kết quả từ 1 tới 16 trên 16

Ðề tài: Đi tìm tên cai ngục tàn ác nhất trong lịch sử Việt Nam ?

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #4

    Mặc định Hồi ức đen của viên cai ngục nhà tù Phú Quốc

    09.05.2009 09:18

    Gian nan tìm viên cai ngục khét tiếng tàn độc đã “rửa tay gác kiếm”

    Khi tôi có ý định đi tìm viên cai ngục từng móc mắt, nhổ răng các tù binh cộng sản, nhiều người đã cực lực phản đối. Có người bảo, ông ta sống ẩn dật trên nương rẫy hoang vu rậm rạp ngoài xó đảo, với bầy chó hung dữ canh gác, tuyệt đối không tiếp xúc với ai. Có người cảnh báo: Bảy Nhu (viên cai ngục, tên thật là Trần Văn Nhu) làm Giám thị trưởng quyền sinh quyền sát một thời, hắn sống được đến giờ, là nhờ một quyền năng bí ẩn của thế lực nào đó, gặp hắn rất nguy hiểm. Tôi không tin vào những điều “đồn thổi” đó. Chỉ ngặt vì không tài nào lần ra con đường đến khu vực mà Bảy Nhu đang sinh sống; và điều tôi lo lắng nhất khi vượt biển ra An Thới là: nỗi sượng sùng khi tìm mọi cách để ngồi trước mặt Bảy Nhu. Sẽ lấy lý do gì, sẽ nói gì với ông ta - một sứ giả của địa ngục !?
    Đại tá, đội trưởng đội K92, anh Nguyễn Minh Chánh đón tôi ở TP Rạch Giá. Anh Chánh đã dẫn quân đi khắp núi rừng Cam Pu Chia xa xôi, rậm rạp trong nhiều năm, cất bốc hàng vạn bộ hài cốt bộ đội tình nguyện Việt Nam; hiện nay, chính đội quân của anh, cũng đã tìm kiếm và quy tập được hơn 1.000 bộ hài cốt các chiến sỹ cộng sản đã vị quốc vong thân ở nhà ngục Phú Quốc. Đại tá Chánh bảo: tôi có gặp Bảy Nhu một lần, để “tham vấn” ý kiến của ông ta, xem nên khai quật ở khu vực nào thì “trúng địa điểm” nhất. Ông ta là người tra tấn, rồi trực tiếp hoặc ra lệnh quẳng xác tù nhân ở đâu, ông ta phải nhớ chứ. Và, ông ta “chỉ điểm” rất là đích đáng. Anh vào đó, rất khó tìm đường, càng khó tìm được lý do để có thể gợi cho ông ta mở miệng, khi mà ông ta đã quá mặc cảm, quá cảnh giác trước các cuộc “tìm kiếm nhân chứng” ác ôn của nhà lao Cây Dừa. Tôi giới thiệu anh với một người, người này là chỗ chí thân, lại là chỗ cùng mang nỗi mặc cảm là “cán bộ quản lý” của Nhà tù Phú Quốc ác ôn ngày xưa kia. Họ có chung nỗi mặc cảm lớn; nhưng ông này hào hiệp vô cùng, tôi mà gọi điện giới thiệu, ông ấy sẽ giúp anh.
    Người đó là ông Hai Nam. Chừng gần 70 tuổi, vốn là tiếp phẩm cho nhà lao (nên tội ác với cách mạng cũng… nhẹ hơn), sau thời gian “giáo dục cải tạo”, ông Hai Nam đã gần như xóa hết mặc cảm “diều hâu cú vọ” của nhà tù tàn ác, giờ là cán bộ văn hóa của thị trấn với bằng khen giấy khen giăng kín phòng khách, là chủ hãng nước mắm Nam Hương nổi tiếng. Ông Hai Nam là chỗ quen biết lâu năm và am hiểu cuộc đời Bảy Nhu. Sau cả buổi sáng thuyết phục, ông Nam dè dặt: để tôi gọi điện cho chú Bảy xem đã. Chú ấy càng già, càng khép mình quanh khu vườn hẻo lánh đó, tội lắm. “Vào đó, cháu bảo cháu là cháu ruột của chú Nam, là người nghiên cứu lịch sử nhà tù Phú Quốc, muốn qua thăm, tặng quà cho Bảy Nhu. Nhà nước mình, giờ đổi mới rồi, không ghét bỏ hay giết chóc gì những cai ngục chế độ cũ nữa, nhé!”.
    Dặn dò tôi xong, người đàn ông lịch lãm râu bạc dùng chiếc Dream chở tôi đi theo những con đường dốc dác, nhỏ trắng như cái bấc đèn dài vô tận. Qua những cánh rừng bạch đàn tối um, ngôi nhà nhỏ hiện ra, cũng màu mè xanh đỏ tím vàng rất là khó hiểu. Có vẻ đó là một ngôi nhà của người nghèo và ít quan tâm đến… thẩm mỹ - họ vừa nỗ lực lắm kinh tế thì mới xây cất được? Bước vào khu vườn, ông Hai Nam thở hắt ra: “Chúng tôi khổ nhục, sống trong cái thời buổi chúng nó bắt lính tàn bạo. Trời gọi ai thì người nấy phải dạ, mà chú”. Dường như nỗi tủi phận dâng ngập lên, từ bấy đến cuối cuộc tiếp xúc với Bảy Nhu, ông Hai Nam chỉ ngồi im, khẽ vuốt vuốt bộ ria mép dày, cứng và bạc như cung cách của một bá tước châu Âu trung cổ.

    Lý thuyết : “trời gọi ai người nấy dạ”

    Kiên quyết không cho phép… chụp ảnh. Da mồi, sạm đen nhiều phần như quả chuối đã chín trứng cuốc. Tóc bạc, đầu hói. Hai hàm răng gẫy mất nhiều phần. Nói chuyện mệt mỏi, mắt luôn nhìn lơ đầy mặc cảm. Dù tôi và ông Hai Nam giới thiệu thế nào, ông Bảy Nhu vẫn luôn cảnh giác: cháu là nhà báo hả? Tý lại hỏi lại, cháu là nhà báo hả. Cái cách để tôi lén chụp được ảnh ông Bảy Nhu ở cự lý cực gần như thế (xem ảnh), có lẽ phải bổ sung vào một giáo trình báo chí nào đó (!). Ông Nhu luôn biết cách tránh những câu hỏi trực diện, kiểu như: ai nghĩ ra trò “nhổ răng” các người tù, ông đã nhổ răng họ ra bằng dụng cụ gì? Việc tẩm dầu vào rẻ đốt dương vật của người tù, có thật không? Dù xám hối rất nhiều thông qua việc ăn chay và niềm Phật, nhưng sâu thẳm trong lòng, hình như ông Bảy Nhu vẫn căm phẫn những người đã có ý định trả thù, hằn học, dằn mặt mình.
    Ông Nhu luôn ngụy biện cho sự tha hóa của mình: Tui quê ở Đồng Tháp. Sau giải phóng, nhiều người rủ tôi về Đồng Tháp sống để quên hắn cái chỗ tội ác này đi, nhưng tôi không về. Đã 4 lần các thế lực ở Mỹ muốn tôi nhập cảnh sang bên đó, để “đền đáp” những cống hiến của tôi với “đế quốc” và chính quyền Sài Gòn cũ. Nhưng, tôi muốn ở lại đây.
    Sinh năm 1926, năm 20 tuổi tôi đã bị giặc “tổng động viên” bắt phải đi lính cho chúng. Sau này, tôi tiếp tục phục vụ trong chính quyền ngụy. Năm 1968, khi Trại tù binh Cộng sản Phú Quốc vừa mới được chính quyền Sài Gòn thành lập, tôi được điều ra hòn đảo này. Lúc đầu, nó bảo, ra đảo 3 tháng sẽ được về với vợ ở Sài Gòn, rồi 6 tháng, rồi ở đến khi nhà tù giải thể luôn. Gia đình tôi ở Đồng Tháp, có em trai, chị dâu, cháu tôi đều tham gia hoạt động Cách mạng (là những người Cộng sản chân chính); vì thế, các “ông” (quản lý nhà tù và chính quyền Sài Gòn) thử thách tôi ghê lắm, họ theo dõi tôi từng tí. Vì thế tôi phải nỗ lực làm việc (tra tấn tù nhân thật tàn ác?), để chứng minh là mình hết lòng trung thành với họ. Kẻo họ sẽ thủ tiêu. Dần dà…
    Dần dà, Bảy Nhu đã trở thành người phụ trách các phân khu nhốt tù binh cộng sản, thành người trực tiếp vặn bẻ răng, lấy mắt cá chân của người tù. Nhiều tài liệu cho thấy, Bảy Nhu thậm chí còn sưu tầm răng mà hắn đã vặn của những người tù, để trong một cái mũ sắt lố nhố kính thưa các loại răng. Đôi mắt lạnh, giọng nói của Bảy Nhu rít lên, hắn cầm một cái thanh sắt, bắt các người tù há miệng, “mày cho tao xin một cái răng, mày cho cái nào…?”. Rồi hắn gõ mạnh, giật tới, có người tù ngất đi. Lúc tỉnh lại, Bảy Nhu bảo: mày mà để phun giọt máu nào ra sàn nhà, tao sẽ giết chết, mày hãy uống máu của mày, nuốt hết. Rồi thò tay vào mồm, nhặt trả tao cái răng của mày. Tôi rợn người khi nghe tận tai giọng kể của người tù Cộng sản kiên cường bị nhổ răng ấy. Hàng trăm nhân chứng khác cũng đã kể như vậy khi đến thăm lại “chiến trường xưa” Phú Quốc, kể đến mức, các cô hướng dẫn viên ở Nhà tù Phú Quốc nghe quá quen thuộc, nhiều người nghe tin Bảy Nhu còn sống thì hùng hổ leo đồi đi tìm đòi… “giết chết chúng nó”. Nhưng khi thấy Bảy Nhu ăn chay, niệm Phật, già nua quá thể, họ đã bật khóc, thương mình và xót cho Bảy Nhu.
    Khi đoàn khai quật cả nghìn bộ hài cốt ngoài tượng đài Nắm Đấm (gần nhà tù) đang rầm rộ dùng máy xúc máy ủi bóc đất đá tìm kiếm các phần thi thể của bốn nghìn người tù cộng sản bị chôn vùi dưới 5-6 mét đất sâu, thì có một người lính già, mặc quân phục bạc màu đến miệng hố ngồi bần thần. Trung tá Nguyễn Văn Cao, người phụ trách công trường bèn bắt chuyện. Ông căm phẫn kể: sau nhiều năm ở nhà tù, lúc giải phóng (1975), ông đã quyết tâm sống ở gần khu vực… hố khai quật, vì nỗi ám ảnh địa ngục trần gian. Địch đã bị giam ông 6 năm, qua sáu bảy cái khu tù binh, đến trước giải phóng miền Nam mới được địch mang ra tận sông Thạch Hãn (Quảng Trị) trao trả. Ông trực tiếp bị chính Bảy Nhu (người hàng xóm hiện nay) tra tấn bằng cách đè ra nhổ mất 6 cái răng. “Tui nằm trong tù từ năm 1966, suốt gần 7 năm, tui chỉ dám tính đường chết, chứ tịnh không có dám tính đường sống. Nó bắt tôi há mồm, hỏi cho xin cái răng, cho cái nào? Tui chán quá, bảo lấy cái nào thì lấy. Nó ghè thanh sắt vào, nhổ răng tui. Giật gẫy, nó bắt tui thò tay vào miệng mình lôi từng cái răng đỏ quạch máu ra, đặt lên bàn cho nó xem. Rồi nó bắt tui phải tự uống hết số máu chảy trong miệng tui ra, một giọt nào ứa ra ngoài, nó sẽ đánh chết” - cụ Út Minh nói.
    Bảy Nhu thở dài: “Nhiều người tù từng bị tôi tra tấn, họ đến thăm lại chiến trường xưa, họ kể lại những năm tháng họ dùng thìa dĩa đào hầm bí mật trốn khỏi nhà tù, rồi họ vỗ vai tôi như những người bằng hữu. Điều đó làm tôi thấy hổ thẹn!”. Ông Nhu khoe tôi tấm ảnh chụp chung với các người tù quả cảm đến kinh hoàng. Có người mất tới 91% sức khỏe, bị mù mắt, bị vặn răng bởi ông Nhu, nhưng khi gặp lại vẫn chụp ảnh chung, vẫn tha thứ tất cả, lời đề tặng mặt sau tấm ảnh: Chúc anh Nhu dồi dào sức khỏe. Nếu tôi từng cảm thấy kỳ dị, sửng sốt vì tội ác ở nhà tù Phú Quốc, thì giờ đây, điều làm tôi bất ngờ hơn là sự tha thứ của đồng bào mình, đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại kể trên.
    Khi Nhà nước tiến hành phục dựng nhiều hạng mục của nhà ngục Phú Quốc, trưng bày những tấm ảnh thảm khốc về việc tra tấn, giết chóc tù nhân, ông Bảy Nhu tình nguyện tham gia tư vấn, đóng góp ý kiến rất nhiều. Bởi dường như, sự đưa đẩy của ông Trời đã khiến địa ngục trần gian này chính là một phần đã làm nên Cuộc Đời và Số phận của ông Nhu. Ông chỉ cho cán bộ biết từng quả đồi, nơi nào sẽ chứa nhiều thi thể người tù nhất. Đồi 37, đồi 100, cứ đào khắc thấy cốt, cả nghìn bộ. Cả trăm vụ vượt ngục, vụ “đả đảo” chế độ nhà tù, hội họp, rải truyền đơn, treo biểu ngữ, vụ nào khi đem xử lý, thậm chí cũng có người bị hành quyết ngay lập tức. Bị tra tấn, luộc người, đóng đinh khắp cơ thể, thì kiểu gì chẳng chết. Bốn nghìn người chết, trước năm 1971, ai chết thì chôn rấp ra ngoài bìa rừng. Xe quân cảnh chở xác người ra, nó ném xuống đấy, rồi nó chạy vội về kẻo sợ du kích bắn tỉa. Cho nên, dù khai quật cả nghìn phần di cốt như vừa qua, cũng chỉ gặp một vài tử sỹ có tên họ kèm theo (là ông Nguyễn Văn Khai, người Thanh Hóa). Vì sao xuất hiện những bộ cốt có tên họ? Vì khi đồng đội bị chết, nhiều bạn tù đã thương cảm viết tên người xấu số vào mảnh giấy rồi gói trong giấy nilong, để hy vọng sau này con cháu sẽ có thể tìm thấy các bậc Anh hùng.
    Khu bãi tha ma chồng chất thây người tù đó, thật là đáng sợ. Giờ đây, khi tôi chỉ cho cán bộ khai quật, người ta không lý giải được là bởi tại làm sao mà thây người bị vùi dưới 5-6 mét đất sâu hoắm. Xe cuốc gào rú suốt ngày đêm, mà dưới “đất đen” vẫn còn xương người. Tôi còn nhớ, năm 1968, trại tù binh có tổ chức san ủi khu vực nghĩa địa, cho nên xương người bị khỏa lấp hết. Có người bảo, nhân viên nhà tù người ta làm như vậy, là bởi vì họ sợ các tổ chức nhân quyền, giám sát quốc tế sẽ đến kiểm tra, sẽ phát hiện ra bao điều tàn độc, vô lối, thất nhân tâm. Sau năm 1971, trước sức ép nhiều mặt, ban quản lý nhà tù, bèn cho thành lập khu “Nghĩa địa tù binh Cộng sản” rộng 11.000m2, với “cổng chào” là hai cây thông khổng lồ, một thanh ván bắc ngang “trang trí” biển hiệu đàng hoàng. Thế nhưng hình thức tra tấn thì vẫn đủ 24 “món” của ngục A Tỳ.


    Cuộc trò chuyện về những “bếp núc” của nghề Cai Ngục!

    Ông Trần Văn Nhu dè dặt trong chuyện trò đến mức… cao thủ. Có lẽ cái nghề thẩm vấn, tra khảo moi thông tin, tạo dựng các “ăng ten” (như cách nói của ông) để điều tra, ly gián máy chục nghìn người tù binh Cộng sản suốt nhiều năm đã tạo cho ông sự bài bản cáo già trong giao tiếp đó?
    Ông thích nói về những xám hối và nỗi khổ của ông khi sứ mệnh đen tối của nhà tù Phú Quốc kết thúc, ông chung sống với những người còn mãi mãi hãi hùng vì tội ác của ông và đồng bọn:
    Tôi đi cải tạo, nhờ tinh thần cải tạo tốt, tôi được trở về nhà với đàn con của mình sớm hơn so với “bản án” khoảng 2 năm. Thế mà người ta kéo đến, người ta dằn hắt, bảo rằng sao thằng ác ôn nó lại được tha về. Tôi về, mặc áo lành người ta cũng chửi, mặc áo rách người ta cũng chửi. Nhiều người cứ xông lên đòi giết chết tôi. Chính quyền cơ sở đã bảo vệ tôi. Sau này, tôi thấm thía hai chữ “Đồng bào” của người Việt Nam mình, họ thư thứ cho tôi, nghe nói ở nước ngoài, chữ Đồng bào không dịch được ra tiếng Tây, quý hóa lắm. Tôi tình nguyện làm công tác xã hội để chuộc lỗi lầm, tôi am hiểu về các hố chôn tập thể, các quy cách thủ tục, các vấn đề còn gây nhiều tranh cãi ở nhà tù. Tôi ở lại ở gần khu vực nhà tù mà không về Đồng Tháp hay ra nước ngoài theo các “quan thầy”, là vì lẽ đó. Tôi tiếc là hồi khai quật được rất nhiều hài cốt ở khu vực tượng đài Nắm Đấm, tôi đã bảo người ta rằng, tôi nhớ rõ vụ san ủi năm 1968, phải đào tiếp xuống để cất bốc các chiến sỹ lên, họ sợ làm như thế sẽ gây hư hại đến di tích. Y như rằng, bây giờ lại tiếp tục phải đà và lại thấy rất nhiều cốt. Nhiều khu vực, rễ cây ăn hết các phần thi thể, rất tội. Tôi bảo, hãy cứ đào, nhiều chỗ chỉ còn đất đen hay đất màu hoàng thổ, lại có mấy miếng vải thôi, cũng cứ phải bốc. Vì sao? Vì rằng, đem đất ấy bỏ vào chậu nước, nếu thấy nổi váng lên, là đất có xương cốt thịt da người tù đấy. Kinh nghiệm của tôi là như thế mà.
    Nhiều đoạn ông Nhu ngụy biện rất khéo:

    “Thời buổi trời gọi ai người nấy dạ mà. Ở đâu thì phải theo đó. Thời buổi mà mình ở trong tay nó thì nó bảo mình đi lính phải di lính thôi, chứ mình không có biết phải cãi lại nó như thế nào đâu. Nó bảo đi ít ngày rồi về, ai ngờ đi mãi (đến giải phóng). Sau này mình mới hiểu được vấn đề tội ác của mình, sau này mới hiểu được xã hội chủ nghĩa là cái xã hội tốt đẹp thật sự. Thật sự trước đây không biết cái đó, chứ nó gây tội ác xong hết trơn, nó bỏ chạy bỏ lại một mình mình. Lúc mình ở ngoài đảo (làm cai ngục) với bọn ở ngoài đó, nó nói bậy lung tung. Mình không nhận ra là, bọn tay sai của chế độ cũ kia, nó chỉ làm lung tung kiếm tiền thôi, chứ không có lý tưởng gì hết. Nó bảo là Việt Cộng ốm (gầy) đến mức treo tàu lá chuối không rớt (rơi). Nó đang đánh vào “tâm lý chiến” mà mình không biết”.

    Có khi bị hỏi độp thẳng tưng, ông Nhu cũng tiết lộ nhiều chuyện chưa bao giờ công luận, sách sử từng “nghe”:

    PV: Ông Bảy tra tấn Việt Cộng, nếu không tra tấn chúng nó sẽ quay lại phạt ông; nhưng cháu hỏi thật, bọn Mỹ nó có đánh ông Bảy không?

    Bảy Nhu: “Mỹ nó không đánh mình đâu, chúng nó chỉ có 1 thằng giám sát cai quản, đánh sao nổi, mình làm sai là nó ghi vào “sổ đen” cái điều đó, có hành vi gì đó là đưa ông lớn nó, ông lớn nó gọi điện thoại xử lý mình. Thằng Mỹ nó chỉ đi lù lù không có nói hết. Trước 1970, kỷ luận lỏng lẻo, muốn đánh đập, tra tấn ai là tùy. Sau này mới chặt đó. Sau này mà đánh người không trong diện đánh, có khi nó phế truất ra khỏi quân cảnh, đi làm bộ binh đánh nhau thừa sống thiếu chết ở ngoài hòn tên mũi đạn kia kìa (?!)”. Vào quân cảnh là danh giá, khó khăn lắm, chứ bộ”.

    Hỏi: Cháu hỏi thật, đây là câu chuyện lịch sử chứ không có ý miệt thị gì ông. Ông Bảy hồi đó chấp nhận làm nhiều việc ác quá, chắc được “giặc” nó trả lương cao?

    Ông Bảy Nhu: Lương tôi là 1.400 đồng, tiền bây giờ trả không nổi đâu (ý là không ai có tiền mà trả được mức lương ấy đâu). Bấy giờ chỉ chưa đến 10 đồng một chỉ vàng, mà mình nhận một nghìn bốn trăm, tức là 14 cây vàng/ tháng. Nuôi vợ con với lại ăn nhậu thoải mái! (?).

    Ông Bảy có vẻ mệt mỏi, giọng của người nhổ răng các tù nhân khét tiếng giờ cũng phều phào vì tuổi già gẫy hết răng. Dường như, ở tuổi ngoài 80, da mồi như chuối chín trứng cuốc, ông cũng như chuối chín trên cây rồi. Ở tuổi ấy, như người ta nói, quỷ thần không chấp nhắt họ nữa, làm nhà không phải xem hướng nữa; và công với tội ở trần gian, chúng ta cũng đừng nặng nề nữa. Ông trời ném ông Nhu vào cái vòng tàn ác kinh thiên như ông Nhu, bảo là thời thế thế thế thời phải thế cũng chỉ đúng một phần, nhưng cái quan trọng là con người ông đã nỡ để cho sự tàn độc sống với mình quá lâu. Nỡ biến mình thành chó săn cho sự tàn độc với đồng bào mình sao? Ông Nhu phải chịu trách nhiệm về việc đó, ông ăn chay trường và niệm Phật cũng chửa chắc đuổi được Quỷ sứ ra khỏi con người ông. Song, đó là việc của ông, tha thứ cho người đã quy hàng cái Thiện như ông, là trách nhiệm rất Người trong mỗi chúng ta. Tôi nhẫn tâm hỏi thêm về cái ác, cái việc đóng 16 cái đinh dọc một cơ thể người, đóng đinh to, cắm phập sâu hoắm đến mức mấy chục năm sau khi Nhà nước ta tổ chức đào hố chôn tập thể lên; ông Nhu im lặng, ông kể về việc “chúng nó” dùng ván có đinh tra tấn người, về việc có người bị đánh chân tay gẫy cù lìa làm hai ba đoạn, có khi “nó xé người ta làm bốn mảnh”. Chúng nó chứ không phải là Bảy Nhu. Sẽ không ai bất ngờ khi ông Nhu nói thế và thậm chí phủ nhận nhiều tội ác của mình - dẫu rằng đã có hàng nghìn tù nhân sống sót mà không có mắt cá chân, không có răng, mù mắt, tàn phế đã về lại Di tích Nhà tù Phú Quốc rồi tố cáo Bảy Nhu cùng đồng bọn… Tôi cũng không bất ngờ khi trích các báo cáo truy tìm hài cốt của Sở LĐTB&XH Kiên Giang năm 2008 (với các trường đoạn viết về các di cốt vĩnh viễn không bao giờ được tìm thấy, bởi ban cai quản nhà tù Phú Quốc đã lùa các tù binh lên máy bay, ném xuống Vịnh Thái Lan) cho ông Nhu nghe, ông Nhu thở hắt như đuổi khách: “Hồi xưa máy bay quân sự là của Mỹ thôi ấy, toàn là người Mỹ lái chứ bọn tôi lái đâu mà chúng tôi biết”.

    Ông Nhu bị bệnh khớp hành hạ, nhà khó khăn, đàn con cháu, người tai nạn chết, người sống nghèo ít học khắp nơi. Song, dường như sự thanh bần nào đó, sự chay tịnh niệm Phật vớt vát cuối đời nào đó của ông cũng đã là sự ưu ái quá lớn của xã hội ta, của số phận với ông ta rồi. Trước lúc chia tay, run run nhận món quà của người khách xa, ông Nhu hồ hởi khoe: thế là nội ngoại tôi có đủ 6 đứa cháu rồi. Tôi muộn đường con cái, vì lúc ở ngoài đảo, cuộc sống chẳng khác gì các tù nhân Côn Đảo, tôi có được gần vợ đâu mà đẻ. Vợ ở tít mãi Sài Gòn.
    Last edited by RPe; 08-05-2010 at 08:51 PM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •