Đây là một quyển sách nói về cuộc đời phi thường của Đạo Sư Milarespa, KD xin post lên đây cho những ai muốn tu tập và tìm hiểu về Mật tông có được cái nhìn rộng rãi hơn về Mật Tông Tây Tạng và bậc Đạo sư này.

KD xin post phần đầu thôi, nếu các bạn đọc thấy hay thì KD sẽ post tiếp.


LỜI NGƯỜI DỊCH

Tây Tạng như một đóa sen đêm chỉ nở đón ánh trăng mông lung, huyền diệu và kỳ ảo của Đông phương.

Vào hậu bán thế kỷ mười một, nơi xứ sở u huyền này nghe vang dậy một giọng hát vừa trầm hùng như loài sư tử, vừa thánh thót như tiếng chim Ca-lăng-tần-già, vừa rạt rào như lời cây tiếng lá, vừa cao thâm như âm vang của đỉnh núi và hố thẳm. Tiếng ca này lần đầu tiên xuất hiện trên các triền núi âm u hoang vắng của dãy Hi-mã-lạp sơn và dần dần lên mãi đến tuyệt đỉnh Everest tuyết phủ tiếp giáp với mây trời vần vũ thiên thu.

Tiếng hát, lời ngâm này phát nguồn từ một giai tầng trí huệ và nghệ thuật viên dung siêu việt của một bậc thánh tăng Bồ-tát Tây Tạng với mảnh vải che thân mong manh rách rưới và chiếc tích trượng nhỏ bé nhưng rắn chắc vô biên nện vang từng tiếng rõ ràng theo nhịp chân leo lên từng phiến đá tuyết trắng ngần sau hơn mười năm tu luyện các năng lực thượng thừa và tu tập thiền định không ngừng theo các diệu Lý của Mật-tông Phật-giáo : giọng hát của Jetsun Milarepa, Đại Hành Giả Du-già Tây Tạng.

Cuộc đời đại hiệp sỹ phi thường phi phi thường này bắt đầu từ khi lên bảy, cái tuổi thơ dại đã thực sự bước vào địa ngục trần gian này : ngục của lòng tham không đáy; ngục của lửa thù hận phụt lên vô bờ vì bị người thân tộc cướp đoạt quyền thừa kế gia tài của dòng họ quý phái giàu sang, vì cái chết quá sớm của người cha đáng kính. Cuộc sống bị đày đọa khốn cùng của cậu bé bảy tuổi Mila Thopaga kéo dài chịu đựng cho đến năm mười lăm tuổi, cái tuổi chập chững nhưng lại quá phong trần : một người một ngựa lên đường tìm thầy học Huyền Thuật để mong trả thù rửa hận cho thỏa lòng người mẹ góa yếu đuối nhưng vẫn giữ niềm kiêu hãnh vô biên. Sau khi học thành tài, Mila Thopaga đã dùng tuyệt nghệ huyền thuật của mình giết hằng bốn năm chục người có liên hệ với hai kẻ tử thù chính là ông chú và bà thím độc ác của chàng, và phá hoại không biết bao nhiêu của cải, hoa màu của những người khác . . . Mila Thopaga bị lương tâm cắn rứt, cõi lòng xao xuyến bất an và phát tâm tìm thầy học Đạo, khát khao giác ngộ và giải thoát đến cực độ đến nỗi phải hi sinh bất cứ thứ gì kể cả thân mạng của chính mình.

Định Mệnh của Mila Thopaga là một thứ định mệnh Đại Hạnh, nhưng quá khốc liệt khắt khe. Cuối cùng Mila Thopaga đã gặp được Đạo sư của túc duyên nghìn muôn kiếp : Đại Pháp sư Marpa, tổ sư khai sáng tông phái Bkarhgyudpa của Phật giáo Tây Tạng. Sau tám lần được bậc Đạo sư ném tận cùng đáy sâu hố thẳm tuyệt vọng, Mila Thopaga đã được gột rửa thân thể và tâm linh, hủy diệt ác nghiệp và thọ lãnh tất cả nhưng chân lý mật nhiệm của tông phái này, thế rồi một mình một bóng lang thang khắp cac vùng thâm sơn cùng cốc để thiền định và tu tập giáo lý giải thoát vô thượng.

Với lời thệ nguyện vĩ đại như thái tử Tất-đạt-đa trước đó khoảng mười bảy thế kỷ dưới gốc cây bồ-đề : nếu Ta không đạt được giải thoát rốt ráo thì vĩnh viễn không trở lại với thế giới loài người, Mila Thopaga đã quỳ lạy từ giã vị đạo sư với sứ mệnh cao cả trên vai khi bước chân vào chốn heo hút của rừng sâu thăm thẳm.

Mười năm ẩn tu trong hang đá giá lạnh tuyết phủ trên vùng Hy-mã-lạp sơn, với thân thể rách nát suy nhược cùng cực vì thiếu thức ăn và quần áo cần thiết, Milarepa đã hiến dâng bản thân trọn vẹn cho Chân lý, hòa hợp tự ngã cùng nhất thể Chân Như kỳ ảo, Milarepa đã đạt được Giác Ngộ và giải thoát.

Người dịch hôm nay cầu mong dư âm của lời thơ, lời hát khởi nguồn từ một Trí tuệ thấu suốt Ba Nghìn Đại Thiên thế giới này, và hình ảnh cuộc đời phi thường phi phi thường của một Con Người đã vượt qua thân phận lòai người này, sẽ đi sâu vào tận đáy lòng của hết thảy nhân loại, giữa buổi hòang hôn tâm linh hôm nay, sẽ khai mở một Triêu Dương huy hoàng ngày mai trong lòng mỗi một và tất cả.



dịch giả: ĐỖ ĐÌNH ĐỒNG

Nam mô A Di Đà Phật

CHƯƠNG I

HẠ SINH VÀ NHỮNG NĂM THƠ ẤU


Tôi là Rechung, một môn đệ của Jetsun Milarepa, bậc thầy yêu quý của tôi và là vị hành giả Du-già lừng danh nhất xưa nay. Đúng như linh ảnh xuất hiện trong lúc thiền định vào chiều nọ trước khi Ngài viên tịch không lâu, tôi đã thỉnh cầu Ngài kể lại cho chúng tôi nghe câu chuyện về cuộc đời Ngài. Mặc dù nhóm đệ tử chúng tôi, ai cũng biết qua đôi chút tiểu sử của Ngài, nhưng vẫn chưa có người nào tường tận từng chi tiết, vì vậy tất cả anh em chúng tôi đều ủng hộ việc này. Bởi lẽ, mọi người đều có thể rút tỉa nhiều bài học cho riêng mình, trong câu chuyện lịch sử sống động của vị Đạo sư khả kính. Và tôi đã chăm chú lắng nghe, rồi ghi chép lại khá đầy đủ để trao tặng cho các bạn.

Mong sao cuộc sống nhân loại càng ngày càng được phong phú hơn nữa, với những bài học khổ đau, những vinh quang, kiến giải và những thành công trong sự nghiệp tâm linh của Ngài.

Chúng tôi thường tự hào là đã biết rất nhiều nhưng câu chuyện do Ngài kể còn phong phú hơn tất cả những gì chúng tôi đã thuộc nằm lòng ! Với bao nhiêu tình tiết hấp dẫn vui nhộn của câu chuyện, Ngài đã khiến chúng tôi tươi cười thú vị - và với phong cách diễn đạt súc tích đầy ấn tượng, Ngài đã làm chúng tôi lắm phen rơi nước mắt ! Chúng tôi đã chăm chú lắng nghe từng lời từng tiếng, như ngại rằng những âm thanh từ ái kia sẽ biến mất đi ! Và những điều mà tôi ghi lại đây thật chẳng đáng gì so với câu chuyện người đã kể.

Ôi, hỡi bậc Đại Đạo Sư, con xin cúi đầu đảnh lễ Ngài, và cầu mong những dòng chữ ghi lại nơi đây, sẽ nhận được sự khích lệ trong ánh mắt Ngài. Và bây giờ kính xin Ngài hãy cất tiếng nói cho cả thế giới nhân loại cùng nghe !

(Sau đây là câu chuyện kể của Milarepa :

Những năng lưc huyền bí mà tôi có, ắt được thừa hưởng từ các đấng tiền nhân, vì các môn thần quyền ấy dường như là một tính chất cá biệt của gia đình tôi. Năm thế hệ trước, một bậc tiền bối của tôi đã tạo nên một danh hiệu cho người, theo nghĩa đen, bằng cách dùng huyền thuật đánh đuổi một con quỷ mà các nhà phù thủy khác bó tay đầu hàng. Người ta nói rằng con quỷ ấy vừa tháo chạy vừa kêu la kinh hãi :”Mila! Mila!” “Ơi người !”.

Vì câu chuyện này, dân chúng trong làng bắt đầu khôi hài gọi ông là Mila, và danh hiệu này bền vững đến nỗi được lưu truyền từ đời cha đến đời con, gắn liền vào những tên khác.

Lúc tôi mới sinh, cha tôi rất mừng khi nghe tin này, nên ông đặt tên tôi là Thopaga, có nghĩa là "Vui Nghe". Cái tên này tỏ ra thích hợp kỳ lạ vì tôi được phú bẩm một giọng hát rất tốt. Tuy nhiên theo tôi, trước hết chúng ta phải ngược dòng thời gian trở lại từ nguồn cội xa xưa của tổ tiên tôi, nhờ đó mới có thể hiểu được hoàn cảnh sinh hoạt của gia đình tôi ngay lúc cái chết quá sớm của thân phụ tôi.

Người con trai của lão phù thủy Mila là một tay đánh bạc kinh niên, đôi khi gặp may, nhưng điều đó chắc rất hiếm đối với ông. Vì thế toàn thể của cải của gia đình đã biến mất trong một đêm vào tay một tay chơi giỏi hơn ông. Hắn đã hốt trụi lụi tất cả : nào nhà cửa, nào đồ đạc, nào châu báu và ruộng đất vào túi hắn và luôn cả quyền sở hữu nữa. Trong khi ông cao tỏ khảo của tôi, một người hay sầu muộn nếu không muốn nói là một người khôn ngoan, đã phải lang thang ngoài đường với Dorij Sengé tức cậu con trai chuyên nghề đánh bạc của người, và để kiếm sống qua ngày, người phải tạo những trận mưa giả phá hoại rất nhiều hoa màu của dân chúng, làm những bùa chú cho trẻ con và xua tà đuổi quỷ ở bất cứ nơi nào chúng đến quấy nhiễu dân làng.

Tuy nhiên Dorij Sengé là người có khuynh hướng thực tiễn. Ông bắt đầu buôn bán lông trừu. Vì thế trong một khoảng thời gian tương đối rất ngắn, ông đã xoay xở đủ cách để đền bù những gì đã mất và tái lập cho cha thành một điền chủ có nhà cửa, có nông trại để truyền lại cho những người thừa kế, mà tôi là người thừa kế tối hậu. Ngôi nhà ông xây cho chính ông là một ngôi nhà nguy nga tráng lệ, bốn trụ tám cột với cái danh hiệu là ngôi nhà "Tứ Bát" mà người ta biết từ đó.

Sự giàu sang của ông cứ phát triển một cách vững vàng và của cải của ông đã hấp dẫn một số người bà con nghèo khó của ông, họ đã bỏ phần đất quê hương, đến cư trú bên cạnh ông trong tỉnh Kyang Tsa, với số của cải ít ỏi và con cái của họ - việc xẩy ra không gây một ảnh hưởng nhỏ nào đến đời sống chúng tôi, đến biến cố vĩ đại đã biến hạnh phúc gia đình chúng tôi thành cảnh bi đát.

Cha tôi Mila Sharab Gyalten, mẹ tôi Karmo Kyen hay là Bạch Hoa Quan, và bà sinh tôi vào ngày 25 tháng tám năm Con Rồng Nước Đực (năm 1055 theo Dương lịch). Bốn năm sau, bà lại tặng tôi bé gái Gonkyt, cái tên rất khó phát âm với một chú bé nhỏ như tôi, vì thế chúng tôi đều gọi nó bằng cái tên thân mật Peta.

Vào những ngày đó chúng tôi hạnh phúc biết bao nhiêu khi tôi và Peta cùng nhau chạy nhảy vui đùa trong nhà hay ngoài đồng ruộng, trang sức bằng châu ngọc và được săn sóc chu đáo, mặc quần áo tốt đẹp với ăn uống phủ phê, sung sướng tràn trề một cách vô tư nào biết gì sắp xảy đến. Và những người hàng xóm láng giềng thường ghen tị với chúng tôi biết bao nhiêu. Bất cứ khi nào họ đến nhà chúng tôi đều nói bằng một giọng thầm thì kinh sợ, ngắm nhìn những đồ đạc trang trí trong nhà bằng cặp mắt lạ lùng kính phục. Và bất cứ khi nào họ có dịp gặp mặt cha mẹ tôi, họ đều cúi đầu thật thấp bái chào một cách cung kính. Và tôi cũng được hứa hôn với một cô bé gái tên là Zesay, nhưng trong những ngày đó tôi không quan tâm đến việc này, tôi thích Peta và những trò chơi trẻ con của tôi hơn.

Khi Peta lên ba tuổi và tôi bảy tuổi thì cha tôi lâm bệnh nan y và sau một thời gian ngắn vật vã quằn quại, người đã qua đời. Trước khi lâm chung, người đã ủy thác gia đình cho hai người bà con nghèo khó săn sóc. Đó là chú và thím tôi. Họ cùng nắm giữ tài sản và làm việc theo lời ủy thác cho đến khi chúng tôi trưởng thành để chúng tôi có thể điều khiển lấy công việc. Thuở sinh tiền, thực sự cha tôi là một người dũng mãnh và được mọi người tôn kính, hầu hết họ là những tá điền của cha tôi, người đã cho gọi tất cả những tá điền và những người bà con đến bên giường bệnh, vì thế họ có thể nghe và làm nhân chứng cho bản di chúc của cha tôi trước khi người từ giã thế gian. Họ còn biết được những gì cha tôi đã hoạch định cho vợ con, dường như người muốn có sự bảo vệ chắc chắn để ngăn ngừa những điều bất trắc có thể xảy ra bởi những người bà conthân thuộc, những kẻ mà dường như người không tín nhiệm họ trọn vẹn.

Ôi, người đã không lầm tí nào, vì việc đã xảy ra tỏ rõ quá chừng ! Vào hôm đám táng cử hành, khi thi hài của người không còn nữa, tất cả những người láng giềng đã cùng nhau tụ họp trong vườn nhà tôi. Và một vài người anh em họ xa gạ ý với mẹ tôi cách thức đổi tài sản để lấy sự giúp đỡ khi nào người cần. Nhưng chú thím tôi đã lập tức xen vào, tỏ rằng họ là những người bảo trợ duy nhất còn lại vì họ là những người máu mủ gần gũi nhất, vì thế họ nhất định sử dụng tài sản theo ý họ, không cần ai khuyên bảo. Dĩ nhiên họ sẽ săn sóc góa phụ và mấy đứa bé mồ côi.

Hỡi ôi là lời tuyên bố quá lố ! Họ nào săn sóc chi chúng tôi. Peta và tôi sớm lang thang rách rưới, đói khát. Mùa hè bị chú bắt làm việc ngoài đồng, mùa đông bị thím bắt làm việc trong nhà. Họ nào có ngó ngàng gì đến những chỗ phồng da hay những vết đau nhức trên thân thể chúng tôi, cũng không bao giờ bắt chấy bắt rận những con vật sinh sôi nẩy nở rất nhanh và rất nhiều trên thân thể nhơ nhớp vì thiếu tắm rửa . . . và những quần áo rách nát không được giặt giũ của chúng tôi. Một vài người hàng xóm tỏ ra thương hại và họ phải rơi nước mắt trước cảnh ngộ chúng tôi hiện thời. Nhưng những kẻ khác, những kẻ nịnh hót, bợ đỡ chú thím tôi, những người bây giờ họ là những kẻ giàu sang may mắn, nói khác đi, là những ông chủ có ruộng cho thuê. Sự thực người ta có thể thấy họ mặc quần áo, mang đồ trang sức của cha mẹ tôi, vì họ đã chia nhau mỗi người một phần nhỏ sản nghiệp do cha tôi để lại, không kể gì đến lời khiếu nại của mẹ tôi. Vì thế bây giờ họ có thể tỏ ra vui vẻ trong hoàn cảnh mới của cuộc sống mànhờ đó, họ đã tự nâng cao mình lên một giai cấp khả kính. Hơn nữa, những kẻ nịnh hót bắt đầu chỉ trích mẹ tôi, người mà trước kia họ rất kính trọng và giờ đây họ gọi là người đàn bà yếu đuối, vô dụng, một người đàn bà có thể làm việc nội trợ được là nhờ ở người chồng khỏe mạnh và thành công giúp đỡ.

Cha mẹ Zesay ở trong số những người tử tế. Họ thương hại cho hoàn cảnh khốn cùng của chúng tôi. Thỉnh thoảng họ cho chúng tôi - những đứa trẻ thơ - vài món nhu cầu cần thiết để sống, và họ đã ghi vào tâm khảm chúng tôi "bài học đời" đầu tiên phải dạy cho mọi người : của cải thì vô thường và dễ tiêu tan như sương đọng trên ngọn cỏ, bây giờ còn đây nhưng chốc lát sẽ ra đi. Và rồi họ an ủi tôi bằng cách quyết đoán rằng tôi cũng giống như ông cụ cố của tôi, ngày nào đó tôi sẽ giàu sang trở lại.

Trong tám năm trường, mẹ tôi chịu đựng sự bép xép, mỉa mai, bóng gió của những người hàng xóm. Nhưng cuối cùng, khi tôi được mười lăm tuổi, người cố gắng phản kháng. Người có một thửa ruộng riêng, hàng năm mang lại cho người một lợi tức nho nhỏ và thửa ruộng này do người em trai, một kẻ “đồng minh bí mật” của người canh tác, nhưng rồi chúng ta sẽ biết, em trai của người là không có can đảm tự tin. Năm nay, mẹ tôi quyết định dùng tất cả lợi tức của mùa gặt đem lại, làm tiệc mời tất cả những người trong làng cũng như những người bà con thân thuộc, và nhân danh tôi, đòi hỏi quyền thừa kế sản nghiệp cho tôi. Vì mục đích này, Peta và tôi hết sức làm việc, chà xát và lau chùi, sửa soạn đồ ăn thức uống, mượn những dụng cụ và những đồ đạc trang trí nhà cửa từ những người bạn chúng tôi. Khi ngày trọng đại này đến, những người khách được mời đã tụ hội, giữa đám thực khách đó, cặp vợ chồng đã làm những hành động lỗi lầm kia được ưu đãi bằng những miếng ăn ngon nhất. Khi mọi người ăn xong và rượu biết tự do, mẹ tôi đứng lên bước vào giữa đám dông, tay cầm tờ di chúc phất lên và bảo người em trai đọc lớn lên cho mọi người cùng nghe để làm sống lại ký ức có liên quan đến nội dung tờ di chúc. Sau đó, mẹ tôi lịch sự cảm ơn chú thím tôi vì họ đã giữ gìn những đồ vật tài sản chu đáo. Và rồi đến phần quan trọng nhất của buổi tiệc : mẹ tôi yêu cầu rằng tôi, con trai người, giờ đây đã gần đến tuổi trưởng thành, đã đến lúc quyền thừa kế phải giao lại cho tôi đảm nhận và sự bảo trợ đã hết kỳ hạn.

Chúng tôi nhìn thấy khuôn mặt những kẻ ngược đãi chúng tôi kích động vì giận dữ, những người mà, mặc dù bình thường họ không bao giờ đồng ý bất cứ việc gì, giờ đây họ tỏ ra đoàn kết để đánh đổ lời tuyên bố của mẹ tôi và coi đó như là lời nói phi lý không có giá trị gì, nếu không muốn nói đó là một lời đề nghị phản đạo lý ! Họ còn ám chỉ rằng nhà cửa, ruộng đất thực sự thuộc về họ vĩnh viễn và rằng tất cả những thứ đó là cha chúng tôi đã mượn của họ. Tôi không hiểu nổi ai có thể tin được một lời khiếu nại xấc láo như thế. Họ còn nói thêm mấy câu đơn giản để cảm tạ những người trước đây đã được họ cứu cho khỏi chết đói và họ đã thẳng tay tát vào mặt mẹ tôi mấy cái thật mạnh cuối cùng để hậu thuẫn cho những lời nói của họ. Trong khi Peta và tôi được bình yên. Việc này thật quá đau đớn cho mẹ tôi, khiến người bật khóc điên cuồng rồi ngã khụy xuống nền nhà. Người em trai mẹ tôi đứng dậy, nhưng không dám can thiệp, nghĩa là ông sợ phải gây thù chuốc oán với những đứa con trai to khỏe của kẻ thù. Những người hàng xóm có hảo cảm với chúng tôi xúm quanh lại để chạy chữa mẹ tôi tỉnh lại. Nhưng thím tôi vẫn chưa thôi, ra đến ngõ bà quay lại cất tiếng chửi mắng :

"Này chúng mày đòi của mà chúng mày có thể đãi tiệc lớn như thế này này", bà thét lên be be : "Tụi tao không thể đãi tiệc nổi ! Đồ thứ mồ côi ! Hừ! Đừng tưởng chúng mày sẽ lấy được tụi tao đồng xu nào, chúng mày làm gì nào ! Đánh đập hay nguyền rủa, tụi tao cũng chả cần ! Chúc chúng mày một ngày tốt đẹp !"

Và hai người bước đi với tất cả những tên nịnh bợ, bỏ lại chúng tôi với số đông bạn bè.

Những người này chẳng bao lâu tìm được những lời khuyên trong những gì còn sót lại của rượu bia, và sau khi đã cạn những bình rượu lớn, họ đề nghị phát động một cuộc quyên tiền cho tôi đi học. Một người chú khác muốn đem mẹ tôi và Peta về nhà ông và bù lại mẹ và em tôi phải làm việc ngoài đồng cho ông. Nhưng mẹ tôi vẫn giữ được chút kiêu hãnh còn lại, người thích ở trên thửa đất riêng của mình, trong khi người chấp nhận việc quyên tiền cho tôi đi học. Nhưng rồi sau một thời gian, cuộc lạc quyên đề nghị đó cũng tự nhiên chểnh mảng dần cho đến khi bị lãng quên hoàn toàn.


(Còn tiếp)