Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 25

Ðề tài: APOCRYPHAL

  1. #1

    Mặc định APOCRYPHAL

    Kinh điển ngụy tạo

    Giới chuyên môn Tây Phương dùng chữ APOCRYPHAL – KINH ĐIỂN NGỤY TẠO để gọi văn học Phật giáo bắc truyền ở nhiều khu vực châu Á giả mạo những văn bản Phật giáo có gốc từ Ấn độ. Mớ bong bong của ngụy thư có nhiều nét chung, nhưng chúng không bao giờ thống nhất cùng một kiểu mẫu (style) văn học hay cùng một nội dung.

    Một vài kinh ngụy tạo, đặc biệt của Phật giáo phát triển ở đông á, mạo nhận nó chính là giáo pháp của Đức Phật – Buddhavacana (Word of the Buddha) tức tự mạo nhận KINH (Sutra).
    Kinh ngụy tạo đôi khi cũng tự mạo nhận là lời luận giảng về kinh từ một vị thầy có tiếng tăm (hoặc có khi cũng vô danh) của Phật giáo Ấn Độ, tức tự mạo nhận là LUẬN (Sastra).

    Một số kinh ngụy tạo tuyên bố xuất phát từ tuệ giác của các đấng giác ngộ ở Ấn Độ hoặc là người được truyền thừa tuệ giác từ một dòng phái chính thức, ví dụ như trường hợp “các bộ Thánh Thư Quí Báu” (Gterma) của Tây Tạng tự cho là đã được dấu kín và rồi được khám phá lại bởi những người đủ cơ duyên.
    Một số kinh ngụy tạo được soạn thảo theo văn phong kinh điển kiểu kể chuyện, ví dụ như trường hợp bộ “Tiền thân Đức Phật” (Jataka) của khu vực Đông Nam Á.

    Điều này cho ta cái nhìn về mục đích của kinh ngụy tạo: Tích hợp tư liệu Ấn Độ vào những nội dung bản địa – có thể là tôn giáo, văn hóa xã hội, hoặc chính trị – bằng cách ấy nó được mặc nhiên công nhận, thông qua và làm cho tôn giáo địa phương trở thành dễ hiểu đối với con người đương thời của vùng đất mới, nơi Đạo Phật được đưa vào.

    Trong bộ sưu tập các kinh giả, phải nói “kinh dị” nhất là các kinh giả của Đạo Phật Đại thừa. Các kinh này mạo nhận cấp bậc cao nhất của truyền thống Ấn Độ bằng cách tự nhận là lời nói của chính Đức Phật. Hiển nhiên khi kinh ngụy tạo mạo nhận là thánh điển, nó không thể không bị phát hiện bởi các nhóm trưởng lão hay tư do trong cộng đồng Phật tử. Trong thời kỳ trung cổ các kinh giả trở thành đối tượng bị khinh bỉ nhưng ngược lại chúng cũng đã trở thành công cụ và lực lượng vật chất làm biến đổi ý nghĩa của Phật giáo.

  2. #2

    Mặc định

    Kinh ngụy tạo của đạo Phật Trung quốc

    Kinh ngụy tạo của đạo Phật Trung Quốc được viết hầu như đồng thời với lúc khởi đầu các hoạt động dịch thuật kinh Phật vào giữa thế kỉ thứ 2 sau công nguyên. Theo ghi chép của Đại Tạng kinh Phật giáo, con số kinh ngụy tạo gia tăng liên tục qua các thế hệ cho đến ít nhất vào thế kỉ thứ tám. Các nhà làm danh mục phê bình kịch liệt các ngụy kinh, theo chuẩn mốc của họ, là “không có nguồn gốc rõ ràng” hoặc “đầy nghi vấn” hoặc lên án các ngụy kinh đã làm sói mòn sự toàn vẹn việc truyền bá kinh điển Phật giáo tại Trung quốc.

    Bất kể sự phối hợp của tập thể các nhà soạn danh mục, đồng thời với hội đồng của triều đình cố gắng loại bỏ các ngụy kinh bản xứ, mãi tận đến lúc cho in kinh lần thứ nhất (tại Trung Quốc) tức ấn bản (971-983) thì việc tạo ngụy kinh mới giảm xuống rồi ngưng lại. Sự xuất bản các ngụy thư ở Trung quốc như vậy đã làm nên “hiện tượng” của thời kì gọi là “kinh điển viết dưới dạng bản thảo”. Khi những bản thảo viết tay có nguồn gốc địa phương lại có thể được chấp nhận là kinh và được xếp vào bộ thánh điển, thì giữa ngụy thư và kinh điển đã trở thành một phạm trù mơ hồ (không phân biệt được).

    Khám phá của chuyên gia thời hiện đại về các kinh điển ngụy tạo cho thấy tính phức tạp và khó khăn khi xác quyết một văn bản về mức độ giả tạo kiến thức, cũng như khả năng làm nhái các văn bản Phật giáo của tác giả các ngụy kinh. Thật không dễ dàng cho các chuyên gia thư mục xác định được tính chính thống của kinh điển. Phải có kiến thức rất rộng về Phật học mới có thể truy tìm những văn bản ngụy tạo đặc biệt khi chúng được tạo ra bởi những loại người thông hiểu lý thuyết và thực hành trong Phật giáo, nhất là người đó lại có thêm kỉ năng văn chương.

    Sự bùng nổ của hiện tượng ngụy kinh tại Trung Quốc cũng đã thúc đẩy cho sự lan rộng kinh điển ngụy tạo tại các vùng khác thuộc Đông Á, mặc dù không nơi đâu lại nhiều bằng tại Trung Quốc.

  3. #3

    Mặc định

    Văn bản và nội dung

    Tập hợp văn học ngụy tạo hiện còn tồn tại thách thức sự diễn đạt đơn giản, vì mỗi văn bản có riêng một học thuyết hay một khuynh hướng thực hành, có riêng động lực và mô thức văn học hay kĩ thuật.

    Chúng ta bắt đầu bằng 2 ví dụ kinh ngụy tạo từ học thuyết Đại Thừa Trung Quốc ủng hộ một lý thuyết hay một cách thực hành không có phiên bản tương ứng trong Phật giáo Nguyên thủy Ấn Độ.

    Thứ nhất cuốn Khởi Tín Luận (Dasheng Qixin lun) tái tạo Phật giáo chính thống bằng cách tổng hợp ba khuynh hướng chính của học thuyết Ấn Độ: Tánh không (Sunyata), A Lại Da Thức (Alayavijnana) và Thai Tạng giới (Tatha Gatagarbha). Kinh này nhằm đặt ra một bản thể luận cho tâm trí con người, theo đó Tâm trí có thể đồng thời vừa vô minh vừa có giác tánh nội tại.

    Sau khi xuất hiện ở thế kỉ thứ sáu, bộ Luận Khởi Tín là một ví dụ nổi bật cho sự tác động của kinh ngụy tạo vào sự phát triển của hệ tư tưởng Phật giáo Trung Quốc, vì nó đã trở thành chất xúc tác cho sự hình thành các học thuyết của các giáo phái bản xứ như Thiên Thai, Hoa Nghiêm, Tịnh độ tông (Trung Quốc).

    Văn bản ngụy thư cũng là ví dụ chủ yếu cho phương cách mà một tác giả bản xứ chọn lọc phù hợp và tổng hợp một cách thông minh những văn bản Ấn Độ sao cho thích nghi hoàn hảo với bản chất tôn giáo Trung Quốc.

    Trường hơp thứ hai, cuốn Kinh Kim Cang Định (Jin’gang sanmei jing, Vajrasamadhi sutra) được tạo ra bằng sự pha trộn hỗn tạp tất cả các học thuyết Đại Thừa, nhằm cung cấp một nền tảng cho một hệ thống thực hành thiền và khẳng định hiệu quả giải thoát của hệ thống đó.

    Đây là một trong những những bản kinh lâu đời nhất của Thiền Tông Trung Quốc và Đại Hàn, có tính tiêu biểu lịch sử. Không giống trường hợp của các kinh ngụy tạo khác đã bàn đến trong bài viết này, một nghiên cứu cho rằng kinh này thực sự là tác phẩm của Đại Hàn từ thế kỉ thứ 7 (theo Buswell 1989). Bản ngụy kinh này, cùng với ngụy kinh tại Nhật bản, chính là thước đo cho mối liên hệ hữu cơ có được giữa Phật Giáo Trung Quốc với phần còn lại của Đông Á, và cũng cho thấy có sự kích động lan tràn của việc tạo tác kinh bản xứ ở khắp khu vực.

  4. #4

    Mặc định

    Một số kinh ngụy tạo thêm vào các nguồn dẫn và sự suy diễn với mục đích tăng cường một giá trị hay quan điểm nào đó của Đạo Phật với môi trường bản xứ. Chẳng hạn Giới luật, đã được kinh ngụy tạo thể hiện nổi bật như một chủ đề. Ví dụ Kinh Phạm Võng (Fanwang Jing, Brahma’s bet sutra)). Kinh này thay đổi một phần giới luật của Bồ Tát đạo bằng cách thêm vào khái niệm Hiếu của Đạo Khổng, một xảo thuật lộ liễu phản lại cả truyền thống Trung Quốc cũng như nổ lực tương thích hai hệ thống có giá trị quá khác biệt.

    Khái niệm “Hiếu” thể hiện rất rõ trong kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân (Fumu enzhong jing – the Scripture on profound gratitude toward parent) đặt căn bản trên giáo huấn theo kiểu “24 ân phụ mẫu” của Khổng Tử. Ngụy thư tô đậm hành động cụ thể của người con bất hiếu và thúc đẩy anh ta phải báo đáp cha mẹ, phải hi sinh bằng cách cúng dường tam bảo (Phật, Pháp, Tăng). Loại kinh này là một trong những kinh ngụy tạo phổ biến nhất vào thời Trung cổ.

    Luật nghiệp và tái sanh là một chủ đề có khắp mọi nơi hay một hậu cảnh của kinh ngụy tạo. Văn bản được biết một cách phổ biến ví dụ như kinh Thập Điện Diêm Vương (the Shiwang Jing, the Scripture of the Ten Kings) minh họa giáo lý Đạo Phật Ấn Độ cho độc giả Trung Quốc bằng cách mô tả sự thanh tẩy sau khi chết. Sau khi chết, mỗi người phải lần lượt đi qua mười cửa địa ngục, mỗi địa ngục cai quản bằng một phán quan; số phận của của môt người sau khi chết tùy thuộc vào sự xét xử hành động của người đó lúc còn trên trần thế.

    Địa ngục kiểu phong kiến này là một sự đổi mới để phản chiếu cấu trúc chính trị-xã hội Trung Quốc. Ảnh hưởng rộng khắp của kinh này có thể được chuẩn hóa từ nhiều tranh ảnh, đá điêu khắc và tượng về Thập Điện Diêm Vương- với chuẩn mực trang phục, mũ mão truyền thống của các quan chức Trung Quốc- tất cả thấy ở nhiều nơi trong thời Trung cổ.

  5. #5

    Mặc định

    Cám ơn huynh đã chia sẽ một bài viết rất hay, huynh có thể thêm nguồn trích dẫn để các huynh đệ trên diễn đàn dễ dàng tìm hiểu thêm hơn không?

    Thanks huynh.
    Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
    Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên.
    Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
    Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

  6. #6

    Mặc định

    http://www.buddhismtoday.com/viet/ho...inhnguytao.htm
    http://bsphamdoan.wordpress.com/ph%E...A1o-apocrypha/
    http://quangduc.com/file_chinh/view_...=4395&bk_id=19

    http://www.lotuspro.net/KinhNguyTao_VA.htm
    LỜI GIỚI THIỆU

    Kính thưa quý Đạo hữu,
    Chúng tôi có nhân duyên được đọc bài khảo cứu “KINH ĐIỂN NGỤY TẠO” của Giáo sư Tiến Sĩ Kyoto Tokuno, bài này do anh Huỳnh Chiêu Đăng post trên mạng. Anh HCĐ là người có nhiều đóng góp những bài viết về kiến thức vi tính và những mê tín trong Đạo Phật trên nhiều diễn đàn. Chân thành tri ân anh HCĐ và chúng tôi xin trích ra đây, ý kiến của anh sau khi đọc bài khảo cứu này.

    Kính thưa quí bạn Phật tử cùng những bậc thiện tri thức,

    Hôm nay tôi nói chuyện “nhạy cảm” và là ý kiến cá nhân. Các bạn có đọc thì hãy tin ở chính mình.
    Nếu chúng ta đọc qua chuyện kiếm hiệp kỳ tình của Kim Dung thì chúng ta thấy nghề võ được dạy qua cái gọi là bí kíp. Đó là quyển kinh sách hay những câu dạy bằng miệng. Kẻ nào may mắn có trong tay bí kíp thượng thừa và theo đó mà tập luyện, thì có thể trở thành thiên hạ vô song.
    Thí dụ bí kíp võ thuật dấu trong thanh Đồ Long Đao được nhiều anh hùng võ lâm tranh giành cướp giựt. Cũng vì chuyện tranh giành mà người có bí kíp thật sửa đổi nó đi cho sai phần nào rồi làm bộ đánh rơi vào tay đối thủ.
    Người nhận được bí kíp giả cố công khổ luyện ngày đêm cuối cùng không chết thì cũng ngất ngư. Tiếc cái công luyện tập cả đời để rồi trở về với tay không mà có khi còn tầu hỏa nhập ma vì cái bí kíp giả ác ôn kia.
    Vậy thì chuyện nghề võ tưởng tượng có liên quan chi tới đạo Phật đâu? Thưa nó cũng y chang. “Nước lạ” đưa kinh giả qua cho Phật tử Việt Nam tu theo. Có người mỗi ngày lạy 200 cái, rồi tụng niệm van xin suốt ngày, liệu đó có phải đó là những gì của đạo Phật trên 2000 năm trước không.
    Xưa nay các bạn thấy vài ba lần tôi nhắc chuyện “Phật giáo” “nước lạ” mang qua xúi giục làm những chuyện trái giáo lý đạo Phật, nay tôi tình cờ gặp bài nầy nên gởi biếu các bạn bài nầy hoàn toàn đúng đắn và đáng tin của một giáo sư đại học Washington với đầy đủ tham khảo để quí bạn có quan tâm thì đọc như là một lời nhắc nhở.” HC Đ



    Giới chuyên môn Tây Phương dùng chữ APOCRYPHA - KINH ĐIỂN NGỤY TẠO để gọi văn học Phật giáo phát triển ở nhiều khu vực Á châu giả mạo những văn bản Phật giáo có gốc từ Ấn độ. Mớ bong bong của ngụy thư có nhiều nét chung, nhưng chúng không bao giờ thống nhất bằng cùng một kiểu mẫu (style) văn học hay cùng một nội dung.

    Kinh điển ngụy tạo (Apocrypha) có đặc điểm chung là một loại văn học, vốn thuộc về các tôn giáo bản xứ, nhưng lại tự cho mình có nguồn gốc hoặc mối liên hệ với Phật giáo Ấn Độ. Điều này đòi hỏi phải đặt ra nhiều mức độ khác nhau về tính hợp chuẩn và độ tin cậy khi tham khảo nội dung của kinh điển.Một vài kinh ngụy tạo, đặc biệt của Phật giáo Đông Á, mạo nhận nó chính là giáo pháp của Đức Phật - Buddhavacana (Word of the Buddha) tức tự mạo nhận nó là KINH (Sutra). Kinh ngụy tạo đôi khi cũng tự mạo nhận là lời luận giảng về kinh từ một vị thày có tiếng tăm (hoặc có khi cũng vô danh) của Phật giáo Ấn Độ, tức nó tự mạo nhận là LUẬN (Sastra). Một số kinh ngụy tạo tuyên bố xuất phát từ tuệ giác của các đấng giác ngộ ở Ấn Độ hoặc là người được truyền thừa tuệ giác đó từ một dòng phái chính thức, ví dụ như trường hợp “các bộ Thánh Thư Quí Báu” (Gterma) của Tây Tạng cho là đã được dấu kín và rồi được khám phá lại bởi những người đủ cơ duyên. Một số kinh ngụy tạo được soạn thảo theo văn phong kinh điển kiểu kể chuyện, ví dụ như trường hợp bộ “Tiền thân Đức Phật” (Jataka) của khu vực Đông Nam Á. Như vậy cái phân biệt kinh ngụy tạo với Phật học bản xứ là kinh ngụy tạo luôn tuyên bố hoặc cố ý ám chỉ rằng nó xuất nguồn từ Ấn Độ. Sự tạo ra các văn bản ngụy tạo có mối liên hệ với bản chất của các bộ kinh Phật thật trong từng mỗi truyền thống. Các bộ kinh Trung Quốc hay Tây Tạng có nội dung luôn “để mở” hay “bỏ ngõ” với mục đích cho phép sự tiếp tục thêm vào dễ dàng các bản kinh mới từ Ấn Độ qua nhiều thế kỉ. Không còn nghi ngờ gì nữa, một tình huống như vậy đã tạo cảm hứng cho ý muốn tân trang các bản kinh và khích lệ sự sáng tạo ra các bản kinh gọi là kinh ngụy tạo. Kinh Pali của vùng Nam và Nam Á, trái lại đã được “cố định” rất sớm trong lịch sử, điều này khiến khó có thể thêm vào đó những nội dung nào khác.
    ……
    Lang thang trong cỏi luân hồi
    Cùng nhau suy ngẫm chuyện đời, chuyện tu
    Pháp Phật là pháp tự tu
    Xa rời nhân thế, sao tu đây người?

  7. #7

    Mặc định

    Nếu kết hợp thêm các yếu tố như lịch sử,thời gian và địa lý thông qua các hoạt động khảo cổ thì có thể thấy sự việc rõ ràng hơn

  8. #8
    Đai Nâu Avatar của 3911
    Gia nhập
    Jul 2012
    Nơi cư ngụ
    Hải Ngạn Phương Nam
    Bài gởi
    419

    Mặc định

    Dear Chủ Topic,


    Cảm ơn bài viết của Chủ topic rất nhiều, hôm nay chủ topic nói ra (có những niềm riêng làm sao nói hết).


    Chúc Chủ topic dồi dào sức khoẻ, hạnh phúc và nhiều may mắn !

    3911
    Million Dollar !

  9. #9

    Mặc định

    Cười...Các vị học giả Tây Phương dựa vào cái gì để nghiên cứu Phật Giáo ? Cái mà các vị ấy cho là khoa học có thực sự là khoa học không ? Hay chỉ là những cái biết nằm trong giới hạn trong quy định của CĂN TRẦN THỨC của loài người ?

    Một truyện cổ tích được kể bằng phương ngữ của Nam Việt Nam sẽ có những nét khác nếu so với người Bắc Việt Nam kể...Nhưng cốt chuyện không vì thế mà thay đổi. Vậy chúng ta cần cốt chuyện hay cần sao y bản chính ?

    Một câu thần chú được ghi âm rõ ràng.
    Ví như câu chú Tiêu của Thất Sơn Thần Quyền.
    Tôi đề nghị các vị mời các nhà khoa học đang làm đề tài nghiên cứu Ngụy Kinh trên đọc đúng phiên âm chuẩn...xem thử có gì xảy ra không ? Chắc chắn là không. Họ có rán sức đọc cả nghìn lần cả triệu lần đi nữa cũng vô ích. Do đọc không có kết quả nên họ sẽ kết luận : " Một chuổi âm thanh vô nghĩa "
    ha ha ha...
    Nhưng cũng câu chú đó - với một người đã nhận lễ nhập môn - Họ chỉ cần vừa khởi ý đọc câu chú là lập tức các năng lực siêu phàm xuất hiện...
    Vậy ai đúng ai sai đây ? Thưa ! Không ai đúng - không ai sai cả. Hoặc : ai cũng đúng và ai cũng sai.
    Như ví dụ trên - Trong đạo học ngày nào chúng ta còn bị giới hạn bởi CĂN TRẦN THỨC thì tất cả các phát biểu nhận định của chúng ta hết thảy đều không chuẩn xác.
    Trở lại đề tài Ngụy kinh trên.
    Theo Tôi trước tiên chúng ta hãy xác định chúng ta cần gì nơi Phật giáo ? Chúng ta cần sự hóa giải tất cả những bế tắc trong đời sống và tư tưởng đã gây ra biết bao đau khổ - Hay : chúng ta cần sự chuẩn xác trong học thuật ?
    Tôi nghĩ : đa phần chúng ta cần sự hóa giải để an bình trong đời sống là chính. Còn việc chuẩn xác trong học thuật - quả thật việc đó cần xem xét lại ở nhiều góc cạnh khác.
    Khi các bạn xem kinh :
    Các bạn tin vào kinh văn do những lợi ích thu hoạch được từ tinh thần ý nghĩa của kinh văn đó ?
    Hay các bạn tin vào kinh văn vì bản kinh văn đó do một ông Giáo sư, một ông Tiến sĩ hay một ông Phật bằng xương bằng thịt nào đó đã thuyết ?

    Tất nhiên chúng ta tin vì những giá trị ý nghĩa của bản kinh văn đó phải không các bạn.
    Last edited by thanhmai08; 21-11-2012 at 04:07 PM.

  10. #10

    Mặc định

    Mời các bạn xem kinh Tiễn Dụ.
    ( http://buddhanet.net/budsas/uni/u-ki...ungaham221.htm )

    Tôi nghe như vầy:

    Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp cô độc.

    Bấy giờ Tôn giả Man Đồng tử [02], sống cô độc tại một nơi yên tĩnh, thiền tọa tư duy, trong tâm khởi lên ý niệm, ”Sự kiện như vầy. Những quan điểm này bị Đức Thế Tôn gác lại [03], loại bỏ, không giải thích tường tận; đó là :

    ‘Thế giới hữu thường hay vô thường, thế giới hữu biên hay vô biên[04]; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác; Như Lai tuyệt diệt, hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt [05] , hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt cũng không phải không tuyệt diệt?’

    Ta không hài lòng với điều này, ta không nhẫn khả với điều này. Nếu Đức Như Lai xác quyết [06] nói cho ta biết rằng:
    ‘Thế giới hữu thường’ ta sẽ theo Ngài học phạm hạnh, còn nếu Đức Thế Tôn không xác quyết nói cho ta biết rằng ‘Thế giới hữu thường’ ta sẽ cật vấn Ngài rồi bỏ Ngài mà đi. Cũng vậy, ‘Thế giới vô thường; thế giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác; Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt, hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt, cũng không phải không tuyệt diệt?’ Nếu Đức Thế Tôn xác quyết nói cho ta biết rằng, ‘Điều này chơn thật, ngoài ra là hư vọng’ ta sẽ theo Ngài tu học phạm hạnh; còn nếu Đức Thế Tôn không xác quyết nói cho ta biết rằng, ‘Điều này là chơn thật ngoài ra là hư vọng’ thì ta sẽ cật vấn Ngài rồi bỏ Ngài mà đi.”

    Rồi Tôn giả Man Đồng tử vào lúc xế trưa, từ tĩnh tọa dậy, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ, ngồi qua một bên mà bạch rằng:

    “Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay con sống cô độc tại một nơi yên tĩnh, thiền tọa tư duy, trong tâm khởi lên ý niệm, ‘Sự kiện như vầy. Những quan điểm này bị Đức Thế Tôn gác lại, loại bỏ, không giải thích tường tận; đó là :
    ‘Thế giới hữu thường hay vô thường, thế giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác; Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt, hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt, cũng không phải không tuyệt diệt?’ Ta không hài lòng với điều này, ta không nhẫn khả với điều này. Nếu Thế Tôn xác quyết rõ ràng, ‘Thế giới hữu thường’.

    Bạch Thế Tôn, mong Ngài hãy nói cho con biết. Còn nếu Thế Tôn không xác quyết rõ ràng ‘Thế giới hữu thường’ thì Ngài hãy nói thẳng là không biết. Cũng vậy, ‘Thế giới vô thường; thế giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác; Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt, hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt cũng không phải không tuyệt diệt?’ Nếu Thế Tôn xác quyết rõ ràng ‘Điều này chơn thật, ngoài ra là hư vọng’, Bạch Thế Tôn, mong Ngài hãy nói cho con biết. Còn nếu Thế Tôn không xác quyết rõ ràng ‘Điều này là chơn thật, ngoài ra là hư vọng’, thì Ngài hãy nói thẳng là không biết’.”

    Đức Thế Tôn hỏi:

    “Này Man Đồng tử, trước kia Ta có nói như vầy với ngươi rằng, ‘Hãy đến đây! Hãy theo Ta tu học Phạm hạnh rồi Ta sẽ nói cho nghe, ‘Thế giới hữu thường’chăng’?”

    Man Đồng tử đáp:

    “Bạch Thế Tôn, không.”

    “Cũng vậy, ‘Thế giới vô thường, thế giới hữu biên, hay vô biên sinh mạng tức thân hay sinh mạng khác thân khác; Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt, hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt cũng không phải không tuyệt diệt?’ chăng?”

    Man Đồng tử đáp:

    “Bạch Thế Tôn, không.”

    Đức Thế Tôn nói:

    “Này Man Đồng tử, trước kia ngươi có nói với Ta rằng, ‘Nếu Thế Tôn xác quyết nói cho con biết rằng ‘Thế giới hữu thường’ thì con sẽ theo Thế Tôn học phạm hạnh’ chăng?”

    Man Đồng tử đáp:

    “Bạch Thế Tôn, không.”

    Đức Thế Tôn nói:

    “Này Man Đồng tử, trước kia Ta không nói với ngươi và ngươi cũng không nói với Ta; ngươi quả là kẻ ngu si, vì sao lại hư vọng xuyên tạc Ta?”

    Lúc bấy giờ, Tôn giả Man Đồng tử bị Đức Thế Tôn khiển trách ngay mặt, trong lòng rầu rĩ, cúi đầu im lặng, không còn lời biện bạch, suy nghĩ mông lung.

    Đức Thế Tôn sau khi khiển trách ngay mặt Man Đồng tử, rồi nói với các Tỳ-kheo rằng:

    “Nếu có người ngu si nghĩ như vầy, ‘Nếu Đức Thế Tôn không xác quyết nói cho Ta biết rằng ‘Thế giới hữu thường’ thì Ta không theo Đức Thế Tôn tu hành phạm hạnh’. Những người ngu si ấy, chưa biết được gì thì nửa chừng mạng chung.

    “Cũng vậy, ‘Thế giới vô thường; thế giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác; Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt, hay Như Lai không phải tuyệt diệt cũng không phải không tuyệt diệt?’ Nếu có người ngu si nghĩ như ‘Nếu Đức Thế Tôn không xác quyết nói cho Ta biết rằng: ‘Điều này là chơn thật, ngoài ra là hư vọng’ thì ta sẽ không theo Đức Thế Tôn tu học phạm hạnh’. Những người ngu si ấy chưa biết được gì thì nửa chừng đã mạng chung.

    “Ví như một người bị trúng tên độc; do bị trúng tên độc nên đau đớn cùng cực. Người ấy được các thân thuộc đồng tình thương xót, mong muốn cho được lợi ích và phước lành, được an ổn khoái lạc nên tìm cầu y sĩ nhổ tên. Nhưng nó lại nói rằng, :
    ‘Khoan hãy nhổ tên! Trước tiên hãy cho tôi biết người bắn tôi đó, họ gì, tên gì, sanh ở đâu, cao hay thấp, mập hay gầy, da đen hay trắng, hay da không đen không trắng, thuộc dòng Sát-lợi, Phạm chí, Cư sĩ hay Công sư, là người ở phương Đông, phương Tây, phương Nam hay phương Bắc? Khoan hãy nhổ tên! Trước tiên hãy cho tôi biết cây cung ấy làm bằng gỗ chá [07] , bằng gỗ dâu, bằng gỗ quỳ, hay bằng sừng? Khoan hãy nhổ tên! Trước tiên hãy cho tôi biết, cần cung làm bằng gân bò, bằng gân hươu, nai hay bằng tơ? Khoan hãy nhổ tên! Trước tiên hãy cho tôi biết, cây cung đó màu đen, màu trắng, màu đỏ hay màu vằng? Khoan hãy nhổ tên! Trước tiên hãy cho tôi biết dây cung đó làm bằng gân, bằng tơ, bằng sợi gai hay bằng võ gai? Khoan hãy nhổ tên! Trước tiên hãy cho tôi biết cán tên này làm bằng gỗ hay bằng tre? Khoan hãy nhổ tên! Trước tiên hãy cho tôi biết tên được quấn bằng gân bò, gân hươu nai, hay bằng tơ? Khoan hãy nhổ tên! Trước tiên hãy cho tôi biết đuôi tên này kết bằng lông phiêu lằng [08] , lông kên kên, lông gà trống, hay lông hạc? Khoan hãy nhổ tên! Trước tiên hãy cho tôi biết mũi tên này thuộc loại mũi răng cưa, mũi nhọn, hay mũi bình phi đao? Khoan hãy nhổ tên! Trước tiên hãy cho tôi biết người thợ vót tên này họ gì, tên gì, sanh ở đâu, cao hay thấp, mập hay gầy, da đen hay trắng, hay da không đen không trắng, ở phương Đông, phương Nam, phương Tây hay phương Bắc?’
    Nhưng nó chưa biết được gì thì nửa chừng đã mạng chung.

    “Cũng vậy, nếu có người ngu si nghĩ như vầy, ‘Nếu Đức Thế Tôn không xác quyết nói cho ta biết rằng ‘Thế giới hữu thường’ thì ta sẽ không theo Đức Thế Tôn tu học phạm hạnh’. Nhưng người ngu si ấy chưa biết được gì thì nửa chừng đã mạng chung.

    “Cũng vậy, ‘Thế giới vô thường, thế giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác; Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt, Như Lai vừa tuyệt diệt hay Như Lai vừa không tuyệt diệt, hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt cũng không phải không tuyệt diệt?’ Nếu có người ngu si nghĩ như vầy ‘Nếu Đức Thế Tôn không xác quyết nói cho Ta biết rằng: ‘Điều này là chơn thật, ngoài ra là hư vọng thì ta sẽ không theo Đức Thế Tôn tu học phạm hạnh’.’ Nhưng người ấy chưa biết được gì thì nửa chừng đã mạng chung.

    “‘Thế giới hữu thường’, nhân nơi quan điểm này mà theo ta tu học phạm hạnh, sự kiện không phải là như vậy. Cũng vậy, ‘Thế giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác, Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt; hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt, nay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt cũng không phải không tuyệt diệt?’ Nhân nơi những quan điểm này mà theo Ta tu học phạm hạnh, sự kiện này không phải là như vậy.

    “‘Thế giới hữu thường’, vì có quan điểm này mà theo Ta tu học phạm hạnh, sự kiện này không phải là như vậy. Cũng vậy, ‘Thế giới vô thường, thế giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác, Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt, hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt cũng không phải không tuyệt diệt?’ Vì có quan điểm này mà không theo Ta tu học phạm hạnh, sự kiện này không phải là như vậy.

    “‘Thế giới hữu thường’, vì có quan điểm này mà theo Ta tu học phạm hạnh, sự kiện này không phải là như vậy. ‘Thế giới vô thường; thế giới hữu biên; thế giới vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác; Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt, hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt cũng không phải không tuyệt diệt?’ Vì có quan điểm này mà theo Ta tu học phạm hạnh, sự kiện này không phải là như vậy.

    “‘Thế giới hữu thường’, vì không có quan điểm này mà không theo Ta tu học phạm hạnh, sự kiện không phải là như vậy. Cũng vậy, ‘Thế giới vô thường, thế giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác; Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt, hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt cũng không phải không tuyệt diệt?’ Vì không có những quan điểm này mà không theo Ta tu học phạm hạnh, sự kiện không phải là như vậy.

    “Dù ‘Thế giới hữu thường’, thì vẫn có sanh, có già, có bệnh, có chết, sầu bi, khóc than, ưu khổ, ảo não, như vậy toàn vẹn khối lớn khổ đau này phát sanh. Cũng vậy, dù ‘Thế giới vô thường; thế giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác; Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt, hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt, cũng không phải không tuyệt diệt?’ thì vẫn có sanh, có già, có bệnh, có chết, sầu bi, khóc lóc, ưu khổ, ảo não; như vậy, toàn vẹn khối lớn khổ đau này phát sanh.

    “‘Thế giới hữu thường’, Ta không xác quyết điều này. Vì điều này không tương ưng với cứu cánh, không tương ưng với pháp, không phải căn bản phạm hạnh, không đưa đến trí, không đưa đến giác, không dẫn đến Niết-bàn. Cho nên Ta không xác quyết điều này. Cũng vậy, ‘Thế giới vô thường, thế giới hữu biên hay vô biên; sinh mạng tức là thân hay sinh mạng khác thân khác; Như Lai tuyệt diệt hay Như Lai không tuyệt diệt, hay Như Lai vừa tuyệt diệt vừa không tuyệt diệt hay Như Lai cũng không phải tuyệt diệt cũng không phải không tuyệt diệt?’ Ta không xác quyết điều này. Vì lý do gì mà Ta không xác quyết những điều này? Vì những điều này không tương ưng với cứu cánh, không tương ưng với pháp, không phải là căn bản phạm hạnh, không đưa đến trí, không đưa đến giác, không dẫn đến Niết-bàn. Cho nên Ta không xác quyết những điều này.

    “Những pháp nào được Ta xác quyết nói đến? ‘Đây là khổ’, Ta xác quyết nói ‘Đây là khổ’, ‘Khổ tập, Khổ diệt, Khổ diệt đạo tích’ Ta xác quyết nói. Vì những lý do gì mà Ta xác quyết nói những điều này? Vì những điều này tương ưng với cứu cánh, tương ưng với pháp, là căn bản phạm hạnh, đưa đến trí, đưa đến giác, dẫn đến Niết-bàn, cho nên Ta xác quyết nói những điều này.

    “Đó là, những gì thể nói thì Ta không nói, những gì có thể nói thì Ta nói [09], hãy thọ trì như vậy. Hãy học tập như vậy.”

    Phật thuyết như vậy. Các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

  11. #11

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi 3911 Xem Bài Gởi
    Dear Chủ Topic,


    Cảm ơn bài viết của Chủ topic rất nhiều, hôm nay chủ topic nói ra (có những niềm riêng làm sao nói hết).


    Chúc Chủ topic dồi dào sức khoẻ, hạnh phúc và nhiều may mắn !

    3911
    Xưng Tu Bồ Tát Đạo mà chánh tà không phân - lại phát biểu tùy hỷ với một đề tài xấu. Gây phá hoại niềm tin cho đại chúng. Vậy cái bộ Hoa Nghiêm kinh mà 3911 tán thán hãy chứng minh đó là Chân Kinh đi...Cuối cùng cũng lòi rõ mặt ác kiến.

  12. #12

    Mặc định

    Cám ơn Huynh thanhmai08. Hoan hỷ, hoan hỷ.
    ...Y Cựu Tiếu Đông Phong.

  13. #13

    Mặc định

    MỜI ĐỌC KINH THIÊN ĐỊA BÁT DƯƠNG Phật Thuyết Thiên Địa Bát Dương Thần Chú Kinh

    佛說天地八陽神呪經 (2897)

    Đường Tam Tạng Pháp Sư Nghĩa Tịnh phụng chiếu dịch
    HT Thích Hải Tràng dịch Âm

    Cư Sĩ Thanh Tâm dịch nghĩa



    TRONG PHÁP HỘI THÀNH TỰU Tôi nghe như vầy: Thuở nọ, Phật ở trong một ngôi nhà rộng lớn tại ngoài thành Tỳ Gia Ly Đạt Ma, khai hội thuyết pháp. Có mười phương đàn việt đều theo tới nghe pháp và cả hàng Bồ tát cùng bốn chúng vây quanh đông đủ. PHẦN THỨ HAI MỞ BÀY CÁC VIỆC CHÁNH KIẾN Khi ấy Bồ tát Vô Ngại cũng ở trong đại chúng từ chỗ ngồi đứng dậy đi tới trước Phật quì gối chấp tay mà bạch rằng: Ngưỡng bạch Đức Thế Tôn, chúng sanh ở trong cõi Nam Diêm Phù Đề này từ đời vô thủy tới nay cùng nhau sanh đổi qua lại nối tiếp hoài chẳng dứt, nhưng xét thấy trong nhân loại hạng người học thức thì ít, kẻ dốt nát thì nhiều; người tu hành niệm Phật thì ít, hạng mê tín chuyên cầu tà thần thì nhiều; người trì trai giữ giới thì ít, chúng lợi dưỡng phá giới thì nhiều; bực tinh tấn tu hành thì ít, hạng biếng nhác dải đải thì nhiều; người thông minh trí huệ thì ít, kẻ ngu si đần độn thì nhiều; người sống lâu thì ít, kẻ chết yểu thì nhiều; người tịnh tâm thiền định thì ít, kẻ vọng động tán loạn thì nhiều; người giàu sang thì ít, kẻ nghèo hèn thì nhiều; người nho nhã dịu dàng thì ít, kẻ cang cường hung dữ thì nhiều; người chân chánh ngay thẳng thì ít, bọn a dua nịnh bợ thì nhiều; người trong sạch thì ít, kẻ tham lam thì nhiều; người có tâm rộng rải bố thí thì ít, kẻ gian giảo bỏn xẻn thì nhiều; người tín cẩn thành thật thì ít, kẻ giả dối quỉ quyệt thì nhiều. Bởi vậy khiến nên tình đời thấp hèn bạc bẽo, luật pháp khắc nghiệt, sưu cao thuế nặng, trăm họ nghèo khổ, thời kỳ khuẩn bách, làm chẳng đủ sống. Nguyên do chỉ vì mê tín trái ngược, nên mới phải chịu những cảnh khổ dường ấy. Cúi xin đức Thế Tôn mở lòng từ bi thương xót những kẻ tà kiến, diễn giải các pháp chánh kiến cho chúng nghe, khiến được tỏ ngộ, bỏ tà theo chánh, hầu thoát khỏi các nạn khổ kia. Phật khen: Ông luận như vậy hay lắm! Này Bồ tát Vô Ngại, ông có tâm đại từ bi nên mới vì các người tà kiến kia mà cầu thỉnh Như Lai nói pháp chánh kiến, thật phước đức ấy không thể kể xiết. Ông nên chú ý nghe cho rõ và ghi nhớ lấy. Tôi nay vì ông mà phân rõ Kinh Thiên Địa Bát Dương này. Kinh này không phải chỉ riêng tôi nói đâu, mà các đức Phật đời quá khứ đã nói; đời vị lai, chư Phật cũng sẽ nói và đời hiện tại, chư Phật đương nói. Như trong khoảng trời đất, duy chỉ có con người là cao quí và khôn ngoan hơn muon vật. Luận về chữ Nhân ấy là chân, vì tâm con người không hề tưởng quấy và tự mình chỉ làm những việc chân chánh. Bởi thế nên mới chiết tự chữ Nhân là người như sau: Nét phẩy bên trái là chân, còn nét mác bên phải là chánh, thường làm những việc chân chánh nên mới được gọi là người. Nên biết người hay mở rộng mối Đạo, còn Đạo khá làm cho con người thuần nhã. Phải giữ đúng theo qui tắc của người và Đạo thìsẽ làm nên đạo Thánh. Phật lại kêu Vô Ngại Bồ tát mà nói: Thân người khó được mà nay tất cả chúng sanh đã được thân người rồi, sao không chịu tu nhân tích đức mà lại bỏ việc chân chánh, làm điều giả dối, gây biết bao nhiêu nghiệp ác để đến khi thân mạng chết rồi thần hồn phải sa đọa trong biển khổ, đau đớn trăm bề. Bằng hết thảy người đời nghe Kinh này, sanh lòng tin kính làm theo, không hề trái nghịch thì sẽ thoát khỏi hết tai nạn và được ra khỏi biển khổ, vì có các vị thiện thần gia hộ, không có việc chi ngăn trở, mà lại được sống lâu, không bao giờ chết yểu. Nguyên do nơi tấm lòng tin chân chánh, nên mới được phước như vậy. Còn nếu ai biên chép Kinh này thọ trì đọc tụng, y theo chánh pháp mà tu hành thì công đức của người ấy vô lượng vô biên, không biết đâu mà tính kể cho xiết, đến ngày lâm chung người ấy sẽ chứng được quả Phật. Phật lại bảo: Này Bồ tát Vô Ngại, như có người nào kiến thức sai lầm thường hay tin bậy, tất nhiên phải bị nạn tà ma ngoại đạo, các loài quỉ ly mị vọng lượng cũng như các loài chim cú chim ụt kêu lên những tiếng quái ác, lại thêm ác quỉ ác thần cùng tranh nhau đến làm náo loạn cả trong nhà, khiến cho xào xáo bệnh hoạn, sưng phù nhức nhối, chịu đủ chứng bệnh đau đớn khổ sở, không ngày giờ nào được yên ổn. Bằng muốn hết tai nạn kia, cần phải thỉnh vị chân tu đạo đức giúp tụng Kinh này ba biến thì những hung thần ác quỉ ấy thảy đều tiêu diệt mà bệnh cũng khỏi ngay, thân thể lành mạnh, bình phục như xưa. Ấy là nhờ công đức tụng Kinh Bát Dương này mà được chuyển họa thành phước vậy. Bằng có người nào quá nhiều dâm dục, sân độc, ngu si, tham lam, ganh ghét, nhưng khi nghe thấy Kinh này liền phát tâm chánh tín cúng dường, nguyện tụng ba biến thì các tật xấu kể trên thảy đều biến mất, rồi nhân đó phát tâm từ bi hỷ xả, sau sẽ chứng được quả Phật. Lại nữa, Bồ tát Vô Ngại, bằng có thiện nam tín nữ nào muốn làm bất cứ công việc chi, trước cần tụng Kinh này ba biến, rồi sau mới làm, như: đắp nền xây tường, dựng nên nhà cửa, hoặc làm nhà phía nam, nhà phía bắc, xưởng bên đông, xưởng bên tây, nhà bếp, nhà khách, cửa ngõ, đào giếng, đóng cối xay, cối giã, làm kho tàng, chuồng trại nuôi các loài súc vật, v.v... Hoặc cất nhằm các phương hướng xung phạm tới Nhựt Du, Nguyệt Sát, Tướng Quân cùng Thái Tuế, Huỳnh Phan, Báo Vĩ, Ngũ Thổ (1), Địa Kỳ, Thanh Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Huyền Vũ, hoặc phạm ngày giờ xung khắc như sáu ngày giáp (2), mười hai giờ địa chi (3) cùng là Thổ Úy, Phục Long. Tất cả hung thần ác quỉ cảm thấy oai lực của Kinh nên thảy đều ẩn trốn, lánh xa đi bốn phương, tiêu tan hình bóng, chẳng dám nhiễu hại nữa. Công việc làm được tốt lành, hưởng phước vô lượng. Nếu có thiện nam tín nữ nào y theo lời Phật dạy mà thi hành thì sau khi xây cất nhà cửa xong rồi, tất nhiên gia đạo được bình an lâu dài, lại thêm giàu sang vinh hiển, chẳng cần nhọc sức mưu cầu mà tự nhiên cũng có của cải đem tới. Như có người nào đi buôn bán phương xa, hoặc làm quan phó nhậm, cùng tùng quân nhập ngũ mà tụng Kinh Bát Dương này ba biến thì đều được an lành, nhà cửa hưng thạnh, bực người cao sang, con cháu vinh hiển, cha hiền con thảo, trai trung gái trinh, anh nhường em kính, vợ chồng hòa thuận, hết lòng hiếu kính phụng dưỡng song thân, các điều ước nguyện đều được thỏa mãn. Bằng có người nào bị quan quyền giam giữ, hoặc bị giặc cướp bắt đi, nên để hết tâm thành tụng Kinh này ba biến thì tức khắc tai qua nạn khỏi. Còn như có người thiện nam tín nữ nào thường thọ trì đọc tụng cùng giúp người biên chép Kinh Bát Dương này thì người ấy dầu rủi sa trong nước lửa cũng khỏi bị chìm đắm thiêu đốt, hoặc ở trong núi rừng có nhiều hùm sói thú dữ, chúng nó thấy bóng người tụng Kinh Bát Dương thì đều lánh xa không bao giờ dám hại đến tánh mạng, vì người ấy có các vị thiện thần theo hộ vệ, chẳng những thế mà sau còn chứng được quả Phật nữa. Hoặc có người nào miệng lưỡi xảo quyệt hay nói gian dối, thêu dệt, đâm thọc, thô tục, mà người ấy tự biết lỗi chừa bỏ, chuyên đọc tụng Kinh này thì tiêu hết bốn lỗi trước, lại được tài biện thuyết không hề ngăn ngại, rồi sau cũng chứng được quả Phật. Này các thiện nam tín nữ, phàm cha mẹ có tội, đến ngày lâm chung, chắc phải đọa vào địa ngục chịu trăm phần khổ não, nếu được con cháu thành tâm tụng Kinh này bảy biến thì cha mẹ thoát khỏi khổ ở địa ngục, thần hồn được sanh lên thiên đường, gặp phật nghe pháp, chứng được pháp nhẫn vô sanh trọn nên Phật đạo. Phật lại kêu Bồ tát Vô Ngại mà nói: Kiếp quá khứ, dưới thời đức Phật Tỳ Bà Thi giáo hóa, có hàng nam nữ cư sĩ không hề tin bọn tà sư ngoại đạo mà chỉ tin theo Phật pháp, ra công biên chép Kinh Bát Dương và thường thọ trì đọc tụng Kinh này, muốn làm việc chi thì cứ làm, không cần bói toán, coi ngày lựa giờ chi cả, cứ giữ một lòng tin chân chánh, lại thường làm việc bố thí, cúng dường bình đẳng, nên mới được thân vô lậu, làm nên đạo Bồ tát, rồi sau chứng được quả Phật, hiệu là Phổ Quang Như Lai, thành bực Chánh Giác, kiếp tên Đại Mãn, nước gọi Vô Biên. Nhân dân trong nước ấy đều có tâm chánh tín, tu hành theo hạnh Bồ tát nên mới được hưởng phước báo tốt đẹp như vậy. Ấy cũng do oai lực trì tụng Kinh Bát Dương này. Lại nữa Bồ tát Vô Ngại, trong cõi Diêm Phù Đề, chỗ nào có để Kinh Bát Dương này thì đều có tám vị Bồ tát, các vị phạm thiên vương cùng hết thảy thần linh đồng vây xung quanh ủng hộ Kinh ấy. Cho nên người trì tụng Kinh này cần phải sắm sửa hương hoa cúng dường như cúng Phật vậy. Phật lại kêu Bồ tát Vô Ngại mà nói: Bằng có thiện nam tín nữ nào giúp các người đời, diễn nói Kinh này, giải rõ cho họ hiểu thấu được thực tướng, thông suốt lý cao sâu huyền diệu, thì liền biết được chân lý của tâm mình, tâm Phật và tâm Pháp. Hiểu biết được lý ấy rồi, tức nhiên trí huệ đầy đủ, sáu căn thanh tịnh. Mắt thường thấy biết bao nhiêu là than sắc, song nhờ trí huệ liền nhận biết các than sắc ấy đều thuộc về lý không thật (giả tạm), mà cái không thật kia tạo nên thân sắc này, cho đến thọ tưởng hành thức cũng đều thuộc về lý không thật. Đó tức là Diệu Sắc Thân Như Lai. Tai thường nghe biết bao nhiêu là thứ tiếng, song nhờ trí huệ liền nhận biết các thứ tiếng ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên tiếng nói này. Đó tức là Diệu Âm Thinh Như Lai. Mũi thường ngửi biết bao nhiêu là mùi hương, song nhờ trí huệ liền nhận biết các mùi hương ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên mùi hương này. Đó tức là Hương Tích Như Lai. Lưỡi thường nếm biết bao nhiêu là mùi vị, song nhờ trí huệ liền nhận biết các mùi vị ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên mùi vị này. Đó tức là Pháp Hỷ Như Lai. Thân thường cảm thấy biết bao nhiêu là sự đụng chạm êm dịu, song nhờ trí huệ liền nhận biết các sự đụng chạm êm dịu đó đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên sự đụng chạm này. Đó tức là Trí Thắng Như Lai. Ý con người thường suy nghĩ phân biệt biết bao nhiêu là việc, song nhờ trí huệ liền nhận biết các việc ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên các việc này. Đó tức là Pháp Minh Như Lai. Bằng có thiện nam tín nữ nào thấy sáu căn đều hiển hiện trong nhân gian. Nếu miệng mình nói những điều lành thì nghiệp lành càng thêm nhiều, rồi sẽ làm nên Phật đạo. Còn miệng nói những điều độc ác thì nghiệp ác càng thêm nhiều, ắt phải đọa vào địa ngục. Phật bảo Bồ tát Vô Ngại: Về chân lý của việc lành việc ác rất rõ ràng, chẳng nên không tin. Ông nên hiểu thân tâm con người, thật là pháp khí của Phật. Cũng như 12 bộ Đại Tạng Kinh đã có từ đời vô thủy đến nay mà tụng hoài vẫn không hết và không hề hao tổn chút nào. Kinh tạng của Như Lai duy có những bực thức tâm kiến tánh mới tỏ biết mà thôi, còn các bực thinh văn, phàm phu làm sao hiểu thấu được. Phật lại bảo Bồ tát Vô Ngại nữa rằng: Bằng có người nào đọc tụng kinh này mà tỏ ngộ được thực tướng, tức biết thân tâm này chính thật là pháp khí của phật. Còn như người nào say mê đàng dục lạc, không tỉnh giấc mộng hồn, chẳng biết thân tâm mình là căn bổn của Phật pháp, chắc người đó phải trôi nổi trong sáu nẻo luân hồi, đọa đày trong ba đường dữ, đắm chìm liên mien trong biển khổ, không được nghe đến danh từ Phật pháp. Lúc đó, có năm trăm vị thiên tử ở trong đại chúng nghe Phật ................................
    LINK http://www.tangthuphathoc.net/kinh/thiendiabatduong.htm T Đ không có trí tuệ nên khg dám bàn, mời quý bạn tham khảo
    Last edited by Tâm_định; 21-11-2012 at 04:28 PM.
    Lang thang trong cỏi luân hồi
    Cùng nhau suy ngẫm chuyện đời, chuyện tu
    Pháp Phật là pháp tự tu
    Xa rời nhân thế, sao tu đây người?

  14. #14

    Mặc định

    Có một ông khảo cổ đến ngắm bức tranh ,khen ồ! bức tranh này của ĐƯỜNG BÁ HỔ ....vẽ có giá trị lắm .
    Người bày tranh nói tranh này nhái lại mà thôi ,nghe vậy người mua nói vậy đâu có giá trị ,người bán lại nói ,ông xem kỷ lại nha bức tranh này sắc xảo ,kết cấu đẹp hơn người xưa vẽ lận nha .
    THế là người này cầm kính lúp mới xem kỷ bức tranh ,mới khen ừ đúng như vậy ,quan trọng sự kết cấu hài hòa phong phú của bức tranh ,chứ lo tầm những cái xưa mà không thấy những cái hay trong hiện tại quả là thiếu xót

    MÌNH ĐỌC kinh với TÂM không chấp ,chỉ rút những gì đáng để mình học đừng quan TÂM đó là tác giả của ai .
    Như MĐ lên d đ thành viên nào viết hay đều là bài kinh để M Đ tham khảo tu học cả
    Last edited by minh đài; 21-11-2012 at 04:38 PM.
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  15. #15

    Mặc định

    Kính Huynh Tâm định :
    Dưới mắt các nhà nghiên cứu họ tự phân định Chân kinh Giả kinh...Và chắc chắn với họ những truyền thuyết ví dụ như chuyện Ngài Long Thọ xuống Thủy cung lấy kinh về là " ba xạo ", chuyện kinh Mật Tạng cất trong vách đá là " ba xạo " ...
    Nhưng với chúng ta - những người có chút niềm tin mong manh về Phật Pháp lại tin...Chúng ta tin thế giới chúng ta đang sống không chỉ là duy nhất mà còn rất nhiều không gian sống khác. Việc Pháp Bảo được cất giữ ở một nơi mà thân vật lý của loài người không đến được là có thật.
    Và cho đến bây giờ cũng chưa hề có một bộ NGỤY KINH nào khuyên chúng ta hãy phá GIỚI LUẬT cả. chưa có một bộ NGỤY KINH nào xưng tán Như Lai qua hình tướng Thiên Ma cả. Chưa có một bộ NGỤY KINH nào khuyên chúng ta phá vỡ đức tin vào TAM PHÁP ẤN cả...
    Vậy câu : Y PHÁP BẤT Y NHÂN - Y NGHĨA BẤT Y NGỮ vẫn còn nguyên giá trị thưa Huynh.
    Last edited by thanhmai08; 21-11-2012 at 04:44 PM.

  16. #16

    Mặc định

    kinh điển đại thừa mỗi bộ dài cả trăm nghìn trang như hoa nghiêm, lăng nghiêm, kim cang, lăng già, viên giác đối với người không có căn cơ thì họ đọc như tiểu thuyết, đọc kinh tìm nghĩa nhưng với hành giả căn cơ thì họ đọc kinh như đọc thần chú, mỗi bộ kinh là một thần chú dài chứa đựng năng lực vi diệu, thiền tông có hòa thượng Trí Giả đang tụng kinh pháp hoa thì liền nhập vào pháp hoa tam muội, hay như Ấn Quang đại sư, có người cho là Đại Thế Chí Bồ Tát hóa thân, tôi không có ý kiến về chuyện này nhưng có nhận định riêng ông đúng là hóa thân bồ tát thật và khi ông nhập định xuất thần đến tây phương về nói kinh hoa nghiêm ở trên đó nội dung hơi khác với kinh dưới này..Riêng bộ kinh kim cang thì nghe đâu một số sư hay tụng nói lại là tụng kinh kim cang thấy trong người phát nóng...

  17. #17

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi thanhmai08 Xem Bài Gởi
    Cười...Các vị học giả Tây Phương dựa vào cái gì để nghiên cứu Phật Giáo ? Cái mà các vị ấy cho là khoa học có thực sự là khoa học không ? Hay chỉ là những cái biết nằm trong giới hạn trong quy định của CĂN TRẦN THỨC của loài người ?

    Một truyện cổ tích được kể bằng phương ngữ của Nam Việt Nam sẽ có những nét khác nếu so với người Bắc Việt Nam kể...Nhưng cốt chuyện không vì thế mà thay đổi. Vậy chúng ta cần cốt chuyện hay cần sao y bản chính ?

    Một câu thần chú được ghi âm rõ ràng.
    Ví như câu chú Tiêu của Thất Sơn Thần Quyền.
    Tôi đề nghị các vị mời các nhà khoa học đang làm đề tài nghiên cứu Ngụy Kinh trên đọc đúng phiên âm chuẩn...xem thử có gì xảy ra không ? Chắc chắn là không. Họ có rán sức đọc cả nghìn lần cả triệu lần đi nữa cũng vô ích. Do đọc không có kết quả nên họ sẽ kết luận : " Một chuổi âm thanh vô nghĩa "
    ha ha ha...
    Nhưng cũng câu chú đó - với một người đã nhận lễ nhập môn - Họ chỉ cần vừa khởi ý đọc câu chú là lập tức các năng lực siêu phàm xuất hiện...
    Vậy ai đúng ai sai đây ? Thưa ! Không ai đúng - không ai sai cả. Hoặc : ai cũng đúng và ai cũng sai.
    Như ví dụ trên - Trong đạo học ngày nào chúng ta còn bị giới hạn bởi CĂN TRẦN THỨC thì tất cả các phát biểu nhận định của chúng ta hết thảy đều không chuẩn xác.
    Trở lại đề tài Ngụy kinh trên.
    Theo Tôi trước tiên chúng ta hãy xác định chúng ta cần gì nơi Phật giáo ? Chúng ta cần sự hóa giải tất cả những bế tắc trong đời sống và tư tưởng đã gây ra biết bao đau khổ - Hay : chúng ta cần sự chuẩn xác trong học thuật ?
    Tôi nghĩ : đa phần chúng ta cần sự hóa giải để an bình trong đời sống là chính. Còn việc chuẩn xác trong học thuật - quả thật việc đó cần xem xét lại ở nhiều góc cạnh khác.
    Khi các bạn xem kinh :
    Các bạn tin vào kinh văn do những lợi ích thu hoạch được từ tinh thần ý nghĩa của kinh văn đó ?
    Hay các bạn tin vào kinh văn vì bản kinh văn đó do một ông Giáo sư, một ông Tiến sĩ hay một ông Phật bằng xương bằng thịt nào đó đã thuyết ?

    Tất nhiên chúng ta tin vì những giá trị ý nghĩa của bản kinh văn đó phải không các bạn.
    ví dụ/dẫn chứng của bạn có khập khễnh không để biện giải cho ý kiến của bạn?

  18. #18

    Mặc định

    Và cho đến bây giờ cũng chưa hề có một bộ NGỤY KINH nào khuyên chúng ta hãy phá GIỚI LUẬT cả. chưa có một bộ NGỤY KINH nào xưng tán Như Lai qua hình tướng Thiên Ma cả. Chưa có một bộ NGỤY KINH nào khuyên chúng ta phá vỡ đức tin vào TAM PHÁP ẤN cả...
    Vậy câu : Y PHÁP BẤT Y NHÂN - Y NGHĨA BẤT Y NGỮ vẫn còn nguyên giá trị

    Quá hay... :thumbs_up::thumbs_up::thumbs_up:rose4rose4rose4: :not_worthy::not_worthy::not_worthy:

  19. #19
    Nhất Đẳng Avatar của Hành Giả Du Già
    Gia nhập
    Oct 2012
    Nơi cư ngụ
    A Lan Nhã
    Bài gởi
    1,048

    Mặc định

    Dear all,

    Hãy lấy " kinh điển " bạn học được mang nó ra áp dụng trực tiếp vào cuộc sống ( thời Trần Nhân Tông, có cho đề thi để các sư áp dụng kinh hoa nghiêm để chống giặc ngoại xâm )

    Nay là thời bình, nếu trong cuộc sống gia đình thì lấy kinh đọc được áp dụng vào, nếu làm công việc kinh doanh hay điều hành công ty cũng áp dụng kinh vào công việc, người nào chuyên lĩnh vực nào tùy theo khả năng mà áp dụng những kinh điển mình đọc được vào thực tế cuộc sống hay hơn là ngồi tranh chấp kinh đúng sai, thì lợi bất cập hại.

    Trân trọng !
    HÀNH GIẢ DU GIÀ LẤY TA BÀ LÀM NIẾT BÀN TẠI THẾ - SỐNG HẾT THẢY VỚI TẤT CẢ CHÚNG SANH

  20. #20

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi monk1982 Xem Bài Gởi
    Cám ơn huynh đã chia sẽ một bài viết rất hay, huynh có thể thêm nguồn trích dẫn để các huynh đệ trên diễn đàn dễ dàng tìm hiểu thêm hơn không?

    Thanks huynh.
    Source:
    Apocrypha by Kyoto Tokuno,
    Encyclopedia of Buddhism (Editor in Chief: Robert E. Buswell.Jr)




    The term apocrypha has been used in Western scholarship to refer to Buddhist literature that developed in various parts of Asia in imitation of received texts from the Buddhist homeland of India. Texts included under the rubric of apocrypha share some common characteristics, but they are by no means uniform in their literary style or content. Apocrypha may be characterized collectively as a genre of indigenous religious literature that claimed to be of Indian Buddhist pedigree or affiliation and that came to acquire varying degrees of legitimacy and credence with reference to the corpus of shared scripture. Some apocrypha, especially in East Asian Buddhism, purported to be the BUDDHAVACANA (WORD OF THE BUDDHA) (that is, sutra) or the word of other notable and anonymous exegetes of Indian Buddhism (Sa stra). Others claimed to convey the insights of enlightened beings from India or of those who received such insights through a proper line of transmission, as in the case of Tibetan “treasure texts” (gterma) that were hidden and discovered by qualified persons. Still others were modeled after canonical narrative literature, as in the case of apocryphal JA TAKA (birth stories of the Buddha) from Southeast Asia. Thus, what separates apocrypha from other types of indigenous Buddhist literature was their claimed or implied Indian attribution and authorship. The production of apocryphal texts is related to the nature of the Buddhist CANON within each tradition. The Chinese and Tibetan canons remained open in order to allow the introduction of new scriptures that continued to be brought from India over several centuries, a circumstance that no doubt inspired religious innovation and encouraged the creation of new religious texts, such as apocrypha. The Pali canon of South and Southeast Asia, on the other hand, was fixed at a relatively early stage in its history, making it more difficult to add new materials.
    The above general characterization offers a clue as to the function and purpose of apocrypha: They adapted Indian material to the existing local contexts—be they religious, socio cultural, or even political—thereby bridging the conceptual gulf that otherwise might have rendered the assimilation of Buddhism more difficult, if not impossible. The perceived authority inherent in the received texts of the tradition was tacitly recognized and adopted to make the foreign religion more comprehensible to contemporary people in the new lands into which Buddhism was being introduced. Indeed history shows that some apocryphal texts played seminal roles in the development of local Buddhist cultures as they became an integral part of the textual tradition both inside and outside the normative canon. But not all apocrypha were purely or even primarily aimed at promoting Buddhist causes. Some Chinese apocrypha, for example, were all about legitimating local religious customs and practices by presenting them in the guise of the teaching of the Buddha. These examples illustrate that the authority of SCRIPTURE spurred literary production beyond the confines of Buddhism proper and provided a form in which a region’s popular religious dimensions could be expressed in texts.
    Of the known corpus of apocrypha, the most “egregious” case may be East Asian Buddhist apocrypha that assumed the highest order of Indian pedigree, by claiming to be the genuine word of the Buddha him- self. Naturally their claims to authenticity did not go unnoticed among either conservative or liberal factions within the Buddhist community. During the medieval period these texts became objects of contempt as well as, contrarily, materials of significant utility and force in the ongoing signification of Buddhism.
    Thus Chinese Buddhist apocrypha epitomize the complexity of issues surrounding the history, identity, and function of Buddhist apocrypha as a broader genre of Buddhist literature.

    Chinese Buddhist apocrypha

    Chinese Buddhist apocrypha began to be written al- most contemporaneously with the inception of Buddhist translation activities in the mid-second century C.E. According to records in Buddhist CATALOGUES OF SCRIPTURES, the number of apocrypha grew steadily every generation, through at least the eighth century. Most cataloguers were vehement critics of apocrypha, as can be gauged from their description of them as either “spurious” or “suspected” scriptures, or from statements that condemned these scriptures as eroding the integrity of the Buddhist textual transmission in China. Despite the concerted, collective efforts of the cataloguers and, at times, the imperial court to root out these indigenous scriptures, it was not until the compilation of the first printed Buddhist canon, the Northern Song edition (971–983), that new textual creation waned and eventually all but ceased. The production of apocrypha in China was thus a phenomenon of the manuscript period, when handwritten texts of local origin could gain acceptance as scripture and even be included in the canon, the result being an enigmatic category of scripture that is at once inauthentic and yet canonical.
    Modern scholarship’s discovery of such “canonical apocrypha” testifies to the complexity and difficulty of textual adjudication as well as to the authors’ sophisticated level of comprehension and assimilation of Buddhist materials. It was never easy for traditional bibliographical cataloguers to determine scriptural authenticity. Success in ferreting out apocryphal texts—especially when the texts in question were com- posed by authors with extensive knowledge of Buddhist doctrines and practice and with substantial literary skill—required extensive exposure to a wide range of Buddhist literature. In addition, the task was at times deliberately compromised—as in the case of the Lidai sanbaoji (Record of the Three Treasures throughout Successive Dynasties; 597)—for no other reason than the polemical need to purge from the canon any elements that might subject Buddhism to criticism from religious and ideological rivals, such as Daoists and Confucians. The Lidai sanbaoji added many false author and translator attributions to apocrypha in order to authenticate those texts as genuine scripture; and once its arbitrary attributions were accepted in a state-commissioned catalogue, the Da- Zhou kanding zhongjing mulu (Catalogue of Scriptures, Authorized by the Great Zhou Dynasty; 695), the Chinese tradition accepted the vast majority of those texts as canonical. The Kaiyuan shijiao lu (Record of Sakyamuni’s Teachings, Compiled during the Kaiyuan Era;
    730)—recognized as the best of all traditional catalogues—was critical of both these predecessors, but even it was unable to eliminate all these past in- accuracies due in part to the weight of tradition. Canonical apocrypha are therefore ideal examples of the clash of motivations and compromises reached in the process of creating a religious tradition. These apocrypha thus added new dimensions to the evolv- ing Buddhist religion in China due in part to their privileged canonical status, but also, more importantly, because of their responsiveness to Chinese religious and cultural needs.
    There are some 450 titles of Chinese apocryphal texts listed in the traditional bibliographical catalogues. In actuality, however, the cumulative number of apocrypha composed in China is closer to 550 when we take into account both other literary evidence, as well as texts not listed in the catalogues but subsequently discovered among Buddhist text and manuscript collections in China and Japan. Approximately one-third of this total output is extant today—a figure that is surprisingly large, given the persistent censorship to which apocrypha were subjected throughout the medieval period. This survival rate is testimony to their effective- ness as indigenous Buddhist scripture and attests to the continued reception given to these texts by the Chinese, even such knowledgeable exegetes as ZHIYI (538–597), the systematizer of the TIANTAI SCHOOL of Chinese Buddhism. The vitality of the phenomenon of apocrypha in China also catalyzed the creation of new scriptures in other parts of East Asia, though to nowhere near the same extent as in China proper.
    The extant corpus of apocrypha includes both canonical apocrypha as well as texts preserved as citations in Chinese exegetical works. Apocrypha were also found in the two substantial medieval manuscript collections discovered in modern times. The first is the DUNHUANG cache of Central Asia discovered at the turn of the twentieth century, which included manuscripts dating from the fifth to eleventh centuries. The second is the Nanatsu-dera manuscript canon in Nagoya, Japan, which was compiled during the twelfth century based on earlier manuscript editions of the Buddhist canon. It was discovered in 1990 to have included apocrypha of both Chinese and Japanese origin. The most astonishing historical finding in this canon was the Piluo sanmei jing (The Scripture on the Absorption of Piluo), an apocryphon attested in the bibliographical catalogue compiled by the renowned monk-scholar DAO’AN (312–385), but previously un- known. The Japanese manuscript is the only extant copy of this extremely early Chinese apocryphon. Other findings are no less valuable in ascertaining the overall history of apocrypha: Both the Dunhuang and Nanatsu-dera manuscripts included many titles with no known record in the catalogues, evidence indicating that indigenous scriptural creation was even more prolific than had previously been recognized. More- over, scholars have suggested or identified convincingly some of the Nanatsu-dera apocrypha as Japanese compilations based on Indian texts or Chinese apocryphal materials. Thus the apocrypha extant in Japan serve as witness to the currency and impact of this contested, but obviously useful, material.

    Texts and contents

    The extant corpus of apocryphal literature defies simple description, as each text has its own unique doctrinal or practical orientation, motive, and literary style and technique. Some of the canonical apocrypha skill- fully synthesized orthodox Buddhist material from India without any apparent indication of their native pedigree; others, however, propagated popular beliefs and practices typical of local culture while including negligible Buddhist elements, save for the inclusion of the word sutra (jing) in the title. The majority falls somewhere between the two extremes, by promoting Buddhist beliefs and practices as the means of accruing worldly and spiritual merit. A few scholars have attempted to make typological classifications of all extant apocrypha, but these remain problematic until the corpus is thoroughly studied and understood in its religious and socio cultural contexts. What follows therefore is a selected review of some of the raison d’être of apocrypha, which are reflected in the ways in which Buddhist teachings are framed and presented.
    We will begin with two examples of apocrypha that assembled MAHAYANA doctrine in ways that would support a theory or practice that had no exact counterpart in Indian Buddhism. First, the AWAKENING OF FAITH (DASHENG QIXIN LUN) reconstructed Buddhist orthodoxy by synthesizing three major strands of Indian doctrine—SUNYATA (EMPTINESS), ALAYA VIJNANA (storehouse consciousness), and TATHA GATAGARBHA (womb/embryo of Buddhas)—in order to posit an ontology of mind in which the mind could simultaneously be inherently enlightened and yet subject to ignorance. After its appearance in the sixth century, the Awakening of Faith became perhaps the most prominent example of the impact apocrypha had on the development of Chinese Buddhist ideology, as it became the catalyst for the development of the sectarian doc- trines of such indigenous schools as Tiantai, Huayan, and Chan. The text is also a prime example of the ways in which an indigenous author selectively appropriated and ingeniously synthesized Indian materials in order better to suit a Chinese religious context. Second, the Jin’gang sanmei jing (The Scripture of Adamantine Absorption, or Vajrasamadhi-sutra) is an eclectic amalgam of a wide range of Mahayana doctrine, which sought to provide a foundation for a comprehensive system of meditative practice and to assert the soteriological efficacy of that system. The scripture is also one of the oldest works associated with the CHAN SCHOOL in China and Korea, and is thus historically significant. Unlike other apocrypha discussed else- where in this entry, one study suggests that this sutra is actually a Korean composition from the seventh century (Buswell 1989). This scripture, along with Japanese apocrypha mentioned earlier, is thus a barometer of the organic relationship that pertained between Buddhism in China and the rest of East Asia and demonstrates the pervasive impetus for indigenous scriptural creation throughout the region.
    Other apocrypha incorporated local references and inferences in order to better relate certain Buddhist values and stances to the surrounding milieu. PRECEPTS are the bedrock of Buddhist soteriology and figure prominently as a theme among apocrypha, as, for example, in the FANWANG JING (BRAHMA ’S NET SUTRA). This scripture reformulated the Mahayana bodhisattva precepts in part by correlating them with the Confucian notion of filial piety (xiao), a conspicuous maneuver that betrays both the Chinese pedigree of the text as well as its motive to reconcile two vastly different value systems. It also addressed problems arising from secular control over Buddhist institutions and membership—a blending of religious instruction and secular concerns that was not atypical of apocrypha, as we will see again below.
    Other apocrypha that have precepts as a prominent theme specifically targeted the LAITY; such texts include the Piluo sanmei jing (The Scripture of the Absorption of Piluo), Tiwei jing (The Scripture of Tiwei), and Chingjing faxing jing (The Scripture of Pure Religious Cultivation). These apocrypha taught basic lay moral guidelines, such as the five precepts, the ten wholesome actions, and the importance of DANA (GIVING), all set within a doctrinal framework of KARMA (ACTION) and REBIRTH. These lay precepts are at times presented as the sufficient cause for attaining buddhahood, a radically simplified PATH that is no doubt intended to encourage the participation of the laity in Buddhist practice. These precepts are also often presented as being superior to the five constant virtues (wuchang) of Confucianism, or to any of the tangible and invisible elements of the ancient Chinese worldview, including the cosmological network of yin and yang, the five ma- terial elements, and the five viscera of Daoist internal medicine. The idea of filial piety is most conspicuous in the Fumu enzhong jing (The Scripture on Profound Gratitude toward Parents), which is based on the Confucian teaching of “twenty-four [exemplary types of] filial piety” (ershihsi xiao). The text highlights the deeds of an unfilial son and exhorts him to requite his parents’ love and sacrifice by making offerings to the three JEWELS (the Buddha, the dharma, and the SANGHA). The scripture has been one of the most popular apocrypha since the medieval period.
    The law of karma and rebirth mentioned above is a ubiquitous theme or backdrop of apocrypha. The text commonly known as the Shiwang jing (The Scripture on the Ten Kings) illustrated the alien Buddhist law to a Chinese audience by depicting the afterlife in purgatory. After death, a person must pass sequentially through ten hell halls, each presided over by a judge; the individual’s postmortem fate depended on the judges’ review of his or her deeds while on earth. This bureaucratization of hell was an innovation that mirrored the Chinese sociopolitical structure. This scripture’s pervasive influence can be gauged from the many paintings, stone carvings, and sculptures of the ten kings—typically garbed in the traditional attire and headgear of Chinese officials—that were found in medieval East Asian Buddhist sites.
    Given that apocryphal scriptures were products of specific times and places, it is no surprise that they also criticized not only the contemporary state of religion but also society as a whole, and even the state and its policies toward Buddhism. Such criticisms were often framed within the eschatological notion of the DECLINE OF THE DHARMA, which was adapted from Indian sources. The RENWANG JING (HUMANE KINGS SUTRA) described corruption in all segments of society, natural calamities and epidemics, state control and persecution of Buddhism, and the neglect of precepts by Buddhist adherents. The suggested solution to this crisis was the perfection of wisdom (prajña paramita ), whose efficacy would restore order in religion and society and even protect the state from extinction. The scripture was popular in medieval East Asia, especially among the ruling class, not least because of its assertion of state protection. The Shouluo biqiu jing (The Scripture of Bhiks u Shouluo) offered a different solution to eschatological crisis: It prophesized the advent of a savior, Lunar-Radiant Youth, during a time of utter disorder and corruption. Such a messianic message is of course not without precedent in Indian Buddhism—the cult of the future Buddha MAITREYA is the ubiquitous example—but the suggestion of a savior in the present world might easily be construed as politically subversive, and as a direct challenge to the authority of the secular regime. This scripture is one of those lost apocrypha that was discovered among the Dunhuang manuscript cache some fourteen hundred years after the first recorded evidence of its composition.
    The preceding coverage has touched upon only a small part of the story of Buddhist apocrypha. Even this brief treatment should make clear, however, that apocrypha occupy a crucial place in the history of Buddhism as a vehicle of innovation and adaptation, which bridged the differences between the imported texts of the received Buddhist tradition and indigenous religion, society and culture. As such, they also offer substantial material for cross-cultural and comparative studies of scripture and canon in different religious traditions.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •