TRONG PHÁP HỘI THÀNH TỰU Tôi nghe như vầy: Thuở nọ, Phật ở trong một ngôi nhà rộng lớn tại ngoài thành Tỳ Gia Ly Đạt Ma, khai hội thuyết pháp. Có mười phương đàn việt đều theo tới nghe pháp và cả hàng Bồ tát cùng bốn chúng vây quanh đông đủ. PHẦN THỨ HAI MỞ BÀY CÁC VIỆC CHÁNH KIẾN Khi ấy Bồ tát Vô Ngại cũng ở trong đại chúng từ chỗ ngồi đứng dậy đi tới trước Phật quì gối chấp tay mà bạch rằng: Ngưỡng bạch Đức Thế Tôn, chúng sanh ở trong cõi Nam Diêm Phù Đề này từ đời vô thủy tới nay cùng nhau sanh đổi qua lại nối tiếp hoài chẳng dứt, nhưng xét thấy trong nhân loại hạng người học thức thì ít, kẻ dốt nát thì nhiều; người tu hành niệm Phật thì ít, hạng mê tín chuyên cầu tà thần thì nhiều; người trì trai giữ giới thì ít, chúng lợi dưỡng phá giới thì nhiều; bực tinh tấn tu hành thì ít, hạng biếng nhác dải đải thì nhiều; người thông minh trí huệ thì ít, kẻ ngu si đần độn thì nhiều; người sống lâu thì ít, kẻ chết yểu thì nhiều; người tịnh tâm thiền định thì ít, kẻ vọng động tán loạn thì nhiều; người giàu sang thì ít, kẻ nghèo hèn thì nhiều; người nho nhã dịu dàng thì ít, kẻ cang cường hung dữ thì nhiều; người chân chánh ngay thẳng thì ít, bọn a dua nịnh bợ thì nhiều; người trong sạch thì ít, kẻ tham lam thì nhiều; người có tâm rộng rải bố thí thì ít, kẻ gian giảo bỏn xẻn thì nhiều; người tín cẩn thành thật thì ít, kẻ giả dối quỉ quyệt thì nhiều. Bởi vậy khiến nên tình đời thấp hèn bạc bẽo, luật pháp khắc nghiệt, sưu cao thuế nặng, trăm họ nghèo khổ, thời kỳ khuẩn bách, làm chẳng đủ sống. Nguyên do chỉ vì mê tín trái ngược, nên mới phải chịu những cảnh khổ dường ấy. Cúi xin đức Thế Tôn mở lòng từ bi thương xót những kẻ tà kiến, diễn giải các pháp chánh kiến cho chúng nghe, khiến được tỏ ngộ, bỏ tà theo chánh, hầu thoát khỏi các nạn khổ kia. Phật khen: Ông luận như vậy hay lắm! Này Bồ tát Vô Ngại, ông có tâm đại từ bi nên mới vì các người tà kiến kia mà cầu thỉnh Như Lai nói pháp chánh kiến, thật phước đức ấy không thể kể xiết. Ông nên chú ý nghe cho rõ và ghi nhớ lấy. Tôi nay vì ông mà phân rõ Kinh Thiên Địa Bát Dương này. Kinh này không phải chỉ riêng tôi nói đâu, mà các đức Phật đời quá khứ đã nói; đời vị lai, chư Phật cũng sẽ nói và đời hiện tại, chư Phật đương nói. Như trong khoảng trời đất, duy chỉ có con người là cao quí và khôn ngoan hơn muon vật.
Luận về chữ Nhân ấy là chân, vì tâm con người không hề tưởng quấy và tự mình chỉ làm những việc chân chánh. Bởi thế nên mới chiết tự chữ Nhân là người như sau: Nét phẩy bên trái là chân, còn nét mác bên phải là chánh, thường làm những việc chân chánh nên mới được gọi là người. Nên biết người hay mở rộng mối Đạo, còn Đạo khá làm cho con người thuần nhã. Phải giữ đúng theo qui tắc của người và Đạo thìsẽ làm nên đạo Thánh. Phật lại kêu Vô Ngại Bồ tát mà nói: Thân người khó được mà nay tất cả chúng sanh đã được thân người rồi, sao không chịu tu nhân tích đức mà lại bỏ việc chân chánh, làm điều giả dối, gây biết bao nhiêu nghiệp ác để đến khi thân mạng chết rồi thần hồn phải sa đọa trong biển khổ, đau đớn trăm bề. Bằng hết thảy người đời nghe Kinh này, sanh lòng tin kính làm theo, không hề trái nghịch thì sẽ thoát khỏi hết tai nạn và được ra khỏi biển khổ, vì có các vị thiện thần gia hộ, không có việc chi ngăn trở, mà lại được sống lâu, không bao giờ chết yểu. Nguyên do nơi tấm lòng tin chân chánh, nên mới được phước như vậy. Còn nếu ai biên chép Kinh này thọ trì đọc tụng, y theo chánh pháp mà tu hành thì công đức của người ấy vô lượng vô biên, không biết đâu mà tính kể cho xiết, đến ngày lâm chung người ấy sẽ chứng được quả Phật. Phật lại bảo: Này Bồ tát Vô Ngại, như có người nào kiến thức sai lầm thường hay tin bậy, tất nhiên phải bị nạn tà ma ngoại đạo, các loài quỉ ly mị vọng lượng cũng như các loài chim cú chim ụt kêu lên những tiếng quái ác, lại thêm ác quỉ ác thần cùng tranh nhau đến làm náo loạn cả trong nhà, khiến cho xào xáo bệnh hoạn, sưng phù nhức nhối, chịu đủ chứng bệnh đau đớn khổ sở, không ngày giờ nào được yên ổn. Bằng muốn hết tai nạn kia, cần phải thỉnh vị chân tu đạo đức giúp tụng Kinh này ba biến thì những hung thần ác quỉ ấy thảy đều tiêu diệt mà bệnh cũng khỏi ngay, thân thể lành mạnh, bình phục như xưa. Ấy là nhờ công đức tụng Kinh Bát Dương này mà được chuyển họa thành phước vậy. Bằng có người nào quá nhiều dâm dục, sân độc, ngu si, tham lam, ganh ghét, nhưng khi nghe thấy Kinh này liền phát tâm chánh tín cúng dường, nguyện tụng ba biến thì các tật xấu kể trên thảy đều biến mất, rồi nhân đó phát tâm từ bi hỷ xả, sau sẽ chứng được quả Phật. Lại nữa, Bồ tát Vô Ngại, bằng có thiện nam tín nữ nào muốn làm bất cứ công việc chi, trước cần tụng Kinh này ba biến, rồi sau mới làm, như: đắp nền xây tường, dựng nên nhà cửa, hoặc làm nhà phía nam, nhà phía bắc, xưởng bên đông, xưởng bên tây, nhà bếp, nhà khách, cửa ngõ, đào giếng, đóng cối xay, cối giã, làm kho tàng, chuồng trại nuôi các loài súc vật, v.v...
Hoặc cất nhằm các phương hướng xung phạm tới Nhựt Du, Nguyệt Sát, Tướng Quân cùng Thái Tuế, Huỳnh Phan, Báo Vĩ, Ngũ Thổ (1), Địa Kỳ, Thanh Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Huyền Vũ, hoặc phạm ngày giờ xung khắc như sáu ngày giáp (2), mười hai giờ địa chi (3) cùng là Thổ Úy, Phục Long. Tất cả hung thần ác quỉ cảm thấy oai lực của Kinh nên thảy đều ẩn trốn, lánh xa đi bốn phương, tiêu tan hình bóng, chẳng dám nhiễu hại nữa. Công việc làm được tốt lành, hưởng phước vô lượng.
Nếu có thiện nam tín nữ nào y theo lời Phật dạy mà thi hành thì sau khi xây cất nhà cửa xong rồi, tất nhiên gia đạo được bình an lâu dài, lại thêm giàu sang vinh hiển, chẳng cần nhọc sức mưu cầu mà tự nhiên cũng có của cải đem tới. Như có người nào đi buôn bán phương xa, hoặc làm quan phó nhậm, cùng tùng quân nhập ngũ mà tụng Kinh Bát Dương này ba biến thì đều được an lành, nhà cửa hưng thạnh, bực người cao sang, con cháu vinh hiển, cha hiền con thảo, trai trung gái trinh, anh nhường em kính, vợ chồng hòa thuận, hết lòng hiếu kính phụng dưỡng song thân, các điều ước nguyện đều được thỏa mãn. Bằng có người nào bị quan quyền giam giữ, hoặc bị giặc cướp bắt đi, nên để hết tâm thành tụng Kinh này ba biến thì tức khắc tai qua nạn khỏi. Còn như có người thiện nam tín nữ nào thường thọ trì đọc tụng cùng giúp người biên chép Kinh Bát Dương này thì người ấy dầu rủi sa trong nước lửa cũng khỏi bị chìm đắm thiêu đốt, hoặc ở trong núi rừng có nhiều hùm sói thú dữ, chúng nó thấy bóng người tụng Kinh Bát Dương thì đều lánh xa không bao giờ dám hại đến tánh mạng, vì người ấy có các vị thiện thần theo hộ vệ, chẳng những thế mà sau còn chứng được quả Phật nữa. Hoặc có người nào miệng lưỡi xảo quyệt hay nói gian dối, thêu dệt, đâm thọc, thô tục, mà người ấy tự biết lỗi chừa bỏ, chuyên đọc tụng Kinh này thì tiêu hết bốn lỗi trước, lại được tài biện thuyết không hề ngăn ngại, rồi sau cũng chứng được quả Phật. Này các thiện nam tín nữ, phàm cha mẹ có tội, đến ngày lâm chung, chắc phải đọa vào địa ngục chịu trăm phần khổ não, nếu được con cháu thành tâm tụng Kinh này bảy biến thì cha mẹ thoát khỏi khổ ở địa ngục, thần hồn được sanh lên thiên đường, gặp phật nghe pháp, chứng được pháp nhẫn vô sanh trọn nên Phật đạo. Phật lại kêu Bồ tát Vô Ngại mà nói: Kiếp quá khứ, dưới thời đức Phật Tỳ Bà Thi giáo hóa, có hàng nam nữ cư sĩ không hề tin bọn tà sư ngoại đạo mà chỉ tin theo Phật pháp, ra công biên chép Kinh Bát Dương và thường thọ trì đọc tụng Kinh này, muốn làm việc chi thì cứ làm, không cần bói toán, coi ngày lựa giờ chi cả, cứ giữ một lòng tin chân chánh, lại thường làm việc bố thí, cúng dường bình đẳng, nên mới được thân vô lậu, làm nên đạo Bồ tát, rồi sau chứng được quả Phật, hiệu là Phổ Quang Như Lai, thành bực Chánh Giác, kiếp tên Đại Mãn, nước gọi Vô Biên. Nhân dân trong nước ấy đều có tâm chánh tín, tu hành theo hạnh Bồ tát nên mới được hưởng phước báo tốt đẹp như vậy. Ấy cũng do oai lực trì tụng Kinh Bát Dương này. Lại nữa Bồ tát Vô Ngại, trong cõi Diêm Phù Đề, chỗ nào có để Kinh Bát Dương này thì đều có tám vị Bồ tát, các vị phạm thiên vương cùng hết thảy thần linh đồng vây xung quanh ủng hộ Kinh ấy. Cho nên người trì tụng Kinh này cần phải sắm sửa hương hoa cúng dường như cúng Phật vậy. Phật lại kêu Bồ tát Vô Ngại mà nói: Bằng có thiện nam tín nữ nào giúp các người đời, diễn nói Kinh này, giải rõ cho họ hiểu thấu được thực tướng, thông suốt lý cao sâu huyền diệu, thì liền biết được chân lý của tâm mình, tâm Phật và tâm Pháp. Hiểu biết được lý ấy rồi, tức nhiên trí huệ đầy đủ, sáu căn thanh tịnh. Mắt thường thấy biết bao nhiêu là than sắc, song nhờ trí huệ liền nhận biết các than sắc ấy đều thuộc về lý không thật (giả tạm), mà cái không thật kia tạo nên thân sắc này, cho đến thọ tưởng hành thức cũng đều thuộc về lý không thật. Đó tức là Diệu Sắc Thân Như Lai. Tai thường nghe biết bao nhiêu là thứ tiếng, song nhờ trí huệ liền nhận biết các thứ tiếng ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên tiếng nói này. Đó tức là Diệu Âm Thinh Như Lai. Mũi thường ngửi biết bao nhiêu là mùi hương, song nhờ trí huệ liền nhận biết các mùi hương ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên mùi hương này. Đó tức là Hương Tích Như Lai. Lưỡi thường nếm biết bao nhiêu là mùi vị, song nhờ trí huệ liền nhận biết các mùi vị ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên mùi vị này. Đó tức là Pháp Hỷ Như Lai. Thân thường cảm thấy biết bao nhiêu là sự đụng chạm êm dịu, song nhờ trí huệ liền nhận biết các sự đụng chạm êm dịu đó đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên sự đụng chạm này. Đó tức là Trí Thắng Như Lai. Ý con người thường suy nghĩ phân biệt biết bao nhiêu là việc, song nhờ trí huệ liền nhận biết các việc ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên các việc này. Đó tức là Pháp Minh Như Lai. Bằng có thiện nam tín nữ nào thấy sáu căn đều hiển hiện trong nhân gian. Nếu miệng mình nói những điều lành thì nghiệp lành càng thêm nhiều, rồi sẽ làm nên Phật đạo. Còn miệng nói những điều độc ác thì nghiệp ác càng thêm nhiều, ắt phải đọa vào địa ngục. Phật bảo Bồ tát Vô Ngại: Về chân lý của việc lành việc ác rất rõ ràng, chẳng nên không tin. Ông nên hiểu thân tâm con người, thật là pháp khí của Phật. Cũng như 12 bộ Đại Tạng Kinh đã có từ đời vô thủy đến nay mà tụng hoài vẫn không hết và không hề hao tổn chút nào. Kinh tạng của Như Lai duy có những bực thức tâm kiến tánh mới tỏ biết mà thôi, còn các bực thinh văn, phàm phu làm sao hiểu thấu được. Phật lại bảo Bồ tát Vô Ngại nữa rằng: Bằng có người nào đọc tụng kinh này mà tỏ ngộ được thực tướng, tức biết thân tâm này chính thật là pháp khí của phật. Còn như người nào say mê đàng dục lạc, không tỉnh giấc mộng hồn, chẳng biết thân tâm mình là căn bổn của Phật pháp, chắc người đó phải trôi nổi trong sáu nẻo luân hồi, đọa đày trong ba đường dữ, đắm chìm liên mien trong biển khổ, không được nghe đến danh từ Phật pháp. Lúc đó, có năm trăm vị thiên tử ở trong đại chúng nghe Phật ................................
Bookmarks