Ðạo Ðế: Con đường diệt khổ. Cũng là phần tinh túy nhất của Phật môn
Để bước vào con đường đạo đế, 1 lần nữa chúng ta phải nhìn nhận lại sự thật, ở đây 1 lần nữa Đức Phật giảng nói cho chúng ta về pháp để thấy sự thật đó là: Bốn món Niệm xứ (Tứ Niệm Xứ)
Khi đã nhận biết sự thật, Đức Phật lại dạy 6 pháp sau để chúng ta tinh tấn tu học:
1. Bốn món Chánh cần (Tứ Chánh cần), 2. Bốn món Như ý túc (Tứ Như ý túc), 3. Năm Căn (ngũ Căn), 4. Năm Lực (Ngũ Lực), 5. Bảy phần Bồ đề (Thất Bồ đề phần), 6. Tám phần Chánh đạo (Bát Chánh đạo phần).
Gọi chung là 37 phẩm chợ đạo.
Tứ Niệm Xứ
TỨ là bốn; NIỆM là hằng nhớ nghĩ; XỨ là nơi chốn. tứ Niệm Xứ là bốn chữ, bốn điều mà người tu hành thường để tâm nhớ nghĩ đến.
1.Quán thân bất tịnh: là quán thân không tịnh sạch.
Xưa ở Ấn độ, khi một hành giả muốn quán sát thân bất tịnh, thì tìm đến khu rừng người ta bỏ xác người chết, gọi là thi lâm để quán theo lối" Cửu tưởng quán" của Phật dạy: Phép quán này gồm các giai đoạn như sau:
a) Trướng tưởng: Ngày đầu ở gần bên cạnh thây chết, quán thây sình trướng to lên.
b) Thanh ứ tưởng: Ngày thứ hai quán thây bị gió nắng xanh xám.
c) Hoại tưởng: Ngày thứ ba quán thây bị rã nát.
d) Huyết đồ tưởng: Ngày thứ tư, quán thây máu thịt rơi rớt lai láng.
đ) Nồng lãnh tưởng: Ngày thứ năm, quán thây chết da thịt rục rã.
e) Hám tưởng: Ngày thứ sáu, quán chim thú đến mổ ăn thây.
ê) Tán tưởng: Ngày thứ bảy, quán sau khi chim thú ăn, gân xương, đầu mình, tay chân chia tan nát vỡ.
g) Cốt tưởng: Ngày thứ tám, quán huyết thịt đã hết, chỉ còn bộ xương trắng bừa bãi.
h) Thiêu tưởng: Ngày thứ chín, quán bộ xương trắng đốt cháy thành tro đất.
“Cuộc đời rồi chẳng còn chi
Ruộng vườn nhà cửa có gì của ta
Trắng tay lòng mẹ sinh ra
Một hơi vĩnh biệt cũng là tay không”
2. Quán tâm vô thường: “Vô thường” nghĩa là biến dịch, thay đổi, không cố định, vạn vật không đứng yên một chỗ mà nó biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác rồi tan rã. Quán Tâm vô thường là quán sát tâm thức luôn luôn sanh diệt không thường trụ, nghĩa là cái tướng của tự tâm chúng ta luôn luôn đổi thay, không thường. Cái tướng của tự tâm là gì? Chính là cái phân biệt, hiểu biết hằng ngày, cái thức.
3. Quán pháp vô ngã: Quán sát các pháp không có chủ thể.
Pháp ở đây chỉ cho tất cả mọi sự vật trên đời: hữu hình lẫn vô hình. Ngã là cái riêng, là ông chủ tự tướng của mình. Từ cái tâm chấp cho các pháp đều có tự tướng riêng biệt nên mới sanh ra niệm phân biệt, quý trọng hay khinh rẽ, ích kỷ hại nhau, tranh chấp lẫn nhau. Mê lầm không nhận ra được sự giả dối của sự vật. Pháp thế gian có hình tướng nhưng không có chủ thể riêng của nó. Tất cả các pháp đều do duyên giả hợp lại mà có. Các pháp làm nhân duyên cho nhau nhưng không có tự tướng nhất định.
Tâm duyên với cảnh, cảnh duyên với tâm, vạn pháp hiện ra, đâu có cái gì riêng một mình thật có tự tướng, đều vô ngã cả. Sáu trần nhờ có sáu căn mà có hình tướng, sáu căn nhờ có sáu trần mà có tác dụng. Không có sáu trần thì không có sáu căn, không có sáu căn thì cũng không có sáu trần.
Trong kinh Lăng Nghiên có câu: "Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sanh, nhân duyên biệt ly, hư vọng hữu diệt". Nghĩa là: các nhân duyên nhóm họp thì giả dối có sanh, các nhân duyên chia rẽ, thì giả dối có hoại diệt. Vậy: tất cả các pháp làm nhân duyên cho nhau, chứ không có tự tướng. Không có tự tướng, tức là "vô ngã".
4. Quán thọ thị khổ: Thọ là chịu, nhận lãnh. Thọ thị khổ nghĩa là có nhận lãnh là có khổ. Quán thọ thị khổ là Quán sát sự thọ lãnh của thân tâm là khổ. Phật dạy: hễ có lãnh thọ thì có khổ; càng lãnh thọ nhiều thì càng khổ lắm. càng ít lãnh thọ, thì khổ đau càng ít. Quán thọ thị khổ mục đích đối trị bệnh tham.
Đến đây rõ ràng ta thấy cửa giải thoát đã rộng mở chúng ta chỉ việc ung dung bước vào nữa thôi. Thật vậy như trước chúng ta đã biết "đời là bể khổ" với mười nhân khổ, bởi ta tưởng đó là ta nên không sao cắt trừ được, nay Phật dạy tứ niệm xứ, quán thân bất tịnh ta biết thân là gốc khổ nhưng thân đâu phải là ta chỉ là ngũ uẩn hợp thành vậy nên gốc khổ có thể cắt, lại nữa quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã, quán thọ thị khổ để thấy cái tâm thường ngày cũng không phải là ta, vậy mười nhân khổ cũng không phải là ta nên có thể diệt trừ 10 nhân khổ. Vậy nói cánh cửa giải thoát đã rộng mở! Chúng ta tiếp tục tìm hiểu các Pháp...
Tứ Chánh Cần
Tứ Chánh cần là bốn phép siêng năng Tinh tấn hợp với chánh đạo.
Quan Niệm Về Ðiều Dữ Và Ðiều Lành Trong Ðạo Phật
Những điều dữ là những điều nghịch với từ bi, bình đẳng, trí tuệ và chân lý.
Những điều lành là những điều bao giờ cũng hợp với từ bi, bình đẳng, trí tuệ và chân lý.
1. Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh: cố gắng ngăn chặn những điều ác làm hại từ bi, hỉ, xả phát sinh.
2. Tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sanh: cố gắng dứt trừ những điều ác làm hại từ bi, hỉ xả, đã phát sinh.
3. Tinh tấn làm phát sanh những điều lành chưa phát sanh: tinh tấn gieo trồng những nhân lành từ, bi, hỉ, xả.
4. Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sanh: tinh tấn phát triển những nhân lành từ, bi, hỉ, xả, đã phát sinh.
Tứ Như Ý Túc
Tứ Như ý túc là bốn phép thiền định. Nói cho rõ đó là bốn phương tiện giúp chúng ta thành tựu chánh định, vì thế nên cũng gọi là định pháp. "Như ý" là được như ý mình muốn. "Túc" là chân, có nghĩa nương tựa mà cũng có nghĩa là đầy đủ. Tứ Như ý túc, có nghĩa là bốn phép làm nơi nương tựa cho các công đức thiền định, thần thông được thành tựu mỹ mãn như ý muốn của mình.
1. Dục như ý túc: Dục là mong muốn. Dục như ý túc là có tâm ham muốn tu tập các pháp lành thì được như ý. Người Phật tử mong muốn được thành đạt pháp thiền định mình đang tu, để tiến lên chứng các Thánh quả. Thứ mong muốn này rất cần cho người tu hành. Diệt dục tức là dục vọng, diệt những phần ham muốn xấu.
2. Tinh tấn như ý túc: Tinh tấn là dũng mãnh, chuyên nhất vào pháp mình đang tu. Tinh tấn như ý túc là do tinh tấn mà tu tập các pháp lành được như ý.
3. Nhất tâm như ý túc: Nhất tâm là tâm chuyên nhất vào định cảnh, không bao giờ tán loạn. Nhất tâm như ý túc là nhứt tâm chuyên chú vào pháp lành thì được như ý. Phật có dạy: "như người chứa nước, khéo giữ bờ đê, người tu hành giữ nước trí tuệ cũng vậy, phải khéo tu thiền định, chớ cho tán động".
4. Quán như ý túc: Quán nghĩa là dùng trí tuệ sáng suốt quán sát pháp mình đang tu. Quán trí ấy do định mà phát sanh, trí ấy là tịnh trí. Vì tịnh cho nên nó có thể như thật thông đạt chân lý của các pháp.
Ngũ Căn
1. Tín căn: là lòng tin mạnh mẽ vững chắc. Vì lòng tin của người Phật tử khởi từ trí xét đoán. Bởi thế nên nó vô cùng vững chắc, mãnh liệt. Chính nó là căn bản phát sinh các hạnh lành, Phật dạy: "Tin là mẹ vô lượng của công đức". Là Phật tử cần:
a.Tin Phật: Phật tử tin Phật là đấng giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.
b.Tin pháp: Phật tử tin pháp Phật là chân lý dẫn tới sự giác ngộ, giải thoát.
c.Tin Tăng: Phật tử tin tăng là những người thay Phật dẫn dắt chúng sinh trên đường tu.
2. Tấn căn: Tấn là tinh tấn. Tấn căn là sự dũng mãnh tinh tấn trên bước đường tu tập không bao giờ thối lui. Tinh tấn có ba thứ:
a.Bị giáp tinh tấn: Nghĩa là mang áo giáp tinh tấn. Tức là người Phật tử phải vững vàng không sợ gian nan, hiểm nguy, thử thách.
b.Gia hạnh tinh tấn: Nghĩa là luôn luôn gắng sức không bao giờ dừng nghĩ trên bước đường đi đến giải thoát.
c.Vô hỷ túc tinh tấn: Vô hỷ túc tinh tấn nghĩa là không vui sướng tự mãn, khi có chứng ngộ nhất định không lấy đó làm tự mãn mà phải tiếp tục với mục đích cuối cùng là giải thoát.
3. Niệm căn: Niệm là ghi nhớ. Ghi nhớ những gì?
a) Thứ nhất niệm thí: nghĩa là nhớ tu bố thí.
b) Thứ hai niệm giới: nghĩa là nhớ trì tịnh giới để đoạn trừ các phiền não nghiệp chướng, tăng trưởng mọi hạnh lành. Giới có ba thứ:
-Nhiếp luật nghi giới: Những giới để ngăn cấm các hạnh nghiệp thô xấu, đoạn diệt các nghiệp chướng nơi thân tâm.
-Nhiếp thiện pháp giới: Những quy điều đúng pháp và lợi ích, người thực hành theo nó, có thể thành tựu tất cả pháp lành.
-Nhiêu ích hữu tình giới: Những điều luật làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh.
c) Thứ ba niệm thiền: Luận Nhiếp Ðại Thừa có nói: "Thiền niệm trụ là an trụ bốn món thiền định". Vậy niệm thiền là nhớ tu các niệm thiền định, để gạn sạch tất cả phiền não, thể chứng chân như:
4. Ðịnh căn: Ðịnh hay tịnh lự do dịch nghĩa chữ Phạn là Dhyana (Thiền na). Ðịnh là lắng tâm yên tịnh, chuyên chú vào chánh pháp, để suy đạt thật nghĩa của nó. Theo Luận Nhiếp Ðại Thừa, định có thể chia làm ba bậc:
a.An trụ định: Ðể tâm an trụ vào định cảnh, không cho tán động, do đó phiến não được tiêu trừ.
b.Dẫn phát định: Do đoạn sạch phiền não nên được phát sanh sáu món thần thông là các công đức thù thắng.
c.Thành sở tác sự định: Do đã phát khởi được các công đức, thần thông, nên thường làm lợi ích cho tất cả chúng sanh; cứu độ chúng sanh giải thoát sanh tử, chứng được Niết Bàn.
5. Huệ căn: Huệ là trí huệ sáng suốt, thâm nhập được chân tướng của vạn pháp. Trí huệ ấy không có sự phân biệt, vì phân biệt là tác dụng của vọng thức, là mê lầm. Cũng theo Luận Nhiếp Ðại Thừa, trí huệ có ba thứ:
a.Vô phân biệt gia hạnh huệ: Quán trí nầy không còn thấy có phân biệt, nhưng còn có gia hạnh, nghĩa là còn phải dụng công tu hành, để thành tựu hoàn toàn vô phân biệt trí. Vì thế, nên gọi là " vô phân biệt gia hạnh huệ".
b.Vô phân biệt huệ: Trí huệ nầy không có sự phân biệt, mà không cần phải gia hạnh vì đã thuần phục. Do không phân biệt nên không có mê vọng. Nhờ trí huệ này, người tu hành được tự tại thể chứng nhân như.
c.Vô phân biệt hậu đắc huệ: Hay hậu đắc trí, nghĩa là trí huệ có được sau khi đã chứng được chân như. Trí huệ này hoàn toàn sáng suốt, tỏ ngộ được thật nghĩa của các pháp. Chư Phật nhờ hậu đắc trí nầy mà thi tác vô lượng công đức, để cứu độ chúng sanh.
Ngũ Lực
Ngũ lực tức là năm năng lực vĩ đại, năm thần lực do Ngũ căn sinh ra.
1. Tín lực: tức là thần lực của đức tin, hay sức mạnh lớn lao, vi diệu do tín căn phát sinh.
2. Tấn lực: tức thần lực của đức tinh tấn, hay sức mạnh bất thối chuyển, kiên cố, có thể sang bằng mọi trở lực, sức mạnh này do tấn căn phát sinh.
3. Niệm lực: tức là thần lực của sự ghi nhớ, hay sức mạnh lớn lao bền chắc của niệm căn.
4. Ðịnh lực: tức thần lực của sự tập trung tư tưởng hay sức mạnh vĩ đại của định căn.
5. Huệ lực: tức thần lực của trí huệ hay sức mạnh vô biên của huệ căn.
Thất Bồ Ðề Phần
Bồ đề do phiên âm chữ Phạn Boddhi mà ra. Người Trung hoa dịch là Giác đạo, hay đạo quả gíac ngộ. Phần là từng phần, từng loại. Thất Bồ đề phần là bảy pháp tu tập tuần tự hướng đến đạo quả vô thường Bồ đề.
Nó cũng có tên là Thất giác chi. "Giác: tức là Bồ đề, còn "Chi" tức cũng như phần vậy. Thất giác chi tức là bảy phương tiện đi đến đích giác ngộ.
1. Trạch pháp: Trạch là lựa chọn; Pháp là pháp môn, là phương pháp tu hành. Trạch pháp là dùng trí huệ để lựa chọn pháp lành để tu, pháp dữ để tránh. Ðức Phật có dạy: "Hãy dùng trí huệ suy nghiệm, giải trạch các pháp, rồi sẽ tín thọ, thật hành theo".
2. Tinh tấn: khi đã lựa chọn được pháp môn chân chính để tu rồi, thì phải tinh tấn tu tập.
3. Hỷ: Nghĩa là hoan hỷ. Nhờ tinh tấn tu hành, nên đoạn trừ được dần phiền não thành tựu vô lượng công đức, do đó, sanh tâm hoan hỷ và phấn chí tu hành.
4. Khinh an: Khinh là nhẹ nhàng. An là an ổn. Nhờ sự tinh tiến tu tập nên thân tâm được thanh tịnh; do đó người tu hành cảm thấy nhẹ nhàng, khoan khoái.
5. Niệm: nghĩa là thường ghi nhớ chánh pháp để thực hành.
6. Định: Nghĩa là tâm chuyên chú, tập trung vào pháp mình đang tu.
7. Xả: Nghĩa là bỏ ra ngoài không vướng bận. Kinh Kim Cang sớ có nói: "Người tu hành phải như người nương thuyền qua sông, khi thuyền đã cập bến, nếu ta không bỏ nó để lên bờ, thì đừng hòng đến đâu và biết gì được. Người muốn thành đấng siêu việt tự tại, cần phải từ trước khước mọi đắm say".
Bát Chánh Ðạo là tám con đường đạo chân chánh.
1. Chánh kiến: Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. Chánh kiến hay Chánh tri kiến là thấy, nghe, hay, biết một cách ngay thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan.
2. Chánh tư duy: Tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét; nó thuộc về ý thức. Chánh tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ phải.
3. Chánh ngữ: Ngữ là lời nói; Chánh ngữ là lời nói chân thật, công bình, ngay thẳng và hợp lý.
Ngày xưa, trước khi đức Phật sắp nhập Niết Bàn, có Ðệ tử hỏi: Bạch đức Thế Tôn, khi Phật nhập Niết Bàn rồi, người đời sau gặp nhiều sách vở ngoại đạo không sao phân biệt với kinh Phật , như thế, biết tin theo lời nào tu?
Phật dạy: Chẳng luận là lời nói của ai miễn là lời ấy đúng sự thật, hợp chân lý thì cứ tin theo mà tu.
4. Chánh nghiệp: Nghiệp nghĩa là hành động tạo tác. Chánh nghiệp là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý, có lợi ích cho người lẫn vật.
5. Chánh mạng: Mạng là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sanh sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của mình.
6. Chánh tinh tấn là chuyên cần, siêng năng làm việc chánh nghĩa, lợi lạc cho mình cũng như cho người và vật.
7. Chánh niệm: Niệm là ghi nhớ. Chánh niệm là ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính quý trọng cao siêu. Chánh niệm có hai phần:
a) Chánh ức niệm: là nghĩ nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối, và nghĩ nhớ đến Tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sinh và ân Tam Bảo để lo báo đền.
b) Chánh quán niệm: là dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng thương yêu và quyết ra tay cứu độ.
8. Chánh định: Chánh định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình và người. Người theo đúng Chánh định, thường tập trung tư tưởng để quan sát những vấn đề chính sau đây:
a.Quán thân bất tịnh: (bất tịnh quán) để trừ tham dục, sai ái.
b.Quán từ bi (từ bi quán) là quán tưởng tất cả chúng sinh đều là một chân tâm, bình đẳng không khác, để mở rộng lòng thương yêu, cứu độ chúng sinh.
c.Quán nhân duyên: (nhân duyên quán) là quán vạn Pháp đều do nhân duyên là vô thường.
d.Quán giới phân biệt: (giới phân biệt quán) nghĩa là phân biệt và quán tưởng sự giả hợp của 18 giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức để thấy không thật có "ngã, pháp" ngõ hầu diêt trừ ngã chấp, pháp chấp.
e.Quán hơi thở: (sổ tức quán) nghĩa là qúan tưởng bằng cách chuyên chú đếm hơi thở ra vào, để đổi trị sự tán loạn của tâm thức.
Kết Luận: 37 phẩm trợ đạo trên đây là cốt tủy tu tập của đạo Phật. Từ 37 phẩm trợ đạo này mà phát sinh ra 84000 pháp để phù hợp với mọi căn cơ của chúng sinh. Ở những phần sau sẽ xin được bàn rộng thêm về các pháp tu căn bản.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks