kết quả từ 1 tới 6 trên 6

Ðề tài: Quan điểm của Phật giáo nguyên thủy về hồi hướng công đức

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #3

    Mặc định

    trích giáo trình Phật Học :
    ....1- Chuyển nhượng, hồi hướng Công Đức Cho những
    người Thân Quyến Đã Khuất.

    Kinh “Bên Ngoài Những Bức Tường” (Tirokutta Sutta) trong Tập
    Kinh Tiểu Tụng (Khuddakapatha) thuộc Tiểu Bộ Kinh là bài thuyết giảng đầu tiên của Đức Phật về đề tài chuyển nhượng công đức cho
    những người đã khuất. Kinh này tạo thành tiền lệ cho việc tôn kính
    và mang lại lợi ích cho những người thân quyến đã chết và bị tái sinh
    thành ngạ quỷ hay quỷ đói (Petas), mà chúng ta hay gọi là ‘hồn ma’
    hay ‘cô hồn’ chưa được đầu thai ở cõi khác. Ngạ quỷ là những chúng
    sinh đang sống trong thế giới loài người, nhưng là những ngạ quỷ
    khuất mặt mà mắt thường của người phàm phu không thấy được.
    Theo luận giảng về Kinh này, vào thời Đức Phật những ngạ quỷ vốn là
    họ hàng, thân quyến của Vua Bimbisara trong kiếp trước đã đứng đợi
    trước cung điện mong chờ nhà vua chia sẻ công đức cho họ - công đức
    của nhà vua là những công đức cúng dường cho Đức Phật. Nhưng nhà
    Vua đang bận rộn đầu óc, lo tìm chỗ ở cho Đức Phật và không chuyển
    nhượng, hồi hướng công đức cho họ. Đêm đó, họ bu quanh cung điện
    và tạo những âm thanh kêu gào, chết chóc. Sáng hôm sau, nhà Vua đến
    giải bày với Phật và được Phật khuyên dạy về vấn đề này, nhà Vua đã
    sửa soạn một bữa cúng dường thịnh soạn cho ích lợi của họ.
    2. mục Đích Cúng Dường Thức Ăn Trong Việc Bố Thí
    Công Đức (Pattidana) Là Cúng Cho Ai?

    Nhiều sự nghi ngờ về thức ăn được sửa soạn cúng dường là cúng cho
    Đức Phật và Tăng Đoàn hay cúng cho những ngạ quỷ khuất mặt của
    Vua Bimbisara?, theo như ghi chép trong Kinh Tirokutta Sutta.
    Nhiều người cũng đọc tụng các kinh khác, như Kinh “Lời Khuyên
    Dạy Sigàla” (Sigalovada Sutta) thuộc Trường Bộ Kinh (Digha 31)
    và “Kinh Janussoni” (Janussoni Sutta) thuộc Tăng Chi Bộ Kinh
    (Anguttara 10:177) đều ủng hộ họ theo quan điểm là: “Cúng dường”
    ở đây có nghĩa là “Cúng thức ăn cho những người thân quyến đã
    khất”. Thật ra quan điểm này là sai.
    Phong tục này của Hindu giáo đã tồn tại thậm chí trước thời Đức
    Phật. Phong tục cúng cho người chết đó được gọi là “shraddha” và
    đã được ghi rõ trong Kinh “Janussoni Sutta” thuộc Tăng Chi Bộ Kinh
    (Anguttara 10:177) nói trên, lúc đó một Bà-la-môn tên là Janussoni
    đã hỏi Đức Phật như vầy:
    “Thưa Ngài Cồ-Đàm! Những Bà-la-môn chúng tôi cúng thức ăn và làm
    lễ cúng Tang (shraddha) như: “Xin dâng cúng những món này đến với
    những người thân quyến của chúng tôi. Cầu cho họ được hưởng.”
    Vì lễ “shraddha” thông thường được tổ chức cùng những đám tang
    của người theo đạo Hindu, nhưng nó thường bị hiểu lầm là phong
    tục của người Ấn Độ tổ chức để tôn kính người chết bằng cách cúng
    dâng đồ ăn… cho người chết. Những người Hindu tin rằng, khi một
    người chết, người đó sẽ thành Preta, tức là ‘âm hồn’ hay ‘hồn ma’,
    không có cơ thể và như vậy là một cảnh giới đau khổ. Để giúp cho
    ‘hồn ma’ đó có được một cơ thể đầy đủ, thì những người thân quyến
    phải cúng cơm vò thành viên tròn, cúng bánh bột gạo, v.v, cùng với cỏ
    thiêng (cỏ kusha), hoa, và rải nước, và tụng đọc những câu thần chú
    và những câu tụng trong kinh Vệ-Đà; toàn bộ buổi lễ cúng tăng được
    tổ chức không phải trong đền thờ, mà ở những nơi linh thiêng như bờ
    sông. Ngày đầu, người Hindu cúng cơm pinda (cơm làm từ bột gạo
    và sữa vo trò) và rảy nước, tin rằng ‘hồn ma’ sẽ sau khi hưởng và có
    được khung cơ thể. Ngày tiếp theo, họ tiếp tục cúng bánh panda và
    nước rảy, có lẽ tin rằng ‘hồn ma’ hưởng xong sẽ có được chân, tay…,
    họ cúng như vậy liên tục 12 ngày, và ngày thứ 12 họ tin là ‘hồn ma’
    có thêm đầu để hoàn tất một cơ thể, và lúc này ‘hồn ma’ trở thành
    một Pitri, và được tin là không còn bị ô nhiễm và trở thành một thiên
    thần (deva) và họ thờ phượng như một thiên thần bằng cách cử hành
    những nghi lễ shraddha, bắt đầu từ ngày thứ 12 sau khi chết. Vậy là
    cả gia đình được “gội rửa” sạch sẽ. Tiệc cúng được dâng cúng cho
    các Bà-la-môn, những người hàng xóm, và những người ăn xin – thậm chí những con bò cũng được cho ăn bằng cỏ tươi.
    Tiếng Phạn chữ “shraddha”có nghĩa là việc hay sự tưởng nhớ tổ
    tiên đã qua đời. Một trong việc phải làm hàng ngày là người nhà
    phải bỏ ra vài phút mặc niệm, tưởng nhớ đến người đã chết và làm
    những việc từ thiện. Họ tin rằng những việc làm đức hạnh đó nhân
    danh người chết sẽ giúp cho những người chết mới trở thành an bình
    trên chuyến đi của mình và tích tạo thêm nhiều nghiệp quả tốt cho
    người còn sống. Việc dâng cúng những phẩm vật dâng cúng cho
    những thầy Bà-la-môn vì (hồi hướng) lợi ích cho những Pitri, vào
    thời gian và nơi chốn thích hợp, cùng với lòng tin thì được gọi là làm
    lễ “shraddha”. Việc thực hành lễ “shraddha” và rảy nước giúp cho
    những linh hồn người chết khỏi bị đói, khát trong suốt chuyến đi đến
    cõi của những Pitri (Pitri Loka); hay giúp cho những linh hồn của tổ
    tiên. Khi dâng cúng lễ “shraddha” người con trai cũng giúp cha mình
    cùng vui mừng, tùy hỉ với những Pitris đó.
    Đến bây giờ thì đã rõ, lễ “shraddha” cũng không phải là lễ cúng đồ
    ăn cho những ‘hồn ma’ Preta để tạo nên cơ thể, vì lễ “shraddha”
    chỉ diễn ra kể từ ngày thứ 12 sau khi chết, sau khi ‘đã trở thành’
    Pitri (như người Hindu tin) và việc dâng cúng là cúng dường cho
    các Bà-la-môn để hồi hướng công đức cho ích lợi của những Pitri.
    Tuy nhiên, Đức Phật không chấp nhận những lễ cúng và niềm tin
    như vậy.
    Học giả người Ấn Độ Bimala Churn Law, trong quyển sách
    của ông mang tên “Quan Niệm về Linh Hồn trong Phật Giáo”
    (The Buddhist Conception of Spirits) đã nói rằng việc hồi hướng
    chuyển nhượng công đức trong đạo Phật cũng giống những nghi lễ
    shraddha của Hindu trong một số cách. Theo người Hindu, những
    quà cúng được dâng cúng cho một thầy Ba-la-môn (Brahmin) hay một người thay thế cho đẳng cấp Bà-la-môn (Brahmana); và mức
    độ công đức là tùy thuộc vào số lượng người được bố thí thức
    ăn và quần áo bởi người sống thực hiện nhân danh và hồi hướng
    công đức cho người chết. Kết quả là những công đức đó sẽ được
    chuyển qua người chết.
    Trong những lễ shraddha của người Hindu, một số phẩm vật và đồ
    ăn cũng được cúng dâng trực tiếp cho người chết, nhưng sau đó
    những ‘đồ cúng’ đó phải được mang đi tặng, cho một người xứng
    đáng (được kính nể) để có được kết quả mong muốn của buổi cúng.
    Thực hiện lễ dâng cúng shraddha là nhiệm vụ theo truyền thống
    Vệ-đà, của một người con (trai) thể hiện lòng tôn kính, tưởng nhớ
    cha ông, tổ tiên.
    Trong Kinh “Lời Khuyên Dạy Sigàla” (Sigalovada Sutta), một
    trong những bổn phận của người con là cúng dường, bố thí thức ăn
    (tức trong Tang Lễ) để tưởng nhớ, tích đức cho người thân quyến đã
    khuất thì được Đức Phật tán đồng.
    Trở lại Kinh “Bên Ngoài Những Bức Tường” (Tirokutta Sutta),
    đúng là nghi lễ cúng dường cho những ngạ quỷ thân quyến của
    nhà Vua là một nghi lễ shraddha, nhưng có sự khác biệt. Nhà
    Vua mới vừa được Đức Phật “độ”, chuyển hóa thành một bậc
    đạt thánh quả Nhập Lưu (Tu-Đà-Hoàn). Cho nên, lẽ tự nhiên là
    nhà Vua đã thỉnh mời Đức Phật và Tăng Đoàn đến để thọ thực
    thức ăn dâng cúng dường để tạo công đức và hồi hướng công
    đức đó cho những người thân quyến đã khuất. Vì vậy, đồ ăn
    cúng dường ở đây là cúng dường cho người, là Phật và Tăng
    Đoàn, chứ không phải là cúng dường cho ngạ quỷ!, vì nhà
    Vua đã tham kiến Đức Phật vào buổi sáng trước khi thực hiện
    lễ cúng dường này để làm toại nguyện lòng của những ngạ quỷ
    quyến thuộc của nhà Vua.
    Luận Giảng chỉ ra rằng phải có ba (3) điều kiện đi kèm thì hiệu
    quả mới được thành tựu tốt đẹp cho việc bố thí cúng dường để hồi
    hướng công đức cho người thân tái sinh đang là Ngạ Quỷ (Peta).
    Đó là:
    a. Người cúng dường phải nói rõ việc cúng dường bố thí là để hồi
    hướng công đức cho người thân đã khuất đó, người đã khuất
    (tên, xưng hô):
    “Nguyện cho món cúng thí này được đến những người ấy. Mong
    nhũng người ấy (tên, xưng hô) được phúc lành”.
    Hay tụng bằng tiếng Pali như sau:
    “Idam me natinam hotu, sukhita hontu natayo”.
    b. Người nhận bố thí cúng dường phải là người đức hạnh.
    Trong luận giảng về Kinh “Cúng Dường Phân Biệt” (Dakkhina-
    vibhanga Sutta) thuộc Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya), có
    trường hợp một ngạ quỷ không hưởng được phước đức cúng
    dường của người thân hồi hướng cho mình, vì người thân
    còn sống bố thí, cúng dường 3 lần cho một người nhận là
    một người không có đức hạnh, nên không tạo ra công đức
    để mà hồi hướng đến cho người thân là ngạ quỷ. Nên ngạ
    quỷ đó kêu lên rằng: “Kẻ vô đức hạnh kia đã ăn cướp hết
    công đức”. – (Tức là công đức lẽ ra có được & hồi hướng
    được nếu người thân của mình cúng dường cho một người
    có đúc hạnh!.
    Vì ngạ quỷ thì có thể nhìn thấy được người thân của mình đang
    còn sống và biết họ đang làm gì, và ngược lại, người thân còn
    sống với “mắt thường” của con người thì không nhìn thấy được
    người thân đã khuất của mình là ngạ quỷ, mà chúng ta hay gọi
    là quỷ đói hay cô hồn -ND).
    Như vậy, nếu cúng dường, bố thí mà không chọn được người
    đức hạnh thì công đức không tạo được. Nên cũng không có gì
    để hồi hướng cho người thân của mình. Điều này rất quan trọng,
    chúng ta cần lưu ý.
    c. Những ngạ quỷ quyến thuộc được hồi hướng công đức đó phải
    thật sự cảm kích, vui mừng và hoan hỷ với việc bố thí cúng
    dường của người thân vì mục đích hồi hướng cho mình. Từ đó,
    ngạ quỷ có được những niềm vui, hoan hỉ thiện lành, giúp tạo
    thêm những nghiệp mới tốt lành.
    Khi thỉnh Đức Phật và Tăng Đoàn đến thọ thực thức ăn cúng dường,
    đặc biệt là để tạo công đức và chuyển nhượng công đức đó cho những
    người thân đã khuất của mình, Vua Bimbisara đã hoàn thành được
    hai 2 trong 3 điều kiện trên. Còn việc cảm kích, mừng vui, hoan hỉ
    khi nhận công đức đó, thì người nhận là những ngạ quỷ thân quyến
    của nhà Vua sẽ hoàn thành, là điều kiện thứ 3.
    Theo cách này (như Đức Phật đã khuyên dạy), thì nghi thức cúng
    dường này là một nghi thức Bố Thí Công Đức (Pattidana) chứ không
    phải là lễ cúng “shraddha”. Nên sau đó (theo luận giảng), những ngạ
    quỷ thân quyến đau khổ của nhà Vua đã hưởng được công đức và
    được giải thoát và được tái sinh lên cõi trời.
    Theo Luận Giảng : Ngay sau khi nhà vua dâng cúng dường Đức Phật
    và Tăng Đoàn nước uống, thức ăn, y vải và chỗ ngồi và chia sẻ, hồi
    hướng công đức cho những ngạ quỷ, thì theo thứ tự đó, thì ở cõi kia
    xuất hiện ra nước uống để giải cơn khát của ngạ quỷ, thức ăn trên cõi
    trời để họ ăn, quần áo trên cõi trời để họ mặc, nhà cửa trên cõi trời để
    họ ở, xe cộ trên cõi trời để họ dùng, tất cả điều kiện để họ biến khỏi
    dạng hồn ma, ngạ quỷ và được chuyển thành dạng chúng sinh cõi trời
    (chư thiên thần).Nói theo Quy Luật của nghiệp, đó là niềm vui mừng, hoan hỉ thiện
    lành, được tạo ra nhờ việc Bố Thí công Đức (Pattidana) tạo điều
    kiện, làm “Duyên” lành cho việc tái sinh tốt lành từ những ngạ quỷ
    đau khổ (Petas) trở thành chư thiên thần (Devas) xảy ra trong lập tức,
    khi đã đầy đủ phước báu.
    (Nên nhớ rằng, ví dụ lịch sử này được giảng luận như vậy, có lẽ là
    họ có được phước đức tích lũy trong nhiều kiếp tạo “duyên” cho
    lần này, và/vì đặc biệt lần này nhà Vua cúng dường cho Đức Phật
    và Tăng Đoàn thì phước báu là vô lượng, là thượng thừa nhất thế
    gian, nên công đức này khi hồi hướng cho những ngạ quỷ quyến
    thuộc đã có thể giải thoát đau khổ cho họ và họ được tái sinh về
    cõi trời phúc lành. – Điều này cho thấy được tầm quan trọng bậc
    nhất của việc cúng dường “trai Tăng”, kể từ sau khi Đức Phật
    Bát-Niết-Bàn – ND)......
    Last edited by tran thanh luan; 01-03-2013 at 03:14 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 11-06-2012, 02:39 PM
  2. Trả lời: 223
    Bài mới gởi: 01-06-2012, 10:29 PM
  3. KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN
    By satyaa in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 61
    Bài mới gởi: 01-04-2012, 09:35 PM
  4. Ý Nghĩa Của Công Đức Và Phúc Đức
    By dinhlong64 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 11-04-2011, 10:45 AM
  5. Truyền thọ tam quy
    By phúc minh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 21-03-2011, 06:28 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •