Tụng đám^
Ðang quét dọn chính điện chùa Bát Nhã, tôi chợt nhìn ra phía trước cổng chùa và thấy Diệu Hạnh đi vào một cách vội vã. Tôi hơi thắc mắc vì sự xuất hiện đột ngột của cô Phật tử này. Chắc có chuyện quan trọng lắm nên Diệu Hạnh mới đến chùa lúc trời còn đầy sương như vậy? Những câu hỏi đang được đặt ra trong đầu tôi, thì cô đã đến sát cửa chính điện.
- A Di Ðà Phật, bạch thầy con mới qua.
Cô chắp tay cúi đầu chào. Tôi ngừng quét đáp lễ bằng câu niệm Phật. Qua lời nói và nhìn gương mặt đượm buồn của cô, tôi đoán ra có việc không may rồi. Tôi hỏi:
- Có chuyện chi không Diệu Hạnh?
Nghe tôi hỏi cô liền nấc lên vài tiếng rồi sụt sùi đáp với giọng đứt khoảng:
- Bạch thầy, mẹ con vừa mất đêm qua.
- Vậy hả?
Tôi bàng hoàng trước hung tin này và đứng lặng người chia sẻ nỗi buồn với cô. Trong khi ấy những giọt nước mắt thương đau của cô đang thi nhau lăn dài xuống nền hoa. Sau vài giây xúc động, tôi hỏi thăm nguyên nhân cái chết của thân mẫu cô. Nghe rõ đầu đuôi câu chuyện tôi khuyên cô hãy nén đau thương để dồn tâm sức lo tang lễ mẹ được chu tất. Cô cảm tạ sự quan tâm của tôi rồi thưa:
- Bạch thầy, ba con đã từ trần khi con còn nhỏ, nay mẹ con lại quá vãng, chúng con còn trẻ dại chưa rõ việc tang lễ như thế nào. Xin thầy hoan hỷ chỉ dạy cho.
Thôi rồi, đúng là một gánh nặng đặt lên vai mình đây! Tôi than thầm và ngẫm nghĩ: Chắc chắn từ chối là tôi không thể từ chối được rồi, bởi lẽ Diệu Hạnh và mẹ nàng là Phật tử thuần thành đã ủng hộ tôi từ hơn ba năm nay sau khi tôi lên thành phố ăn học và tạm trú tại ngôi chùa này. Vẫn biết rằng việc làm của họ không có ý mong cầu đến lúc chết được các thầy đến tụng niệm và đưa đám mà đó cũng là nhân và quả. Kẻ thi ân chân chính chẳng quan tâm đến việc cầu báo, nhưng người chịu ân lẽ nào không nghĩ đến hai chữ báo đền? Hơn nữa mình lại là tu sĩ, hằng ngày thường khuyên Phật tử nên lấy đạo lý làm người đối xử với nhau, lẽ nào bây giờ gia đình họ gặp hữu sự mình lại thờ ơ hoặc không có trách nhiệm gì vậy thì tình nghĩa thầy trò ở chỗ nào? Thế nhưng nhận lãnh thì biết gì mà chỉ dạy đây? Thú thật, khi còn ở với sư phụ vì là đệ tử út lại được làm thị giả thầy, nên mỗi lần có đám tang tôi đều viện cớ này lý nọ lẩn tránh để các huynh tôi lãnh giùm. Hơn nữa vì cái quan niệm “TRỌNG LÝ KHINH SỰ” của mình nên tôi coi thường việc cúng tụng đám ma và xem đó không phải là việc làm của tu sĩ đạo Phật. Do vậy tôi hoàn toàn mù tịt về vấn đề này. Bí quá, tôi đề nghị cô nên thỉnh thầy trụ trì chùa Bát Nhã đây, nhưng cô cứ một mực nhờ tôi với lý do là chỗ quen thân dễ dàng xử sự hơn. Thôi thì “thế thời phải thế” chứ còn biết làm sao khác hơn được.
Cô móc túi lấy ra tờ giấy ghi tên tuổi mẹ và ngày sinh ngày tử nhờ tôi coi giờ tẩn liệm, an táng. Tôi ấp a ấp úng:
- À, à, coi ngày giờ hả?
- Dạ, xin nhờ thầy xem giúp giùm con luôn.
Trời ơi, từ trước tới giờ tôi có biết chi đến việc xem ngày giờ tốt xấu gì đâu! Vả lại tôi đã từng lên án nó là mê tín không lẽ bây giờ lại nhúng tay vào? Không thể được, mình phải giữ lập trường trước sau như một. Tôi nhanh chóng phân tích cho cô hiểu về chính kiến trong Phật giáo. Rõ là có hiệu quả, trong lúc tôi giảng giải, cô gật gù ra vẻ tán đồng ý kiến. Khi tôi vừa dứt lời cô liền thưa:
- Bạch thầy hoan hỷ cho, chính con cũng rất hiểu về vấn đề này, nhưng vì trong lúc gia đình có tang, các em con tin tưởng ở ngày giờ, xin thầy cũng vì phương tiện mà cho chúng con một viên thuốc an thần.
Chà, kẹt quá! Tôi thấy mình cần phải giữ vững lập trường trong lúc này và đó cũng là lối thoát cho mình khỏi phải coi ngày giờ. Tôi ra sức thuyết phục, thế nhưng cô cũng ra sức phân trần. Cuối cùng...
- Thôi được, Diệu Hạnh về trước sắp đặt nhà cửa một lát nữa tôi qua thông báo ngày giờ.
Cô ra về. Tôi thơ thẩn đứng đó với bao ý nghĩ rối bời. Về việc coi ngày giờ thì tôi có thể nhờ thầy trụ trì đây được rồi. Còn vấn đề tẩn liệm, an táng sắp tới thì sao? Chả lẽ bây giờ mình lại đến “cầu pháp” với các huynh đệ mà trước đây mình đả kích? Thấy hành động như vậy sẽ tổn thương danh dự, tôi liền về phòng tính kế khác. Tôi chợt nhớ ra trước đây mình có một cuốn sách nói về nghi thức tụng đám. Mừng quá, tôi lao ngay vào các chồng sách lục lọi nhưng tìm mãi mà không thấy. Vốn có thành kiến với nó nên tôi đã hất hủi bỏ nó ở đâu không rõ nữa. Lúc này tôi cảm thấy tiêng tiếc mà thấm thía lời này: Ðừng lãng phí những cái chưa cần để rồi mai đây ta khỏi hối hận khi cần đến nó.
¯
Ðúng giờ nhập quan, tôi có mặt tại nhà Diệu Hạnh. Tuy không biết tí gì về nghi thức này nhưng tôi vẫn thấy vững tâm ở chỗ là ngoài tôi ra không có một thầy nào khác. Nhờ vậy mà tôi dễ dàng tự biên tự diễn hơn. Tay trái cầm ly nước trong, tay mặt cầm nhánh bông cúc, tôi đến cạnh thi hài vừa đọc bài Tán Dương Chi vừa nhúng cành bông vào ly nước rồi rải chung quanh xác chết và tôi cho đó là sái tịnh! Mặc cho con cái khóc la, việc mình mình làm, tôi nhanh chóng tụng chú Ðại Bi, Bát Nhã, niệm Phật, hồi hướng. Thế là xong phần nhập quan. Có lẽ nhờ tiếng khóc la đó khiến tôi bớt trơ trọi và ít ai để ý đến nghi thức cúng tụng của mình. Trong lúc hành lễ tôi thấy một cậu thanh niên tuổi ngoài ba mươi phụ sắp đặt lễ nghi rất là thông thạo. Mặc dù thế dường như sợ múa rìu qua mặt thợ nên cậu ta nhất nhất làm cái gì cũng hỏi tôi. Qua cách bày biện tôi biết chính anh chàng là “thợ” chứ không phải là mình nên tôi cũng nhất nhất gật đầu tán thành.
- Bạch thầy, con thấy thường thường người ta để quả trứng và đôi đũa bông trên bát cơm đầy, đặt trên nắp quan tài. Bây giờ mình cúng chay thì thay quả trứng bằng củ khoai tây được không?
Tưởng anh chàng hỏi ý nghĩa về đôi đũa bông thì bí chứ còn hỏi việc đó tôi gật đầu đáp:
- Ờ, ờ, như vậy là tốt đó đạo hữu.
Bây giờ tôi cảm thấy vừa lo lại vừa mừng về sự hiện diện của cậu thanh niên này. Lo là mình không làm đúng, mừng là mừng có người sắp đặt giúp mình.
Sau khi tẩn liệm xong, anh cho người khiêng một bàn thờ đã dọn sẵn đến trước quan tài. Trên bàn thờ, bên trái là lọ bông huệ, bên phải là mâm trái cây, chính giữa là ba chén cơm với vài ba dĩa thức ăn, bên ngoài là lư hương và ba chiếc ly nhỏ để không. Anh dựng bốn chiếc đũa lên chén cơm đặt trên đầu quan tài: Một đôi ở giữa và hai chiếc mỗi chiếc một bên.
- Bạch thầy, con để vậy có đúng không?
- Tốt rồi đạo hữu.
Tôi định hỏi lại tại sao cúng ba chén cơm mà không để ba đôi đũa mà lại để bốn chiếc và tại sao không để nằm lại để dựng đứng ở đầu quan tài. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại đáng lẽ Phật tử hỏi mình thì mới phải, chứ ai đời Thầy lại đi hỏi Phật tử, như vậy làm sao mà “thống lĩnh đại chúng” cho được.
- Bạch thầy, bây giờ cúng cơm trước hay làm lễ thành phục trước?
Cái gì? Lễ thành phục? Mình có nghe lầm không nhỉ? Tôi liền hỏi lại và anh ta đáp y xì như trước. Thật vậy sao? Lễ thành phục? Tôi ngẫm nghĩ xem nó là cái lễ gì mà nghe lạ tai quá. Trong lúc chờ đợi tìm ra câu giải đáp, tôi quyết định:
- Cúng cơm trước, lễ thành phục sau.
Anh vội vào nhà trong lấy ra một ấm nước trà và đặt lên bàn cạnh ba chiếc ly không. Thấy vậy tôi nói:
- Rót nước vào ly đi đạo hữu.
Anh quay lại nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Thầy không trà châm sơ tuần, nhị tuần, tam tuần à?
Có vụ này nữa sao ta? Bây giờ mình lỡ nói rót nước ra ly rồi thì phải giữ chữ tín, vả lại mình có rành nghi thức cúng cơm đâu mà biết lúc nào là trà châm sơ tuần, nhị tuần... Tôi liền biện bác:
- Rót một lần đầy ly để người chết uống cho đã khát, chứ mỗi lần rót chút chút một phiền mình mà vong phải chờ đợi tội nghiệp! Mình phải đổi mới tư duy chứ đạo hữu!
Anh chàng nhếch môi cười:
- Vậy có nghĩa là mình gắp thức ăn vào chén cơm cúng luôn khỏi phải tiến phạn?
- Ðúng đấy đạo hữu.
Trong khi tụng kinh, tôi có cảm tưởng mình là chiếc máy radio, miệng đọc mà để đọc, chứ tâm trí thì đi đàng nào ấy. Ba chữ lễ thành phục cứ ám ảnh tôi mãi cho đến khi tụng sang phần niệm Phật rồi mà vẫn chưa tìm ra nó là lễ gì. Kẹt quá tôi đành phải kéo dài thời gian bằng cách đứng niệm Phật thật lâu. Lát sau cậu thanh niên mới bưng ra một cái mâm có đựng đồ tang và đặt trước bàn vong. Tôi “à” một tiếng vì đã tìm ra đáp số và thấy người mình nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng. Tôi thì thầm:
- Thì ra là lễ phát tang!
Ðến lễ thành phục tôi thấy mình cần phải ứng dụng câu ‘tùy duyên biến hóa” trong thế bí này. Tôi nói:
- Mỗi người thắp một nén nhang khấn ngày tháng năm, tên họ mình nay xin thọ tang mẹ.
Trong lúc họ thì thầm khấn, tôi cũng lâm râm đọc thần chú, tay phải cầm ba cây nhanh vẽ lên đồ tang chữ ÁN to tướng. Sau khi thu nhang cắm vào lư hương, tôi nhắc mọi người lấy đồ tang mặc vào. Lúc ấy Diệu Hạnh thưa:
- Nhờ thầy phát tang cho tụi con.
Tôi lúng túng không biết phân biệt cái nào là của ai. Nhìn lên mâm đồ tang tôi thấy ngoài quần áo, khăn ra còn có một cái mũ bằng rơm được quấn bằng vải mùng trắng bên ngoài, vành tròn và có một đường cong ở giữa đỉnh đầu. Tôi đoán chắc mũ này là của người chị cả nên cầm lấy và trao cho Diệu Hạnh. Cô đưa tay lên định cầm thì cậu thanh niên can:
- Ấy, cái đó là của con trai.
Diệu Hạnh ngước nhìn tôi mỉm cười và cầm mũ trao cho đứa em trai. Mặt tôi hơi đỏ.
Trong lúc ngồi giải lao sau khi hoàn tất công việc, Diệu Hạnh đến bên tôi chắp tay thưa:
- Bạch thầy, hôm di quan mẹ con, nhờ thầy thỉnh giúp hộ con hai vị nữa.
Nghe lời yêu cầu của Diệu Hạnh tôi tán thành ngay.
¯
Tôi và hai thầy nữa đến nhà Diệu Hạnh trước khi động quan nửa giờ. Vừa đến cổng, tôi thấy cậu thanh niên bưng một cái mâm đặt trên chiếc ghế đẩu để trước cửa nhà. Trên mâm có một tấm triệu, một đĩa đựng: Một con tôm, một con cua, một miếng thịt, tất cả đều luộc chín có mầu đo đỏ, ba ly nước không, một ấm trà, một cặp đèn cầy nhỏ, vài cây nhang và một ít giấy vàng bạc. Tôi hỏi:
- Cúng cái gì vậy đạo hữu?
- Bạch thầy, cúng cáo đạo lộ ạ!
Cáo đạo lộ? Tôi nhướng mày nhìn và ngẫm nghĩ cúng cáo đạo lộ là cúng ai cà? Sau vài giây tìm hiểu tôi đoán có lẽ là cầu ông thần đất để ông phù hộ cho xe tang đi đường khỏi bị chết máy ẩu chứ gì! Rõ là người Việt Nam ta rất biết điều và lễ nghĩa đầy đủ quá!
Tới giờ làm lễ di quan, tôi cho mời tất cả tang quyến tề tựu trước quan tài. Lúc này tiếng thầy chủ sám vang lên:
- Tang chủ tựu linh tiền.
Tiếng thầy cất lên trầm bổng ngân nga làm mọi người đang ồn ào bỗng im phăng phắc. Dường như âm thanh của thầy đã lôi cuốn họ về với lời kinh tiếng kệ. Quang cảnh buổi lễ trở nên trang trọng lạ thường. Thầy xướng tiếp:
- Giai quỵ.
Lúc này tôi mới cảm được cái tác dụng của âm thanh. Một bản nhạc dù hay cách mấy mà người hát dở cũng chẳng hấp dẫn được thính giả. Nếu lời kinh là một bản nhạc tuyệt vời mà thầy tụng là ca sĩ giỏi thì chắc chắn sẽ dễ dàng thu phục nhân tâm quay về chính đạo. Tôi say sưa lắng nghe và trân trọng theo dõi nghi lễ cúng tụng của hai thầy. Lúc chấm dứt, thầy chủ sám xướng:
- Tang chủ khởi thân lễ tất tứ bái...
Nghe thầy xướng hay quá, tôi nhớ lại mình hôm qua, sau phần cúng cơm tôi nói gọn lỏn:
- Tang chủ lễ tạ bốn lễ.
Sau đó thầy chủ sám nhắc tôi mời các đạo tỳ vào làm lễ bái quan. Tôi thật thà nói:
- Ðã tới giờ động quan, mời quý vị đạo tỳ vào làm lễ bái quan.
Thầy chủ sám nhìn tôi mỉm cười rồi xướng lại, giọng rất trầm hùng:
- Dịch giả tựu linh tiền tác lễ.
Biết mình làm không xong, tôi ghé tai thầy chủ sám nói:
- Nhờ thầy xướng giúp luôn.
Ðợi các đạo tỳ làm lễ bái quan xong, thầy xướng tiếp:
- Triệt hạ linh tòa.
Họ nhanh chóng dọn dẹp tất cả những đồ trang trí chung quanh quan tài. Trước khi động quan, thầy chủ sám xướng:
- Thiên cửu tựu dư.
Quan tài được nhấc lên từ từ. Tôi và hai thầy niệm Phật dẫn đường, kế đó là cậu con trai bưng bát nhang, Diệu Hạnh theo sau bưng di ảnh mẹ, tiếp đến là quan tài. Ðoàn người chậm chạp chuyển động. Tiếng niệm Phật ngân nga trầm bổng hòa với tiếng khánh nhịp mõ của thầy chủ sám vẫn có sức hấp dẫn tôi phải suy nghĩ về vấn đề nghi lễ cúng tụng của tu sĩ Phật giáo. Làm thế nào trong tinh thần tùy duyên hóa độ người mất này mà vẫn giữ được sự bất biến. Những suy nghĩ ấy đang cùng với đoàn người xa dần khởi điểm ...
Dưới mái hiên chùa^
Ðứng trên lan can phía trái của chính điện ngôi chùa, tôi có thể nhìn thấy những mái nhà tôn, nhà ngói, cái cao cái thấp, cái lớn cái nhỏ, lố nhố san sát nhau, thỉnh thoảng mới có một vài ngôi nhà đúc hai ba tầng cao trội hơn cả. Những đường hẻm ngoằn ngoèo như những con rắn mang bầu, chỗ phình ra chỗ hẹp lại không có luật lệ gì cả. Dường như trước đây mạnh ai có chút quyền thế gì cứ việc lấn chiếm hàng rào nhà mình cho rộng bất chấp đó là đường sá. Nhìn toàn bộ địa hình nơi đây ta có thể đoán được cuộc sống phức tạp của những người lao động chân tay nghèo khổ. Hai phần ba dân số là người Hoa. Hằng ngày họ tản mác đi làm các nơi khác đến chiều tối mới tụ họp về gia đình.
Mỗi ngày vào khoảng bảy giờ sáng, ngang con hẻm chùa, một bà lão trạc tuổi sáu mươi, tóc đã bạc trắng, hai gò mà nhô cao trên gương mặt xương xẩu nhăn nhó, cặp mắt hơi thụt vào và không còn thấy ánh sáng. Khoác trên thân hình gầy ốm tiều tụy là bộ đồ bà ba đen cũ kỹ sờn gấu. Một tay bà bám vào vai đứa bé trai khoảng tám tuổi, một tay bà cầm chiếc ca nhựa có quai, lần bước theo đứa bé đến sạp cà phê cách nơi bà ở khoảng năm mươi mét. Ngày nào cũng như ngày nào bà chỉ ngồi một chỗ, một chiếc bàn như là một thói quen. Sau khi uống cà phê và nói chuyện phiếm với khách xong, bà gọi đứa cháu dắt về. Có hôm nó mải đi chơi xa bỏ bà ngồi chờ chán rồi mới quay lại đưa bà về. Mỗi lần như vậy bà không quên rót trà vào ca mủ của mình đem về nhà uống.
Hơn ba tháng nay tôi để ý thấy bà cứ đi ngang con hẻm chùa và uống cà phê nơi sạp đó vào mỗi buổi sáng.
Một hôm nghe tiếng trẻ nhóc ở đây vỗ tay cười la “thầy chùa, thầy chùa” um sùm nhưng không rõ lý do gì. Trong tâm tôi đinh ninh rằng có lẽ vị sư nào đi khất thực ngang đây bị chúng chọc chăng? Ðể xác minh sự thật, tôi liền bước ra lan can ngó xuống đường và thấy lũ con nít đang bu quanh bà lão mù, đầu bà hôm nay bỗng trắng hếu, không còn tóc nữa.
Bà đứng lại la:
- Ðồ quỷ, đồ yêu! Mẹ bay đẻ bay ra có tóc không mà đi chọc phá người ta, hả?
Cặp mắt bà trợn lên lộ cả tròng trắng, tròng đen với những đường chỉ đỏ, dáo dác nhìn theo phía tiếng trẻ nít. Mặt bà hậm hực như muốn nhào lại đánh chúng cho hả giận.
Bất chấp lời la mắng của bà, lũ nhỏ vẫn tiếp tục cười chọc. Thấy không ngăn nổi chúng, bà thúc đứa cháu đi về, miệng vẫn lẩm bẩm chửi rủa. Một vài cô sồn sồn đang đứng xem cũng đồng tình. Lúc ấy một người đàn ông đi qua la rầy lũ nhỏ. Các ả thấy vậy mới động lòng trắc ẩn lên tiếng can thiệp vào:
- Ðừng có phá tụi bay.
- Người ta già cả mù lòa chọc ghẹo mai mốt sẽ mang quả báo đó.
- Gùa Thù ơi! Phán xẻ. Ngộ tả lị pây giờ.
Tuy miệng nói như vậy nhưng cặp mắt của mấy mụ thì ánh lên vẻ thích thú, nhìn theo lũ nhỏ đang đi theo sau chọc ghẹo bà lão mù.
Thực ra ai còn lạ gì cái xóm này nữa. Một số trẻ mới lớn đã được học chửi thề trước khi biết nói! Có lần tôi nghe cái mụ có thằng con tên Gùa Thù dạy con:
- Lị ngu quá, ló chửi lị như vậy mà lị im hả! Miệng mồm lị tâu mà không chửi lại! Pộ lị sợ ló tánh hả! Lồ cái thứ khôn nhà dạy chợ!
Phần lớn những đứa trẻ ở đây được giáo dục theo kiểu đó, thế nên mỗi lần hễ mở miệng ra nói chúng đều có kèm theo câu chửi thề và dường như cha mẹ chúng cũng rất vui mừng hả dạ khi thấy con mình chửi thề, nói tục giỏi hơn con người khác! Chính vì thế mà một hôm tôi thấy cái thằng Gùa Thù nó văng tục lại với mẹ nó khi tức giận. Huống chi lời hăm dọa của mụ khi nãy có thấm vào đầu nó chút sợ sệt nào đâu! Cha mẹ đã không ra cha mẹ thì bảo sao con cái trở thành con cái được! Thú thật lần đầu tiên đến sống nơi đây tôi rất khó chịu và khổ sở khi phải nghe những lời nói quá tục của họ xổ ra hằng ngày. Thế mà không hiểu sao bây giờ tôi đã lờn với nó rồi, trời ạ!
Thấy tụi con nít xúm nhau chọc phá như vậy mà sáng nào bà cũng đi đến sạp cà phê đó uống, tôi đâm thắc mắc. Bởi vì cách nhà bà vài căn cũng có sạp cà phê vỉa hè, tại sao bà không ở đó uống cho gần mà lại lần mò đi xa để cho lũ trẻ quấy rầy như thế? Giả sử vì sạp cà phê cạnh nhà không ngon thì bà có thể sai mấy đứa cháu nó đi mua về uống, cớ gì phải khổ sở đích thân lê la đến tận nơi mỗi ngày như vậy? Sau nhiều lần dò hỏi những người nghiện cà phê tôi mới biết người ta không chỉ nghiện cà phê mà còn nghiện cả chỗ ngồi nữa!
Mấy ngày nay tình hình trở nên lắng dịu, tiếng la cười chọc phá của lũ nhỏ không thấy nghe nữa. Tôi cho rằng tâm lý trẻ con bao giờ cũng vậy, chơi trò chơi gì cũng chỉ hăm hở ở lúc đầu rồi vài ngày sau là chán ngấy.
Sáng nay, tôi ra lan can cố đứng đợi bà lão mù đi ngang qua để xem lời đoán của mình có đúng không. Vài phút sau tôi mới vỡ lẽ là mình đã sai và hiểu rõ tại sao lũ con nít không dám chọc phá nữa.
Một ông lão trạc tuổi bà lão, trán hói lên tận đỉnh, mớ tóc chung quanh đầu cũng được ủi sạch nhẵn bóng, nổi bật trên gương mặt nhăn nheo là cái mũi to tướng, thỉnh thoảng hinh hỉnh lên, hai vành tai thì lại nhỏ xíu so với cái đầu “bưu”, cặp mắt ti hí hơi lõm vào. Nhìn gương mặt ông tôi có cảm tưởng nếu ông được lên sân khấu diễn vai hề chắc chắn sẽ thành công và rất ăn khách. Ông mặc chiếc áo sơ mi ngắn tay đã ngả màu đất và chiếc quần xà lỏn màu xám tro để lộ đôi chân xương xẩu được bao bọc bởi lớp da lùng nhùng chẳng còn bắp thịt. Nhìn những nếp nhăn nơi gương mặt và chân tay ông, tôi có thể đoán thời trai trẻ ông rất mập. Tay nắm tay, ông dắt bà lão thủng thẳng cùng đi.
Không hiểu sao đôi chân khẳng khiu của ông lại hấp dẫn tôi một cách lạ kỳ thế. Ðứng ngắm nhìn từng bước chân đi như hai khúc xương di chuyển tôi cứ suy ngẫm rồi đâm ra so sánh:
Chắc chắn vợ chồng ông bà lão này so với Thầy tôi thì kém rất xa. Ở cái tuổi tám mươi mà Thầy tôi vẫn mập mạp hồng hào, bắp chân bắp tay còn chắc thịt, đi đứng vững vàng, lời nói trong thanh, tinh thần minh mẫn. Nếu nói rằng đó là kết quả của sự ăn uống đầy đủ sung sướng thì không có lý, vì Thầy tôi ăn chay từ bé đến giờ đâu có ăn cá thịt hay cao lương mỹ vị như người thế gian. Còn nếu cho rằng người tu hành nhàn rỗi nên được vậy thì lại hoàn toàn sai. Bởi lẽ từ khi xuất gia năm mười lăm tuổi đến nay, sống nơi đồng quê Thầy tôi đã lao động tự lực cánh sinh ít khi chịu ăn không ngồi rồi. Như vậy, cũng là người già với nhau, cũng ăn một lượng thức ăn bằng nhau mà có người thì mập ra, kẻ lại tóp vào. Thế là sao nhỉ?
Tôi suy nghĩ một lát thì chợt nhớ đến câu chuyện hôm qua, khi tôi cùng đi với người bạn trên đường Võ Thị Sáu gần đến ngã tư Bà Huyện Thanh Quan. Tôi giơ tay chỉ một cây cổ thụ bên lề đường hỏi:
- Cây gì vậy anh?
- Cây cao su đó thầy.
- Vậy hả! Sao nó lại phình to ở gốc cây vậy?
- Dạ, vì nó không bị lấy mủ nên mới mập như thế đó.
Tôi gật đầu đắc ý.
Nhờ cây cao su này đã giải đáp được câu thắc mắc của tôi. Lấy mủ hết thì cây sẽ khô héo tiều tụy dần, tích chứa mủ thì thân cây sẽ càng to lớn tươi xanh.
. . . . . . . . . . . . . .
- Từ từ chứ ông!
Nghe tiếng bà lão mù la lên, tôi liền ngó xuống đường.
- Ði nhanh lên một tí. – Ông lão thúc giục.
- Té tôi bây giờ đó.
- Bà đã nắm chặt tay tôi rồi còn sợ gì nữa.
- Chậm rãi mà đi, có giặc đâu mà phải vội vã.
- Bà có sợ té thì leo lên lưng tôi cõng về cho. Ông cúi người xuống phía trước bà pha trò.
- Ðồ khỉ! Già rồi còn mất nết.
Ông lão cười hì hì rồi chậm rãi dắt bà đi.
¯
Sáng nay tôi dắt chiếc Honda dame ra đường để chuẩn bị đi học. Thấy xe dơ quá, tôi lật yên lên lấy chiếc khăn ra ngồi lau sơ một tí.
Ðối diện với con hẻm ngang hông chùa là Tổ hợp sản xuất dây đồng hồ. Lúc này vào khoảng hơn sáu giờ rưỡi, các công nhân đã tập trung trước cửa chờ đúng bảy giờ sẽ vào làm việc. Trong thời gian chờ đợi họ ngồi tán dóc với nhau đủ thứ chuyện trên đời.
Tôi loay hoay chùi xe không để ý đến các cô cậu thanh thiếu niên này. Bỗng một cậu lên tiếng:
- Dzách lầu mụ pho. Trăm năm hạnh phúc.
Một cậu khác thêm vào:
- Cho đến răng long đầu bạc.
- Không phải, răng long đầu trọc.
Cả bọn vỗ tay cười ồ lên.
Tôi hơi đỏ mặt khi nghe câu này. Mắt cứ chăm chú vào công việc không dám ngước nhìn lên, trong lòng thì lại thầm trách những anh chàng bất lịch sự thiếu văn hóa này. Xui thật, mới sáng sớm đã bị lũ choai choai này chọc ghẹo rồi. Nghe họ xì xầm cười nói tôi tưởng chọc mình nữa nên càng cúi gầm mặt xuống. Lúc đó chợt có hai bóng người lom khom đi ngang qua, ngước mắt lên nhìn, tôi mới nhận ra vợ chồng bà lão mù. À! Té ra nãy giờ không phải họ ghẹo mình. Tôi yên chí đứng dậy cất chiếc khăn vào yên xe, bật công tắc, leo lên xe đạp máy rồi khởi hành.
Xe lao lên phía trước, tôi thấy ông lão nắm tay dắt bà lão đi thật hạnh phúc. Ngẫm lại câu “trăm năm hạnh phúc cho đến răng long đầu trọc” của cái tụi thanh niên khi nãy là có cơ sở hẳn hòi. Nhìn lại chiếc đầu không có tóc của ông bà lão, tôi chợt nghĩ đến mình rồi cười thầm.
Học đánh máy chữ^
Chú tiểu Lâm đứng ngoài cửa sổ nhìn một cách say mê và đầy khao khát vào nơi thầy thư ký đang đánh máy chữ. Tiếng đánh máy lách cách đều đặn của thầy có sức thu hút lạ kỳ đối với chú không chỉ bây giờ mà ngay từ những ngày đầu khi mới bước chân vào chùa. Ôi, tại sao những ngón tay của thầy lại lướt nhẹ nhàng, lanh lẹ trên bàn máy một cách tuyệt diệu như thế? Ðặc biệt là thầy không hề nhìn vào hàng chữ mình đánh, nhưng lại không sai sót một dấu nào. Nếu có sai thầy ngừng tay và sửa lại liền. Chú tiểu Lâm có cảm tưởng như thầy còn có con mắt thứ ba nào đó đang nhìn vào bàn máy nên biết rõ tất cả. Chú quyết tâm tìm cho ra nguyên nhân nào đã dẫn đến sự thành công này. Do vậy, cứ mỗi lần thầy đánh máy chữ là chú tìm cách đến bên cạnh để xem. Một hôm, chú vừa mon men lại chỗ thầy làm việc, thầy có vẻ không bằng lòng và hỏi:
- Sao chú không học kinh, lại đây làm gì?
- Dạ, con xem thầy đánh máy.
- Chú nên nhớ, người lịch sự không bao giờ đứng ngó người khác làm việc như vậy.
Mặt chú hơi đỏ vì “quê”.
- Bạch thầy, không phải con tò mò về nội dung bài thầy đang đánh máy mà con muốn tìm hiểu về phương pháp đánh máy chữ của thầy.
- Biết vậy rồi. Dù sao tình ngay nhưng lý vẫn gian. Lần sau chú không nên hành động như thế. Nếu chú muốn học thì cứ nói, tôi sẽ dạy cho.
- Mô Phật, xin thầy hoan hỷ thứ lỗi và xin thầy chỉ dạy cho con học.
Thầy gật đầu đồng ý. Chú tiểu Lâm cáo từ và lẳng lặng đi ra. Tuy hơi “quê” khi bị thầy chỉnh nhưng dù sao chú cũng nhận ra khuyết điểm và coi đó là một bài học đáng nhớ.
Từ đó chú tiểu Lâm ngày đợi đêm mơ tính từng ngày một. Thế nhưng thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, đã hơn hai mươi ngày rồi mà thầy thư ký chưa đếm xỉa gì đến việc “cầu pháp” của mình. Ðã vậy, mỗi lần gặp thầy chú định nhắc lại lời thầy hứa và xin chỉ dạy nhưng dịp may đã chẳng đến. Tuy nhiên, sự thờ ơ và im lặng của thầy vẫn không làm giảm sút ý chí cầu học và trái lại càng tăng thêm lòng kiên nhẫn của chú. Một hôm thầy đang ngồi làm việc, chú Lâm đến bên cạnh chắp tay thưa:
- A Di Ðà Phật, bạch thầy.
Thầy ngó ngoái lại và hỏi:
- Có việc chi không chú?
- Hôm trước thầy hứa dạy con đánh máy chữ.
- À, à, thế hả! Vậy chiều nay tôi sẽ dạy.
- Bạch thầy, vào lúc mấy giờ ạ?
- Khoảng hai giờ chú sang đây.
Suốt buổi trưa hôm đó, chú tiểu Lâm không thể chợp mắt được. Hết nằm lại ngồi thấp thỏm chờ đợi, chốc chốc chú lại nhìn đồng hồ. Chú càng mong muốn cho thời gian ngắn lại bao nhiêu thì nó lại càng dài ra bấy nhiêu. Sốt ruột quá, mới hơn một giờ rưỡi chú đã đến trước phòng thầy thư ký ngồi chờ, nhưng mãi đến hai giờ rưỡi thầy mới mở cửa cho chú vào.
Lúc này, trước mặt chú trên bàn là chiếc máy đánh chữ, bên phải là tờ giấy mẫu với những chữ ưưư, ơơơ, ơươ... và một số chữ khác cũng sắp xếp theo kiểu tương tự. Thoạt tiên thầy nói sơ qua về cách sử dụng máy. Kế đến thầy hướng dẫn chú đặt 8 ngón tay trên 8 chữ nhất định ở hàng chữ thứ ba từ trên đếm xuống, còn hai ngón cái dùng vào việc nhấn cách khoảng giữa từ này với từ khác. Sau khi nắm rõ ngón nào đặt trên chữ nào rồi, thầy không cho chú nhìn vào máy nữa, trong lúc đánh chỉ nhìn vào tờ giấy mẫu. Sau khi đánh xong một hàng chú mới được phép nhìn những chữ đã đánh để kiểm tra lại xem đúng sai thế nào. Vì tay còn cứng vả lại chưa quen nên chú đánh hay bị lộn và nhảy chữ lung tung. Tuy nhiên chỉ mười lăm phút sau chú đã khá thuần và xin thầy học qua chữ mới. Thầy hỏi:
- Chú thuộc kỹ chưa?
- Bạch thầy thuộc kỹ rồi ạ.
- Bây giờ tôi kiểm tra lại nhé?
- Mô Phật.
- Nếu đúng thì tôi dạy chữ mới, còn sai thì chú tiếp tục tập cho đến khi nào thuộc thì thôi. Ðồng ý chứ?
- Mô Phật.
Chú tiểu Lâm mặc dù đã tự tin nơi khả năng của mình, nhưng khi nghe thầy ra điều kiện như vậy cũng hơi hồi hộp. Trước khi dò, thầy hỏi lại:
- Chuẩn bị chưa?
- Bạch thầy rồi.
Vừa dứt lời thầy đọc thật nhanh:
- ươư cách ơươ cách ưươ cách ơơư cách ......
Mặc dù đã chuẩn bị tinh thần nhưng tay chú Lâm vẫn quíu lại, đánh lộn xà ngầu lên. Xong một hàng thầy hỏi chú:
- Bây giờ tôi đọc lại cho chú dò xem có sai chỗ nào không?
Sau khi đọc xong, chú đáp:
- Bạch thầy có sai.
- Nhiều ít?
- Dạ khá nhiều.
Thầy mỉm cười:
- Vậy là chưa thuộc rồi. Tập lại đi thôi và chú nên nhớ là học làm sao từ chưa thuộc mặt chữ đến thuộc làu, đánh làm sao cho từ chậm đến thật nhanh.
Chú Lâm dạ rồi tiếp tục học. Ðến lần thứ hai, thứ ba cũng vậy. Qua lần thứ tư chú mới nhuần nhuyễn thuộc làu. Học xong hai chữ ư, ơ, thầy nói:
- Thôi hôm nay học bấy nhiêu đủ rồi.
Chú Lâm ngước lên nhìn thầy có vẻ khẩn khoản:
- Xin thầy dạy con học thêm ít chữ nữa. Giờ này còn sớm lắm.
- Từ từ mà học. Ăn cái gì cũng phải cho nó có thời gian tiêu hóa nữa chứ. Coi chừng “dục tốc bất đạt” đấy.
Chú lưỡng lự chưa muốn rời khỏi bàn máy:
- Bạch thầy, học như vậy biết chừng nào con mới đánh được như thầy?
Thầy hơi nhếch môi cười. Tâm lý nôn nóng của chú Lâm chẳng khác gì thầy trước kia. Thích cái gì là muốn làm cho bằng được. Thầy nhắc nhở:
- Chú biết không, lúc trước tôi thấy người ta nói chuyện với người nước ngoài bằng tiếng Anh, tôi rất mê và ao ước nói được như vậy. Khi vào trường học, giáo sư dạy chậm quá, vì nôn nóng muốn nói được ngay nên tôi về nhà học thêm từ mà không để ý đến văn phạm. Ðến khi học lên cao, chữ thuộc nhiều nhưng văn phạm mất căn bản. Thế là tôi nói sai bét hết. Quay trở lại học lớp thấp thì ngại, mà học tiếp lên cao thì không hiểu. Cuối cùng tôi đã phải bỏ ngang. Thế đó chú, việc học cũng chẳng khác việc tu hành đâu, vì tất cả pháp đều là Phật pháp. Muốn sáng tỏ một vấn đề gì phải chuyên chú và quán triệt nó một cách rốt ráo. Có được như vậy việc tu hay học của chúng ta mới đỡ vất vả và sự thành công sẽ vững chắc hơn.
Nghe thầy nói có lý, chú Lâm vui vẻ đứng dậy chắp tay xá chào lui ra. Từ đó mỗi buổi chú học khoảng một giờ và thuộc từ hai đến bốn chữ. Sau mỗi buổi học, những lúc rảnh rỗi chú gợi lại những chữ đã học và nhịp nhịp ngón tay như là mình đang ngồi đánh trước bàn máy. Do chuyên tâm như vậy, khoảng ba tháng sau chú đã đánh thông thạo không thua kém gì thầy.
Một hôm chú đang ngồi đánh máy một cách say mê. Những ngón tay thoăn thoắt lướt nhẹ trên bàn máy và tiếng đánh máy liên tục dòn như bắp rang. Chợt tiếng thầy thư ký vang lên khi bước vào phòng:
- Chu choa, hôm nay đánh máy khá quá!
Lúc đó chú Lâm rùng mình vì lời khen của thầy. Bây giờ chú mới nhận ra mình đã đạt đến trình độ khá cao. Thật xứng đáng với lòng kiên nhẫn học tập của chú. Có đôi lần đánh máy, chú thấy dường như thân tâm mình đã hòa cùng chiếc máy thành một dòng trôi chảy liên tục, lúc ấy ý thức không còn phân biệt như trước nữa. Chú đánh máy mà không còn thấy mình đánh máy. Từ bài học kinh nghiệm thực tế này, chú nghĩ đến pháp môn Tịnh độ trì danh hiệu Phật. Nếu mỗi ngày mình chịu khó huân tập chủng tử Phật danh, thì chắc chắn không bao lâu sẽ đạt đến nhất tâm bất loạn. Lúc ấy niệm đã thuần thục rồi thì khi niệm mà không thấy mình niệm, không niệm nhưng vẫn niệm. Chú mỉm cười sung sướng vì nhận ra được chân lý này và nói:
- Ðúng là “Tất cả pháp đều là Phật pháp”.
Cúng dường Phật đản^
Trăng đã lên cao, tỏa ánh sáng tươi đẹp. Gió nhè nhẹ lùa vào phòng. Thu Thảo tắt đèn, khẽ đặt lưng xuống giường. Nàng vui sướng nhẩm lại số tiền vừa mới đập con heo đất và vạch kế hoạch cho ngày mai. Xem nào: Mua 20 con chim sẻ, một chục cam, nửa ký nho, nửa chục xoài, một bó huệ, một thẻ nhang trầm. Thôi, như vậy cũng tạm ổn rồi. Ðó là tất cả tấm lòng của Thảo dành dụm quà học hơn ba tháng nay để dâng lên cúng dường ngày Phật đản. Nghĩ đến một mâm hoa quả và những con chim tung bay trên nền trời bao la, Thảo sung sướng quá mong cho ngày mai đến sớm. Nàng thiếp dần trong cơn mơ thật đẹp.
Hôm nay là mười bốn tháng Tư âm lịch. Thảo thức dậy sớm hơn mọi ngày để lo việc nhà cho xong rồi xin phép mẹ đi qua nhà người bạn. Lý năm nay 15 tuổi nhỏ hơn Thảo một tuổi. Hai chị em quen biết từ khi học chung nhau năm lớp một. Hoàn cảnh Lý rất đáng thương, cha mất sớm, gia đình nghèo khó, mẹ phải đi bán hàng rong kiếm ăn từng bữa. Sau khi lên cấp II họ phải chia tay nhau mỗi người một trường. Từ đó thỉnh thoảng chị em mới gặp nhau. Cũng như mọi năm, hôm nay Thảo qua nhà rủ Lý cùng đi chợ mua sắm các thứ để dâng cúng Phật. Trước khi đến nhà Lý, Thảo phải đi ngang qua chùa. Một lễ đài Phật đản được dàn dựng trước cửa chùa với những bông hoa trang hoàng mỹ lệ, những chậu kiểng bài trí thật hài hòa đẹp mắt, cờ năm sắc tung bay phất phới khắp nơi. Thảo dừng xe lại ngoài cổng, đứng ngắm nhìn mà lòng rộn niềm vui. Trong lúc quan sát Thảo đọc tất cả những biểu ngữ quanh lễ đài, trong đó có một câu nàng chú ý hơn hết: “PHỤNG SỰ CHÚNG SINH TỨC LÀ CÚNG DƯỜNG CHƯ PHẬT”. Thấy chư Tăng và Phật tử đang nhộn nhịp chuẩn bị cho buổi lễ ngày mai, nàng cũng nôn nóng và leo lên xe đạp chạy vội đến nhà bạn.
Thảo dừng lại trước căn nhà gỗ đã mối mọt cũ kỹ. Thấy hai cánh cửa khép hờ, Thảo gõ cửa và gọi bạn. Lý nghe tiếng biết Thảo đến liền chạy ra đón. Nụ cười thân ái của đôi bạn chưa dứt trên môi thì nét buồn thoáng hiện nơi gương mặt lo rầu của Lý. Lúc ấy có tiếng rên la trong phòng vọng ra rất rõ. Lý hỏi vội bạn:
- Thảo đến chơi hay có việc gì không?
Nàng định trách bạn sao lại quên cái ngày trọng đại của người con Phật như thế và nói rõ lý do đến hôm nay, nhưng khi nhìn gương mặt Lý và nghe những tiếng rên la trong phòng, Thảo đáp:
- Nhớ Lý quá nên hôm nay đến thăm đó. Sao, lúc này khỏe không? À, má bồ đau bệnh gì mà rên la dữ vậy? Ðưa mình vào thăm bác đi.
Không đợi bạn trả lời, Thảo sốt ruột đi ngay vào giường nơi mẹ của Lý đang nằm. Mặc dù thấy Thảo đến bà rất mừng nhưng cơn đau bụng không cho phép bà nói chuyện nhiều. Thảo quay sang hỏi Lý về chứng bệnh đau bụng của bà, Lý trình bày bệnh trạng mẹ mình cho bạn biết, rồi kết luận:
- Theo ý kiến của một vài y tá có thể mẹ mình bị đau ruột dư.
Thảo trợn mắt kinh ngạc. Nàng nhớ đến trước đây cạnh nhà đã có người chết vì không sớm phát hiện ra bệnh này. Nàng hỏi Lý:
- Sao không đưa má vào bệnh viện?
Lý cúi mặt xuống đau khổ. Thảo chợt nhớ đến hoàn cảnh bạn và hối hận về lời nói nóng vội của mình:
- Xin lỗi nhé. Thôi đưa má vào bệnh viện ngay đi. Nếu đúng là ruột dư để lâu không tốt đâu. Có gì mình sẽ lo liệu giúp với.
Má Lý nghe Thảo nói, bà xua tay ra dấu không đi. Thảo năn nỉ nói rõ sự nguy hiểm của căn bệnh, nhưng bà cứ rên la và lắc đầu từ chối. Tưởng bà không tin mình có tiền, Thảo ghé tai bà nói nhỏ:
- Cháu có hơn ba chục ngàn lận. Tiền cháu bỏ ống đó bác.
Mặc dù đau thắt ruột bà cũng phải cười thầm vì sự ngây ngô thật thà của Thảo. Thấy bà nằng nặc không chịu đi, Thảo tức quá trở ra ngoài đường. Ba phút sau nàng quay lại trên chiếc xích lô đạp. Thảo nhờ anh xích lô khiêng bà ra xe. Phần vì đau phần vì cảm động lòng thành của Thảo bà đành nhắm mắt rơi lệ nghe theo. Thật ra bà chỉ muốn chết để khỏi bị bệnh tật dày vò thể xác và phiền đến người khác, nhưng khi nhìn thấy Lý, một đứa con nhỏ dại, đang ủ dột bên giường bà lại lo sợ tử thần cướp đi mạng sống quý báu của mình thì ai sẽ đùm bọc săn sóc đứa con vốn đã bất hạnh từ khi mới lọt lòng. Càng nghĩ đến Lý bà lại càng muốn hết bệnh, muốn được sống lâu hơn nữa, sống cho đến ngày nhìn thấy con mình hưởng hạnh phúc trọn vẹn nơi cuộc đời này. Nhưng tất cả không đơn giản như những suy nghĩ mộng ước mà thực tế luôn phũ phàng ngang trái. Những giọt lệ vẫn đang lăn dài trên gò má nhô xương của người mẹ lao khổ.
Tại bệnh viện, theo lời khai của Lý, các bác sĩ đã tiến hành khám bệnh và chụp hình thử nghiệm. Vài giờ sau, bác sĩ cho biết bà bị ruột dư ở thời kỳ nặng, nếu để quá vài giờ nữa sẽ bất trị, càng phải mổ gấp. Lý nghe tin vừa mừng vừa lo. Mừng vì phát hiện kịp ra căn bệnh nguy hiểm, nhưng lại lo không có tiền chi trả. Thảo biết ý liền rủ bạn đến phòng ông Giám đốc bệnh viện trình bày đầu đuôi sự thật. Nàng lấy ra một cọc giấy bạc loại 200 đồng đưa hết cho ông. Cảm động trước tấm lòng cao đẹp của cô bé, ông Giám đốc hứa sẽ giúp đỡ phần còn lại.
Trên đường về nhà, Thảo ghé vào chùa. Lúc này, các Phật tử với gương mặt hân hoan tay nhang tay quả đang quy tụ về chùa cúng dường Tam bảo. Thấy ai ai cũng có phẩm vật dâng lên Ðức Phật mà mình vào chùa tay không, Thảo cảm thấy buồn buồn. Nàng đến trước lễ đài thắp ba cây nhang dâng trọn lòng thành lên Ðức Phật. Vừa thấy câu: “PHỤNG SỰ CHÚNG SINH TỨC CÚNG DƯỜNG CHƯ PHẬT”. Tự nhiên niềm vui lại tràn ngập trong lòng nàng. Thảo có cảm tưởng mình đang dâng tất cả những phẩm vật dự tính sáng nay lên cúng dường Ðức Phật một cách trọn vẹn nhất. Ðối với Thảo mùa Phật đản năm nay thật đầy đủ ý nghĩa.
Mấy lời tâm huyết
Thuyết pháp giảng kinh, viết sách giáo lý nhà Phật hoặc in kinh sách đem phát cho mọi người xem, để họ sớm giác ngộ. Ðược như thế công đức vô lượng, đó gọi là pháp thí.
Nếu không đủ điều kiện làm những việc ấy, thì thỉnh một số kinh sách chịu khó đem đến từng nhà cho mượn đọc, rồi sau đó lại lần lượt cho nhà khác mượn nữa, hoặc đọc cho kẻ khác nghe, nhất là cho người không biết chữ nghe, cũng được công đức vô biên, đó cũng gọi là Pháp thí.
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thí là công đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng”.
Tưởng về lợi cũng như về danh, chúng ta đừng lo nghĩ vội, mà điều tối cần là làm sao cho rạng rỡ chánh đạo trước cái đã. Ðó là mục đích chính và thiêng liêng cao cả của chúng ta. Nền móng đạo pháp cần nhờ sự chung lưng góp sức của chúng ta. Vậy mỗi người nên xây đắp vào đó một ít vôi, một ít nước, hoặc một tảng đá hay một viên gạch v.v... ngõ hầu cái nền móng ấy được thêm bền vững và kiên cố đời đời.
Chúng ta không nên quan niệm ở công đức vô lượng vô biên, mà điều cần thiết là nên nghĩ nhiều đến những người lầm đường lạc lối, sống trong vòng đầy tội lỗi không có lối thoát, hãy mau cứu vớt họ, cảnh tỉnh họ để cùng quay về chân lý. Nếu được như thế chính ta đã làm lợi ích cho Phật pháp vậy.
Với hoài bão cuộc đời, chúng ta hãy “Tất Cả Vì Phật Pháp”. Hy vọng mấy lời tâm huyết này được nhiều vị hảo tâm in kinh sách cho muôn dân xem.
Ðược như vậy công đức không gì sánh bằng! Tha thiết mong mỏi như thế!
Tặng cho thân nhân một số tiền nhỏ, lòng mình không vui.. Nhưng mình không đủ sức tặng nhiều hơn. Chỉ có một cách là tặng các loại sách tu hành để xây dựng cho đời sống thanh cao, thì dù một quyển sách giá chỉ có vài ngàn, nhưng vẫn còn quý hơn bạc vạn.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks