi cơ hội tốt để tạo nhiều nghiệp thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền,... Nhờ những nghiệp thiện này nâng đỡ kiếp sống còn của họ được cao thượng, nhất là tạo duyên lành, bồi bổ những pháp hạnh ba-la-mật để mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Nếu những người ấy, khi đang chịu đựng quả khổ của nghiệp ác,... thì họ không hề oán trách một ai cả; vì họ tin chắc chắn rằng đó chỉ là quả của nghiệp ác mà chính họ đã tạo trong thời quá khứ; nay đến thời kỳ cho quả, họ cam chịu quả khổ ấy. Họ phát sanh thiện tâm ghê sợ mọi nghiệp ác, tội lỗi, họ cố gắng tránh xa mọi nghiệp ác đầy tội lỗi, để cho thời vị lai họ không phải chịu cảnh khổ não như thế này nữa.

Như vậy, những người có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, dù quả của nghiệp thiện hoặc nghiệp ác phát sinh, họ vẫn có thể phát sinh thiện tâm trong sáng, làm chủ được; không bị quả của nghiệp chi phối, không để tâm tham hoặc tâm sân phát sinh.

Nghiệp và quả của nghiệp rất công minh không hề thiên vị một ai cả, dù là Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh cũng không thoát khỏi quả khổ của nghiệp ác. Huống gì mỗi người trong chúng ta; khi chúng ta hoan hỷ thọ nhận quả của nghiệp thiện, thì chúng ta cũng nên nhẫn nại thọ nhận quả của nghiệp ác với thiện tâm trong sáng.

Người có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, tin tưởng rằng: “Nghiệp nào cho quả cũng có thời hạn mãn nghiệp ấy”.

Như vậy, nghiệp và quả của nghiệp hoàn toàn không phải là định mệnh, mà nghiệp và quả của nghiệp hoàn toàn tùy thuộc vào định luật nhân - quả mà thôi.

Đức Phật dạy nghiệp và quả của nghiệp bằng câu kệ rằng:

“Yādisaṃ vapate bījaṃ, tādisaṃ harate phalaṃ
Kalyāṇakārī kalyāṇaṃ, pāpakāri ca pāpakaṃ” (bộ Samyuttanikaya, phần Sagathavagga) .

“Người nào gieo hạt giống thế nào,
Người ấy gặt quả như thế ấy.
Người hành thiện, thì được quả thiện,
Người hành ác, thì chịu quả ác”.

Nghiệp có cơ hội sẽ cho quả trong kiếp hiện tại, kiếp sau kế tiếp và kiếp thứ ba cho đến kiếp chứng đắc thành bậc Thánh Arahán, trước khi tịch diệt Niết Bàn.

ĐỨC PHẬT VỚI ĐẠI CỘI BỒ ĐỀ

Tích chuyện tiền kiếp Kaliṅgabodhijātaka

Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông Phú hộ Anāthapiṇḍika gần kinh thành Sāvatthi, Ngài thuyết giảng tích tiền kiếp Kaliṅgabodhi (bộ Chú giải Jataka)trong đoạn đầu được tóm lược như sau:

Khi Đức Phật ngự tại ngôi chùa Jetavana cùng với chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng đông đảo, đến khi Đức Phật du hành đến nơi khác, thì chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng cùng đi theo Ngài. Lúc ấy, ngôi chùa Jetavana trở nên trống vắng, không còn một vị nào ở trong chùa cả. Những người cận sự nam, cận sự nữ mang những phẩm vật đến chùa, không thấy Đức Phật và cũng không thấy một Đại đức Tỳ-khưu nào cả. Họ không biết dâng lễ cúng dường đến nơi nào, nên họ phải đành đem đến đặt trước cốc Gandhakuṭi của Đức Phật, rồi họ thui thủi trở về nhà, mà không phát sinh tâm hoan hỷ.

Được biết như vậy, ông phú hộ Anāthapiṇḍika chờ đợi khi Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng ngự trở lại ngôi chùa Jetavana. Ông phú hộ liền đến gặp đảnh lễ Ngài Đại đức Ānanda và bạch cho Ngài biết rằng:

- Kính bạch Ngài, mỗi khi Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng ngự đi du hành đến nơi khác, tại ngôi chùa này trở nên trống vắng. Các người cận sự nam, cận sự nữ đem những phẩm vật đến dâng lễ cúng dường mà không thấy vị nào cả. Họ đành phải đem những phẩm vật đặt trước cửa cốc Gandhakuṭi của Đức Phật, rồi thui thủi trở về nhà, mà không phát sinh tâm hoan hỷ.

Kính bạch Ngài, con kính nhờ Ngài bạch lại với Đức Phật rằng: “Đối với các hàng Phật tử còn có nơi nào khác, để dâng lễ cúng dường nữa hay không?”.

Nhận lời thỉnh cầu của ông phú hộ, Ngài Đại đức Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, cetiya là nơi dâng lễ cúng dường có bao nhiêu nơi? Bạch Ngài.

- Này Ānanda, cetiya nơi dâng lễ cúng dường có ba nơi.

- Kính bạch Đức Thế Tôn, ba nơi ấy là những nơi nào? Bạch Ngài.

- Này Ānanda: Ba nơi ấy là:

Sāriraka cetiya: Cetiya nơi tôn thờ Xá lợi của Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Paribhoga cetiya: Cetiya nơi mà Đức Phật đã sử dụng như Đại cội Bồ đề, những thứ vật dụng của Đức Phật đã dùng.

Uddissaka cetiya: Cetiya nơi mà người Phật tử tạo nên tượng Đức Phật, ngôi Bảo tháp v.v... để tôn thờ.

Ngài Đại đức Ānanda bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, khi Đức Thế Tôn còn tại thế gian, ba nơi cetiya ấy, các hàng Phật tử có thể dâng lễ cúng dường được hay không? Bạch Ngài.

- Này Ānanda, Sāriraka cetiya: Cetiya nơi tôn thờ Xá lợi của Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì khi nào Như Lai tịch diệt Niết Bàn rồi, khi ấy, các hàng Phật tử mới có thể dâng lễ cúng dường cetiya, nơi tôn thờ Xá lợi Đức Phật.

Này Ānanda, còn Paribhoga cetiya và Uddissaka cetiya, thì ngay khi Như Lai còn tại thế, các hàng Phật tử cũng có thể dâng lễ cúng dường đến hai nơi cetiya ấy.

Này Ānanda, Đại cội Bồ đề được gọi là Paribhoga cetiya, nơi mà Chư Phật sử dụng làm nơi ngồi ngự dưới Đại cội Bồ đề, để chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Lắng nghe Đức Phật dạy như vậy, Ngài Đại đức Ānanda bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, khi Đức Thế Tôn du hành ngự đến nơi khác, chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng cũng đi theo Ngài, tại ngôi chùa Jetavana này trở nên trống vắng. Các người cận sự nam, cận sự nữ mang những phẩm vật đến ngôi chùa này, họ không thấy một ai cả, nên không có nơi nào, để họ dâng lễ cúng dường.

Kính bạch Đức Thế Tôn, như vậy, con có thể thỉnh hạt giống Bồ đề từ Đại cội Bồ đề ở khu rừng Uruvela, đem về gieo trồng tại ngôi chùa Jetavana này, để cho các hàng Phật tử làm cetiya nơi dâng lễ cúng dường, có nên hay không? Bạch Ngài.

Đức Phật hoan hỷ truyền dạy rằng:

- Sādhu! Ānanda ropehi.

- Này Ānanda, tốt lắm! Con hãy nên gieo trồng cây Bồ đề tại ngôi chùa này.

Evaṃ sante Jetavane mama nibaddhavāso viya bhavissati.

Như vậy, khi có cây Bồ đề trong ngôi chùa Jetavana, cũng như là sự thường trú của Như Lai.

Sau khi lắng nghe Đức Phật truyền dạy như vậy, Đại đức Ānanda loan báo cho ông phú hộ Anāthapiṇ-ḍika, bà đại thí chủ Visākhā, Đức vua Pasenadi Kosala, cùng toàn thể các cận sự nam, cận sự nữ trong kinh thành Sāvatthi rằng sẽ trồng cây Bồ đề tại ngôi chùa Jetavana, xin cho người đào lỗ để trồng cây Bồ đề.

Khi ấy, Ngài Đại đức Ānanda đến gặp Ngài Đại đức Mahāmoggallāna và bạch rằng:

- Kính bạch Đại đức, đệ muốn trồng một cây Bồ đề tại ngôi chùa Jetavana, kính thỉnh pháp huynh đến Đại cội Bồ đề tại khu rừng Uruvela, thỉnh một hạt giống Bồ đề đem về cho đệ.

Ngài Đại đức Mahāmoggallāna nhận lời, liền dùng phép thần thông bay đến khu rừng Uruvela, bay xung quanh Đại cội Bồ đề, để tìm hạt Bồ đề nào già chín, sắp lìa khỏi cành. Ngài dùng tấm y hứng hạt giống Bồ đề, không để rơi xuống mặt đất, thỉnh đem về trao cho Ngài Đại đức Ānanda. Ngài Đại đức Ānanda đón nhận hạt giống Bồ đề bằng cái đĩa vàng một cách cung kính.

Tiếp đến, Ngài Đại đức Ānanda loan báo cho Đức vua Pasenadi Kosala, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể các cận sự nam, cận sự nữ trong kinh thành Sāvatthi tụ hội để làm lễ trồng cây Bồ đề. Khi mọi người đã tụ hội đông đủ tại ngôi chùa Jetavana; đầu tiên, Đại đức Ānanda thỉnh cái đĩa vàng có đựng hạt giống Bồ đề trao cho Đức vua Pasenadi Kosala, để gieo trồng cây Bồ đề. Đức vua cung kính đón nhận từ tay của Ngài Đại đức Ānanda và suy nghĩ rằng: Ta tuy là Vua, nhưng người xứng đáng để gieo trồng cây Bồ đề này phải là ông phú hộ Anāthapiṇḍika. Nghĩ vậy, Đức vua liền trao cái đĩa đựng hạt giống Bồ đề lại cho ông phú hộ; ông phú hộ cung kính đón nhận từ tay của Đức vua. Tiếp theo, ông phú hộ rải phân bón xuống lỗ, rồi hai tay cung kính bưng cái đĩa vàng đựng hạt giống Bồ đề gieo xuống lỗ và phủ một lớp đất lên mặt.

Lúc ấy, mọi người đông đảo đều nhìn thấy, một điều thật là phi thường, chưa từng có bao giờ! Ngay khi vừa gieo xong, liền mọc lên một cây Bồ đề cao 50 hắc tay (cùi tay), có 5 nhánh, mỗi nhánh tỏa dài 50 hắc tay, trở thành một Đại cội Bồ đề to lớn, mà tất cả bốn phương, tám hướng đều nhìn thấy rõ.

Đức vua Pasenadi Kosala liền dâng cúng dường 18 đóa hoa sen, tưới nước trong sạch vào gốc cây, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể các cận sự nam, cận sự nữ đều vô cùng hoan hỷ, lần lượt dâng lễ cúng dường đến Đại cội Bồ đề một cách cung kính.

Xung quanh Đại cội Bồ đề được xây bốn bức thành hàng rào và cổng ra vào bằng các loại đá rất quý; phần nền gần gốc cây Bồ đề được lót bằng một loại đá quý, để làm nơi dâng lễ cúng dường của các hàng Phật tử.

Ngài Đại đức Ānanda vào hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con đã trồng Đại cội Bồ đề xong, kính thỉnh Đức Thế Tôn ngự đến sử dụng Đại cội Bồ đề. Khi Đức Thế Tôn sử dụng Đại cội Bồ đề, để cho chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Theo sự thỉnh cầu của Ngài Đại đức Ānanda, Đức Thế Tôn ngự đến sử dụng Đại cội Bồ đề nhập Arahán Quả suốt đêm.

Ngài Đại đức Ānanda loan báo cho Đức vua Pasenadi Kosala, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể các cận sự nam, cận sự nữ trong kinh thành Sāvatthi tụ hội tại Đại cội Bồ đề, để làm đại lễ cúng dường đến Đại cội Bồ đề. Do đó, Đại cội Bồ đề có tên gọi là:

“Ānanda bodhi: Đại cội Bồ đề của Ngài Đại đức Ānanda”.

Đại cội Bồ đề của Ngài Đại đức Ānanda vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, tại nền ngôi chùa cổ Jetavana, tỉnh Sāvatthi, xứ Ấn Độ.

Đối với các hàng Phật tử là bậc xuất gia, cũng như hàng tại gia là cận sự nam, cận sự nữ phải hết lòng tôn kính cây Bồ đề, bởi vì, khi chúng ta tôn kính cây Bồ đề là như tôn kính Đức Phật vậy. Cho nên, tại mỗi Đại cội Bồ đề là một nơi tôn nghiêm, mà mỗi người Phật tử phải có bổn phận chăm sóc bảo tồn, thường xuyên quét dọn lau chùi sạch sẽ và thường đến lễ bái, dâng lễ cúng dường Đại cội Bồ đề như lễ bái dâng lễ cúng dường Đức Phật vậy.

TƯỢNG ĐỨC PHẬT (BUDDHARUPA)

- Tượng Đức Phật có từ thời kỳ nào?

- Xuất hiện lần đầu tiên ở đâu?

Sở dĩ có câu hỏi này, là vì qua các thời kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi từ lần thứ nhất cho đến lần thứ tư. Trong đó, dạy người Phật tử là bậc xuất gia Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni và các hàng tại gia là cận sự nam, cận sự nữ phải nên tôn kính Đại cội Bồ đề như tôn kính Đức Phật, không nên chặt cành có tính chất phá hoại cây Bồ đề. Hằng ngày, người Phật tử có phận sự chăm sóc, quét dọn sạch sẽ xung quanh Đại cội Bồ đề, là một nơi tôn nghiêm, xứng đáng là nơi dâng lễ cúng dường đối với Phật tử có đức tin nơi Tam Bảo.

Thời kỳ Đức vua Asoka (Phật lịch 218), Đức vua là một Đấng Minh Quân có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, hộ độ trong kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi lần thứ ba tại chùa Asokārāma xứ Pāṭiliputta.

Vào năm Phật lịch 236, Đức vua hộ độ phái đoàn gồm 5 vị Đại đức, do Ngài Đại đức Mahinda (là bậc Thánh Arahan, thái tử của đức vua Asoka)làm trưởng đoàn, đi sang Đảo quốc Srilankā để truyền bá Phật giáo. Vào thời kỳ ấy, Đức vua Devanampiyatissa trị vì Đảo quốc Srilankā, là bạn thân thiết của Đức vua Asoka. Đức vua Devanampiyatissa cùng các quan trong triều, dân chúng hân hoan đón rước phái đoàn chư Đại đức Tăng rất trọng thể.

Phái đoàn chư Đại đức Tăng thuyết pháp truyền bá giáo pháp của Đức Phật, Đức vua cùng các quan trong triều và dân chúng phần đông phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có số xin phép xuất gia trở thành Tỳ-khưu, có số xin thọ phép quy y Tam Bảo, trở thành người cận sự nam, cận sự nữ đã quy y Tam Bảo cho đến trọn đời. Ngoài ra còn có số cận sự nữ muốn xuất gia trở thành Tỳ-khưu ni; do đó, Ngài Đại đức Mahinda cho người trở về tâu với Đức vua Asoka gửi phái đoàn chư Đại đức Tỳ-khưu ni sang Đảo quốc Srilankā.

Cung nghinh cây Bồ đề sang Đảo quốc Srilankā

Đức vua Asoka chấp thuận gửi phái đoàn chư Đại đức Tỳ-khưu ni, do Đại đức Tỳ-khưu ni Saṃghamittā (là bậc Thánh Arahan, là công chúa của đức vua Asoka)làm trưởng đoàn, phái đoàn có cung nghinh một cây Bồ đề sang trồng trên Đảo quốc Srilankā.

Đức vua Asoka làm lễ tiễn đưa cây Bồ đề rất long trọng, Đức vua truyền lệnh sứ giả sang trước, để tâu lên Đức vua Devanampiyatissa cũng làm lễ đón rước cây Bồ đề cho trọng thể.

Thật vậy, Đức vua Devanampiyatissa cùng các quan trong triều và rất đông đảo dân chúng đứng chờ sẵn ở bến thuyền. Khi thuyền của phái đoàn chư Đại đức Tỳ-khưu ni tăng cùng với cây Bồ đề vừa cập bến, chính Đức vua Devanampiyatissa đến cung nghinh cây Bồ đề từ trên tay của chư Đại đức Tỳ-khưu ni và cùng đón rước phái đoàn chư Đại đức Tỳ-khưu ni lên Đảo quốc Srilankā.

Như vậy, thời ấy chỉ có cây Bồ đề được đưa sang trồng trên Đảo quốc Srilankā, mà không đề cập đến tượng của Đức Phật.

Do đó, tượng Đức Phật có từ thời kỳ nào? Thật khó mà xác định chính xác, song do căn cứ của một vài sử liệu cho rằng:

- Tượng Đức Phật có từ thời kỳ Phật lịch thế kỷ thứ VI, do các nhà nghệ thuật người Karika có đức tin theo Phật giáo, trong xứ Gandharaṭṭha, thuộc miền Bắc Ấn Độ thời xưa.

Những nhà nghệ thuật này tư duy rằng:

- Phái Bàlamôn có các tượng thần linh để họ dâng lễ cúng dường, thì Phật giáo cũng nên có tượng Đức Phật để làm nơi lễ bái, dâng lễ cúng dường. Do đó, các nhà nghệ thuật điêu khắc này học hỏi, nghiên cứu về 32 tướng tốt chính và 80 tướng tốt phụ của Đức Phật làm cơ bản, làm nền tảng để họ sáng tạo nên tượng Đức Phật đầu tiên.

Một sử liệu khác cho rằng:

- Tượng Đức Phật đầu tiên có vào khoảng thời gian Phật lịch 700, sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn; do các nhà nghệ thuật điêu khắc, tạo hình trong xứ Gandharaṭṭha, thuộc miền Bắc Ấn Độ thời xưa.

Tượng Đức Phật có phù hợp với Phật giáo hay không?

Tượng Đức Phật thuộc trong Uddissaka cetiya: Cetiya nơi mà người tạo nên tượng Đức Phật, ngôi Tháp Bảo v.v... để tôn thờ, lễ bái cúng dường... cho nên, tượng Đức Phật phù hợp với Phật giáo.

BIỂU TƯỢNG CỦA PHẬT GIÁO

* Đại cội Bồ đề là một biểu tượng đặc biệt nhất của Phật giáo, bởi vì Đức Bồ Tát Siddhattha đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác tại dưới Đại cội Bồ đề. Đó là cây Đại cội Bồ đề của Đức Phật Gotama. Người Phật tử lễ bái, dâng lễ cúng dường đến Đại cội Bồ đề cũng như lễ bái, dâng lễ cúng dường đến Đức Phật. (như trong tích chuyện: “Cây Bồ đề của Ngài Đại đức Ānanda”).

* Bánh xe Chuyển Pháp Luân gồm có 12 căm là sự luân chuyển của Tam Tuệ Luân: Trí tuệ học, trí tuệ hành, trí tuệ thành trong Tứ Thánh Đế (3 x 4 = 12) là phần cốt lõi của Phật giáo. Cho nên, bánh xe Chuyển Pháp Luân cũng là biểu tượng của Phật giáo.

Hai biểu tượng này, nếu người Phật tử nào có sự hiểu biết Phật Pháp sâu sắc, thì mới có thể nhận thức, biết được tính chất cao thượng của biểu tượng.

Tượng Đức Phật là một biểu tượng Phật giáo

Tượng Đức Phật cũng là một biểu tượng đặc biệt trong Phật giáo, tượng Đức Phật là một hình ảnh rất sống động, gần gũi với con người nhất, con người rất dễ cảm nhận, rất dễ gây những ấn tượng sâu sắc nhất. Cho nên, tượng Đức Phật là một biểu tượng, một hình ảnh dễ liên tưởng đến Đức Phật, là ngôi cao cả nhất mà các hàng Phật tử hết lòng thành kính lễ bái cúng dường

Tượng Đức Phật theo mỹ thuật của mỗi dân tộc

Đức Phật dạy: Một Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót, chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Bồ Tát ấy có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ. Đó là lời dạy của Đức Phật, mà hình ảnh tiêu biểu thì hoàn toàn không có; cho nên, các nhà nghệ thuật điêu khắc tạo hình theo óc tưởng tượng của mình, dựa theo nền mỹ thuật của dân tộc mình để sáng tạo tượng Đức Phật.

Trong quá khứ, tất cả các nhà nghệ thuật đầu tiên điêu khắc tượng Đức Phật, không có một ai nhìn thấy kim thân của Đức Phật bao giờ. Mỗi nhà nghệ thuật, có một quan niệm riêng về cái đẹp và khả năng thẩm mỹ đều khác nhau. Mặc dù họ đã học hỏi nghiên cứu về 32 tướng tốt chính và 80 tướng tốt phụ của Đức Phật, nhưng óc tưởng tượng của mỗi nhà nghệ thuật mang cá tính và tinh thần của dân tộc mình. Vì vậy, tượng Đức Phật Gotama được tạo ra qua mỗi thời kỳ, mỗi dân tộc, bởi mỗi nhà nghệ thuật có hình dáng hoàn toàn không giống hệt nhau. Tuy nhiên, cũng có một vài đường nét và tính chất chung, tương đối giống nhau; cho nên, khi mọi người Phật tử nhìn thấy tượng thờ, thì có thể nhận biết được đó là tượng Đức Phật Gotama. Do đó họ liền liên tưởng đến Đức Phật có 9 Ân đức cao thượng, nên phát sinh đức tin trong sạch, tỏ lòng tôn kính, lễ bái, dâng lễ cúng dường một cách cung kính.

Lễ bái cúng dường tượng Đức Phật như thế nào?

Tượng Đức Phật dù làm bằng chất liệu gì, làm bằng xi măng cốt sắt, hoặc bằng đồng, bằng bạc, bằng vàng hoặc bằng đá quý, hoặc bằng gỗ quý; thậm chí tượng Đức Phật bằng giấy, dù nhỏ, dù lớn v.v..., thì người Phật tử cũng không phải lễ bái cúng dường nơi tượng Đức Phật xi măng cốt sắt, hoặc tượng Đức Phật đồng, tượng Đức Phật bạc, tượng Đức Phật vàng, hoặc tượng Đức Phật đá quý, hoặc tượng Đức Phật gỗ quý , hoặc tượng Đức Phật giấy v.v... Thật ra, người Phật tử khi nhìn thấy, chiêm ngưỡng tượng Đức Phật ấy, cần phải liên tưởng đến 9 Ân đức Phật, cho nên khi lễ bái là lễ bái đến 9 Ân đức Phật, khi cúng dường là cúng dường đến 9 Ân đức Phật, khi niệm Phật là niệm đến 9 Ân đức Phật v.v...

Như vậy, tượng Đức Phật là đối tượng bên ngoài, để liên tưởng đến 9 Ân đức Phật bên trong thiện tâm của mình. Do đó, tượng Đức Phật tạo nên bằng chất liệu gì, hình dáng, tư thế... khác nhau như thế nào, cũng chỉ là đối tượng hình thức bên ngoài mà thôi. Khi người Phật tử chiêm bái, cung kính đảnh lễ, dâng lễ cúng dường... nơi tượng Đức Phật, thì phải luôn luôn tâm niệm đến 9 Ân đức Phật bên trong thiện tâm của mình.

Tuy nhiên, hình dáng, tư thế tượng Đức Phật cũng có tác động đến tư tưởng, tình cảm của người Phật tử. Cho nên, thời xưa ở xứ Ấn Độ, các nhà nghệ thuật điêu khắc tạo hình tượng Đức Phật trong tư thế ngồi đang Chuyển Pháp Luân, phía dưới Bồ đoàn, ở giữa có bánh xe Chuyển Pháp Luân, hai bên có 2 con nai và nhóm 5 Tỳ-khưu. Đó là một hình ảnh rất sống động, gợi lại cho người Phật tử một ấn tượng về quá khứ, lần đầu tiên Đức Phật thuyết bài Kinh Chuyển Pháp Luân tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana; để tế độ nhòm 5 Tỳ-khưu: Ngài Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji.

Khi người Phật tử nào chiêm ngưỡng tượng Đức Phật trong tư thế Chuyển Pháp Luân, diễn tả lại bối cảnh lịch sử đầu tiên trong Phật giáo, người Phật tử ấy dễ dàng phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, mà quên những điều ưu phiền trong đời, tâm được thanh tịnh an lạc.

Như vậy, tượng Đức Phật là đối tượng giúp cho người Phật tử phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, chính nhờ đức tin này sẽ làm nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh và tăng trưởng từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp đến Siêu tam giới thiện pháp, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

BIỂU TƯỢNG CỦA PHẬT GIÁO

* Đại cội Bồ đề là một biểu tượng đặc biệt nhất của Phật giáo, bởi vì Đức Bồ Tát Siddhattha đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác tại dưới Đại cội Bồ đề. Đó là cây Đại cội Bồ đề của Đức Phật Gotama. Người Phật tử lễ bái, dâng lễ cúng dường đến Đại cội Bồ đề cũng như lễ bái, dâng lễ cúng dường đến Đức Phật. (như trong tích chuyện: “Cây Bồ đề của Ngài Đại đức Ānanda”).

* Bánh xe Chuyển Pháp Luân gồm có 12 căm là sự luân chuyển của Tam Tuệ Luân: Trí tuệ học, trí tuệ hành, trí tuệ thành trong Tứ Thánh Đế (3 x 4 = 12) là phần cốt lõi của Phật giáo. Cho nên, bánh xe Chuyển Pháp Luân cũng là biểu tượng của Phật giáo.

Hai biểu tượng này, nếu người Phật tử nào có sự hiểu biết Phật Pháp sâu sắc, thì mới có thể nhận thức, biết được tính chất cao thượng của biểu tượng.

Tượng Đức Phật là một biểu tượng Phật giáo

Tượng Đức Phật cũng là một biểu tượng đặc biệt trong Phật giáo, tượng Đức Phật là một hình ảnh rất sống động, gần gũi với con người nhất, con người rất dễ cảm nhận, rất dễ gây những ấn tượng sâu sắc nhất. Cho nên, tượng Đức Phật là một biểu tượng, một hình ảnh dễ liên tưởng đến Đức Phật, là ngôi cao cả nhất mà các hàng Phật tử hết lòng thành kính lễ bái cúng dường

Tượng Đức Phật theo mỹ thuật của mỗi dân tộc

Đức Phật dạy: Một Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót, chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Bồ Tát ấy có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ. Đó là lời dạy của Đức Phật, mà hình ảnh tiêu biểu thì hoàn toàn không có; cho nên, các nhà nghệ thuật điêu khắc tạo hình theo óc tưởng tượng của mình, dựa theo nền mỹ thuật của dân tộc mình để sáng tạo tượng Đức Phật.

Trong quá khứ, tất cả các nhà nghệ thuật đầu tiên điêu khắc tượng Đức Phật, không có một ai nhìn thấy kim thân của Đức Phật bao giờ. Mỗi nhà nghệ thuật, có một quan niệm riêng về cái đẹp và khả năng thẩm mỹ đều khác nhau. Mặc dù họ đã học hỏi nghiên cứu về 32 tướng tốt chính và 80 tướng tốt phụ của Đức Phật, nhưng óc tưởng tượng của mỗi nhà nghệ thuật mang cá tính và tinh thần của dân tộc mình. Vì vậy, tượng Đức Phật Gotama được tạo ra qua mỗi thời kỳ, mỗi dân tộc, bởi mỗi nhà nghệ thuật có hình dáng hoàn toàn không giống hệt nhau. Tuy nhiên, cũng có một vài đường nét và tính chất chung, tương đối giống nhau; cho nên, khi mọi người Phật tử nhìn thấy tượng thờ, thì có thể nhận biết được đó là tượng Đức Phật Gotama. Do đó họ liền liên tưởng đến Đức Phật có 9 Ân đức cao thượng, nên phát sinh đức tin trong sạch, tỏ lòng tôn kính, lễ bái, dâng lễ cúng dường một cách cung kính.

Lễ bái cúng dường tượng Đức Phật như thế nào?

Tượng Đức Phật dù làm bằng chất liệu gì, làm bằng xi măng cốt sắt, hoặc bằng đồng, bằng bạc, bằng vàng hoặc bằng đá quý, hoặc bằng gỗ quý; thậm chí tượng Đức Phật bằng giấy, dù nhỏ, dù lớn v.v..., thì người Phật tử cũng không phải lễ bái cúng dường nơi tượng Đức Phật xi măng cốt sắt, hoặc tượng Đức Phật đồng, tượng Đức Phật bạc, tượng Đức Phật vàng, hoặc tượng Đức Phật đá quý, hoặc tượng Đức Phật gỗ quý , hoặc tượng Đức Phật giấy v.v... Thật ra, người Phật tử khi nhìn thấy, chiêm ngưỡng tượng Đức Phật ấy, cần phải liên tưởng đến 9 Ân đức Phật, cho nên khi lễ bái là lễ bái đến 9 Ân đức Phật, khi cúng dường là cúng dường đến 9 Ân đức Phật, khi niệm Phật là niệm đến 9 Ân đức Phật v.v...

Như vậy, tượng Đức Phật là đối tượng bên ngoài, để liên tưởng đến 9 Ân đức Phật bên trong thiện tâm của mình. Do đó, tượng Đức Phật tạo nên bằng chất liệu gì, hình dáng, tư thế... khác nhau như thế nào, cũng chỉ là đối tượng hình thức bên ngoài mà thôi. Khi người Phật tử chiêm bái, cung kính đảnh lễ, dâng lễ cúng dường... nơi tượng Đức Phật, thì phải luôn luôn tâm niệm đến 9 Ân đức Phật bên trong thiện tâm của mình.

Tuy nhiên, hình dáng, tư thế tượng Đức Phật cũng có tác động đến tư tưởng, tình cảm của người Phật tử. Cho nên, thời xưa ở xứ Ấn Độ, các nhà nghệ thuật điêu khắc tạo hình tượng Đức Phật trong tư thế ngồi đang Chuyển Pháp Luân, phía dưới Bồ đoàn, ở giữa có bánh xe Chuyển Pháp Luân, hai bên có 2 con nai và nhóm 5 Tỳ-khưu. Đó là một hình ảnh rất sống động, gợi lại cho người Phật tử một ấn tượng về quá khứ, lần đầu tiên Đức Phật thuyết bài Kinh Chuyển Pháp Luân tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana; để tế độ nhòm 5 Tỳ-khưu: Ngài Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji.

Khi người Phật tử nào chiêm ngưỡng tượng Đức Phật trong tư thế Chuyển Pháp Luân, diễn tả lại bối cảnh lịch sử đầu tiên trong Phật giáo, người Phật tử ấy dễ dàng phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, mà quên những điều ưu phiền trong đời, tâm được thanh tịnh an lạc.

Như vậy, tượng Đức Phật là đối tượng giúp cho người Phật tử phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, chính nhờ đức tin này sẽ làm nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh và tăng trưởng từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp đến Siêu tam giới thiện pháp, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.