10. Bán Thác Ca, còn gọi là Bán Tha Ca, Bán Nặc Ca, Bàn Đà Già, Bàn Đặc, Bàn Thố, Ma Ha Bán Thác Ca, Ma Ha Bàn Đà (S: Panthaka): Dịch nghĩa là Đạo Sanh, Đại Lộ Biên Sanh: A La Hán Giơ Tay: Vị tôn giả này cùng với 1300 vị A-la-hán cư trú tại cõi trời Đao Lợi.
Theo truyền thuyết, Ngài là một hoàng tử của tiểu quốc Kintota. Khi xuất gia, Ngài thích ngồi thiền bán già. Khi thức dậy, Ngài thường giơ tay lên và thở một hơi thở ra dài, nên được gọi là vị A La Hán Giơ Tay. Ngài là anh của vị A La Hán Châu Lợi Bàn Đà. Cả hai anh em cùng được sanh ra ở trên đường, nên được gọi là Đại Lộ Biên Sanh hay Đạo Sanh.
Ngài vốn là con của một người dòng Bà La Môn ở thành Xá Vệ, Trung Ấn Độ. Ngài giỏi về các môn thư toán, xướng tụng, bốn minh, sáu tác, v.v… đầy đủ trí huệ, có 500 đồng tử theo học. Về sau Ngài được nghe Phật thuyết pháp mà xuất gia tu tập, chẳng bao lâu chứng quả A La Hán. Ngài là một trong những vị đại đệ tử của Phật. Ngài có khả năng giải thích những điều nghi ngờ khó khăn trong hàng Thanh Văn, và có thần thông diệu dụng phi thường. Ngài có thể đi ngang qua các vật cứng, bay trên hư không, trên thân phát ra lửa hay nước tùy ý. Ngài có thể hóa thân nhỏ dần cho đến không còn gì nữa. Đôi khi đức Phật bảo Ngài dùng thần thông để điều phục và bắt các vua rồng dữ bỏ vào bình bát. Theo kinh Tăng Nhất A Hàm 3, do sức ẩn hiện tự tại, Ngài được gọi là Tỳ Kheo Bàn Thố”.
![]()
11. La Hầu La (S: Ràhula):
A La Hán Quán Tưởng: Vị tôn giả này cùng với 1100 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại Tất Lợi Dương Cù châu.
La Hầu La là tên của một hành tinh theo lịch Ấn Độ. Theo truyền thuyết, Ngài sanh ra vào lúc nguyệt thực, nên có tên là Chướng Nguyệt. Ngài là một trong mười đại đệ tử của Phật, và là vị hành mật hạnh bậc nhất. Cha Ngài là thái tử Tất Đạt Đa, tức là đức Phật sau này. Mẹ Ngài là công chúa Da Du Đà La. Theo kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên, đức Phật thành đạo sau sáu năm mới trở về thành Ca Tỳ La Vệ, độ cho Ngài xuất gia thọ giới. Ngài Xá Lợi Phất làm Hòa Thượng, còn ngài Mục Kiền Liên làm A Xà Lê. Ngài là vị Sa Di đầu tiên trong giáo đoàn của Phật. Lúc còn làm Sa Di, Ngài làm những chuyện không đúng pháp, nên được Phật răn dạy phải nghiêm giữ giới luật, tinh tấn tu hành, rồi sau này chứng quả A La Hán.
![]()
12. Na Già Tê Na (S: Nàgasena): Na Tiên hay Long Quân:
A La Hán Ngoái Tai: vị tôn giả này cùng với 1200 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại núi Bán Ðộ Ba.
Ngài sống vào cuối thế kỷ thứ hai trước Tây lịc. Ngài sanh vào dòng Bà La Môn ở thôn Yết Đăng Yết La (Kajangala) miền Trung Ấn. Ban đầu, Ngài theo học giáo nghĩa Phệ Đà, nhưng cảm nhận sâu sắc rằng rất ít thấy những điều thiện trong giáo nghĩa Bà La Môn, nên đến cầu học với tôn giả Lâu Hán (Rohana), rồi xuất gia, tu học luận tạng và 7 bộ A Tỳ Đàm, chứng quả A La Hán. Ngài đến xứ Xá Kiệt (Sagala), trụ trì chùa Tiết Để Ca, nghị luận với vua Hy Lạp Di Lan Đà (Milinda), bằng cách dùng sự quan hệ giữa xe và trục xe, vành xe, căm xe, v.v… làm ví dụ để nói rộng về Phật pháp, như nhân sanh vô thường, và báo ứng lành xấu, khiến nhà vua tin phục, quy y Tam Bảo. Những lời vấn đáp giữa Ngài và vị vua Hy Lạp đó được ghi lại trong kinh Na Tiên Tỳ Kheo. Ngài được vẽ với hình dáng ngoái tai, biểu hiện cho sự tịnh hóa nhĩ căn.
![]()
13. Nhân Yết Ðà (S: Angala hay Angida): vị tôn giả này cùng với 1300 vị A Lan Hán, phần lớn cư trú tại trong núi Quảng Hiếp.
Theo truyền thuyết, Ngài là một người chuyên bắt rắn để giúp người đi đường tránh bị rắn cắn. Sau khi bắt rắn, Ngài lấy nọc độc ra, rồi thả chúng vào núi. Nhờ tâm từ bi mà Ngài tu hành chứng quả thánh. Ngài thường mang một túi vải để bắt rắn. Ngài có hình dáng to lớn. Kệ của Tô Đông Pha:
“Cầm kinh lần chuỗi
Gậy thì dựa vai
Chống gậy đứng dậy
Kinh, chuỗi chẳng còn
Không đi, không đứng
Không ngồi, không nằm
Hỏi Ngài lúc đó
Kinh, gậy ở đâu!”
14. Phạt Na Bà Tư (S: Vanavàsin): vị tôn giả này cùng 1400 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Khả Trụ.
Theo truyền thuyết, Ngài được sinh ra vào lúc mưa to, và cây chuối lá sau vườn nhà kêu răn rắc lớn tiếng. Vì vậy, Ngài có tên là Phạt Na Bà Tư, nghĩa là mưa lớn. Về sau, Ngài xuất gia, tu hành chứng quả thánh. Vì Ngài thích ngồi thiền dưới bóng cây chuối lá, nên được gọi là A La Hán Cây Chuối Lá. Kệ của Tô Đông Pha:
“Tâm như đống tro lạnh
Thân tợ khúc củi khô
Truyền thần qua vạn vật
Xương thịt gởi hang mồ
Chuông lạnh nào ai đánh
Hang trống tiếng truyền xa
Gọi đến không nghe thấy
Không chớp mắt nữa là”.
![]()
15. A Thị Ða hay A Dật Đa (S: Ajita): Vị A La Hán có lông mày trắng dài: Vị tôn giả này cùng với 1500 vị A-la-hán, phần lớn cư trú tại trong núi Linh Thứu.
Theo truyền thuyết, Ngài sanh ra với hai lông mày dài. Trong đời quá khứ, Ngài cũng là một vị tăng, dũng mãnh tinh tấn tu hành, nhưng chưa chứng quả thánh, ngay cả lúc tuổi già yếu, và chỉ còn hai lông mày trắng dài. Sau khi mất, Ngài sanh trở lại làm người, và được người cha cho biết rằng Phật Thích Ca Mâu Ni cũng có đôi mi trắng dài. Sau này, Ngài được phép xuất gia tu hành, chứng quả thánh. Vị này khác với ông tiên A Tư Đà và Bồ Tát Di Lặc.
![]()
16. Chú Trà Bán Thác Ca, hay Châu Lợi Bàn Trà, Tiểu Lộ (S: Cùdapanthaka):
vị tôn giả này cùng với 600 vị A-la-hán, phần lớn cư trú trong núi Trì Trục.
Theo một truyền thuyết, Ngài là đại đệ tử của Phật. Khi đi khất thực, Ngài thường đập cửa của dân chúng. Lần nọ, vì Ngài lỡ đập phải một cánh cửa cũ hư, khiến cánh cửa đó đổ sập, nên Ngài phải xin lỗi chủ nhà. Vì vậy, đức Phật cho Ngài một cây tích trượng và bảo rằng: “Khi đi khất thực, ông không cần đập cửa dân chúng nữa, mà chỉ cần gióng cây tích trượng này. Nếu người trong nhà muốn cúng dường thức ăn cho ông, thì họ sẽ bước ra”. Cây tích trượng về sau có những vòng sắt, và khi gióng xuống đất sẽ vang tiếng loảng xoảng. Cây tích trượng là vật biểu trưng cho Ngài.
Theo một truyền thuyết khác, Ngài được gọi là Tiểu Lộ Biên Sanh, vì được sanh ra ở bên vệ đường. Người anh của Ngài là Đại Lộ Biên Sanh. Bẩm tánh Ngài đần độn ngu dốt vì nghiệp xấu, nên không thể nhớ nổi một bài kệ trong những giáo pháp đã được dạy. Do đó, người đương thời gọi Ngài là Ngu Lộ, nhưng đức Phật vẫn rất thương mến và kiên nhẫn dạy Ngài. Lần nọ, có một ông vua thỉnh Phật và chư tăng đến dùng điểm tâm, nhưng không mời Ngài. Khi biết rõ sự tình, đức Phật không ngồi xuống dùng trai cho đến khi ngài Châu Lợi Bàn Đà được mời tới thọ trai. Khi Ngài bị người anh, ngài Đại Lộ Biên Sanh, đuổi ra khỏi tăng đoàn vì không thể học được gì, đức Phật dẫn Ngài trở lại, an ủi, và dạy phải tụng đọc câu “Chổi quét”. Nhờ niệm nhớ hai chữ đó, nên dần dà Ngài trực nhận rằng phải quét hết tất cả sự cấu uế trên thế gian bằng cây chổi giáo pháp của đức Phật, rồi chẳng bao lâu Ngài chứng quả A La Hán. Sau đó, Ngài dùng thần thông thị hiện các thân hình, bay lên hư không, biến ra 500 con trâu và cỡi lên chúng, cũng như thuyết pháp cho lục quần tỳ kheo ni.
![]()
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)




Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks