kết quả từ 1 tới 9 trên 9

Ðề tài: Lạ kỳ chuyện tìm mộ bà tổ làng gốm Chu Đậu

  1. #1

    Mặc định Lạ kỳ chuyện tìm mộ bà tổ làng gốm Chu Đậu

    Lạ kỳ chuyện tìm mộ bà tổ làng gốm Chu Đậu

    Người con gái giả trai trong gia phả họ Bùi

    Câu chuyện bắt đầu từ lá thư của ông Makoto Anabuki, Bí thư Văn hóa Đại sứ quán Nhật Bản gửi cho Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng (cũ) nhờ tìm xuất xứ một chiếc bình gốm. Theo thư của ông Makoto, năm 1980, khi công tác ở Thổ Nhĩ Kỳ, ông được chiêm ngưỡng một bình gốm được coi là quốc bảo tại Bảo tàng Topkapi Saray Istanbul. Chiếc bình được mua bảo hiểm 1 triệu USD. Trên lớp tráng xanh da trời và trắng của bình gốm tinh xảo đó có khắc 13 chữ Hán: "Thái Hòa bát niên, Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị Hý bút" (Dịch là: Năm Thái Hòa thứ 8 (1450), tại châu Nam Sách, nghệ nhân Bùi Thị Hý viết/vẽ/tạo).


    Con rồng trong mộ bà Bùi Thị Hý.



    Khi đó, nhà khảo cổ Tăng Bá Hoành đang phụ trách Ban Thông sử của UBND tỉnh Hải Hưng (cũ) đã được đồng chí Bí thư Tỉnh ủy giao trọng trách đi tìm xuất xứ. Khi đó làng Chu Đậu (Thái Tân, Nam Sách, Hải Dương) chỉ được biết đến với nghề dệt chiếu cói nên công việc tìm kiếm gặp muôn vàn khó khăn. Từ việc gạn lọc thông tin để xác định Bùi Thị Hý là nam hay nữ; hàng chục năm tìm hiểu, nhiều cuộc khai quật xác định Chu Đậu là làng gốm cổ... nhờ sự tình cờ tìm được hậu duệ của dòng họ Bùi với cuốn gia phả, ông Tăng mới xác định được danh phận chính xác của bà Bùi Thị Hý.

    Theo đó bà Bùi Thị Hý (1420 -1499) là cháu ngoại của cụ Bùi Quốc Hưng - khai quốc công thần đời Lê cùng với danh nhân Nguyễn Trãi. Bà Hý có biệt tài viết chữ và vẽ đồ gốm rất đẹp, từng giả nam đi thi đại khoa đến tam trường thì bị phát hiện. Về sau, bà lấy đại chủ Đặng Sỹ, là chủ lò gốm Chu Trang (tức là gốm Chu Đậu bây giờ) và giàu nổi tiếng đương thời. Sau 26 năm tìm kiếm, nhà khảo cổ Tăng Bá Hoành mới xác định được khá đầy đủ nhân thân bà Bùi Thị Hý. Tuy nhiên, vẫn còn một bí ẩn cuối cùng: Mộ của bà Bùi Thị Hý ở đâu?

    Bí mật cuối cùng

    Thấy niềm đam mê được vén bức màn bí ẩn hàng trăm năm lịch sử làng gốm cổ của ông Hoành, họ Bùi cho ông xem kho đồ gốm tổ tiên truyền lại. Ông Hoành đọc được trên một cái mâm đồng toàn bộ bản sao văn bia mộ chí của bà Bùi Thị Hý. Bản sao gồm 379 chữ được chép lại vào thời Bảo Đại. Dòng đầu tiên ghi rõ "Kỳ tài phu nhân Bùi Thị Hý chi mộ". Nội dung văn bia cho biết, chồng bà Hý là Đặng Sỹ trong một lần đi giao hàng trên biển đã bị tai nạn bỏ mạng, bà Hý tái giá với ông Đặng Phúc cũng là một đại gia ở Chu Đậu.

    Sau khi tái giá, bà cùng với chồng chỉ huy các thuyền xuất khẩu gốm Chu Đậu sang các nước phương Tây. Cuối đời, bà về công đức tiền của làm đình, chùa Viên Quang. Ông Hoành và gia đình tìm về chùa Viên Quang thì được biết đình và bia ở đình có ghi tiểu sử của bà Hý đã bị phá từ lâu, chỉ còn một cây thiên đài để thắp hương có nhắc đến tên bà nhưng không có thông tin gì hé mở về nơi chôn cốt.


    Chiếc bình cổ lưu lạc ở Thổ Nhĩ Kỳ.



    Tình cờ ông Hoành phát hiện một dòng chữ Hán trên ngai thờ ở nhà thờ họ ghi "Mộ ở xứ Thượng Đường" (nay là thôn Quang Tiền, xã Đồng Quang, huyện Gia Lộc). Ngày 10/1/2009, hậu duệ của bà Hý đã đào tìm và phát hiện được một số vật yểm và viên gạch đất nung màu hồng nhạt, nhẹ lửa, bị mẻ một góc có ghi những thông tin quan trọng về mộ chí của bà Bùi Thị Hý, gồm thông tin về nơi chôn và những đồ tùy táng, trong đó có một con rồng bằng đất nung cao khoảng 70cm.

    Bí ẩn được hóa giải

    Theo những thông tin có được, ông Hoành và gia đình tìm tới ngã ba sông Định Đào thì nơi đó bây giờ đã thành ao. Dò hỏi người dân trong vùng, tìm ra những người đào ao thuở trước, họ cho biết khi đào đất khu vực đó đã tìm thấy một con rồng rất lớn, cao khoảng 70 cm bằng đất nung. Khi những người thợ đào ao về ăn cơm trưa thì con rồng đặt cạnh bờ ao đã bị ai đó lấy mất. Sau hơn một tháng kiên trì tìm kiếm, cuối cùng, ông Hoành và gia đình họ Bùi cũng tìm được một người dân ở xã Quang Tiến thấy con rồng đẹp đã bê về chơi. Ông Hoành chụp lại ảnh con rồng mang đi đối chiếu thì thấy đúng là mẫu rồng Nam Sơn.

    Tiếp theo chỉ dẫn ở viên gạch đất nung, ngày 4/4/2009, nhân ngày Thanh Minh, gia tộc họ Bùi tổ chức khai quật và tìm thấy bia mộ chí của nữ tài và một số hiện vật quý tại gò Hình Nhân nổi giữa ao của gia đình
    Ông Hoành chia sẻ: "Thường thì bia mộ chí ở đâu thì mộ ở đó. Vì thế tôi đã dự đoán rằng mộ của nữ tài Bùi Thị Hý cũng nằm ngay trên mảnh đất Hình Nhân của gia đình ông Lợi. Đúng thời điểm đó, một sự trùng hợp ngẫu nhiên đáng kinh ngạc, ban liên lạc dòng họ Phí toàn quốc từ Hà Nội xuống tìm tôi nhờ tôi giúp cho việc nhận họ hàng với họ Bùi ở Gia Lộc.


    Nhà khảo cổ học Tăng Bá Hoành.



    Ngược dòng lịch sử, năm 1304, cụ Phí Mộc Lạc làm quan ở nội triều nhà Trần rất được trọng dụng và tín nhiệm. Thế nhưng, Thượng hoàng Trần Nhân Tông nói họ Phí ít người biết đến, hơn thế chữ "Mộc lạc" lại có nghĩa là cây đổ, cây gẫy nên không tốt. Vì thế Thượng hoàng đổi họ tên cho cụ Phí Mộc Lạc thành Bùi Mộc Đạc. Từ "mộc đạc" nghĩa là cái mõ, ý là nổi tiếng. Từ đó, rất nhiều chi nhánh họ Phí tự động chuyển theo sang họ Bùi. Cụ Bùi Quốc Hưng, ông ngoại của bà Bùi Thị Hý, chính là hậu duệ của cụ Bùi Mộc Đạc".

    Ngày 9/9 năm Kỷ Sửu (tức 26/10/2009), dòng họ Bùi khởi công xây mộ cho bà cô tổ. Theo sự tư vấn của ông Hoành, ông Lợi đã cho tát cạn nước ao và mời cán bộ của Bảo tàng tỉnh xuống chứng kiến. Đến khoảng 12 giờ trưa thì tìm thấy mộ phần của bà Bùi Thị Hý cạnh nơi tìm được bia mộ chí. Hòn gạch đậy trên mộ được mang về Bảo tàng Hải Dương có ghi "Tẫn cốt tổ cô Bùi Thị Hý nội bình đồng Vọng Nguyệt bảo kiếm" (Dịch: Tro xương tổ cô Bùi Thị Hý trong bình cùng thanh kiếm của bà - Vọng Nguyệt là tên hiệu của bà Hý). Dòng cuối ghi "Vị Nhuận Cần mật táng" (Dịch: 3 ông Vị, Nhuận, Cần - 3 ông trưởng chi - chôn bí mật). Mộ nằm trong nhiều tầng lớp đồ gốm, xây theo đúng hình nhân.


    Mặt dưới của viên gạch đậy lên miệng lỗ để yểm trong khi đào tìm bia đá cụ Hý tại Hình Nhân sáng ngày 10/3/2009.


    Phát hiện bất ngờ

    Liên quan đến bà tổ nghề gốm Chu Đậu tài hoa Bùi Thị Hý, ngoài 2 cổ vật quý giá là cái đĩa và con nghê có thủ bút của bà đã nhắc đến trước đó, ngày 14/4/2009, ông Lợi còn cung cấp cho ông Tăng Bá Hoành một phiến đá nhỏ có chữ Hán, nằm lẫn trong đống đá tảng ở đầu nhà. Ông Hoành đã xuống tận hiện trường xem xét và xác định đó là chiếc la bàn đi biển của bà Bùi Thị Hý.

    Chiếc la bàn hình vuông, kích thước 17x17x7cm, trên có chữ "Châm bàn chu hải khứ, Bùi Thị Hý" (Dịch: Bàn kim chỉ đường đi cho thuyền biển của Bùi Thị Hý). Ở giữa la bàn gạch chữ thập, ghi chữ Bắc, Đông, mất chữ Nam, Tây. Giữa la bàn có 1 lỗ rộng 1,4cm, sâu 1,5 cm, giữa lỗ còn có một lỗ nhỏ 2mm, khoét sâu xuống để đặt kim nam châm. Bàn của la bàn bằng đá cẩm thạch được mài nhẵn mặt trên. Đây là hiện vật vô cùng quan trọng, xác nhận bà Bùi Thị Hý là người đi biển ở thế kỷ XV.

    Ông Hoành khẳng định: "Những hiện vật này không chỉ là bảo vật của gia đình ông Lợi mà còn là bảo vật của quốc gia, cần được bảo vệ và giữ gìn. Trong ít ngày tới, cùng với dòng họ Bùi và dòng họ Phí, chúng tôi sẽ tổ chức một hội thảo khoa học để công bố toàn bộ tư liệu khảo cổ học quan trọng này”.

    Bia mộ chí của bà Bùi Thị Hý có kích thước dài 39,7cm, rộng 37cm, dày 11cm có nội dung ghi như trên chiếc mâm đồng mà họ Bùi còn giữ. Cách bia chừng 3m có một vật yểm thứ 2, lâu đời hơn, gồm một đĩa, một bát, một chén và một hộp sứ nhỏ, úp lên một đĩa nhỏ. Trong đĩa có đồng tiền Hồng Đức thông bảo. Xung quanh gò và ao có nhiều phế tích gốm theo truyền thống Chu Đậu, cùng bao nung, xỉ lò, con kế, song, ắc bàn xoay. Đó là những hiện vật chứng tỏ một lò gốm cổ đã tồn tại ở đây vào thế kỷ XV - XVI.


    Chiến Nguyễn
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  2. #2

    Mặc định

    Thật Hạnh phúc cho một dòng Vinh quang, một dân tộc anh hùng. Xin cảm ơn các tác giả.

  3. #3

    Mặc định

    Bác Bin571, em không biết nói sao, nhưng cảm giác khi đọc tới bài này tự dưng Chữ bà tổ cô Bùi Thị Hý bổng dưng em thấy có cảm giác thân quen, em không phải là ngừoi miền Bắc, em là ngừoi hoa lai, em họ Lý nhưng nó có cảm giác rất lạ và thân quen vô cùng.Rất cám ơn Bác đã đăng bài này
    Gia Đình Vô Hình

  4. #4

    Mặc định

    Cám ơn tác giả đã cho đệ thêm một hiểu biết thêm về quá khứ xa xưa, của môt dòng tộc vn,trong nghề làm gốm nổi danh thời bấy giờ

  5. #5
    Nhất Đẳng Avatar của Milkyway1736
    Gia nhập
    Mar 2010
    Nơi cư ngụ
    CÔNG TÁC NƠI TRẦN GIAN
    Bài gởi
    1,250

    Mặc định

    cảm ơn bác đã post bài này lên cho mọi người đọc
    Đời là một giấc mộng dài...
    Rác của người này là báu vật của kẻ khác.

    DD:X9X3X9X6X7
    "NHẤT CHỈ CUỒNG PHONG"

  6. #6

    Mặc định Bí mật ngôi mộ cổ

    Bí mật ngôi mộ cổ10:03, 26/10/2010



    Người phụ nữ Việt Nam nào là tác giả chiếc bình được bảo hiểm cả triệu đôla đặt ở Bảo tàng Hoàng gia Thổ Nhĩ Kỳ? Người phụ nữ Việt Nam nào là sư tổ của một dòng gốm mà nói như bà Dessagodard - Giám đốc ngành nghệ thuật châu Á của Tập đoàn đấu giá Befterfields tại San Francisco Mỹ rằng: "Việc phát hiện dòng gốm Chu Đậu, đang trả lại cho Việt Nam một chương trong di sản nghệ thuật mà người ta từng nghĩ đã hoàn toàn biến mất"?


    Kỳ I: Lá thư đến từ viễn xứ

    Ngày 10/6/1980, một lá thư từ cán bộ ngoại giao người Nhật gửi cho ông Ngô Duy Đông - Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng (Hải Dương và Hưng Yên hiện tại) với nội dung:

    "Kính gửi: Ông Ngô Duy Đông - Bí thư Tỉnh ủy Hải Hưng.

    Thưa ông, tên tôi là: Makoto Anabuki, hồi trước là Bí thư thứ 2 của Đại sứ quán Nhật Bản, nay là cán bộ ngoại giao Nhật Bản tại Tokyo.

    Trước hết tôi xin kính chúc tỉnh Hải Hưng đang phát triển mạnh mẽ trong ngành nông nghiệp, nhất là ao cá Bác Hồ, đem lại hiệu quả kinh tế cao và sản xuất rau cải được tăng lên.

    Hôm nay tôi xin nhờ sự giúp đỡ của ông về việc sau đây:

    Từ trước đến nay tôi nghiên cứu về văn hóa Việt Nam nói chung, đồ gốm cổ Việt Nam nói riêng. Gần đây, tôi mới biết là Viện Bảo tàng Thổ Nhĩ Kỳ vẫn bảo tồn 1 lọ hoa lam Việt Nam đã được sản xuất từ Việt Nam hồi thế kỷ XV, thế kỷ XVI.

    Lọ ấy mang chữ Hán như sau: Thái hòa bát niên nam sách châu tượng nhân Bùi Thị Hý bút. Mười ba chữ Hán nói trên có nghĩa là: Năm 1450, một người thợ tên là bà (cô) Bùi Thị Hý ở Nam Sách châu vẽ hoa văn trên lọ.

    Theo tôi biết thì thời Việt Nam thuộc nhà Minh chia nước Việt Nam thành 17 phủ (tổ chức hành chính), trong đó có Lạng Giang phủ. Lạng Giang phủ có 3 châu là Lạng Giang châu, Thượng Hồng châu và Nam Sách châu. Trong Nam Sách châu có 3 huyện là Thanh Lâm huyện, Chí Linh huyện và Bình Hà huyện. Có nghĩa là phạm vi của Nam Sách châu hồi đó là trung phần và bắc phần của tỉnh Hải Dương.

    Dưới thời Vua Lê Lợi (Lê Thái Tổ) thì chia Việt Nam thành 5 đạo (Đông, Bắc, Tây, Nam, Hải Tây). Dưới thời Lê Nhân Tông thì tổ chức hành chính như thế nào, chúng tôi không có tư liệu để điều tra. Có lẽ không thay đổi tổ chức hành chính của hồi Lê Thái Tổ, vì lúc Vua Lê Nhân Tông tức vị mới được 2 tuổi.

    Dưới thời Lê Thánh Tông thì đặt 12 đạo, trong đó có Nam Sách đạo và sau năm 1490, vua đó đã cải biến tổ chức hành chính và Nam Sách đạo đã trở thành Hải Dương xứ.

    Vậy tôi muốn biết thời Lê Nhân Tông có Nam Sách châu không? Ở đâu? Bà (hay là cô) Bùi Thị Hý là người như thế nào? Học kỹ thuật vẽ trên gốm ở đâu? Hồi đó sản xuất gốm (lò gốm) đặt ở đâu?

    Điều này rất quan trọng trong lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử thủ công nghiệp và vai trò của đàn bà nói riêng.

    Xin ông chỉ thị cho những chuyên gia nghiên cứu 13 chữ Hán nói trên và nếu có kết quả thì xin cho tôi biết qua Đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Nội (hộp thư số 49 Hà Nội).

    Hơn nữa nếu được thì xin giới thiệu cho tôi những chuyên gia khảo cổ học và mỹ thuật, nghệ thuật ở tỉnh Hải Hưng để trao đổi ý kiến với nhau.

    Xin cảm ơn ông!

    Nay kính

    M.ANABUKI

    Cán bộ Bộ Ngoại giao”.

    Chiếc bình cực kỳ quý giá này được lưu giữ ở Bảo tàng Hoàng gia Topkapi, nguyên là một cung điện cực kỳ nguy nga lộng lẫy của Thổ Nhĩ Kỳ được xây dựng vào năm 1465 - 1487, một biểu tượng kỷ nguyên vàng nằm trong thành phố Istanbul cổ kính nguy nga và tráng lệ của các hoàng đế Ottoman. Chiếc bình gốm hoa lam quý giá này được mua bảo hiểm với giá 1 triệu USD chứng tỏ nó không chỉ là bảo vật của Thổ Nhĩ Kỳ mà còn là của cả ngành gốm thế giới.


    Chiếc bình triệu đô ở bảo tàng Thổ Nhĩ Kỳ.


    Lúc ông Anabuki tham quan, nó vẫn được chú thích một cách rất hồn nhiên là gốm của Trung Quốc (TQ). Sự hồn nhiên đó cũng có lôgíc ở chỗ TQ là cái nôi của gốm sứ thế giới và những chữ in trên bình là chữ Hán. Tuy nhiên, ông Anabuki đã ngờ ngợ khi đọc 13 chữ Hán kia và quyết tâm tìm ra ngọn nguồn của Nam Sách châu là ở đâu? Bùi Thị Hý là ai? Cuối cùng, sau khi tra nát sử sách, ông mới biết Nam Sách châu ở Việt Nam. Vốn là một người có cảm tình với xứ sở hình chữ S, ngay từ hồi bao cấp phong tỏa gắt gao nhất, ông vẫn viết thư cho Bí thư Ngô Duy Đông với một hy vọng lấp ló cuối đường hầm.

    Thông tin từ người Nhật như một tia sáng mạnh từ phương xa dội về khiến ông Bí thư nổi tiếng một thời Ngô Duy Đông, người nổi tiếng là thân dân và có tư duy cải cách nông nghiệp như Bí thư Kim Ngọc của Vĩnh Phú không thể ngồi yên.

    Năm 1983, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Hải Hưng, đề án nghiên cứu nghề cổ truyền gốm sứ mà đặc biệt là gốm Chu Đậu được tiến hành. Qua sự nghiên cứu, điền dã, sưu tầm và nhiều lần khai quật của Bảo tàng Hải Dương cùng các cơ quan chức năng ở trong nước cũng như ở nước ngoài đã làm phát lộ một trung tâm gốm mỹ nghệ cao cấp với hàng ngàn mẫu mã gốm Chu Đậu như bát, đĩa, bình lọ cùng những dụng cụ sản xuất như bao nung, con kê, lò đốt...


    Ngôi mộ cổ của bà Bùi Thị Hý nằm giữa một cái ao lớn.


    Tựa như nàng công chúa ngủ trong rừng được đánh thức, những gì tinh túy nhất của mấy trăm năm trước từ trong lòng đất Chu Đậu bỗng một ngày tỉnh dậy, rủ rỉ kể chuyện xa xăm. Sự kiện này làm kinh ngạc các nhà sử học, khảo cổ học, học giả trong và ngoài nước và cũng làm sửng sốt ngay cả với người dân làng Chu Đậu.

    Thì ra gốm Chu Đậu đã lưu lạc đến 32 nước trên thế giới - đến nay còn nhiều vạn cổ vật quý giá đang được lưu giữ ở khắp các châu lục, có mặt ở 46 bảo tàng danh tiếng trên thế giới từ châu Á sang châu Âu. Hàng loạt sự kiện tiếp theo của dòng gốm này làm bàng hoàng cả giới sưu tầm, nghiên cứu gốm sứ toàn cầu. Gốm cổ Chu Đậu được trục vớt từ những con tàu đắm ở dưới đáy biển Việt Nam (Cù Lao Chàm, Hòn Dầm, Hòn Cau, Bình Thuận và Cà Mau).

    Đặc biệt là con tàu đắm ở Cù Lao Chàm - Đà Nẵng. Với 18 nước hợp tác trục vớt trong 2 năm (1998 - 2000) đã trục vớt được từ trong con tàu đắm này hơn 40 vạn cổ vật gốm sứ Chu Đậu từ thế kỷ XV. Trong hơn 40 vạn cổ vật đó có 27 vạn cổ vật còn lành, ngoài phần lưu lại cho Việt Nam 10% thì 24 vạn cổ vật mà tập đoàn trục vớt được đã mang về San Francisco và Los Angeles ở Mỹ để bán đấu giá. Theo số liệu thống kê của nhà bán đấu giá ở Mỹ, cổ vật giá thấp nhất cũng không dưới 1.000 USD, có chiếc bình gốm tỳ bà cổ Chu Đậu cao 24cm được các nhà sưu tầm kiên quyết tranh mua, đẩy giá lên tới 512.000USD.


    Chiếc đầu rồng trấn yểm của bà Bùi Thị Hý.


    Có thể nói con tàu đắm này là một kho báu, quảng bá cho tinh hoa văn hóa xứ Đông nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung ra toàn thế giới. Nói như bà Dessa Godard - Giám đốc ngành nghệ thuật châu Á của Tập đoàn đấu giá Befterfields tại San Francisco rằng: "Việc phát hiện dòng gốm Chu Đậu, đang trả lại cho Việt Nam một chương trong di sản nghệ thuật mà người ta từng nghĩ đã hoàn toàn biến mất".

    Mấy chục năm với những bằng chứng được coi là chấn động, đảo lộn mọi suy nghĩ về gốm sứ của thế giới, buộc nhiều nhà nghiên cứu gốm sứ nhất loạt phải chắp tay thốt lên rằng: "Nhất sứ Giang Tây (TQ), nhất gốm Chu Đậu". Nhất - ở đây là hàng đầu, là đỉnh cao của thế giới. Một sự so sánh quả thực trước đó kể cả những người bạo gan nhất của ngành gốm sứ Việt Nam cũng chẳng bao giờ dám mơ giữa ban ngày. Tuy nhiên, mấy chục năm sau bức thư của ngài Anabuki, việc tìm ra chủ nhân của chiếc bình hoa lam mà nói rộng là một trong những sư tổ của nghề gốm Chu Đậu vẫn không khác gì “mò kim đáy bể”.

    Mười ba chữ Hán trên chiếc bình hoa lam cứ như một mật mã khó hiểu, đánh đố giới khoa học dù ngay trong lá thư này, ông Anabuki đã dịch rằng, đấy là một phụ nữ, tên là Bùi Thị Hý tạo tác. Ông đề nghị các nhà khảo cổ học và nghiên cứu nghệ thuật cho biết tiểu sử của bà Bùi Thị Hý, người học nghề làm đồ gốm ở đâu mà sáng tạo nên tác phẩm xuất sắc như vậy. Ông cũng không quên nhắc rằng đây là vấn đề quan trọng về thủ công nghiệp và thương nghiệp của Việt Nam ở thế kỷ XV, đặc biệt là vai trò của người phụ nữ. Tuy nhiên các nhà khoa học ở ta lại nghĩ theo một xu hướng khác hẳn.

    Phó Giáo sư - Tiến sĩ Trịnh Sinh, Viện khảo cổ học: "Gốm Chu Đậu có vẻ đẹp của Chu Đậu, sứ Giang Tây (TQ) có vẻ đẹp của Giang Tây. Việc chiếc bình gốm hoa lam được trưng bày trang trọng ở Bảo tàng hoàng gia Thổ Nhĩ Kỳ và hàng loạt đồ Chu Đậu ở các bảo tàng danh tiếng trên thế giới cùng với sự phát hiện các con tàu đắm chứa đầy gốm Chu Đậu ở dọc dài bờ biển Việt Nam được giới khảo cổ trong và ngoài nước đánh giá rất cao.

    Nó chứng tỏ sự giao thương của đồ gốm Việt Nam ra thế giới đã có từ rất xưa. Dân ta hồi đó đã giỏi đi biển, đã khẳng định chủ quyền biển Đông, biết dựa vào các dòng hải lưu, các cơn gió mùa để đưa hàng hóa đi khắp thế giới, nhất là trục Đông - Tây. Tự hào biết mấy!".


    Theo ông Tăng Bá Hoành, Chủ tịch Hội Sử học Hải Dương, trước khi nhận được lá thư của ông Anabuki, các nhà sử học trong tỉnh đã sưu tầm được nhiều đồ gốm hoa lam và men đa màu lưu ở kho bảo tàng tỉnh từ những năm 60 của thế kỷ XX. Hiện vật tương tự cũng có ở một số bảo tàng trong nước, trong đó không ít tác phẩm của Đặng Huyền Thông, ghi rõ quê quán, ngày tháng năm sản xuất, nơi đặt hàng, người đặt hàng, hầu hết tập trung vào đời Mạc Mậu Hợp (1563 - 1593) nhưng trong nhiều năm vẫn chưa tìm ra nơi sản xuất.

    Nhận được thông tin từ Anabuki do Tỉnh ủy chuyển đến, việc nghiên cứu mới thực sự tích cực, nhất là từ khi Ban Thông sử Hải Hưng thực hiện chuyên đề Nghề cổ truyền. Đây là cơ hội để tìm di chỉ sản xuất đồ gốm cổ. Sau 10 năm điền dã, nghiên cứu, kết quả là không chỉ tìm ra trung tâm gốm mỹ nghệ Chu Đậu mà tới 14 trung tâm khác trên địa bàn Hải Hưng khi đó... Tuy nhiên, để giải mã 13 chữ Hán trên bình gốm hoa lam nói trên, phải mất đằng đẵng ngót 30 năm...

    Nam Sách châu do nhà Minh đặt liệu còn tồn tại đến niên hiệu Thái Hòa (1443 - 1453), khi mà sau kháng chiến chống Minh, Lê Lợi đổi hai phủ Lạng Giang và Tân An, nguyên là Lộ Hồng và Nam Sách thời Trần thành Đông đạo? “Đại Nam nhất thống chí” cho biết, đến đời Diên Ninh (1454-1459) mới đổi thành Nam Sách Thượng Hạ Lộ. Vậy thời Thái Hòa vẫn tồn tại Nam Sách châu. Như vậy 9 chữ đầu đã được giải mã và khẳng định tác giả viết đúng niên hiệu và địa danh đương thời. Đặc biệt hóc búa là 4 chữ cuối: "Bùi Thị Hý bút", nhiều học giả hiểu rất khác nhau. Đó quả thực là một cái bẫy. Ngôn ngữ vốn nhiều nghĩa trong những ngữ cảnh khác nhau, nhất là chữ Hán nên nhiều học giả nổi danh vẫn bị sa bẫy như thường.

    "Bùi Thị Hý bút" phần lớn học giả ở Hà Nội, dịch là: Ông họ Bùi, vẽ chơi. Hồi mồ ma một giáo sư sử học họ Trần nổi tiếng, vị giáo sư này đã rất hùng hồn rằng phải đọc là Bùi Thị (tức là ông họ Bùi), phẩy, hý bút (tức là vẽ chơi), như thế mới tường minh!


    Những cổ vật liên quan đến bà Bùi Thị Hý.


    Lại có nhiều học giả lập luận cũng rất thuận tai rằng thời phong kiến nhất là ở thế kỷ XV nạn trọng nam khinh nữ vô cùng khắc nghiệt nên phụ nữ không có tên tục mà chỉ có tên hiệu, cũng chẳng ai là phụ nữ mà dám "ký tên" lưu danh mình trên những sản phẩm buôn bán cả.

    Lắm luận văn tiến sĩ khảo cổ học, nhiều sách chuyên khảo về gốm sứ, đến nay vẫn để nguyên như thế. Ngược lại, các nhà sử học địa phương mà tiêu biểu là ông Tăng Bá Hoành, Chủ tịch Hội Sử học Hải Dương hiểu khác. Cách hiểu khá tương đồng với ông cán bộ ngoại giao Nhật, đã dịch là: Bùi Thị Hý vẽ.

    Cơ sở của nó theo ông Hoành trong lịch sử dù hiếm, vẫn tìm được không ít phụ nữ được ghi tên trên đồ gốm, với tư cách là tác giả. Để gây chú ý về vấn đề này, cánh ông Hoành giới thiệu lại sự kiện trên tại tạp chí Khoa học và ứng dụng của Liên hiệp Hội khoa học Hải Dương vào tháng 5/2005 những mong cầu một chiếc chìa khóa hé mở cánh cửa bí mật




    Xứ Đoài
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  7. #7

    Mặc định

    Bí mật ngôi mộ cổ: Chiếc "chìa khoá vàng"
    2:50, 01/11/2010




    Tảng đá có lỗ nguyên là la bàn đi biển của bà Bùi Thị Hý.


    Trong khi việc giải mã 4 chữ cuối trên chiếc bình hoa lam triệu đô vẫn giậm chân tại chỗ theo xu hướng "sư nói sư phải, vãi nói vãi hay" thì chiều 29/5/2006 là ngày tìm được chiếc "chìa khóa vàng" để giải mã vấn đề trên.


    Khi đó ông Tăng Bá Hoành - Chủ tịch Hội Sử học Hải Dương nhận được 7 trang gia phả của gia tộc nữ tài Bùi Thị Hý, ở trang Quang Ánh, huyện Gia Phúc, nay là thôn Quang Tiền, xã Hồng Quang, huyện Gia Lộc (Hải Dương) do ông Bùi Xuân Nhạn và Bùi Đức Lợi là hậu duệ cung cấp. Dưới đây là bản dịch:

    "Tháng giêng, đầu xuân, năm Bảo Đại Nhâm Thân (1932), hậu duệ 13 đời của họ là Lý trưởng Bùi Đức Nhuận, sao y như bản cổ. Thủy tổ là Bùi Đình Nghĩa, nguyên ở ẩn ở đất Minh Ngọc, Nam Xang, Bình Lục, Hà Nam, sinh năm Đinh Mão, thời Trần Đế Hiện Đại Vương, niên hiệu Xương Phù 11 (1387). Ông là con tướng quân Bùi Quốc Hưng, người phù tá Lê Thái Tổ bình giặc Ngô (Minh), nguyên quán ở làng Cống Khê, tổng Bột Xuyên, huyện Chương Đức, tỉnh Sơn Tây, nhập cư làng Quang Ánh năm Đinh Hợi, thời Trần Giản Định Vương, niên hiệu Hưng Khánh thứ nhất (1407). Ông bà sinh 2 người con tại Quang Ánh: Con thứ nhất là Bùi Thị Hý; không có con nối, bà là người thợ có tài làm bình gốm. Con thứ hai là Bùi Đình Khởi, sinh năm Quý Mão, thời Bình Định Vương năm thứ (1423).

    Thủy tổ Bùi Đình Nghĩa là người có chí lớn, dũng cảm, có tài phi ngựa, nổi tiếng mưu trí. Khi đất nước có biến, tổ phụng sự tổ quốc, tòng quân, khi lâm trận thì đi đầu đạo quân, khi vỡ trận thành Đông Quan, người chiến đấu oanh liệt, hy sinh lẫm liệt về sau không tìm được mộ táng. Thủy tổ có công lớn trong chiến trận, sau được Lê Thái Tổ điểm công danh, ban lộc quan điền 55 mẫu...

    Thuyết tích họ Bùi, trang Quang Ánh có nghề cổ làm sành sứ lâu đời, khởi nghệ do nữ tài Bùi Thị Hý. Bà là người có tài văn chương, chữ đẹp, kỳ tài về họa. Bà cải trang làm nam giới, thi tới tam trường, phạm quy, bị quan trường đuổi. Sau bà lấy chồng ở huyện Thanh Lâm, châu Nam Sách nhưng không có con. Người phụ nữ tài năng có nhiều con đường tiến thân, bà có nghề cùng với chồng là ông Đặng Sĩ, một chủ lớn về trang Quang Ánh vào năm Thái Hòa thập niên (1452) cùng em trai là Bùi Khởi chiêu tập người làm thuê, dựng lò, ở bắc trang, nơi ấy thuận đường thủy, gần sông Định Đào, giao thương với châu Nam Sách, chế tác những sản phẩm đặc biệt, cống hoàng triều, xuất cho nhiều thương nhân nước ngoài như Trung Quốc, Nhật Bản, phương Tây, trao đổi gấm vóc, gỗ từng, cá, gạo, vàng bạc. Từ đấy nghề thịnh đạt, năm này qua năm khác tài lộc tăng nhiều, gia đình họ hàng giàu mạnh, cùng nhau khởi dựng đình trang. Đến thời đất nước đại loạn, bọn hung tặc triệt phá, con cháu xiêu tán, không thể tác nghiệp, nghệ vinh suy vong, nghề hết".


    Thanh kiếm báu của bà Bùi Thị Hý trên tay người hậu duệ là anh Bùi Đức Hợi.


    Gia phả viết gọn, súc tích, chính xác về năm tháng. Từ gia phả trên mà biết được lý lịch của người phụ nữ đặc biệt này từ gia cảnh, lịch sử, đặc biệt là học vấn, nghề nghiệp gốm sứ, tình hình giao thương vượt biển thế kỷ XV. Người lập gia phả cực kỳ trân trọng khi gọi Bùi Thị Hý là nữ tài. Gia phả viết năm Bảo Đại Nhâm Thân (1932), do cụ Bùi Đức Nhuận, cháu 13 đời, trưởng chi 3, sao từ một gia phả cổ. Vậy gia phả cổ liệu có còn?

    Ngày 27/6, gia đình họ Bùi lại đem đến cho Hội Sử học đọc vài trang của gia phả cổ, viết năm Minh Mệnh 13 (1832), tức trước bản sao một thế kỷ, viết trên lụa. Đây là tư liệu rất quý, xác định cho sự chính xác của bản sao. Gia phả thứ hai này cho biết năm sinh (1420) của nữ tài và cho biết những tư liệu này sao từ một gia phả xưa và từ tấm bia cổ. Vậy tấm bia cổ này nay liệu còn? Cuộc truy tìm cứ thế mà diễn tiến.

    Ông Hoành nhớ lại: "Từ những dữ liệu này, chúng tôi suy ra một số vấn đề. Bà Bùi Thị Hý thi đến tam trường, phải chăng đây là kỳ thi tiến sĩ? Vậy kỳ thi ấy vào năm nào? Từ năm 1442 đến 1450, khi bà đã là nghệ nhân làm đồ gốm chỉ có 2 khoa thi: Nhâm Tuất (1442) và Mậu Thìn (1448). Người phụ nữ thời phong kiến 29 tuổi đã yên bề gia thất từ lâu. Vậy bà chỉ có thể dự kỳ thi tiến sĩ đầu tiên của triều Lê sơ (1442). Kỳ thi này Nguyễn Trãi làm độc quyển. Một người có tri thức và biệt tài làm đồ gốm như bà thì không thể chỉ có một minh văn (chữ viết) trên đồ gốm, có thể còn nhiều mà nay chưa biết".

    Ngày 12/8/2006, nhân ngày giỗ thứ 507 của bà, Hội Sử học Hải Dương, kết hợp với UBND huyện Gia Lộc và xã Đồng Quang tổ chức hội thảo về nữ tài Bùi Thị Hý qua di vật ở nước ngoài và 2 cuốn gia phả của họ Bùi nhằm bước đầu khẳng định vai trò của bà và những chủ nhân gốm Chu Đậu, đồng thời thúc đẩy việc tiếp tục sưu tầm những di vật có liên quan. Các nhà khoa học đã nhắc nhở hậu duệ của bà và Bảo tàng tỉnh là phải đặc biệt quan tâm đến những di vật có chữ Hán còn lưu ở trong gia đình và địa phương, nhất là đồ gốm, đồ gỗ, bia ký và sách vở xưa. Công việc này được anh Bùi Đức Lợi là hậu duệ 15 đời đặc biệt quan tâm và nhiệt tình sưu tầm. Sự tha thiết với tổ tiên của bậc cháu chắt ấy đã gặp những may mắn hiếm thấy.

    Sau một năm chờ đợi, ngày 16/5/2007, anh Lợi tìm được con nghê ở lò gốm cổ, nơi mà gia phả nói là do Đặng Sĩ xây dựng năm Thái Hòa thập niên (1452), cao 22cm, dài 27cm, đế rộng 6,5cm, phía đuôi có chữ viết, mang cho các nhà sử học nghiên cứu. Hình dáng cũng như chất liệu của con nghê này không có gì lạ vì có một số hiện vật tương tự ở những hố khai quật tại Chu Đậu và làng Cậy, điều quan trọng là 2 dòng chữ: "Quang Thuận nhất niên, Quang Ánh trang, Bùi Thị Hý tạo", có nghĩa hiện vật do Bùi Thị Hý, ở trang Quang Ánh, tạo vào năm Quang Thuận thứ nhất (1460). Đây là di vật vô cùng quan trọng để xác định vai trò của nữ tài Bùi Thị Hý. Dù là các đại nho cũng không thể dịch là ông họ Bùi nào đó tạo chơi được! Nhưng vận may không dừng ở đó.

    Ngày 10/7/2007, anh Lợi lại mang đến cho các nhà khoa học chiếc đĩa còn sống men, vốn là một phế phẩm bị người xưa loại bỏ ngay ở chân lò chứ không đưa vào buôn bán. Đĩa có đường kính 32,7cm, cao 7,8cm, đường kính trôn 14cm, chân cao 0,7cm; tạo dáng một bông hoa 12 cánh, hoa văn khắc chìm theo truyền thống Lý Trần. Giữa đáy có bông hoa 9 cánh, trong đường tròn đường kính 9cm. Trên sườn khắc hoa cúc liên hoàn, rất tinh tế, tỉa kỹ từng gân lá. Xương gốm vàng nhạt, hơi thô, men chưa chín nên thô ráp, chưa phản quang. Phía ngoài để trơn. Trôn quét son nâu nhạt. Đĩa này nếu nung chín sẽ có màu xanh nhạt, dễ nhầm với gốm Lý Trần.

    Hiện vật tương tự đã thấy ở lò Thanh Khơi (Trùng Khánh - Gia Lộc), ở Chu Đậu. Đặc biệt ở hiện vật này dưới trôn viết theo đường tròn sát chân đĩa 18 chữ Hán nét mảnh. (Diên Ninh nhất niên, Gia Phúc huyện, Quang Ánh trang, tỷ Bùi Thị Hý, đệ Bùi Khởi tạo). Có nghĩa là: Vào năm Diên Ninh thứ nhất (1454), tại trang Quang Ánh huyện Gia Phúc, chị là Bùi Thị Hý, em là là Bùi Khởi tạo (chiếc đĩa này). Các hiện vật này chúng ta có thể biết được khả năng mỹ thuật của nữ tài trên 3 loại hình: vẽ (hoa lam trên bình ở Thổ Nhĩ Kỳ - 1450), điêu khắc (con nghê - 1460 và sau là con rồng lớn ở ngã ba sông Định Đào), và khắc chìm (trên đĩa - 1454).


    Anh Lợi bên chiếc mâm đồng ghi bản sao mộ chí.


    Tiếp đó anh Lợi lại lễ mễ mang cho các nhà sử học chiếc mâm đồng đã han gỉ, đường kính 48cm, cháy một phần ở phía ngoài. Chiếc mâm vốn là đồ gia bảo, do bố anh Lợi cất giữ, thời chạy giặc Pháp, ngôi nhà xưa của gia đình bị đốt phá, chiếc mâm đồng bị một tảng tường đất đè lên, phía ngoài lửa liếm cháy nham nhở nhưng bên trong chữ còn vẹn nguyên. Sau khi cọ rửa và xát phấn, Hội Sử học đếm có 18 dòng, gồm 379 chữ, trong đó có một số chữ nôm. Đây là một bản sao bia mộ chí, có những thông tin vô cùng quý.

    Việc khắc văn bia mộ chí vào mâm đồng không phải có nguồn gốc ở Việt Nam mà từ thời Thương Chu ở Trung Quốc (thế kỷ IX trước CN), người ta đã ghi tiểu sử nhà vua thứ năm của nhà Chu vào một mâm đồng, chôn trong huyệt mộ, người Trung Quốc gọi là bàn sử (sử viết trên mâm). Các nhà sử học khôi phục toàn bộ văn bản như bản gốc và phiên dịch. Bản dịch mặt trước bia đá:

    TS Nguyễn Đình Chiến - Bảo tàng Lịch sử Việt Nam: "Gốm hoa lam xuất hiện đầu tiên tại Việt Nam ở đời Trần qua hiện vật phát hiện trong con tàu đắm thế kỷ XIV mà ngư dân Cà Mau vớt được. Đến hiện vật của con tàu đắm tại Cù Lao Chàm là một phát hiện hết sức độc đáo bởi xuất hiện nhiều đồ gốm khớp với dòng gốm Chu Đậu, khớp với cả dòng gốm Bát Tràng, gốm Thăng Long, tất nhiên ở đó Chu Đậu vẫn chiếm đa số.

    Về chuyện giải mã mười mấy chữ Hán trên chiếc bình hoa lam tại Thổ Nhĩ Kỳ, tôi vẫn nghiêng về cắt nghĩa chữ Bùi Thị Hý nghĩa là ông Bùi nào đó vẽ chơi chứ không phải Bùi Thị Hý là một nghệ nhân nữ có tên Bùi Thị Hý".


    "Mộ người vợ kỳ tài họ Bùi, tên huý là Hý". Hai dòng bên phải bia ghi: "Ngày 10 tháng 10 năm Cảnh Thống Nhâm Tuất (1502), phu quân (chồng) là Đặng Phúc lập bia. Phu nhân, sinh năm Canh Tý (1420), thời Bình Định Vương Lê Lợi". Dòng bên trái bia ghi: “Mất ngày 12/8 năm Cảnh Thống Kỷ Mùi (1499)”. Mặt sau ghi: "...Sau Đặng Sĩ (chồng trước) cùng những người làm thuê gặp nạn, chết ở biển Đông. Phu nhân tái giá lấy đại gia Đặng Phúc, người trang Chu (Đậu). Phu nhân là một trang nữ tài võ, thông văn, làm chủ thương đoàn (đi) Nhật Bản, Trung Quốc, phương Tây, đến nước ngoài buôn bán dặc phẩm (gốm, sứ).

    Thật buồn thay, phu nhân kỳ tài làm bình gốm mà lại không con. Sau về trang Quang Ánh, hưng công làm chùa, đình làng, làm thí chủ xây dựng nhà thờ họ; hưng công bắc cầu đá Đôn Thư, Lâm Kiều (ở bản huyện). Đến đêm 12, tháng 8 năm Kỷ Mùi (1499), trời đất cuồng phong, mưa gió, sấm chớp. Lạ thay, phu nhân nằm trong bình phong mà phát ra ánh sáng hồng như con rồng bay lên. Đoạn phu nhân hóa. Sau rất thiêng, ai có tâm cầu cúng, tất hiển ứng". Chú dẫn: Khi thời thế thay đổi, bia đá cổ huyệt tổ cô giữ ở đất thiêng, cấm chỉ mọi vi phạm".

    Gia phả chỉ cho biết bà lấy đại gia Đặng Sĩ, còn sau đó thế nào không rõ. Bia cho biết, ông Đặng Sĩ một lần chỉ huy đoàn tàu vượt biển buôn bán, gặp nạn, chết ở biển Đông cùng với thủy thủ đoàn. Sau đó bà tái giá lấy ông Đặng Phúc một ông chủ lò gốm Chu Đậu. Bà trở thành chủ thương đoàn, vượt biển buôn bán với nhiều chuyến đi Trung Quốc, Nhật Bản và Tây phương bán đồ gốm. Chi tiết này vô cùng quan trọng về ngoại thương của Việt Nam ở thế kỷ XV.

    Các nhà nghiên cứu kinh ngạc ở chỗ, trước họ nghĩ hàng hải Việt Nam xưa kém phát triển, chỉ có những thuyền thúng thuyền mủng hay thuyền gỗ nhỏ loanh quanh gần bờ gần vụng chứ ít dám nghĩ đến thương thuyền lớn với bộ sậu buồm, chèo khổng lồ có khả năng vượt biển Đông đến các quốc gia khác. Khi quan sát những sản phẩm gốm Chu Đậu có vẽ các chi tiết tàu vượt biển, họ thường đinh ninh đó là những hình ảnh do thủy thủ nước ngoài kể lại cảnh mình hay gặp trên biển cho thợ gốm Việt Nam nghe, sau đó các nghệ nhân ta tưởng tượng rồi vẽ lại.

    Qua tư liệu này, có thể nói, đó là hình ảnh trực quan của thủy thủ và thương nhân Việt Nam trên đường vượt biển, buôn bán với nước ngoài, trong đó có nghệ nhân Bùi Thị Hý "kể" về những sóng gió, vất vả khi bôn ba cùng những con sóng bạc đầu, những trận cuồng phong thịnh nộ của biển cả hay những quái thú, quái ngư của ngàn khơi. Điển hình là một đĩa hoa lam, đường kính 36cm, hiện lưu giữ trong một sưu tập ở Adilaide, Nam Úc. Lòng đĩa vẽ tích khá đặc biệt, 2 thuyền lớn, trên đường vượt biển, gặp gió lớn, buồm đã hạ xuống, trên mặt sóng xô dữ dội, có 3 thủy thủ rơi xuống nước, trong đó có 1 người đang bị một con cá khổng lồ đã nuốt đến thắt lưng. Cảnh tượng xám xịt một màu bi ai.




    Xứ Đoài
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  8. #8

    Mặc định Họ.

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nhìn Xem Bài Gởi
    Bác Bin571, em không biết nói sao, nhưng cảm giác khi đọc tới bài này tự dưng Chữ bà tổ cô Bùi Thị Hý bổng dưng em thấy có cảm giác thân quen, em không phải là ngừoi miền Bắc, em là ngừoi hoa lai, em họ Lý nhưng nó có cảm giác rất lạ và thân quen vô cùng.Rất cám ơn Bác đã đăng bài này
    Chào bạn! Theo các nghiên cữu mới nhất dựa trên các ngành khoa học, hoặc theo cổ sử thì Bách Việt từ bờ nam sông Dương tử trải dài từ Bắc giáp Động Đình hồ, tây giáp Ba Thục (1 phần tứ Xuyên ngày nay), Đông giáp Đông Hải, nam giáp Hồ Tôn (TL) do đó có thể khảng định bạn là người con của Bách Việt và những người dân tộc Hoa (Hoa Nam) đây là tên gọi chung của nhưng người sông ở Nam Dương tử đều là con dân Bách Việt.
    Thiên_Địa_Nhân

  9. #9

    Mặc định Re:

    Đây là những bằng chứng xác đáng về lịch sử văn minh của dòng Gốm nước nhà. Nếu không có ông "Ngoại Quốc" thì đến nay dân tộc chúng ta bị mất bản quyền về dòng Gốm nổi tiềng này. Ở đây chúng ta cần xem xét lại trách nhiệm của bản thân chúng ta cũng như trách nhiệm của những nhà khảo cổ, các nhà cổ sử họ luôn thấy mình không đủ tự tin, không đủ bản lĩnh, không đủ tài năng để xác định cũng như khẳng định lịch sử và văn minh Bách Việt. Có tác giả từng nói hầu hết "những nhà khoa học trong nước" và được ông ví là "Pha học" điều đó cũng không sai. Những kẻ mà theo ông luôn phủ nhận truyền thống, lịch sử và cội nguồn dân tộc điều này sẽ là 1 điều cực kỳ tệ hại cho dân tộc, nó được coi như chúng ta không có nguồn gốc "Thằng đầu đường xó chợ, thằng không cha không mẹ". Chúng ta sẽ là những kẻ nô lệ hết thế hệ này đến thế hệ khác trong mọi lĩnh vực cuộc sống và văn hóa.
    Last edited by Bin571; 06-11-2010 at 03:16 PM.
    Thiên_Địa_Nhân

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •