kết quả từ 1 tới 6 trên 6

Ðề tài: Quan điểm của Phật giáo nguyên thủy về hồi hướng công đức

  1. #1

    Mặc định Quan điểm của Phật giáo nguyên thủy về hồi hướng công đức

    Em có người thân đã mất từ lâu, nếu em làm việc thiện(bố thí, cúng dường...) và hồi hướng công đức đến người đó thì người thân của em có được hưởng hay không? Bác nào nắm vững kinh điển nguyên thủy xin trả lời giùm em với.

  2. #2

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi trannam Xem Bài Gởi
    Em có người thân đã mất từ lâu, nếu em làm việc thiện(bố thí, cúng dường...) và hồi hướng công đức đến người đó thì người thân của em có được hưởng hay không? Bác nào nắm vững kinh điển nguyên thủy xin trả lời giùm em với.
    Hy hữu lắm bạn ah .
    Có khá nhiều điều kiện để có thể hồi hướng . Nhưng trước nhất là người ấy là gì ? Nếu tái sinh làm súc sinh thì không hồi hướng được.
    Nếu là người hay là Chư Thiên ta không bạn đến . Trường hợp ở đây tái sinh thành ngạ quỷ.
    Điều kiện cận là ngạ quỷ ấy có ở gần bạn không ? Có ý muốn được hồi hướng các thiện pháp không ?
    Và không phải ngạ quỷ nào cũng đều thọ lãnh được.

    Tuy nhiên tích truyện có kể về các Yama ( Diêm Vương ) . Các vị này sẽ nhắc các ngạ quỷ khi vừa tái sinh về các thiện pháp khi còn làm người để ngạ quỷ nhớ lại mà tái sinh nơi nhàn cảnh .

    Vậy nên khi hồi hướng bạn hãy nhắc lại các thiện pháp của người ấy khi còn là người . Làm việc thiện thay mặt cho vị ấy , và hướng phước báu này đến người ấy .

    Tuy nhiên là biện pháp khó làm . Vậy nên điều cần là hãy giúp bạn bè , người thân quanh bạn làm nhiều thiện pháp , luôn nghĩ đến thiện pháp , tránh xa tội lỗi . Như vậy hiệu quả gấp trăm lần việc hồi hướng một chúng sinh kiếp kế.
    Không biết rõ ( sắc,sắc tập khởi, sắc đoạn diệt, con đường đưa đến sắc đoạn diệt, thọ... tưởng... các hành...con đường đưa đến thức đoạn diệt). Đây gọi là vô minh .

  3. #3

    Mặc định

    trích giáo trình Phật Học :
    ....1- Chuyển nhượng, hồi hướng Công Đức Cho những
    người Thân Quyến Đã Khuất.

    Kinh “Bên Ngoài Những Bức Tường” (Tirokutta Sutta) trong Tập
    Kinh Tiểu Tụng (Khuddakapatha) thuộc Tiểu Bộ Kinh là bài thuyết giảng đầu tiên của Đức Phật về đề tài chuyển nhượng công đức cho
    những người đã khuất. Kinh này tạo thành tiền lệ cho việc tôn kính
    và mang lại lợi ích cho những người thân quyến đã chết và bị tái sinh
    thành ngạ quỷ hay quỷ đói (Petas), mà chúng ta hay gọi là ‘hồn ma’
    hay ‘cô hồn’ chưa được đầu thai ở cõi khác. Ngạ quỷ là những chúng
    sinh đang sống trong thế giới loài người, nhưng là những ngạ quỷ
    khuất mặt mà mắt thường của người phàm phu không thấy được.
    Theo luận giảng về Kinh này, vào thời Đức Phật những ngạ quỷ vốn là
    họ hàng, thân quyến của Vua Bimbisara trong kiếp trước đã đứng đợi
    trước cung điện mong chờ nhà vua chia sẻ công đức cho họ - công đức
    của nhà vua là những công đức cúng dường cho Đức Phật. Nhưng nhà
    Vua đang bận rộn đầu óc, lo tìm chỗ ở cho Đức Phật và không chuyển
    nhượng, hồi hướng công đức cho họ. Đêm đó, họ bu quanh cung điện
    và tạo những âm thanh kêu gào, chết chóc. Sáng hôm sau, nhà Vua đến
    giải bày với Phật và được Phật khuyên dạy về vấn đề này, nhà Vua đã
    sửa soạn một bữa cúng dường thịnh soạn cho ích lợi của họ.
    2. mục Đích Cúng Dường Thức Ăn Trong Việc Bố Thí
    Công Đức (Pattidana) Là Cúng Cho Ai?

    Nhiều sự nghi ngờ về thức ăn được sửa soạn cúng dường là cúng cho
    Đức Phật và Tăng Đoàn hay cúng cho những ngạ quỷ khuất mặt của
    Vua Bimbisara?, theo như ghi chép trong Kinh Tirokutta Sutta.
    Nhiều người cũng đọc tụng các kinh khác, như Kinh “Lời Khuyên
    Dạy Sigàla” (Sigalovada Sutta) thuộc Trường Bộ Kinh (Digha 31)
    và “Kinh Janussoni” (Janussoni Sutta) thuộc Tăng Chi Bộ Kinh
    (Anguttara 10:177) đều ủng hộ họ theo quan điểm là: “Cúng dường”
    ở đây có nghĩa là “Cúng thức ăn cho những người thân quyến đã
    khất”. Thật ra quan điểm này là sai.
    Phong tục này của Hindu giáo đã tồn tại thậm chí trước thời Đức
    Phật. Phong tục cúng cho người chết đó được gọi là “shraddha” và
    đã được ghi rõ trong Kinh “Janussoni Sutta” thuộc Tăng Chi Bộ Kinh
    (Anguttara 10:177) nói trên, lúc đó một Bà-la-môn tên là Janussoni
    đã hỏi Đức Phật như vầy:
    “Thưa Ngài Cồ-Đàm! Những Bà-la-môn chúng tôi cúng thức ăn và làm
    lễ cúng Tang (shraddha) như: “Xin dâng cúng những món này đến với
    những người thân quyến của chúng tôi. Cầu cho họ được hưởng.”
    Vì lễ “shraddha” thông thường được tổ chức cùng những đám tang
    của người theo đạo Hindu, nhưng nó thường bị hiểu lầm là phong
    tục của người Ấn Độ tổ chức để tôn kính người chết bằng cách cúng
    dâng đồ ăn… cho người chết. Những người Hindu tin rằng, khi một
    người chết, người đó sẽ thành Preta, tức là ‘âm hồn’ hay ‘hồn ma’,
    không có cơ thể và như vậy là một cảnh giới đau khổ. Để giúp cho
    ‘hồn ma’ đó có được một cơ thể đầy đủ, thì những người thân quyến
    phải cúng cơm vò thành viên tròn, cúng bánh bột gạo, v.v, cùng với cỏ
    thiêng (cỏ kusha), hoa, và rải nước, và tụng đọc những câu thần chú
    và những câu tụng trong kinh Vệ-Đà; toàn bộ buổi lễ cúng tăng được
    tổ chức không phải trong đền thờ, mà ở những nơi linh thiêng như bờ
    sông. Ngày đầu, người Hindu cúng cơm pinda (cơm làm từ bột gạo
    và sữa vo trò) và rảy nước, tin rằng ‘hồn ma’ sẽ sau khi hưởng và có
    được khung cơ thể. Ngày tiếp theo, họ tiếp tục cúng bánh panda và
    nước rảy, có lẽ tin rằng ‘hồn ma’ hưởng xong sẽ có được chân, tay…,
    họ cúng như vậy liên tục 12 ngày, và ngày thứ 12 họ tin là ‘hồn ma’
    có thêm đầu để hoàn tất một cơ thể, và lúc này ‘hồn ma’ trở thành
    một Pitri, và được tin là không còn bị ô nhiễm và trở thành một thiên
    thần (deva) và họ thờ phượng như một thiên thần bằng cách cử hành
    những nghi lễ shraddha, bắt đầu từ ngày thứ 12 sau khi chết. Vậy là
    cả gia đình được “gội rửa” sạch sẽ. Tiệc cúng được dâng cúng cho
    các Bà-la-môn, những người hàng xóm, và những người ăn xin – thậm chí những con bò cũng được cho ăn bằng cỏ tươi.
    Tiếng Phạn chữ “shraddha”có nghĩa là việc hay sự tưởng nhớ tổ
    tiên đã qua đời. Một trong việc phải làm hàng ngày là người nhà
    phải bỏ ra vài phút mặc niệm, tưởng nhớ đến người đã chết và làm
    những việc từ thiện. Họ tin rằng những việc làm đức hạnh đó nhân
    danh người chết sẽ giúp cho những người chết mới trở thành an bình
    trên chuyến đi của mình và tích tạo thêm nhiều nghiệp quả tốt cho
    người còn sống. Việc dâng cúng những phẩm vật dâng cúng cho
    những thầy Bà-la-môn vì (hồi hướng) lợi ích cho những Pitri, vào
    thời gian và nơi chốn thích hợp, cùng với lòng tin thì được gọi là làm
    lễ “shraddha”. Việc thực hành lễ “shraddha” và rảy nước giúp cho
    những linh hồn người chết khỏi bị đói, khát trong suốt chuyến đi đến
    cõi của những Pitri (Pitri Loka); hay giúp cho những linh hồn của tổ
    tiên. Khi dâng cúng lễ “shraddha” người con trai cũng giúp cha mình
    cùng vui mừng, tùy hỉ với những Pitris đó.
    Đến bây giờ thì đã rõ, lễ “shraddha” cũng không phải là lễ cúng đồ
    ăn cho những ‘hồn ma’ Preta để tạo nên cơ thể, vì lễ “shraddha”
    chỉ diễn ra kể từ ngày thứ 12 sau khi chết, sau khi ‘đã trở thành’
    Pitri (như người Hindu tin) và việc dâng cúng là cúng dường cho
    các Bà-la-môn để hồi hướng công đức cho ích lợi của những Pitri.
    Tuy nhiên, Đức Phật không chấp nhận những lễ cúng và niềm tin
    như vậy.
    Học giả người Ấn Độ Bimala Churn Law, trong quyển sách
    của ông mang tên “Quan Niệm về Linh Hồn trong Phật Giáo”
    (The Buddhist Conception of Spirits) đã nói rằng việc hồi hướng
    chuyển nhượng công đức trong đạo Phật cũng giống những nghi lễ
    shraddha của Hindu trong một số cách. Theo người Hindu, những
    quà cúng được dâng cúng cho một thầy Ba-la-môn (Brahmin) hay một người thay thế cho đẳng cấp Bà-la-môn (Brahmana); và mức
    độ công đức là tùy thuộc vào số lượng người được bố thí thức
    ăn và quần áo bởi người sống thực hiện nhân danh và hồi hướng
    công đức cho người chết. Kết quả là những công đức đó sẽ được
    chuyển qua người chết.
    Trong những lễ shraddha của người Hindu, một số phẩm vật và đồ
    ăn cũng được cúng dâng trực tiếp cho người chết, nhưng sau đó
    những ‘đồ cúng’ đó phải được mang đi tặng, cho một người xứng
    đáng (được kính nể) để có được kết quả mong muốn của buổi cúng.
    Thực hiện lễ dâng cúng shraddha là nhiệm vụ theo truyền thống
    Vệ-đà, của một người con (trai) thể hiện lòng tôn kính, tưởng nhớ
    cha ông, tổ tiên.
    Trong Kinh “Lời Khuyên Dạy Sigàla” (Sigalovada Sutta), một
    trong những bổn phận của người con là cúng dường, bố thí thức ăn
    (tức trong Tang Lễ) để tưởng nhớ, tích đức cho người thân quyến đã
    khuất thì được Đức Phật tán đồng.
    Trở lại Kinh “Bên Ngoài Những Bức Tường” (Tirokutta Sutta),
    đúng là nghi lễ cúng dường cho những ngạ quỷ thân quyến của
    nhà Vua là một nghi lễ shraddha, nhưng có sự khác biệt. Nhà
    Vua mới vừa được Đức Phật “độ”, chuyển hóa thành một bậc
    đạt thánh quả Nhập Lưu (Tu-Đà-Hoàn). Cho nên, lẽ tự nhiên là
    nhà Vua đã thỉnh mời Đức Phật và Tăng Đoàn đến để thọ thực
    thức ăn dâng cúng dường để tạo công đức và hồi hướng công
    đức đó cho những người thân quyến đã khuất. Vì vậy, đồ ăn
    cúng dường ở đây là cúng dường cho người, là Phật và Tăng
    Đoàn, chứ không phải là cúng dường cho ngạ quỷ!, vì nhà
    Vua đã tham kiến Đức Phật vào buổi sáng trước khi thực hiện
    lễ cúng dường này để làm toại nguyện lòng của những ngạ quỷ
    quyến thuộc của nhà Vua.
    Luận Giảng chỉ ra rằng phải có ba (3) điều kiện đi kèm thì hiệu
    quả mới được thành tựu tốt đẹp cho việc bố thí cúng dường để hồi
    hướng công đức cho người thân tái sinh đang là Ngạ Quỷ (Peta).
    Đó là:
    a. Người cúng dường phải nói rõ việc cúng dường bố thí là để hồi
    hướng công đức cho người thân đã khuất đó, người đã khuất
    (tên, xưng hô):
    “Nguyện cho món cúng thí này được đến những người ấy. Mong
    nhũng người ấy (tên, xưng hô) được phúc lành”.
    Hay tụng bằng tiếng Pali như sau:
    “Idam me natinam hotu, sukhita hontu natayo”.
    b. Người nhận bố thí cúng dường phải là người đức hạnh.
    Trong luận giảng về Kinh “Cúng Dường Phân Biệt” (Dakkhina-
    vibhanga Sutta) thuộc Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya), có
    trường hợp một ngạ quỷ không hưởng được phước đức cúng
    dường của người thân hồi hướng cho mình, vì người thân
    còn sống bố thí, cúng dường 3 lần cho một người nhận là
    một người không có đức hạnh, nên không tạo ra công đức
    để mà hồi hướng đến cho người thân là ngạ quỷ. Nên ngạ
    quỷ đó kêu lên rằng: “Kẻ vô đức hạnh kia đã ăn cướp hết
    công đức”. – (Tức là công đức lẽ ra có được & hồi hướng
    được nếu người thân của mình cúng dường cho một người
    có đúc hạnh!.
    Vì ngạ quỷ thì có thể nhìn thấy được người thân của mình đang
    còn sống và biết họ đang làm gì, và ngược lại, người thân còn
    sống với “mắt thường” của con người thì không nhìn thấy được
    người thân đã khuất của mình là ngạ quỷ, mà chúng ta hay gọi
    là quỷ đói hay cô hồn -ND).
    Như vậy, nếu cúng dường, bố thí mà không chọn được người
    đức hạnh thì công đức không tạo được. Nên cũng không có gì
    để hồi hướng cho người thân của mình. Điều này rất quan trọng,
    chúng ta cần lưu ý.
    c. Những ngạ quỷ quyến thuộc được hồi hướng công đức đó phải
    thật sự cảm kích, vui mừng và hoan hỷ với việc bố thí cúng
    dường của người thân vì mục đích hồi hướng cho mình. Từ đó,
    ngạ quỷ có được những niềm vui, hoan hỉ thiện lành, giúp tạo
    thêm những nghiệp mới tốt lành.
    Khi thỉnh Đức Phật và Tăng Đoàn đến thọ thực thức ăn cúng dường,
    đặc biệt là để tạo công đức và chuyển nhượng công đức đó cho những
    người thân đã khuất của mình, Vua Bimbisara đã hoàn thành được
    hai 2 trong 3 điều kiện trên. Còn việc cảm kích, mừng vui, hoan hỉ
    khi nhận công đức đó, thì người nhận là những ngạ quỷ thân quyến
    của nhà Vua sẽ hoàn thành, là điều kiện thứ 3.
    Theo cách này (như Đức Phật đã khuyên dạy), thì nghi thức cúng
    dường này là một nghi thức Bố Thí Công Đức (Pattidana) chứ không
    phải là lễ cúng “shraddha”. Nên sau đó (theo luận giảng), những ngạ
    quỷ thân quyến đau khổ của nhà Vua đã hưởng được công đức và
    được giải thoát và được tái sinh lên cõi trời.
    Theo Luận Giảng : Ngay sau khi nhà vua dâng cúng dường Đức Phật
    và Tăng Đoàn nước uống, thức ăn, y vải và chỗ ngồi và chia sẻ, hồi
    hướng công đức cho những ngạ quỷ, thì theo thứ tự đó, thì ở cõi kia
    xuất hiện ra nước uống để giải cơn khát của ngạ quỷ, thức ăn trên cõi
    trời để họ ăn, quần áo trên cõi trời để họ mặc, nhà cửa trên cõi trời để
    họ ở, xe cộ trên cõi trời để họ dùng, tất cả điều kiện để họ biến khỏi
    dạng hồn ma, ngạ quỷ và được chuyển thành dạng chúng sinh cõi trời
    (chư thiên thần).Nói theo Quy Luật của nghiệp, đó là niềm vui mừng, hoan hỉ thiện
    lành, được tạo ra nhờ việc Bố Thí công Đức (Pattidana) tạo điều
    kiện, làm “Duyên” lành cho việc tái sinh tốt lành từ những ngạ quỷ
    đau khổ (Petas) trở thành chư thiên thần (Devas) xảy ra trong lập tức,
    khi đã đầy đủ phước báu.
    (Nên nhớ rằng, ví dụ lịch sử này được giảng luận như vậy, có lẽ là
    họ có được phước đức tích lũy trong nhiều kiếp tạo “duyên” cho
    lần này, và/vì đặc biệt lần này nhà Vua cúng dường cho Đức Phật
    và Tăng Đoàn thì phước báu là vô lượng, là thượng thừa nhất thế
    gian, nên công đức này khi hồi hướng cho những ngạ quỷ quyến
    thuộc đã có thể giải thoát đau khổ cho họ và họ được tái sinh về
    cõi trời phúc lành. – Điều này cho thấy được tầm quan trọng bậc
    nhất của việc cúng dường “trai Tăng”, kể từ sau khi Đức Phật
    Bát-Niết-Bàn – ND)......
    Last edited by tran thanh luan; 01-03-2013 at 03:14 AM.

  4. #4

    Mặc định

    (tiếp theo)
    3. ngạ Quỷ (Petas) Có hưởng Được Thức Ăn, Thức Uống
    Cúng Trực Tiếp Cho họ hay Không?

    Nhiều Phật tử diễn dịch cách nói sau đây: “Không có trao đổi, mua
    bán bằng vàng hay các loại tiền khác. Nhưng ngạ quỷ sống và tồn tại
    dựa vào thức ăn cúng cho ngạ quỷ hoặc những gì đến được họ từ việc
    cúng dường này (bởi người thân cúng vì lợi ích của họ” theo nghĩa
    là: “những ngạ quỷ sống bằng những những thức ăn do người thân
    họ cúng cho họ”. Thật ra, đây là phong tục của người Tàu sắm sửa
    những đồ ăn chọn lọc để dâng cúng trên bàn thờ của người thân đã
    khuất vào những dịp như đám giỗ, hay cúng lễ trong dịp lễ “Cheng
    Beng” (lễ Thanh Minh) hay trong tháng Bảy Âm Lịch là dịp Lễ Cúng
    Thí Cô Hồn (quỷ đói) với niềm tin rằng những người thân đã khuất
    có thể thọ hưởng thức ăn.
    Phong tục cúng thí thức ăn cho cô hồn, ngạ quỷ ‘ăn’ bắt nguồn từ
    đạo Lão bên Trung Quốc. Lễ Vu Lan-(13) (tiếng Phạn: Ullambana) của
    những người theo Phật Giáo Đại Thừa, cũng trùng với dịp Lễ Cúng
    Cô Hồn vào tháng Bảy Âm lịch, là hoàn toàn khác, mang ý nghĩa
    khác. Lễ Vu Lan mang ý nghĩa là một lễ bố thí, cúng dường để hồi
    hướng công đức (còn gọi là lễ Báo Hiếu).
    • Nhiều người cũng tin rằng những chúng sinh khuất mặt cũng ‘thọ
    hưởng’ hay ‘ăn uống’ được những thức ăn dâng cúng cho họ, bằng
    cách ‘hút’ phần ‘cốt’ (tieng HanS: chi) của thức ăn, cho nên theo họ,
    thức ăn sau khi cúng chỉ còn vị lạt lẽo!. Cách tin và giải thích này là
    hoàn toàn vô lý. Thông thường những đồ ăn dâng cúng để lâu bên
    ngoài nên bị ô-xy hóa và nguội lạnh, những mùi hương bao gồm cả
    những vitamin, dinh dưỡng bị bốc hơi đi, nên mất đi mùi vị thơm
    ngon vốn có trước đó, chứ không phải do những người khuất mặt hút
    hết phần tinh ngon.
    • (Ngày nay, đối với những người tại gia vẫn giữ truyền thống cao
    đẹp tưởng nhớ đến tổ tiên, cúng đám giỗ và thường vẫn dùng những
    đồ ăn đã dâng cúng, thì nên nấu lại hoặc nên dùng lò vi sóng để hấp
    chín lại thức ăn, để phòng trừ vi khuẩn, ruồi, côn trùng đậu vào trong
    thời gian trình bày đồ ăn dâng cúng, cho được an toàn vệ sinh; và sau
    khi hấp nóng lại, nhiều loại đồ ăn cúng sẽ mang lại vị thơm ngon của
    nó hơn là lúc để nguội lạnh – ND)
    Một sự thật được ghi lại trong Luật Tạng (Vinaya) về một Tỳ kheo
    sống ở khu nghĩa địa và sống nhờ vào thức ăn người thân mang
    đến cúng cho những ‘linh hồn’ nằm dưới mộ. Có thể những thức
    ăn người thân cúng thường là những thứ được chọn lọc, tươi, ngon,
    nhiều dinh dưỡng, nên vị Tỳ kheo này trông mập mạp, cường tráng,
    nên một số người chỉ trích vị này một cách sai trái, cho rằng vị này
    có thể sống nhờ vào ăn thịt người. Vì có sự việc này, nên đức Phật đã
    ra giới luật cho các Tỳ kheo không được ăn bất cứ thứ gì hay thức ăn
    nào không được người khác dâng cúng trực tiếp cho mình, nếu ai vi
    phạm là phạm giới theo Điều Luật (Pacittiya 40).
    Những câu chuyện này chắc sẽ làm xua tan niềm tin của những Phật
    tử vẫn còn cho rằng những người khất mặt ‘ăn’ hay ‘hút’ hết phần
    ‘tinh cốt’ của thức ăn dâng cúng. Vì sao?!
    • Đến nói về việc đốt quần áo…làm bằng giấy (hàng mã) để cúng cho
    những người đã khuất, thì chúng ta nên nhớ rằng, ngay cả chư thiên
    thần (Devas) cũng không mặc quần áo bằng vải cotton, lụa, terrylene,
    vải Dacron hay vải len, mặc dù các Kinh Điển có nói rằng họ rất đẹp
    đẽ, huy hoàng trong trang phục thần tiên của họ. Tuy nhiên, những
    y phục họ mặc trên thân mình về cơ bản là những sự biểu thị của
    nghiệp (tiếng Anh: “kammic manifestations”), những nhà cửa, cỗ xe
    trên cõi trời thì cũng là những biểu thị về tâm thức của nghiệp mà
    thôi. Những ngạ quỷ (Petas) hay những cô hồn vất vưởng là những
    chúng sinh thuộc về tầng lớp đau khổ, trong cảnh giới xấu (Apaya)
    thì có lẽ là không quần áo, không có gì che thân hoặc ăn mặc rách nát
    (có lẽ còn tệ hơn những người khốn nạn, ăn mày) theo như Nghiệp
    xấu ác của họ gây ra. Chỉ có những sự tái sinh phúc lành, như trường
    hợp những ngạ quỷ (petas) vừa được giải thoát và tái sinh thành chư
    thiên thần (devas) một cách nhanh chóng (nhãn tiền) nhờ phước hồi
    hướng, thì mới sinh ra những trang phục của chư thiên trên thân của
    họ, ngay khi người thân cúng dường y vải cho Tăng Đoàn với lòng
    thành và tâm nguyện hồi hướng công đức cho họ.
    ____________________________________
    13 Vu-Lan (ullambana) là từ viết tắt của Vu-lan-bồn, là phiên âm của từ tiếng Phạn
    “ullambana”. Bên Trung Quốc còn gọi là lễ Tết Trung Nguyên.
    Theo Phật giáo Đại Thừa, từ truyền thuyết về ngài Mục Kiền Liên đại hiếu, nghe
    theo lời khuyên của Phật, đã cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ, nên sau đó Đức
    Phật đã dạy rằng mọi người nên trả hiếu cho cha mẹ bằng cách như vậy (tức bằng
    cách cúng dường trai tăng để có được công đức lớn và hồi hướng cho cha mẹ của
    kiếp này và của các kiếp trước). Nên Vu Lan, thường được tổ chức chính vào ngày
    Rằm tháng Bảy hằng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ (và tổ tiên nói chung).
    Thêm nữa, ngày này còn mang ý nghĩa và được gọi là ngày “Xá tội vong nhân”.
    Vào ngày này, người ta tin mọi chúng sinh “tù nhân” ở Địa ngục đều được xá
    tội, được lên Dương gian. Theo tín ngưỡng dân gian, là ngày mở cửa ngục, các
    vong nhân được xá tội nên có lễ cúng Cô Hồn (vào buổi chiều) cho các vong linh
    không nhà cửa, không nơi nương tựa, không có thân nhân trên Dương gian thờ
    cúng. -ND

    (còn tiếp)
    Last edited by tran thanh luan; 01-03-2013 at 03:34 AM.

  5. #5

    Mặc định

    4. những Loại Chúng Sinh nào nhận Được Công Đức
    hồi hướng Cho mình?

    Theo ghi chép trong Kinh “Janussoni” (Janussoni Sutta) thuộc Tăng
    Chi Bộ Kinh (Anguttara v, 269), thì một Bà-la-môn tên là Janussoni
    đến hỏi Phật:
    “Thưa Ngài Cồ-Đàm! Những Bà-la-môn chúng tôi cúng thức ăn
    và làm lễ cúng tăng (shraddha) như: “Xin dâng cúng những món
    này đến với những người thân quyến của chúng tôi. Cầu cho họ
    được hưởng”. Này ngài Cồ-Đàm! Như vậy được không? Liệu những
    đồ cúng này có đến được những người thân đã chết của chúng tôi
    không? Liệu họ có hưởng dụng được đồ cúng không?”.
    Theo sự trả lời và giảng giải của Đức Phật, thì của dâng cúng này
    chỉ đến được người thân đã khuất nếu họ đang hiện hữu ở một “nơi
    thích hợp” và nếu ngược lại thì không được. Những nơi “không
    thích hợp” đó là:
    -Địa ngụ , chúng sinh ở đó sống, tồn tại nhờ vào những loại thực
    dưỡng mà địa ngục có được. (*Xem chú giải về thực dưỡng này).
    -Súc sinh , chúng sinh ở đó sống, tồn tại nhờ vào những loại thực
    dưỡng mà sinh vật đó khi thụ thai trong bào thai có được.
    -Loài người , con người sống, tồn tại nhờ vào những loại thực
    dưỡng mà thế giới loài người có được.
    -Cõi trời , chúng sinh ở đó sống, tồn tại nhờ vào những loại thực
    dưỡng mà các chư thiên thần có được.
    Thì “nơi thích hợp” chính là cõi Ngạ Quỷ. Vì chỉ có ở cõi này, ngoài
    việc ngạ quỷ sống và tồn tại nhờ vào những thực dưỡng mà cõi ngạ
    quỷ có được, thì ngạ quỷ còn có thể sống và tồn tại nhờ vào những
    thứ (công đức, phước đức) mà bạn bè, vợ hay chồng, người thân
    quyến hay người họ hàng cúng dường vì (hồi hướng) lợi ích cho
    chúng sinh ngạ quỷ đó (ngay trong kiếp hiện hữu này, tức phải đúng
    lúc người cúng dường đang còn sống làm người và đồng thời ngạ
    quỷ thì còn đang ở cõi ngạ quỷ).
    Từ kinh này mà người ta biện luận rằng chỉ cần cúng những thức ăn
    vật chất cho những người thân đã khuất, không cần thỉnh Tăng Đoàn
    đến thọ thực và hồi hướng công đức cho người đã khuất. Nếu việc
    chuyển nhượng, hồi hướng công đức có ý nghĩa ở đây, thì công đức
    cũng có thể được hồi hướng đến những người thân đã khuất hiện đã
    là một thiên thần trên cõi trời và thiên thần đó cũng được lợi ích sau
    khi cảm kích, vui mừng được sự tôn kính, tưởng nhớ này (?). Tuy
    nhiên, còn một điều kiện khác hay bị bỏ quên.
    Theo bộ Kinh “Milinda Vấn Đáp” (Milinda-Panha) khi nói về
    những loại ngạ quỷ khác nhau, chỉ có loại ngạ quỷ sống phụ thuộc
    vào những gì được bố thí (Paradatta-upajivi) và những ngạ quỷ
    nhớ được những người thân quyến đang sống ở trần gian và thấy
    được những việc thân quyến đang làm, thì có thể nhận được và chia
    sẻ được những công đức. Điều này có nghĩa rằng, ngạ quỷ muốn
    nhận được công đức hồi hướng thì ngạ quỷ đó phải hiện diện
    trong suốt quá trình nhận công đức và vui mừng, hoan hỉ (tùy hỉ)
    với công đức đó.
    Chúng ta có thể loại trừ sự hiện diện của những thiên thần:
    họ không hiện diện để hay biết sự bố thí công đức này. Theo Kinh
    “Ngoại Đạo Payasi” (Payasi Sutta) thuộc Trường Bộ Kinh (Digha,
    kinh 23), sau khi được sinh lên cõi trời, những thiên thần đắm
    mình trong lạc cảnh, sung sướng trong thế giới mới, và họ thường
    không bao giờ muốn quay lại những ‘ngôi nhà’ cũ ở trần gian và
    họ sẽ không thể nhận được những công đức hồi hướng đó. Ngay
    cả những vị thần trái đất, tức những địa thần (rukkha deva) luôn
    sống trên những cây trong rừng, họ cũng không để ý đến những bố
    thí công đức (Pattidana) hồi hướng cho mình, và cũng không nhận
    được công đức đó.
    Theo Quy Luật nghiệp (hay “Luật Nghiệp Báo” như nhiều người
    vẫn gọi), chúng ta nên biết rằng những ngạ quỷ khác nhau đang
    chịu những mức độ đau khổ khác nhau, tương xứng với những
    nghiệp khác nhau mà họ tạo ra. Có lẽ những ngạ quỷ sống nhờ
    vào sự bố thí của người khác (Paradatta-upajivi Petas) có được
    nghiệp tốt (kuasala kamma) cho phép họ được tái sinh gần nơi
    sinh sống của những người thân quyến thuộc đang sống trên trần
    gian. Trong điều kiện đó, họ có được cơ hội cho phép họ luôn vui
    mừng, hoan hỉ khi thấy được bạn bè người thân trong gia đình, họ
    hàng thực hiện việc bố thí cúng dường vì lợi ích (hồi hướng công
    đức) cho họ. Chính tâm nguyện hay ý hành hoan hỉ, vui mừng khi
    được bố thí, cúng dường vì lợi ích của ngạ quỷ thân quyến sẽ tạo
    được thiện nghiệp mạnh mẽ. Và cùng với những điều kiện thuận
    lợi hay “thuận duyên” có thể dẫn dắt ngạ quỷ thân quyến đó tái sinh
    về cõi trời thành thiên thần. Chỉ có một con đường duy nhất là họ
    phải tạo ra công đức, Nghiệp thiện thì mới có khả năng được giải
    thoát khỏi cảnh giới đau khổ.
    Vậy nếu một người thân quyến của mình không bị tái sinh về cõi ngạ
    quỷ, thì ai sẽ được nhận hưởng công đức hồi hướng đó?. Theo Đức
    Phật, vòng luân hồi sinh tử (samsara) thì rất dài, từ vô thủy, thì
    không thể nào trong thế giới ngạ quỷ mà không có một người thân
    quyến của mình (thí chủ) **.
    Bên cạnh đó, người bố thí (thí chủ) cũng được lợi ích nhiều bằng
    việc bố thí công đức (Pattidana) vì những tâm nguyện hay ý hành
    thiện của mình đầy đủ lúc bố thí, nên công đức càng được củng cố,
    gia tăng.
    ______________________
    *Chú giải về “thực dưỡng”: Con người có thể sống đến 7 ngày không
    uống nước, không thức ăn. Nhưng những thiên thần, ngạ quỷ và những
    chúng sinh ở tầng thấp hơn (cảnh hạ sanh, hạ thú (apaya) hay địa ngục),
    họ mang những phẩm chất tạo nghiệp rất mạnh trong ‘thân’ mình, nên có
    thể chịu nhịn, đói khát trong thời gian rất lâu, do nghiệp của mình. Lý do
    họ có thể tồn tại một thời gian lâu chỉ nhờ vào thực dưỡng (oja) bên trong
    mà họ nhờ vào đó. -TG
    ** Ý Phật nói, khi mình đang làm người, có thể mình đã trải qua hàng
    trăm, ngàn hay vạn vạn kiếp hay hơn nữa, thì mỗi kiếp mình lại có biết bao
    nhiêu người thân quyến thuộc để chia xa vì sinh tử và phải bị sinh vào cõi
    xấu như cõi ngạ quỷ, là những cõi khó có đường thoát ra nếu không gặp
    đại phước, đại duyên hay nghiệp tốt mạnh (vốn rất khó tạo được trong cảnh
    giới xấu) – ND.

  6. #6

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi trannam Xem Bài Gởi
    Em có người thân đã mất từ lâu, nếu em làm việc thiện(bố thí, cúng dường...) và hồi hướng công đức đến người đó thì người thân của em có được hưởng hay không? Bác nào nắm vững kinh điển nguyên thủy xin trả lời giùm em với.
    Đây bạn, đây là Kinh Janussoni trong Tăng Chi Bộ, chương 10, phẩm 17 của Phật Giáo Nguyên Thủy có nói về vấn đề này.

    KINH JÀNUSSONI


    Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn :

    - Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi Bà-la-môn, cho bố thí, làm các lễ cúng cho người chết. Mong rằng, bố thí này cho bà con huyết thống đã chết được lợi ích ! Mong rằng các bà con huyết thống đã chết, thọ hưởng bố thí này ! Thưa Tôn giả Gotama, bố thí có lợi ích gì cho các bà con huyết thống đã chết không ? Các bà con huyết thống đã chết có được thọ hưởng bố thí ấy hay không ?

    - Này Bà-la-môn, nếu có tương ứng xứ, thời có lợi ích, nếu không có tương ưng xứ.

    - Thưa Tôn giả Gotama, thế nào là tương ưng xứ, thế nào là không tương ưng xứ ?

    Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân, có tà kiến. Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào địa ngục ăn, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở nơi đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.

    Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh... có tà kiến. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh vào loại bàng sanh. Món ăn của chúng sanh ở bàng sanh ăn, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ ; trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.

    Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, không có tham ái, không có tâm sân hận, có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sanh cộng trú với loài Người như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là không tương ưng xứ, trú ở đây, vị ấy không được lợi ích của bố thí ấy.

    Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh... có chánh kiến. Người ấy, sau khi thân hoại mạng chung được sanh cộng trú với chư Thiên. Món ăn của chư Thiên như thế nào, tại đấy, vị ấy nuôi sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Món ăn nào, các bạn bè, hoặc thân hữu, hoặc bà con hoặc người cùng huyết thống từ đấy muốn hướng cúng cho vị ấy, tại đấy, vị ấy sống với món ăn ấy ; tại đấy, vị ấy tồn tại với món ăn ấy. Này Bà-la-môn, đây là tương ưng xứ ; trú nơi đây, vị ấy được lợi ích của bố thí ấy.

    Thưa Tôn giả Gotama, nếu bà con huyết thống ấy đã chết, không sanh vào chỗ ấy, thời ai hưởng bố thí ấy ?

    - Này Bà-la-môn, các bà con huyết thống khác đã chết, được sanh vào chỗ ấy, những người ấy được hưởng bố thí ấy.

    - Thưa Tôn giả Gotama, nếu bà con huyết thống đã chết, không sanh vào chỗ ấy, và các bà con huyết thống khác cũng không sanh vào chỗ ấy, thời ai hưởng bố thí ấy ?

    - Không có trường hợp ấy, không có cơ hội ấy, này Bà-la-môn, rằng chỗ ấy có thể trống không trong một thời gian dài, không có người bà con huyết thống đã chết. Nhưng này Bà-la-môn, người bố thí không phải có hưởng quả.

    - Có phải Tôn giả Gotama nói một giả thuyết không thế xảy ra ?

    - Này Bà-la-môn, Ta nói một giả thuyết không thể xảy ra. Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Người ấy bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các loài voi. Tại đây, vị ấy được đồ ăn, đồ uống, vòng hoa, các loại trang sức khác. Vì rằng, ở đây, này Bà-la-môn, có sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, do vậy người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với các loài voi. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc ; do vậy, tại đấy vị ấy được các món ăn, các đồ uống, vòng hoa, các đồ trang sức khác. Ở đây, này Bà-la-môn, có người sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Người ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn, các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy cộng trú với các loài ngựa... sanh cộng trú với các loài bò... Cộng trú với các loài gia cầm. Vị ấy tại đấy, được các món ăn, các đồ uống, vòng hoa, các đồ trang sức khác. Vì rằng, này Bà-la-môn, có sát sanh, có lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, có nói láo, có nói hai lưỡi, có nói lời độc ác, có nói lời phù phiếm, có tham ái, có sân tâm, có tà kiến. Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sanh vào cộng trú với các loài gia cầm. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn với các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, các giường nằm, trú xứ, đèn đuốc, nên tại đấy vị ấy được đồ ăn, đồ uống, vòng hoa, các loại trang sức khác. Ở đây, này Bà-la-môn, có hạng người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham ái, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến. Người ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các món ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với loài Người. Tại đấy, vị ấy được năm loại dục công đức sai khác, thuộc về loài Người. Vì rằng, này Bà-la-môn, vị ấy từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham ái, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến, sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh cộng trú với loài Người. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, các trú xứ, đèn đuốc ; do vậy, ở đấy vị ấy được năm dục công đức của loài Người. Ở đây, này Bà-la-môn, có người từ bỏ sát sanh... có chánh kiến, người ấy bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Người ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên. Vị ấy tại đấy được năm loại dục công đức của chư Thiên. Vì rằng ở đây có từ bỏ sát sanh... có chánh kiến, cho nên sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh cộng trú với chư Thiên. Vì rằng vị ấy có bố thí cho Sa-môn hay Bà-la-môn các đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, các vòng hoa, hương liệu, phấn sáp, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Do vậy, tại đấy vị ấy được năm dục công đức của chư Thiên. Tuy nhiên, này Bà-la-môn, người bố thí không phải không có kết quả.

    Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama ! Cho đến như thế này, thưa Tôn giả Gotama, là vừa đủ để bố thí, là vừa đủ để tổ chức các tín thí. Vì rằng, ở đấy, người bố thí không phải không có kết quả (như đã được nói).

    - Như vậy, này Bà-la-môn, người bố thí này không phải không có kết quả.

    - Thật kỳ diệu thay Tôn giả Gotama... Xin Tôn giả Gotama hãy nhận con làm đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 11-06-2012, 02:39 PM
  2. Trả lời: 223
    Bài mới gởi: 01-06-2012, 10:29 PM
  3. KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN
    By satyaa in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 61
    Bài mới gởi: 01-04-2012, 09:35 PM
  4. Ý Nghĩa Của Công Đức Và Phúc Đức
    By dinhlong64 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 11-04-2011, 10:45 AM
  5. Truyền thọ tam quy
    By phúc minh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 21-03-2011, 06:28 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •