trích giáo trình Phật Học :
....1- Chuyển nhượng, hồi hướng Công Đức Cho những
người Thân Quyến Đã Khuất.
Kinh “Bên Ngoài Những Bức Tường” (Tirokutta Sutta) trong Tập
Kinh Tiểu Tụng (Khuddakapatha) thuộc Tiểu Bộ Kinh là bài thuyết giảng đầu tiên của Đức Phật về đề tài chuyển nhượng công đức cho
những người đã khuất. Kinh này tạo thành tiền lệ cho việc tôn kính
và mang lại lợi ích cho những người thân quyến đã chết và bị tái sinh
thành ngạ quỷ hay quỷ đói (Petas), mà chúng ta hay gọi là ‘hồn ma’
hay ‘cô hồn’ chưa được đầu thai ở cõi khác. Ngạ quỷ là những chúng
sinh đang sống trong thế giới loài người, nhưng là những ngạ quỷ
khuất mặt mà mắt thường của người phàm phu không thấy được.
Theo luận giảng về Kinh này, vào thời Đức Phật những ngạ quỷ vốn là
họ hàng, thân quyến của Vua Bimbisara trong kiếp trước đã đứng đợi
trước cung điện mong chờ nhà vua chia sẻ công đức cho họ - công đức
của nhà vua là những công đức cúng dường cho Đức Phật. Nhưng nhà
Vua đang bận rộn đầu óc, lo tìm chỗ ở cho Đức Phật và không chuyển
nhượng, hồi hướng công đức cho họ. Đêm đó, họ bu quanh cung điện
và tạo những âm thanh kêu gào, chết chóc. Sáng hôm sau, nhà Vua đến
giải bày với Phật và được Phật khuyên dạy về vấn đề này, nhà Vua đã
sửa soạn một bữa cúng dường thịnh soạn cho ích lợi của họ.
2. mục Đích Cúng Dường Thức Ăn Trong Việc Bố Thí
Công Đức (Pattidana) Là Cúng Cho Ai?
Nhiều sự nghi ngờ về thức ăn được sửa soạn cúng dường là cúng cho
Đức Phật và Tăng Đoàn hay cúng cho những ngạ quỷ khuất mặt của
Vua Bimbisara?, theo như ghi chép trong Kinh Tirokutta Sutta.
Nhiều người cũng đọc tụng các kinh khác, như Kinh “Lời Khuyên
Dạy Sigàla” (Sigalovada Sutta) thuộc Trường Bộ Kinh (Digha 31)
và “Kinh Janussoni” (Janussoni Sutta) thuộc Tăng Chi Bộ Kinh
(Anguttara 10:177) đều ủng hộ họ theo quan điểm là: “Cúng dường”
ở đây có nghĩa là “Cúng thức ăn cho những người thân quyến đã
khất”. Thật ra quan điểm này là sai.
Phong tục này của Hindu giáo đã tồn tại thậm chí trước thời Đức
Phật. Phong tục cúng cho người chết đó được gọi là “shraddha” và
đã được ghi rõ trong Kinh “Janussoni Sutta” thuộc Tăng Chi Bộ Kinh
(Anguttara 10:177) nói trên, lúc đó một Bà-la-môn tên là Janussoni
đã hỏi Đức Phật như vầy:
“Thưa Ngài Cồ-Đàm! Những Bà-la-môn chúng tôi cúng thức ăn và làm
lễ cúng Tang (shraddha) như: “Xin dâng cúng những món này đến với
những người thân quyến của chúng tôi. Cầu cho họ được hưởng.”
Vì lễ “shraddha” thông thường được tổ chức cùng những đám tang
của người theo đạo Hindu, nhưng nó thường bị hiểu lầm là phong
tục của người Ấn Độ tổ chức để tôn kính người chết bằng cách cúng
dâng đồ ăn… cho người chết. Những người Hindu tin rằng, khi một
người chết, người đó sẽ thành Preta, tức là ‘âm hồn’ hay ‘hồn ma’,
không có cơ thể và như vậy là một cảnh giới đau khổ. Để giúp cho
‘hồn ma’ đó có được một cơ thể đầy đủ, thì những người thân quyến
phải cúng cơm vò thành viên tròn, cúng bánh bột gạo, v.v, cùng với cỏ
thiêng (cỏ kusha), hoa, và rải nước, và tụng đọc những câu thần chú
và những câu tụng trong kinh Vệ-Đà; toàn bộ buổi lễ cúng tăng được
tổ chức không phải trong đền thờ, mà ở những nơi linh thiêng như bờ
sông. Ngày đầu, người Hindu cúng cơm pinda (cơm làm từ bột gạo
và sữa vo trò) và rảy nước, tin rằng ‘hồn ma’ sẽ sau khi hưởng và có
được khung cơ thể. Ngày tiếp theo, họ tiếp tục cúng bánh panda và
nước rảy, có lẽ tin rằng ‘hồn ma’ hưởng xong sẽ có được chân, tay…,
họ cúng như vậy liên tục 12 ngày, và ngày thứ 12 họ tin là ‘hồn ma’
có thêm đầu để hoàn tất một cơ thể, và lúc này ‘hồn ma’ trở thành
một Pitri, và được tin là không còn bị ô nhiễm và trở thành một thiên
thần (deva) và họ thờ phượng như một thiên thần bằng cách cử hành
những nghi lễ shraddha, bắt đầu từ ngày thứ 12 sau khi chết. Vậy là
cả gia đình được “gội rửa” sạch sẽ. Tiệc cúng được dâng cúng cho
các Bà-la-môn, những người hàng xóm, và những người ăn xin – thậm chí những con bò cũng được cho ăn bằng cỏ tươi.
Tiếng Phạn chữ “shraddha”có nghĩa là việc hay sự tưởng nhớ tổ
tiên đã qua đời. Một trong việc phải làm hàng ngày là người nhà
phải bỏ ra vài phút mặc niệm, tưởng nhớ đến người đã chết và làm
những việc từ thiện. Họ tin rằng những việc làm đức hạnh đó nhân
danh người chết sẽ giúp cho những người chết mới trở thành an bình
trên chuyến đi của mình và tích tạo thêm nhiều nghiệp quả tốt cho
người còn sống. Việc dâng cúng những phẩm vật dâng cúng cho
những thầy Bà-la-môn vì (hồi hướng) lợi ích cho những Pitri, vào
thời gian và nơi chốn thích hợp, cùng với lòng tin thì được gọi là làm
lễ “shraddha”. Việc thực hành lễ “shraddha” và rảy nước giúp cho
những linh hồn người chết khỏi bị đói, khát trong suốt chuyến đi đến
cõi của những Pitri (Pitri Loka); hay giúp cho những linh hồn của tổ
tiên. Khi dâng cúng lễ “shraddha” người con trai cũng giúp cha mình
cùng vui mừng, tùy hỉ với những Pitris đó.
Đến bây giờ thì đã rõ, lễ “shraddha” cũng không phải là lễ cúng đồ
ăn cho những ‘hồn ma’ Preta để tạo nên cơ thể, vì lễ “shraddha”
chỉ diễn ra kể từ ngày thứ 12 sau khi chết, sau khi ‘đã trở thành’
Pitri (như người Hindu tin) và việc dâng cúng là cúng dường cho
các Bà-la-môn để hồi hướng công đức cho ích lợi của những Pitri.
Tuy nhiên, Đức Phật không chấp nhận những lễ cúng và niềm tin
như vậy.
Học giả người Ấn Độ Bimala Churn Law, trong quyển sách
của ông mang tên “Quan Niệm về Linh Hồn trong Phật Giáo”
(The Buddhist Conception of Spirits) đã nói rằng việc hồi hướng
chuyển nhượng công đức trong đạo Phật cũng giống những nghi lễ
shraddha của Hindu trong một số cách. Theo người Hindu, những
quà cúng được dâng cúng cho một thầy Ba-la-môn (Brahmin) hay một người thay thế cho đẳng cấp Bà-la-môn (Brahmana); và mức
độ công đức là tùy thuộc vào số lượng người được bố thí thức
ăn và quần áo bởi người sống thực hiện nhân danh và hồi hướng
công đức cho người chết. Kết quả là những công đức đó sẽ được
chuyển qua người chết.
Trong những lễ shraddha của người Hindu, một số phẩm vật và đồ
ăn cũng được cúng dâng trực tiếp cho người chết, nhưng sau đó
những ‘đồ cúng’ đó phải được mang đi tặng, cho một người xứng
đáng (được kính nể) để có được kết quả mong muốn của buổi cúng.
Thực hiện lễ dâng cúng shraddha là nhiệm vụ theo truyền thống
Vệ-đà, của một người con (trai) thể hiện lòng tôn kính, tưởng nhớ
cha ông, tổ tiên.
Trong Kinh “Lời Khuyên Dạy Sigàla” (Sigalovada Sutta), một
trong những bổn phận của người con là cúng dường, bố thí thức ăn
(tức trong Tang Lễ) để tưởng nhớ, tích đức cho người thân quyến đã
khuất thì được Đức Phật tán đồng.
Trở lại Kinh “Bên Ngoài Những Bức Tường” (Tirokutta Sutta),
đúng là nghi lễ cúng dường cho những ngạ quỷ thân quyến của
nhà Vua là một nghi lễ shraddha, nhưng có sự khác biệt. Nhà
Vua mới vừa được Đức Phật “độ”, chuyển hóa thành một bậc
đạt thánh quả Nhập Lưu (Tu-Đà-Hoàn). Cho nên, lẽ tự nhiên là
nhà Vua đã thỉnh mời Đức Phật và Tăng Đoàn đến để thọ thực
thức ăn dâng cúng dường để tạo công đức và hồi hướng công
đức đó cho những người thân quyến đã khuất. Vì vậy, đồ ăn
cúng dường ở đây là cúng dường cho người, là Phật và Tăng
Đoàn, chứ không phải là cúng dường cho ngạ quỷ!, vì nhà
Vua đã tham kiến Đức Phật vào buổi sáng trước khi thực hiện
lễ cúng dường này để làm toại nguyện lòng của những ngạ quỷ
quyến thuộc của nhà Vua.
Luận Giảng chỉ ra rằng phải có ba (3) điều kiện đi kèm thì hiệu
quả mới được thành tựu tốt đẹp cho việc bố thí cúng dường để hồi
hướng công đức cho người thân tái sinh đang là Ngạ Quỷ (Peta).
Đó là:
a. Người cúng dường phải nói rõ việc cúng dường bố thí là để hồi
hướng công đức cho người thân đã khuất đó, người đã khuất
(tên, xưng hô):
“Nguyện cho món cúng thí này được đến những người ấy. Mong
nhũng người ấy (tên, xưng hô) được phúc lành”.
Hay tụng bằng tiếng Pali như sau:
“Idam me natinam hotu, sukhita hontu natayo”.
b. Người nhận bố thí cúng dường phải là người đức hạnh.
Trong luận giảng về Kinh “Cúng Dường Phân Biệt” (Dakkhina-
vibhanga Sutta) thuộc Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya), có
trường hợp một ngạ quỷ không hưởng được phước đức cúng
dường của người thân hồi hướng cho mình, vì người thân
còn sống bố thí, cúng dường 3 lần cho một người nhận là
một người không có đức hạnh, nên không tạo ra công đức
để mà hồi hướng đến cho người thân là ngạ quỷ. Nên ngạ
quỷ đó kêu lên rằng: “Kẻ vô đức hạnh kia đã ăn cướp hết
công đức”. – (Tức là công đức lẽ ra có được & hồi hướng
được nếu người thân của mình cúng dường cho một người
có đúc hạnh!.
Vì ngạ quỷ thì có thể nhìn thấy được người thân của mình đang
còn sống và biết họ đang làm gì, và ngược lại, người thân còn
sống với “mắt thường” của con người thì không nhìn thấy được
người thân đã khuất của mình là ngạ quỷ, mà chúng ta hay gọi
là quỷ đói hay cô hồn -ND).
Như vậy, nếu cúng dường, bố thí mà không chọn được người
đức hạnh thì công đức không tạo được. Nên cũng không có gì
để hồi hướng cho người thân của mình. Điều này rất quan trọng,
chúng ta cần lưu ý.
c. Những ngạ quỷ quyến thuộc được hồi hướng công đức đó phải
thật sự cảm kích, vui mừng và hoan hỷ với việc bố thí cúng
dường của người thân vì mục đích hồi hướng cho mình. Từ đó,
ngạ quỷ có được những niềm vui, hoan hỉ thiện lành, giúp tạo
thêm những nghiệp mới tốt lành.
Khi thỉnh Đức Phật và Tăng Đoàn đến thọ thực thức ăn cúng dường,
đặc biệt là để tạo công đức và chuyển nhượng công đức đó cho những
người thân đã khuất của mình, Vua Bimbisara đã hoàn thành được
hai 2 trong 3 điều kiện trên. Còn việc cảm kích, mừng vui, hoan hỉ
khi nhận công đức đó, thì người nhận là những ngạ quỷ thân quyến
của nhà Vua sẽ hoàn thành, là điều kiện thứ 3.
Theo cách này (như Đức Phật đã khuyên dạy), thì nghi thức cúng
dường này là một nghi thức Bố Thí Công Đức (Pattidana) chứ không
phải là lễ cúng “shraddha”. Nên sau đó (theo luận giảng), những ngạ
quỷ thân quyến đau khổ của nhà Vua đã hưởng được công đức và
được giải thoát và được tái sinh lên cõi trời.
Theo Luận Giảng : Ngay sau khi nhà vua dâng cúng dường Đức Phật
và Tăng Đoàn nước uống, thức ăn, y vải và chỗ ngồi và chia sẻ, hồi
hướng công đức cho những ngạ quỷ, thì theo thứ tự đó, thì ở cõi kia
xuất hiện ra nước uống để giải cơn khát của ngạ quỷ, thức ăn trên cõi
trời để họ ăn, quần áo trên cõi trời để họ mặc, nhà cửa trên cõi trời để
họ ở, xe cộ trên cõi trời để họ dùng, tất cả điều kiện để họ biến khỏi
dạng hồn ma, ngạ quỷ và được chuyển thành dạng chúng sinh cõi trời
(chư thiên thần).Nói theo Quy Luật của nghiệp, đó là niềm vui mừng, hoan hỉ thiện
lành, được tạo ra nhờ việc Bố Thí công Đức (Pattidana) tạo điều
kiện, làm “Duyên” lành cho việc tái sinh tốt lành từ những ngạ quỷ
đau khổ (Petas) trở thành chư thiên thần (Devas) xảy ra trong lập tức,
khi đã đầy đủ phước báu.
(Nên nhớ rằng, ví dụ lịch sử này được giảng luận như vậy, có lẽ là
họ có được phước đức tích lũy trong nhiều kiếp tạo “duyên” cho
lần này, và/vì đặc biệt lần này nhà Vua cúng dường cho Đức Phật
và Tăng Đoàn thì phước báu là vô lượng, là thượng thừa nhất thế
gian, nên công đức này khi hồi hướng cho những ngạ quỷ quyến
thuộc đã có thể giải thoát đau khổ cho họ và họ được tái sinh về
cõi trời phúc lành. – Điều này cho thấy được tầm quan trọng bậc
nhất của việc cúng dường “trai Tăng”, kể từ sau khi Đức Phật
Bát-Niết-Bàn – ND)......
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks