kết quả từ 1 tới 4 trên 4

Ðề tài: Kinh Phật nói về ông già nghèo khổ.

  1. #1

    Mặc định Kinh Phật nói về ông già nghèo khổ.

    Hán dịch: Đời Tống, sa-môn Huệ Giản.
    Việt dịch: Tì-kheo Thích Bửu Hà.


    Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời, Đức Phật cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị sa-môn, một vạn bồ-tát an trú tại Kì Thụ Cấp Cô Độc Viên, nước Xá-vệ. Lúc ấy cũng có trời, rồng, quỷ, thần và vô số đại chúng đồng nhóm họp, cung kính vây quanh nghe Phật thuyết pháp, tất cả đều hoan hỉ.

    Bấy giờ, có ông già nghèo cùng đã hai trăm tuổi, lông mày rất đẹp, tai rất dài, răng đều và trắng, tay dài qua đầu gối. Nhìn vẻ bên ngoài của ông ta tựa như có tướng tốt, nhưng lại nghèo cùng khốn khổ, áo không đủ che thân, để lộ cơ thể; lại thường bị đói khát, vừa cất bước là đã thở gấp. Nghe Phật còn tại thế, ông rất vui mừng, ngày đêm phát nguyện muốn gặp. Đến nay đã mười năm, nguyện này mới thành. Ông liền chống gậy đến, cầu được gặp Phật. Nhưng trời Đế Thích và Phạm thiên canh cửa không cho ông vào. Ông liền lớn tiếng than: “Tôi sinh ra ở đời thật bất hạnh, nghèo cùng khốn khổ, đói khát lạnh rét, cầu chết không được mà sống lại không nơi nương nhờ. Tôi nghe lòng từ của đức Thế Tôn trải rộng, muôn vật đều được nhờ, mọi người đều chịu ân, nên lòng rất vui mừng, ngày đêm phát nguyện được gặp. Đến nay đã mười năm, nguyện ước mới thành. Do đó, tôi từ xa đến đây chỉ xin diện kiến Thế Tôn để cầu lìa được các khổ mà các vị lại ngăn chặn. Như vậy, đã trái ước nguyện tôi, lại nghịch ý Phật, lẽ nào như thế!

    Đức Phật biết việc ấy, nên hỏi A-nan:

    - Này A-nan! Thầy đã thấy ông lão sống thọ, có tướng quí mà vẫn phải chịu tội báo chưa?

    A- nan quỳ xuống, chắp tay thưa:

    - Bạch đức Thế Tôn! Người có phúc, sống thọ đâu thể có tội! Người có tội đâu thể có tướng quí. Trong đời, con chưa từng thấy, nay người đó ở đâu?

    Đức Phật bảo:

    - Người đó đang ngoài cửa, trời Đế Thích và Phạm vương đã ngăn chặn. Ông có thể gọi cho người ấy vào!

    Lúc này, ông già dùng hai cùi tay để bò vào. Thấy Đức Phật,lòng ông vui buồn lẫn lộn, nước mắt tuôn trào. Ông đảnh lễ Phật, quỳ xuống chắp tay thưa:

    - Đời con bất hạnh, nghèo cùng khốn khổ, đói khát lạnh rét, cầu chết không được mà sống lại không có chỗ nương cậy. Con nghe Đức Thế Tôn nhân từ rộng khắp, muôn vật mong nhờ, không ai mà không chịu ân, nên lòng rất vui mừng, ngày đêm phát nguyện được một lần phụng kiến dung nghi, đến nay đã mươi năm, nguyện mới được thành. Con đứng ngoài cửa rất lâu mà không được vào, muốn bỏ đi nhưng không còn sức lực, tiến lui đều hết cách. Chỉ sợ mạng sống chấm dứt, làm bẩn cửa thánh, lại tăng thêm tội. Không ngờ đức Thiên Tôn[1] đã thương xót, cho phép con vào. Bây giờ mà chết, con cũng không ân hận! Con chỉ muốn mạng sống mau kết thúc, trả hết tội cho đời sau. Xin đức Thế Tôn ban cho con trí tuệ siêu việt.

    Đức Phật dạy:

    - Loài người thụ sinh là do nhân duyên sinh tử, vì nhiều nhân duyên nên mới có gốc rễ tội lỗi. Hôm nay Ta sẽ nói cội nguồn ấy cho ông biết. Đời trước, ông sinh vào nhà một vị vua thông minh trí tuệ cai trị một đất nước rộng lớn, giàu có và cường thịnh. Lúc ấy, ông là thái tử cao quí khác thường, trên thì được cha mẹ yêu quí, dưới lại được thần dân tôn kính. Vì thế ông mặc sức coi thường mọi người, kiêu căng tự đại. Vô số tài sản của ông đều là từ dân mà có, bá tánh bần cùng đều ông vơ vét. Ông chỉ biết tích chứa mà không biết bố thí.

    Lúc ấy, có vị sa-môn khổ hạnh tên là Tĩnh Chí, từ một quốc gia xa xăm quyết đến gặp ông. Vị sa-môn này chỉ xin một chiếc pháp y mà ông hoàn toàn không muốn tiếp, đối xử rất tệ, đã không cấp y, lại không cho thức ăn, đói khát ngồi trước mặt mà ông bỏ đi không đoái hoài. Sau bảy ngày, cơ thể sa-môn suy kiệt, hơi thở yếu ớt, mạng sống như ngọn đèn trước gió. Nhưng ông thấy thế lại rất vui mừng, tụ tập mọi người đến xem và lấy đó làm vui. Bấy giờ có một vị quan hầu đứng gần can ngăn: “Thái tử không nên như vậy, sa-môn hiền từ khiêm cung, đạo đức tiềm ẩn bên trong, trời băng giá mà không biết lạnh, nhịn ăn mà không biết đói. Vị ấy sở dĩ đến đây xin pháp y là muốn làm phúc. Thái tử đã không cho thì thôi, sao lại làm cho sa-môn khốn khổ! Xin ngài hãy bảo sa-môn đến nơi khác, chớ rước lấy tội lỗi!”.

    Thái tử đáp: “Đây là người nào mà giả xưng đạo đức? Ta chỉ thử cho nếm một chút khốn khổ chứ không khiến phải chết. Đúng lúc sẽ thả đi. Ông không có gì phải lo!”. Nói xong, ông lập tức đuổi sa-môn ra khỏi nước.

    Khi còn hơn mười dặm nữa mới ra khỏi biên giới thì vị sa-môn gặp bọn giặc đói muốn giết ông để ăn thịt. Sa-môn liền nói: “Tôi là sa-môn đói rét, thân gầy chỉ còn da bọc xương. Đã vậy thịt lại hôi thối, không đáng để ăn. Chỉ uổng công giết tôi, chứ không ích lợi gì!”.

    Giặc đói đáp: “Ta đói đã nhiều ngày rồi, chỉ ăn đất, ông tuy hơi gầy một chút, nhưng vẫn là thịt, dứt khoát không thả, cứ phải chịu chết”.

    Cứ đối đáp qua lại như thế, bọn cướp do dự hồi lâu, chưa kịp giết sa-môn thì thái tử biết được, nên liền đến giải cứu và nói với sa-môn: “Tôi đã không cho ngài y phục và thức ăn, thì đâu thể để ngài bị giặc đói bắt giết!”. Bọn giặc thấy thái tử đều cúi đầu lạy nhận tội rồi thả sa-môn đi. Vị sa-môn thời ấy nay là bồ-tát Di-lặc, còn thái tử cao quí kia chính là ông. Đời nay ông chịu tội báo nghèo cùng này là vì đời trước tham lam bỏn xẻn. Sở dĩ được sống thọ là nhờ cứu mạng sa-môn. Tội phước báo ứng như bóng theo hình, như vang theo tiếng.

    Nghe Đức Phật dạy, ông già liền bạch Đức Phật:

    - Tội quá khứ đã như vậy, con xin trả hết trong đời này. Lại cầu cho những ngày còn lại của con trong đời này được làm sa-môn và mai sau đời đời thường hầu bên Phật.

    Đức Phật dạy:

    - Hay thay, hay thay!

    Ngay lúc ấy râu tóc ông già tự rơi xuống đất, pháp ý tự nhiên đắp trên thân, khí lực sung mãn, tai thính mắt tỏ, liền được thượng tuệ, vào môn tam-muội. Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:

    Xưa ông làm thái tử

    Không biết đạo nhân nghĩa

    Kiêu ngạo lại buông lung

    Cậy thế vua nước lớn

    Tự nói không tội phúc

    Cho rằng mãi thường còn

    Nào biết oán sinh tử

    Nay chịu tai họa ấy

    Từ tội lại được cứu

    Diện kiến Thiên trung thiên[2]

    Thoát khỏi tội quá khứ

    Mạng dứt, vào Phật pháp

    Xa lìa tâm xan tham

    Mãi được gốc trí tuệ

    Đời đời theo hầu Phật

    Sống thọ trong vạn kiếp.

    Vị tì-kheo già này nghe kinh xong, lòng rất vui mừng, đảnh lễ Đức Phật.

    Bấy giờ đức Thế Tôn bảo A-nan:

    - Nếu có người tụng kinh này thì được thấy một nghìn Đức Phật kiếp Hiền. Người tu hành theo kinh này, khiến lưu truyền đến đời sau thì được Đức Phật Di-lặc thụ kí. Lưỡi Như Lai rộng dài, lời nói không bao giờ sai khác.

    Nghe Đức Phật dạy, tất cả đại chúng đều hoan hỉ thụ trì, cúi đầu đảnh lễ.

    Chú thích:
    [1] Thiên Tôn 天尊: Đức Phật là đệ nhất nghĩa thiên, là tối tôn trong trời, cho nên được tôn xưng là Thiên tôn.

    [2] Thiên Trung Thiên 天中天: Bậc tối thắng trong hàng chư thiên.
    Cầu sanh Tây Phương!.

  2. #2

    Mặc định Kinh Phật nói về cây chiên-đàn [hương].

    Kinh Phật nói về cây chiên-đàn [hương]

    Mất tên người dịch sang Hán
    Việt dịch: Tỳ kheo Thích Thọ Phước


    Đúng như thế, chính tôi được nghe: Một thời, Đức Phật và các thầy tì-kheo an trú ở nước Duy-da-lê. Khi ấy, có ông Ca-la-việt rất kính Phật, tin pháp thỉnh Phật cúng dường. Sau khi Đức Phật chú nguyện xong, Ca-la-việt ra trước Phật kính cẩn cầu xin nghe pháp. Lúc ấy, Đức Phật nở nụ cười, thì từ miệng Ngài phát ra ánh sáng năm sắc, xoay quanh thân ba vòng, rồi thâu vào đỉnh đầu. Thấy vậy, tôn giả A-nan liền chỉnh trang y phục, chắp tay bạch Phật:

    - Thế Tôn không bao giờ cười suông, Ngài cười chắc sẽ nói pháp. Cúi xin Ngài giảng nói!

    Đức Phật nói:

    - Quý thay! Này A-nan! Ông có lòng từ rộng lớn vì muốn cho tất cả đều thông suốt pháp kiều[1]. Theo phép của sa-môn, ông phải biết điều này. Nay Ta sẽ giảng nói, mọi người phải lắng nghe và ghi nhớ kĩ.

    Đức Phật dạy:

    - Ở một nước kia có năm trăm người vào biển nhặt châu đặt lên thuyền chở về. Khi thuyền đi ngang qua khu rừng rậm thì mặt trời lặn, nên họ dừng lại ngủ qua đêm và đã thống nhất với nhau sáng mai lên đường sớm. Sáng hôm sau, bốn trăm chín mươi chín người thức dậy cùng nhau lên đường. Một người vì ngủ quên nên thất lạc. Lúc ấy, gặp lúc tuyết rơi, người kia không thấy đường đi lạc vào còn đường cùng, vào núi sâu, khóc lóc, kêu trời. Bấy giờ, có một cây Chiên-đàn hương lớn. Vị thần cây trú ở đó nói với người lạc đường: “Ông có thể nghỉ lại đây, tôi sẽ cung cấp thức ăn, đồ mặc, đợi đến mùa xuân rồi hãy đi”. Người lạc đường đành ở lại chỗ đó. Người ấy ở đó được ba tháng. Một hôm, người kia nói với thần cây: “Tôi nhờ ơn của người nên mới được toàn mạng, nhưng chưa báo đáp mảy may, nhớ đến cha mẹ đang ở quê nhà, thật muốn trở về, xin hãy chỉ đường!” Thân cây nói: “Được!” Rồi thần cây tặng cho người kia một thỏi vàng như chiếc bánh và nói: “Ông sẽ đến một nước cách đây không xa, từ đó ông có thể trở về nhà”.

    Lúc sắp ra đi, người lạc đường hỏi thần cây: “Cây này hương thơm thuần khiết, ở đời hiếm có, nay sắp phải lìa xa, xin cho biết tên!” Thần cây nói: “Ông không cần hỏi!” Người kia nói: “Tôi ở nhờ dưới bóng cây này suốt ba tháng, nay sắp rời xa, lòng bồi hồi nhớ nhung. Khi về đến nước rồi sẽ khen ngợi ân của cây!”. Thần cây nói: “Cây này tên là Chiên-đàn, rễ, thân, cành, lá trị được trăm bệnh, hương thơm lan xa, quí hiếm ở đời; nếu người nào tham cầu, chớ nói cho họ biết!”.

    Người kia về đến nước, mọi người đều rất vui mừng. Sau đó không bao lâu, vua bị bệnh đau đầu. Dù cầu cúng trời đất, thần núi, thần sông mà bệnh không thuyên giảm. Khi ấy, có một danh y đến xem bệnh cho vua rồi tâu: “Nếu tìm được cây Chiên-đàn hương thì sẽ trị hết bệnh”. Vua cho người đi tìm khắp nơi nhưng không tìm được. Vì thế, vua ban lệnh cả nước: “Nếu người tìm được cây Chiên-đàn hương, trẫm sẽ phong tước hầu và gả công chúa cho”.

    Người kia nghe vua sẽ ban thưởng bổng lộc trọng hậu liền vào cung tâu: “Tôi biết chỗ có cây Chiên-đàn hương!” Nghe vậy, vua liền sai cận thần theo người kia đến chỗ đó chặt cây. Đến nơi, sứ giả thấy cây to, thẳng, cành nhánh sum sê, hoa quả óng ánh, thật hiếm thấy, nên không nỡ chặt. Nhưng nếu không chặt thì trái lệnh vua và bệnh của vua không trị được mà chặt thì lòng ray rứt. Đang ngập ngừng, lưỡng lự không biết làm sao, bỗng nghe trong không trung có tiếng thần cây nói: “Hãy chặt! Nhưng nên chừa lại gốc. Chặt rồi lấy máu người bôi lên, lấy ruột gan trùm lên trên thì cây tự nhiên sẽ mọc lại như cũ!”. Sứ giả nghe thần cây chỉ bày như vậy liền sai người chặt. Lúc ấy, người kia đang đứng bên dưới cây, những cành cây đổ xuống nhanh như tên đập chết người kia.

    Chặt cây xong, sứ giả bàn với mọi người: “Trước khi chặt cây, thần cây có dặn: ‘Phải lấy máu, ruột, gan người để cúng tế cây’. Lúc ấy, lòng tôi buồn bã, không biết sẽ chọn ai để làm việc ấy. Nay người kia đã chết, chúng ta nên lấy nó để cúng cây”. Rồi họ mổ bụng kẻ ấy, lấy ruột, gan, máu và làm như lời thần cây dặn. Bỗng chốc cây mọc trở lại như cũ. Họ chất cây lên xe chở về.

    Ngay lập tức, danh y tiến hành đắp thuốc cho vua, thì vua liền hết bệnh. Vì vậy, cả nước vui mừng. Đồng thời, vua ban lệnh cho nhân dân trong nước, nếu ai có bệnh thì đến cửa cung, vua ban phát Chiên-đàn hương cho họ. Nhờ đó, mọi người đều hết bệnh. Từ đó, vua luôn khỏe mạnh, nhân dân không bệnh, cả nước an vui, đất nước thái bình.

    Bấy giờ, tôn giả A-nan rời chỗ ngồi, đến bên Phật, đỉnh lễ và hỏi:

    - Vì sao người kia không báo ân mà còn bội ước với thần cây?

    Đức Phật đáp:

    - Thuở xưa, vào thời Đức Phật Duy-vệ, có ba cha con nhà nọ. Người cha vâng giữ năm giới, thực hành mười điều thiện, thụ trì bát quan trai, chưa lúc nào lười bỏ. Người con lớn thường ra giữa sân đốt hương cúng dường mười phương chư Phật. Người con kế ngu si, không biết Tam bảo, liền lấy áo phủ lên đống hương.

    Lúc ấy, người anh nói: ‘Việc này rất quan trọng, sao em dám xúc phạm?’. Người em sinh lòng ác, nên thề chặt hai chân của người anh. Người anh lại nghĩ: ‘[I]Ta sẽ giết đứa em này[/I]!’. Người cha nghe hai anh em cãi bèn nói: ‘Hai con cãi nhau làm cha đau đầu quá!’ Người anh đáp: ‘Con xin đem thân này làm thuốc chữa bệnh đau đầu cho cha!’.

    Một lời nói ra không bao giờ mất, vì thế mà đời đời thường chịu tội. Người em vì sinh ác ý muốn chặt chân anh, nên về sau dẫn người đến chặt cây. Người anh nay là thần cây, vì muốn giết em, nên mượn thân cây đập chết người em. Vị vua bị bệnh đau đầu chính là người cha. Vì giữ giới tinh chuyên nên được tôn quý. Nhưng vì lúc trước nói: ‘Làm ta đau đầu’, nên chịu quả báo bị đau đầu. Như vậy, mỗi người theo khẩu nghiệp đã tạo mà chịu quả báo của mình.

    Đức Phật dạy tiếp:

    - Tội phúc, báo ứng như bóng theo hình.

    Đức Phật lại nói các giới thuộc về thân, miệng, ý. Ca-la-việt nghe Phật dạy như thế, liền chứng quả Tu-đà-hoàn. Ông dẫn vợ con, đem gia nghiệp dâng cúng Phật. Mọi người đều phát nguyện theo đạo.

    Đức Phật nói kinh ấy rồi, Ca-la-việt hoan hỉ đỉnh lễ .

    ----------------------------------------------------------------------

    Chú Thích:
    [1] Pháp kiều 法橋: chiếc cầu pháp. Giáo pháp Đức Phật có khả năng đưa người qua sông sinh tử, giống như cây cầu đưa người qua bờ bên kia.
    Last edited by chi2730; 11-11-2012 at 05:52 PM.
    Cầu sanh Tây Phương!.

  3. #3

    Mặc định

    Hay qua ban:D

  4. #4

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. VÌ SAO PHẬT GIÁO SUY TÀN TẠI ẤN ĐỘ
    By Bin571 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 24
    Bài mới gởi: 20-10-2022, 08:20 AM
  2. Cuốn: NHỮNG BÍ ẨN CUỘC ĐỜI
    By chiencsb in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 12
    Bài mới gởi: 08-06-2015, 10:42 PM
  3. Tìm kinh!
    By Nhất Niệm in forum Đạo Phật
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 22-10-2012, 09:14 PM
  4. Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 11-06-2012, 02:39 PM
  5. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 26-06-2011, 11:42 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •