Trang 1 trong 3 123 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 60

Ðề tài: Tổng hợp về PHỞ - Món ăn Quốc Hồn của VN

  1. #1

    Mặc định Tổng hợp về PHỞ - Món ăn Quốc Hồn của VN

    100 NĂM PHỞ VIỆT
    .
    Sinh ra từ những năm đầu thế kỷ 20, Phở thăng trầm cùng người Việt xuyên suốt một thế kỷ đầy biến động hào hùng. Giờ đây, phở lại thăng hoa, phát triển đi lên cùng Việt nam. Không chỉ còn đơn thuần là một món ăn khoái khẩu, thực sự Phở đang trở thành “đại sứ ẩm thực” góp phần vinh danh văn hóa việt trong lòng bạn bè quốc tế. Cảm ơn trời đất cho tôi cái vinh dự có may mắn để viết về “100 năm phở Việt”, bởi lẽ phải chờ một thế kỷ sau, ai đó, mới lại có dịp điểm lại cuộc hành trình 200 năm của phở, món ăn đã được người đời ca tụng bằng đủ các hình thức nghệ thuật: thi văn, hội họa, điện ảnh, kịch nghệ. Một món ăn đầy ắp “bóng dáng, hương vị quê hương”. Món ăn việt của mọi thời gian!



    .
    PHỞ “THỰC LỤC”

    Nhiều người ngoại quốc đến Việt nam đều ngạc nhiên khi thấy bảng hiệu “cơm phở” dựng lên khắp mọi nẻo đường. Ai cũng vậy, ít nhất hơn một lần…họ tò mò muốn biết về món phở bởi sự nổi tiếng của nó trong thời kỳ Việt nam hòa nhập vào thế giới. Theo quy luật tự nhiên, Phở là một trong những đại biểu hàng đầu “ hữu xạ tự nên hương” trong văn hóa Việt đã được quốc tế hóa một cách tự nhiên, không chủ định, khi lọt vào Top 3 từ tiếng việt không cần dịch thuật: “Phở - Áo dài -Tết”! Nghiền phở, mê phở, rất nhiều người ngoại quốc đã tự nguyện trở thành “môn đồ” trung thành của phở từ lúc nào không hay! và hầu hết họ đều muốn tìm hiểu về cội nguồn phở, tuổi của phở, điều mà ngay cả đa phần người Việt cũng còn rất mơ hồ.

    Khởi nguồn của phở từng được tranh cãi triền miên, tốn khá nhiều giấy mực song vẫn chưa đến được hồi ngã ngũ. Hy vọng rằng bài viết này có thể giúp mọi người tìm được cho mình một kiến giải khách quan và chuẩn xác nhất, ngõ hầu quét sạch đi những khoảng tối còn chưa rõ về Phở. Giới Nho học nói nhiều đến nguồn gốc Trung hoa của Phở. Theo họ, Phở sinh ra từ món “Trư nhục Phấn” Quảng đông. Vẫn theo cái mô tip nghe đến nhàm tai: tiếng “Phở” được đọc trẹo đi từ chữ “phấn” của món Trư nhục phấn. Song thực chớ trêu, “Trư nhục phấn” đã có từ rất lâu và đến nay vẫn vậy, chỉ “âm thầm” khu trú một cách yên ả, khiêm tốn ở chính nơi nó sinh ra, không hề gây nên một tiếng vang nào và cũng như chẳng hề lan tỏa đi bất cứ đâu như Phở việt. Về kỹ thuật chế biến, nó hoàn toàn xa lạ với hương vị phở, thêm nữa thay cho bánh phở là một loại sợi bột gạo làm như kiểu bánh canh và nấu với thịt lợn! Xét một cách tổng thể, hai món này không thể có cùng gốc gác.

    Lại có một thuyết khác, thấy phở ngày càng được quốc tế hóa và nổi tiếng khắp nơi, liền cố vơ vào cho rằng phở có nguồn gốc “Phú Lang Sa”xa xôi, từ một món ăn pháp có tên “pot-au-feu” và phở chính là tiếng “bồi” của từ feu (tiếng pháp: lửa). Nghe ra có vẻ rất hợp logic, tuy nhiên khi tra cứu về món Pot-au-feu trong tự điển Larousse của Pháp, kết quả hoàn toàn thất vọng! Pot-au-feu là món súp nấu “hằm bà làng” bằng thịt bò hầm với nhiều loại rau củ: carốt, tỏi tây, củ cải vv… chẳng ăn nhập gì với món Phở việt, cả về hình thức đến nội dung. Hơn nữa về bản chất, pot-au-feu vốn là món thức ăn mặn dùng với bánh mì của người Pháp, tự thân nó không dùng để ăn no. Vậy nên dù có thiện ý đến mấy, cũng không có lý do gì để nghĩ rằng “tổ tiên” của phở là “monsieur pot-au-feu”. Vậy mà cũng có lúc, có người lớn tiếng đòi bản quyền phở !

    Truyền ngôn dân gian khá phù hợp với những tư liệu còn lại từ đầu thế kỷ 20: Phở có tiền thân từ món “xáo trâu”, ra đời một cách dân dã từ bến bãi sông Hồng vào những năm đầu của thế kỷ trước [3:373]. Khởi đầu, đó là món ăn phục vụ tầng lớp bình dân, phu phen lam lũ mà không ai ngờ rằng, chỉ vài thập niên sau nó có một tương lai huy hoàng đến thế. Dân tộc Việt rất ít ăn thịt bò. Cuối TK 19, đầu TK XX, ở Hà nội mới chỉ có vài ba hàng thịt bò, thường hay ế ẩm, nhất là bộ xương chẳng biết làm gì. Khoảng năm 1908-1909 có khá nhiều tuyến tàu thuỷ hơi nước từ Hà nội đi Hải phòng, đi Nam định, đi Phủ lạng thương của chủ người Pháp, chủ Hoa kiều và phu phen chủ yếu là người hoa từ Vân nam qua. Đến 1909 mới có tàu thuỷ của nhà tư sản dân tộc Bạch Thái Bưởi, ông chỉ tuyển dụng nhân công, thợ người việt. Lại thêm các thuyền mành chở nước mắm, đồ khô từ xứ Thanh-Nghệ ra tạo nên một quang cảnh sầm uất nơi bến sông khiến xuất hiện một nhu cầu ẩm thực bình dân to lớn. Các món quà ùn ùn đổ về bến sông. Và theo qui luật tự nhiên “hữu xạ tự nên hương”, món “xáo trâu” được đông đảo lựa chọn, ưa chuộng nhất, càng được các bà tích cực gánh ra bãi sông . Một bên quang gánh là chiếc thúng ủ kỹ chiếc nồi đất lớn đựng canh xáo trâu giữ nóng bằng ổ bện rơm. Bên kia một chiếc thúng to khác, dưới đựng bún, trên đậy cái mẹt úp chồng bát chiết yêu, đũa, hũ nước mắm, đĩa chanh ớt, gia vị. Cảnh thịt bò ế ẩm và xương bò được “khuyến mãi” cho không khi mua thịt khiến người ta nảy ra sáng kiến. Các gánh xáo trâu đã được các bà học nhau chuyển thành xáo bò. Thịt bò mùi gây khi nguội, nên lò lửa liu riu được cải tiến thêm vào gánh. Chẳng mấy chốc món xáo bò mới lan tràn suốt từ ô Quan chưởng xuống tới ô Hàng mắm. Dĩ nhiên quyền bán hàng không thuộc riêng nguời việt, thực khách phu phen người hoa rất đông đảo ở bến sông nên các chú Chiệc (cách gọi hoa kiều thời đó) cũng tích cực tham gia vào tiến trình phát triển xáo bò, đến nỗi được Henri Oger lưu lại hình ảnh gánh phở rong trong tập “Technique du people Annamite” (Kỹ thuật của người An nam 1908-1909). Các chú Chiệc có ưu thế trong việc thu xếp gánh xáo bò, vì họ vốn có sẵn nền nếp “văn minh mì gánh”, về căn bản rất phù hợp cho món ẩm thực mới. Từ bãi sông Hồng, trên những đôi vai gầy guộc “phở gánh” đã lan tỏa khắp “ hang cùng ngõ hẻm” Hà nội rồi lan qua cái đô thị khác. Rầm rộ nhất có lẽ là thành Nam nhằm phục vụ công nhân nhà máy dệt Nam định mới mở hồi cuối thập kỷ 20 thế kỷ trước. Rồi phở phát triển mạnh ở đây đến nỗi nhiều người ngộ nhận, muốn gán cái vinh hạnh “Nơi khai sinh ra phở”cho Nam định. Theo tư liệu của các gia đình hành nghề phở ở Vân cù, khoảng năm 1925, ông Vạn là người Nam định đầu tiên trong làng ra Hà nội mở quán ở phố hàng Hành mạn tây bắc hồ Gươm, song phở Hà nội đã xuất hiện trước thời điểm đó ít nhất 15 năm [12:14]. Dẫu sao, không ai có thể phủ nhận công lao to lớn phát triển nghiệp phở của “phở Nam Định”với những gia đình truyền nghề phở đến đời thứ tư và là chủ nhân của thương hiệu “Phở gia truyền” ngày nay.

    Tên gọi Phở vốn còn nhiều uẩn khúc, hy vọng rằng trong dịp sinh nhật thứ 100 này nó sẽ được dãi bầy và soi sáng. Ta hãy cùng lội ngược dòng thời gian trở về thời kỳ phở ra đời mà truy căn, làm sáng tỏ cái danh xưng “Phở”! Lúc phở xuất hiện ở thập niên đầu của thế kỷ XX, Nho học vẫn còn ngự trị xã hội Việt nam, cho dù đang bước vào thời kỳ tàn tạ (từ sau 1919 khoa thi Nho học cuối cùng ở Việt nam). Chữ Hán-Nôm vẫn giữ vị trí chính thống với xã hội người Việt. Đại đa số dân chúng vẫn còn mù chữ quốc ngữ, số người việt biết nó thật ít ỏi, chiếm tỷ lệ quá nhỏ bé trong cộng đồng. Thêm nữa bến bãi sông Hồng rất nhiều phu phen người hoa, trong bối cảnh ấy, tiếng rao âm hán-việt “Ngưu nhục phấn” phổ biến là điều dễ hiểu. Tuy nhiên nó cần được hiểu chính xác là món “xáo bò”, chứ không hề là chứng cứ, gốc gác món “Ngưu nhục phấn Quảng đông” như nhiều người lầm tưởng. Con bò trong tiếng Hán là hoàng ngưu, nên ngưu nhục chỉ nghĩa thịt bò; phấn nghĩa là bột chỉ món bánh bột gạo dạng sợi [3:376].Tiếng rao dần được nghe “lái âm” Hán-Việt như “ Ngầu nhục phắn a!.. ngầu phắn a!”. Dần dần nó được dân gian hoá, giản thể thành “ phắn a!...rồi phớ ơ! cuối cùng định ra cái tên “Phở”. Danh từ Phở được chính thức hoá ấn hành lần đầu trong cuốn Việt nam tự điển (trước 1930)do hội Khai trí Tiến Đức Hà nội khởi thảo. Trong cuốn tự điển định rõ tên phở bắt nguồn từ chữ phấn và giải thích đó là món ăn bằng bánh thái nhỏ nấu với thịt bò[3:377]. Nhà thơ chữ tình tài hoa Tản Đà từng là nhân chứng cho cách gọi này. Tiên sinh thuộc số ít người sành sỏi có “tâm hồn” ăn uống, từng được xếp vào hàng “đầu bếp siêu hạng” của những món ăn “đượm hồn dân tộc”. Chả thế, ẩm thực việt đi vào văn nghiệp Tản Đà một cách tự nhiên như hơi thở cuộc sống thường nhật. Ông từng thổ lộ:

    Nghề ăn cũng lắm công phu
    Làng ăn ta phải biết cho đủ mùi!

    Có lẽ tiên sinh là lớp văn nghệ sĩ việt đầu tiên thưởng thức và “nghiền phở”ngay từ khi nó mới ra đời. Trong bài “Đánh bạc” (1905-1907) ông đã viết:“có lẽ đánh bạc không mong được mà chỉ thức đêm ăn nhục phơ ” [2:110]. Ông đã gọi nhục phấn là nhục phơ…trong tác phẩm của mình và rồi dân chúng đổi đi một cách vô thức thành phở lúc nào không hay.

    Tuổi khai sinh của phở chẳng được “sử liệu”nào ghi nhận cũng là lẽ hiển nhiên, vậy nên nhà báo Frank Renaud từng bỏ nhiếu công sức tìm tòi tư liệu về cội nguồn phở tại Viễn đông Bác Cổ Pháp, nhưng mọi cố gắng đều vô vọng. Song nếu cứ nói theo kiểu dân gian khác gì “ăn ốc nói mò” chẳng có cơ sở xác thực nào thuyết phục quần chúng. May thay! chính thi sĩ Tản Đà từng là nhân chứng sống xác nhận phở đã hiện diện ở Hà nội khoảng 1907. Nhà văn lão làng Nguyễn Công Hoan, cây đại thụ trong làng văn việt lại khẳng định và cho biết khá chính xác cái tuổi 100 của món ăn độc đáo thuộc hạng “quốc hồn-quốc túy” này. Ông ghi nhận: “1913…trọ số 8 hàng Hài…thỉnh thoảng, tối được ăn phở (hàng phở rong). Mỗi bát 2 xu (có bát 3xu,5 xu)”[1:94]. Mặc nhiên, chính Nguyễn Công Hoan đã là người xác định tuổi cho phở trong cuốn biên tự chuyện về đời mình “Nhớ và ghi về Hà nội”. Không những vậy, ông còn cho chúng ta biết thêm, lúc này phở rong đã khá thịnh hành, chả thế mà nghành kinh doanh phở đã bị chính quyền đánh thuế: “…người bán phở phải mua hai hào tem thuế mỗi ngày.Tính ra mỗi năm là 73 đồng”[1:165]. Một nhân chứng nữa cho tuổi của phở không ai khác hơn là vị lão làng nghành báo chí Nguyễn văn Vĩnh, ông đã vô tình để lại dấu ấn “tuổi phở” trong lá thư gửi về từ Pari năm 1906: “ nghe tiếng rao hàng bên đó làm ông nhớ về Việt nam, nhớ cả tiếng rao phở mỗi sáng tinh mơ” [17:1803]. Chính Henri Oger là một nhân chứng quan trọng và khách quan khác. Ông là một thanh niên Pháp chỉ ở Việt nam 2 năm 1908-1909 (theo chế độ thay cho quân dịch) đã cho vẽ lại hình ảnh phở gánh hiếm hoi ngay từ đầu thế kỷ 20. G.Dumoutier (1850-1904) nhà Việt nam học xuất sắc để lại rất nhiều tư liệu giá trị trong mọi lĩnh vực nghiên cứu cũng từng khẳng định: “phở chưa từng xuất hiện ở Việt nam trước năm 1907!”. Đó chính là những nguồn tư liệu thuyết phục nhất về 100 năm tuồi của phở.

    Tuổi 100 năm của phở còn được khẳng định qua cuộc “tầm nguyên” trong các cuốn tự điển việt. Tìm cuốn tự điển giải thích đầu tiên của nước ta bằng tiếng Nôm: “Chỉ Nam Ngọc âm giải nghĩa” do hoàng hậu Trịnh Ngọc thị Trúc (1576-1657), một nữ danh sĩ đương thời biên soạn chưa hề có dấu vết của phở. Giáo sĩ Alexandre Rhodes (1593-1660) tuy đã ở Đàng ngoài và Đàng trong tới 5 năm, song ông chưa biết đến khái niệm phở để đưa vào tự điển Việt-Bồ-La của mình từng được xuất bản vào năm 1651. Tiếp theo, những từ điển điển hình khác như tự điển Huỳnh Tịnh Của(1895), tự điển Genibrel(1898) đều chưa nhắc tới Phở. Phải chờ tới tự điển của hội Khai trí Tiến Đức(1930), từ Phở mới chính thức trình làng và được ghi rõ: “…Món đồ ăn bằng bánh,thái nhỏ nấu với thịt bò” và có ghi thêm cả Phở xào, phở tái. Gustave Hue lại bổ xung thêm vào tự điển 1937 từ “cháo phở”và cả cái “mũ phở”,biểu trưng một thủa cho phở gánh việt. Cho tới tận 1957, danh từ phở đã được hoàn chỉnh trong tự điển của Eugene Gouin với đủ cả “ Phở bắc, phở bò, phở gà, phở chín, phở tái, phở xào…”[15:48]. Bằng chứng này củng cố thêm cho luận chứng phở chỉ có thể sinh ra trong khoảng từ 1900 -1910, hay nói một cách khác cho phép ta đoán định chính xác về 100 năm phở việt.

    Hành trình PHỞ VIỆT

    Những hàng phở đầu tiên ở Hà nội phải kể đến quán Cát tường chủ người việt chuyên bán phở bò ở số 108 phố Cầu gỗ và quán phở Tầu bán cả đồ xào nấu trước bến xe điện Bờ hồ và quán [7:73]. Năm 1918 xuất hiện thêm hai quán phở hàng đầu khác, một ở hàng Quạt, một ở phố hàng Đồng trong khu 36 phố phường cổ đất Hà thành. Phở Trưởng Ca số 24 phố Hàng Bạc từng là một quán phở sớm nổi danh ngay từ thời đầu có phở. Cuốn biên niên sử “Hà nội nửa đầu thế kỷ XX” cho biết “Đền thôn Dũng thọ …còn gọi là đền Trưởng Ca tên một người vừa làm từ coi đền vừa làm nghề bán phở”[7:76]. “Đình Phở” này bán tới 4 giờ sáng hàng ngày. Sau này khi ông Trưởng Ca mất lại có ông phở “Sửa sai” thay thế kế nghiệp thức khuya “hầu phở” cho đời. Chuyện về phở kể cũng ngộ, đôi lúc hàm chứa cả chất biên niên sử bên trong. Cái tên “Phở Sửa sai” nhắc đến cái thời “cải cách” bi thương! Ông chủ phở vốn bị quy nhầm thành phần nên sau khi “…được sửa sai trở lại thủ đô, chính quyền khu phố miễn thuế một thời hạn và tìm một chỗ lợi địa thế cho ông mở hiệu, món quà phở của ông càng thơm ngon một cách chất phác hơn bao giờ…bát phở giải oan có thêm nhiều dư vị!”[4].

    Chỉ trong một thời gian ngắn, cửa hàng phở mở thêm nhiều và đến năm 1930 hàng phở đã lan tràn khắp phố phường Hà nội. Hàng loạt các đệ nhất, đệ nhị phở…lưu danh “sử sách” đã ra đời điểm xuyết những nét chấm phá khởi đầu cho bức chân dung “một thế kỷ phở việt”. Thoạt đầu người ta chỉ bán phở chín (vì nguồn gốc đi từ xáo bò mà). Sau các hàng phở sáng tạo thêm phở tái và được nhiều người hưởng ứng chấp nhận, chính thức khai sinh thêm một kiểu phở mới. Song từ sau 1954, phở tái lấn dần phở chín và chiếm lấy vị trí chủ soái.

    Chỉ dăm năm sau khi ra đời, nhiều ông chủ phở không ngừng tìm tòi sáng tác,cho ra đời “món phở cải lương” muôn màu muôn vẻ. Đầu năm 1928 ở con phố mang tên thằng giặc Đồ Nghĩa Phổ (Jean De Puis) nay là phố hàng Chiếu có món phở có vị hung lìu, dầu vừng, đậu phụ. Anh Phở Sứt sáng chế ra ngón phở giò (thịt bò cuốn lại thái mỏng lừng lát như khoanh giò), Phở Phủ doãn nhỏ thêm giọt Cà cuống, cái hương vị từng làm thăng hoa “anh bún chả”, “bác bún thang” tới cái đỉnh tuyệt trác lại có vẻ giết chết vị của phở. Nhìn chung trường phái “Phở cải lương” đều sinh non chết yểu không thọ với thời gian, song nó cũng vương vấn đôi nét mờ nhạt không thể không nhắc tới trong cuộc hành trình 100 năm của phở.

    Năm 1939 phở gà xuất hiện,khi ấy một tuần có hai ngày: thứ hai và thứ sáu không có thịt bò bán, các tiệm phở đành bó tay! (Cũng nên nhớ rằng lúc này tủ lạnh chưa ra đời). Chưa rõ vì sao có sự cố này? Có lẽ một nguyên nhân khó thể bỏ qua bởi việc giết mổ trâu bò luôn bị hạn chế suốt thời phong kiến do trâu bò vẫn là sức kéo chính của nền nông nghiệp lúa nước Việt nam. Song giới hâm mộ phở không thể thiếu nó dù chỉ một ngày! Và để đáp ứng thịnh tình ấy, một số quán xoay sang thử nghiệm món phở gà. Buổi ban đầu, các bậc “trưởng lão” cho rằng phở gà không thể sánh với phở bò bởi cái nước dùng từ xương gà nhạt nhẽo đâu thể địch nổi vị nước cốt ninh trên bếp lửa hồng suốt 6 giờ của xương bò. Quả có vậy, chất ngọt từ xương ống và tuỷ xương bò, như quện với gia vị hồi quế vv… tự lúc nào đã làm vị nước dùng của món phở bò trở thành chất “ ma túy” của nhiều môn đồ trung thành với phở.

    Nhưng rồi vị thơm ngon từ những chú gà đi bộ, sợi thịt trắng phau, lớp da dòn vàng óng, đặc biệt độ bùi,ngậy của buồng trứng non đã dần làm thay đổi định kiến của thực khách. Đặc biệt vị thơm hành hoa thái lẫn rau mùi và của lá chanh bánh tẻ thái chỉ dường như đã mang lại cho phở gà một sức sống mới, một cái gì rất hương đồng gió nội . Cụ Vũ Bằng (1913-1984) từng thi vị hoá vị phở gà thành “hương thanh tân” con gái tuổi dậy thì so với cái “hào khí ngùn ngụt” của anh phở bò cục súc. Nhà văn Lý Khắc Cung còn đi xa hơn, ông mạnh dạn hình tượng hoá phở gà như bức “tranh lụa mong manh” hư hư thực thực bên bức “tranh sơn dầu” hoành tráng-phở bò. Dù rất nhiều người phản đối, nhất là lực lượng bảo thủ cực đoan, những “con chiên ngoan đạo” của phở bò, dòng phở gà vẫn chính thức ra đời và phát triển. Thậm trí nhiều hàng chỉ chuyên bán phở gà đối đáp lại các môn đệ chuyên phở bò nhất định “gác đòn gánh, treo dao, đóng cửa” vào hai ngày không có thịt bò trong tuần. Từ sau 1939, hai dòng phở bò và phở gà chính thức ngự trị song hành trong lòng thực khách Việt.

    Chưa có một công trình nghiên cứu chính thức nào công bố về thành phần dinh dưỡng của phở, song dù có hay không cái công việc ấy, phở vẫn mặc nhiên được coi là món ăn siêu bổ trong tâm thức người Việt. Ngay từ năm 1937, nhà thơ Tú Mỡ từng “tâm phục khẩu phục” reo những vần thơ bất hủ ca tụng dinh dưỡng trong phở:

    “…Phở đại bổ, tốt bằng mười thang thuốc bắc
    Quế-phụ -sâm nhung chưa chắc đã hơn gì
    Phở bổ âm-dương-phế -thận- can-tỳ
    Bổ cả ngũ tạng tứ chi bát mạch…”
    Tú Mỡ 1937.

    Phở bổ thế! chả trách khi người Việt lâm bệnh hay thi thoảng thấy “nhạt miệng chê cơm” thì món ăn bổ dưỡng đầu tiên được chọn chắc chắn là ăn phở. Nuôi người bệnh, người ta luôn ưu tiên chọn phở. Bởi vậy hồi còn nhỏ, cũng như nhiều đứa trẻ cùng trang lứa, mỗi khi thèm phở, tôi bèn giả ốm để vòi bố mẹ cho ăn phở. Trong suốt thời kỳ nền kinh tế Việt nam eo khó, phở là “món ăn tươi” cải thiện dinh dưỡng cho mọi nhà, cùng nhau lăn lộn chống trả với cái khắc nghiệt của cuộc đời. Thời ấy, khi trị chứng bệnh suy nhươc cơ thể khá phổ biến trong dân chúng, các bác sĩ giàu kinh nghiệm ngoài loại thuốc trị bệnh, lúc kê đơn không thể quên ghi thêm dòng chữ dặn dò quan trọng: nếu có điều kiện bồi dưỡng thêm phở! Công bằng mà xét, nước phở là một loại “siêu súp” bởi nước dùng được hầm từ xương ống trong suốt 6-12 giờ nên khó có loại nước cốt nào qua mặt được. Lại thêm chất đạm từ thịt bò tươi, chất bột đường từ bánh phở, các loại vitamin từ hành củ, chanh, ớt vv… quả là một “menu” dinh dưỡng khá hoàn hảo. Chưa hết! bởi là một món ăn nước nên tuy ăn no đến căng bụng, song rất dễ tiêu hóa. Phở thật sự là món ăn phù hợp với người bệnh mới vượt cơn hiểm nghèo cần món ăn giàu dinh dưỡng nhưng nhe nhàng. Đó là chưa kể các món gia vị dùng kèm với phở nào gừng, chanh tươi, nào hành hoa, hành tây, tiêu sọ, nào mùi, húng thơm vùng Láng vv… tất cả hầu như đều là những vị thuốc nam tốt cho bách bệnh. Còn một thứ phở được liệt vào hàng “thực phẩm chức năng” có chất dinh dưỡng đặc biệt dành riêng cho giới mày râu: Phở ngầu pín! Chẳng biết tác dụng thực hư ra sao, liệu có đạt chỉ tiêu “ông xơi-bà thích” hay không? song về mặt hình thức, bộ “ngầu pín bò vĩ đại” rất ấn tượng, tạo yếu tố tâm lý quyết định của món “ẩm thực viagra” được giới thực khách bản tính “trăng hoa” tín nhiệm.

    Không một món ăn Việt nào có không gian ẩm thực rộng như phở - quả xứng danh món ăn phi thời gian. Gần như duy nhất trong nghệ thuật ẩm thực Việt, phở có thể dùng vào mọi lúc trong ngày, mọi mùa trong năm. Phở ăn sáng, món điểm tâm phổ biến nhất được hầu hết người việt ưa chuộng. Thời điểm ăn phở buổi sáng như mặc định cho đồng hồ sinh học trong mỗi con người. Bữa trưa – Phở, bữa chiều – phở cũng thường là lựa chọn của nhiều người bởi đặc tính đủ chất, dễ ăn,vừa túi tiền, lại giàu năng lượng. Tuy nhiên ở các đô thị lớn, người ta còn cần đến bữa ăn khuya sau 10 giờ tối và một lần nữa phở lọt vào “tầm ngắm” một cách tự nhiên của công chúng. Chẳng những nó vừa ngon miệng, lại vừa nhẹ bụng, thưởng thức xong vẫn dễ dàng đi vào giấc ngủ. Hơn thế nữa, phở còn “tận tụy”phục vụ nhân gian suốt bốn: xuân, hạ, thu, đông …Tuy nhiên, cái lạnh xe xe tiết thu đông, mưa xuân lất phất vẫn là “gia vị” thiên nhiên làm tăng thêm giá trị ẩm thực của bát phở nóng !

    phở chính là nơi “tao ngộ vô tình” giữa tầng lớp trên danh gia vọng tộc và giới cần lao. Không ai bị giáng xuống vị trí nghèo hèn và tất nhiên cũng chẳng ai được coi là giàu sang khi hay đi ăn phở, cái hay của phở chính ở chỗ đó! Nếu “Nem công chả phượng”và nhiều món sơn hào hải vị khác chỉ dành riêng cho giới thượng lưu nơi lầu son gác tía thì dưa, cà, mắm, muối lại là “đặc quyền” của lớp dân đen. Song với Phở lại khác: Danh gia vọng tộc, chính khách ăn phở, nhà giàu ăn phở, quan chức ăn phở, người bình dân cũng ăn phở. Già trẻ, lớn bé đều thích thưởng thức…vô hình chung Phở trở thành một món ăn đại chúng, bình đẳng duy nhất dành cho tất cả mọi người. Quả không ngoa như thi sĩ Tú Mỡ từng có phút xuất thần bộc bạch trong bài Kệ Phở:

    “…Kẻ phú quý cho chí người bần tiện
    Hỏi ai là đã nếm chẳng ưa
    Thầy thông ,thầy phán đi sớm về trưa
    Điểm tâm phở ngon ơ và chắc dạ
    Cánh thợ thuyền làm ăn vất vả
    Phở xơi no cũng đỡ nhọc nhằn
    Khách làng thơ đêm thức viết văn
    Được bát phở bớt băn khoăn óc bí
    Bọn đào kép con nhà ca kỹ
    Lấy phở làm đầu vị giải lao
    Chúng chị em sớm mận,tối đào
    Nhờ có phở đỡ hao mòn nhan sắc…”
    Tú Mỡ-1937

    Phở xào được xác định ra đời sau thời kỳ kinh tế khủng khoảng (1930) [3:379]. Nó quả là một sáng tạo ẩm thực độc đáo của người Việt. Thực sự phở xào như một nét giao duyên ẩm thực Đông tây đầy quyến rũ. Bánh phở cháy cạnh , thịt bò xào cần tây, hành tây với nước sốt xệt đổ lên trên thật hấp dẫn, lại thêm rau xà lách búp, cà rốt xu hào ngâm dấm ăn kèm đưa đẩy không chê vào đâu được.

    Phở sốt vang, một sản phẩm thử nghiệm khác của giao lưu ẩm thực Á-Âu khá thành công. Thịt bò thái miếng vuông ướp rượu vang và hầm nhừ chan lên bánh phở . Gia vị châu Âu kết hợp với gia vị châu Á tạo cho phở sốt vang một hương vị là lạ không món nào có được. Tuy không mấy phổ biến nhưng loại phở này đã khẳng định được vị trí trong “menu phở”, ít nhất cũng đã trên 50 năm trải nghiệm.

    Phở chua ngọt là một biến tấu khác của phở mà ngày nay đã gần như vắng bóng. Ở Hà nội, người ta chỉ còn được thưởng thức ở một quán nhỏ khiêm tốn trên đường Lương Văn Can quãng gần đầu Hàng Gai. Món phở này chế biến bằng thịt xá xíu, dạ dày, đồ lòng(không có dồi)xếp trên bánh phở và rưới nước sốt chua ngọt lên trên. Món sốt chua ngọt vừa miệng là bí quyết quyết định cho một bát phở chua ngọt ngon lành. Hơn 40 năm trước phở chua ngọt còn khá phổ biến, ngay đầu ngõ Trung yên cắt Đinh liệt hay nghách vào chợ Đồng xuân người ta có thể thưởng thức nó.

    Kháng chiến bùng nổ, cả dân tộc tản cư về nông thôn và phở gánh cũng lên đường cùng cộng đồng dân tộc. Cuộc trường chinh ấy mang lại cơ hội để phở phát tán len lỏi, xâm nhập tới nhiều làng xóm, thôn dã Việt nam. Tuy nhiên sự lan toả chỉ giới hạn trong khu vực đồng bằng sông Hồng, vùng trung du bắc việt nam. Nguyễn Tuân –ông “ tiên chỉ làng phở”cho chúng ta biết cái không khí rộn rã,tất bật một thời của “phở kháng chiến”. Trong vùng tự do nổi danh với phở Giơi; phở Đất; phở Cống không thua gì phở vùng tạm chiếm. Trong vùng căn cứ địa, các cơ quan trung ương hay tổ chức nấu phở khi chung nhau giết bò để bồi dưỡng theo kế hoạch hàng tháng. Một chủ hiệu phở hà thành trở thành anh nuôi cho tiểu đoàn Lũng Vài hành quân lủng củng với nồi xoong cồng kềnh hễ có dịp là tổ chức món phở ăn tươi bồi dưỡng sức quân. Những quán phở khuya trên đê vùng căn cứ du kích kháng chiến, chìm nổi với cuộc đọ sức trường kỳ của dân tộc. Đặc điểm của món “phở kháng chiến” là có gì nấu nấy, bánh phở thế bằng bánh đa khô, thiếu nước mắm, rau húng thơm, chẳng sao! bởi thực khách toàn là chiến sĩ, cán bộ ăn lấy no chứ không mấy quan tâm đến vị. Tuy vậy phở chiến khu lúc nào cũng thấy ngon đến kỳ lạ, đặc biệt phở thành nguồn động viên làm vợi đi nỗi nhớ miền xuôi, nhớ Hà nội và biết bao gian nan, thiếu thốn thường nhật[4].

    Phải chờ đến năm 1954, theo chân những người Bắc di cư, mở ra cuộc “Nam tiến đại quy mô lần thứ I” của phở Việt. Từ đây, mốc son chính thức mở màn cho sự bành trướng của phở trên toàn bộ lãnh thổ Việt nam. Phở có thể đã có ở miền nam trước 1954 song đó là loại phở lai,“nhập nhằng” với món hủ tiếu của người Hoa và không có một vị trí đáng kể nào trong ẩm thực phương nam. Tình hình hoàn toàn đổi khác sau cuộc di cư ồ ạt từ Bắc vào Nam của hàng triệu con người sau hiệp định Giơ ne đươc ký kết. Phở Bắc chiếm lĩnh dần mặt tiền các khu phố trung tâm Sài gòn đẩy các xe, quán hủ tiếu, mì vằn thắn vào đường hẻm hoặc cứ địa người Hoa trong Chợ lớn. Một lần nữa phở lại khoác lên mình thời khắc trọng đại trong biên niên sử cận đại Việtnam, thời điểm đất nước tạm chia cắt thành hai miền trên dòng Bến hải. Nam tiến, ngay lập tức, Phở Nam bộ mang một phong cách riêng. Cái phong cách dễ dãi, dễ thích nghi của vùng đất “Hợp chủng Nam kỳ quốc” thể hiện ngay trong phở: thêm giá sống, rau thơm, húng quế, ngò gai cho bỗ bã mát ruột, thêm sắc ngọt của đường và các vị tương đen, tương đỏ của người Hoa. Con cháu của một số gánh phở nổi tiếng Hà nội đã vào nam lập nghiệp trong cơ hội lịch sử này trong đó có phở “Tàu bay”. Vốn là quán phở do ông nội mở vào 1950(chưa đặt tên) ở Hà nội, khi di cư vào nam, được người bạn thân tặng cho chiếc mũ bay, ông rất thích nên thường xuyên đội nó khi bán phở. Thực khách thấy lạ, gọi ông bằng cái tên“ông Tàu bay”. Riết rồi thành tên quán. Điểm mặt các hiệu phở nam nổi tiếng Sài gòn, phải điểm danh phở Hoà-Pasteur. Ban đầu lúc ra đời khoảng năm 1960, tiệm mang tên Hoà lộc, sau khách truyền miệng “cắt” mất chữ Lộc chỉ còn lại phở Hoà: Gọn dễ nhớ đúng theo qui luật bất thành văn về loại tên “nhất tự” đặc thù của phở. Đáp ứng thói quen mạnh mẽ, khoáng đạt của hậu duệ lớp người từng khai hoang mở cõi, phở tàu bay, tô xe lửa lần lựợt ra đời. Những tô phở “khủng long” ấy hoàn toàn phá bỏ tính chất “quà”của phở phương Bắc và khiến các cô chiêu cậu ấm “cành vàng lá ngọc” thoáng trông thấy cũng đủ hoảng hồn!

    1964 mở màn cuộc chiến tranh chống Mỹ khốc liệt ở miền bắc đã khoác cho phở một diện mạo đặc biệt của phở. Sự xuất hiện loại máy bay do thám không người lái của Mỹ mà người đời sáng tạo nên cụm từ “phở không người lái”, món đặc sản của một thời bom đạn. Nghe nó ngộ nghĩnh, hài hước xong xét về nghĩa đen là rất chuẩn. Cái thủa ăn “phở không người lái” để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm khảm nhiều thế hệ người việt; dư vị một thời gian lao song đầy tự hào của dân tộc Việt trong trang sử hào hùng: dân tộc duy nhất trên thế giới đánh bại Mỹ, một quốc gia hùng mạnh và kiêu ngông. Thủa ấy ăn phở mậu dịch (phở do các cửa hàng nhà nước bán) phải xếp hàng và xé 250g phiếu tem gạo trừ vào khẩu phần lương thực đã được nhà nước ấn định. Chất lượng phở ở các của hàng này hoàn toàn tuy thuộc vào tay nghề hạn chế của các nhân viên mậu dịch không chuyên nhưng có rất nhiều sáng kiến. Họ biến tấu các loại gia vị, cách nấu nước dùng theo những gì họ có, họ kiếm được trong hoàn cảnh thời chiến. Một “phát kiến vĩ đại” của thời kỳ này là bản “hợp tấu” phở không người lái ăn với bánh mỳ hoặc cơm nguội. Kể cũng ngộ, chẳng ai bảo ai nhưng đã dùng món phở chan cơm, dứt khoát phải là cơm nguội mới ngon, chan cơm nóng là vứt ! “Phở bánh mì, phở cơm nguội” chẳng ngon lành gì nhưng được cái chắc dạ nhất là với công dân tuổi “phù đổng” để đáp ứng với sự no bụng mà làm cái việc trọng đại và thiêng liêng chống Mỹ. Cho dù tệ đến mấy, loại phở này vẫn là “sơn hào hải vị” so với món “quả đấm”, “cái tát” loại đặc sản thời chiến tranh chống Mỹ cứu nước(món bột mì vo lại như nắm đấm hoặc cán bẹt như bàn tay đem luộc). Trong hàng phở độn tiết kiệm kiểu cơm độn khoai mì thời chíến tranh lại có kiểu độn sau khi qua thời gian khó vẫn được bảo tồn vàtrở thành “mốt mới” được nhiều thực khách chấp nhận: Phở quẩy! Những mẩu quẩy dòn được bẻ bỏ vào bát phở hút nước dùng béo thơm ngon đáo để, tất giới sành phở không bao giờ chấp thuận kiểu ăn uống xô bồ làm mất đi cái vị ngon cao quí của “món ăn Vua” mà họ luôn tôn sùng. Nói vậy chứ, tuy bom đạn ngày đêm gào thét, song nếu có thì giờ, người ta vẫn có phở ngon, phở truyền thống để thưởng thức dù không phải dễ kiếm. Phở “Thìn”bờ hồ là điểm lựa chọn của nhiều người: thứ nhất ông chủ tiệm người nhỏ thó tay thớt tay dao làm bát phở như múa với nhịp đập thịt tái, hành củ chan chát vui tai nhưng cũng một kiểu quảng bá thương hiệu riêng của mình. Ăn phở Thìn phải xếp hàng, trả tiền trước (phở mậu dịch cũng vậy) và tự phục vụ. Bù lại, ông chủ luôn miệng kể chuyện thời sự như một chương trình phát thanh miễn phí. Cái tiện nhất của phở Thìn là an toàn, bởi đang ăn dở, gặp báo động máy bay có thể bê bát chạy xuống hầm trú ẩn công cộng bên đền Ngọc Sơn thưởng thức tiếp bát phở dở dang, tưởng mình như nhà Chúa đang ngự trị trong hành cung Khánh thụy khi xưa (khu vực đền Ngọc Sơn vốn là cung Khánh Thụy được chúa Trịnh xây vào khoảng 1740). Do trốn đi lính cho Pháp, năm 1949 ông Thìn phải bôn tẩu lên Hà nội chọn kiếm sống bằng gánh phở lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm thủ đô. Dần có uy tín, năm 1955 ông quyết định dừng chân mở quán ở 41 đường Đinh Tiên Hoàng đối diện đền Ngọc sơn và sống chết với thủ đô. Ông có chin người con,có tới 5 đứa kế nghiệp ông mở quán đều mang tên “phở Thìn”, ông tự bộc bạch “ Phở là cuộc sống của tôi!”[12:42]Trong thời chống Mỹ ở miền nam, Phở Bình Sài gòn là cơ sở cách mạng nội đô đóng góp không ít vào chiến công oanh liệt của biêt động thành
    Cửa hàng Phở ở khu Tiểu Sài gònSai gòn gia định.

    Phở lầm lũi cùng dân Việt qua suốt thời kỳ gian khó và năm 1975 hoà vào niềm vui thống nhất bất tận của dân tộc, phờ lại đồng hành mở cuộc “nam tiến thứ hai”. Từ đây hậu duệ của phở Thìn, Phở Gia truyền Nam định, Phở Lò đúc, phở Bắc hải, phở hàng Nón vv… chính thức chinh phục đất phương nam trên từng cây số .

    Sau 1975 một trang sử mới, mở đầu thời kỳ toàn cầu hoá của phở: “Phở goes global !”. Trước tiên, do hoàn cảnh “Thời thế, thế thời phải thế !” phở lên tầu cùng các cư dân vượt biên dấ thân vào trường chinh ly hương vạn dặm đẫm máu và nước mắt. Phở sang kinh đô ánh sáng-Paris hoa lệ trú ngụ quận 13. Tôi từng được đãi phở Pháp tới 30 quan /bát (tiền tệ Pháp khoảng 6USD), vừa ăn vừa sót ruột bởi chất lượng quá tệ với bánh phở khô thịt bò tủ lạnh cắt ra và nước dùng nhạt phêch. Phở sang hợp chủng quốc Hoa Kỳ chọn quận Cam bang California lập nghiệp. Cả một “Tiểu Sài gòn di cư sang đất Mỹ mà không có phở thì thật phi lý. Song sang Hợp Chủng quốc phở việt có kích cỡ “khủng bố”, theo “dạ dày” Mỹ có khác. Nếu theo định nghĩa trong tự điển Việt nam, bát phở nơi đây phải gọi là “chậu phở”, ăn một lần tởn đến già. Rồi lần lần phở có mặt ở nhiều nơi trên thế giới: phở Xichlo xứ sở sương mù, phở chợ Sapa Công hòa Séc, phở Viên Chăn Lào, phở phnompenh Campuchia vv… Đặc biệt ở Úc, Lê phú Cường một chàng trai việt dám “chơi ngông” dựng lên môn “Đạo phở” hy hữu. Thật là phong cách tôn vinh phở độc đáo! Dựng bàn thờ Phở tại gia, mặc chíếc áo phông in hình “Tôi Yêu Phở”,tay cầm cuốn kinh “I love Phở”, Cường thực sự trở thành nhà truyền giáo tận tuỵ, tả xung hữu đột dọc ngang nước Úc vì phở. Anh còn có ước muốn xa hơn, cao hơn với dự án “phở goes global” đưa phở lên tầm toàn cầu hoá.. Đặc tính chung của phở hải ngoại thủa ban đầu là dùng bánh phở khô,thịt đông lạnh, hương vị phần nào biến tấu theo gu của cư dân bản địa mà nếu chiểu theo quan điểm truyền thống về phở của các bậc kỳ lão trong nghệ thuật ẩm thực thì đó chỉ là một loại phở “Nhái” vụng về khó có thể chấp nhận. Tuy nhiên sau 30 năm ly hương cộng đồng người Việt ở Hải ngoại ngày càng phát triển mạnh mẽ ở Châu âu, ở Mỹ, ở Úc vv… bộ mặt và chất lượng phở hải ngoại đã cải thiện rõ ràng. Các món gia vị cốt yếu được tuyển chọn từ quê nhà theo cánh Việt nam Airline sang phục vụ đồng bào, tôn vinh xứ sở.

    Năm 2006, PGS-Ts Trần Doãn Sơn đại học bách khoa Tp.HCM còn sáng chế thành công máy làm bánh phở tươi giúp theo kiểu “one touch” (1 nút nhấn) xuất sang Mỹ, đầu này cho bột vào, đầu kia ra bánh phở tươi chỉ trong một phút giúp cho phở thăng hoa ngay trên quê hương xứ “Hambơgơ”. Chỉ cần diện tích 2m vuông, “máy phở mini” cho 15 Kg bánh phở/giờ. Thực khách vừa ăn vừa tận mắt thưởng lãm chu trình làm bánh phở tươi, thật tuyệt! Chả thế mà ngay lập tức,tháng 1-2007,công ty Imperial (Mỹ) ký nhập khẩu 07 máy của ông Doãn với giá 6500USD/máy. Phở mang lại không ít lợi nhuận cho mọi người. Với bước tiến này, phở hải ngoại đang khoác lên mình mốt “Thời trang” mới thực sự đưa vào phở môn nghệ thuật “Ẩm thực trình diễn” mới lạ.

    PHỞ THỜI @



    Chính sách mở cửa đã giúp cho kinh tế Việt nam cất cánh và hòa nhập cùng thế giới. Đặc biệt sang thế kỷ 21, xuất hiện một xu thế mới của thế hệ @. Tất cả phải chuyển dịch theo để đáp ứng nếu như không muốn bị đào thải loại trừ. Thầy lang thời @, trước khi bắt mạch cũng làm mọi xét nghiệm, đo đạc đủ kiểu như tây y: quán café internet mọc lên như nấm … và phở cũng vậy, cũng cần có một cuộc “ Đại phẫu thuật thẩm mỹ” để thay đổi hình dạng cho phù hợp với thời đại mới. Và cái gì cần đến cũng đã đến! sự ra đời của phở 2000, phở vuông hay phở 24, phở 5 sao, phở Việt … mở đầu cho cung bậc mới của bản giao hưởng “phở thời hòa nhập WTO” ở đầu thế kỷ 21. Con rồng Việt đang trên bước nhảy tạo đà cất cánh mà phở được coi như một trong những vị“đại sứ” quan trọng của nền ngoại giao văn hóa, một trong thế 3 chân vạc của nền ngoại giao Việt nam hiện đại.(ngoại giao chính trị - ngoại giao kinh tế - ngoại giao hóa ). Từ sau năm 2000, bên cạnh các bà “Phở truyền thống” bản tính chân chất chân quê từ thủa phở gánh, phở bao cấp, bỗng xuất hiện các “nàng Phở” thời @ mơn mởn sức xuân, bắt mắt ngay từ cái nhìn đầu tiên. Ánh sáng trang nhã, đèn màu kiêu sa, bảng hiệu đồng nhất cho cả hệ thống của phở 2000, phở 24, phở 5 sao, phở Việt ở Tp.HCM và phở Vuông ở Hà nội rực rỡ trên những con đường.

    Phát pháo mở đầu cho dòng phở @ chính là sự kiện ra đời tiệm Phở 2000. Món phở việt đã được gia đình tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ Bill Clinton lựa chọn trong thực đơn khi đến thăm Việt nam vào năm 2000. Phở 2000 nằm trong tầm ngắm của các nhà tổ chức sự kiện. Chuyện hậu trường lý thú được kể lại khi ngài tổng thống quá ngon miệng với hương vị phở Việt đã yêu cầu ăn thêm bát phở thứ hai ngoài chương trình khiến cho đội bảo vệ ngỡ ngàng lúng túng (vì chỉ kiểm tra an toàn thực phẩm một bát). Chính nhờ sự hiện diện của gia đình ông Bill Clinton, thương hiệu Phở 2000-Sai gòn đã lên ngôi và trở thành địa danh du lịch-ẩm thực không thể bỏ sót của những cô, cậu tây ba lô từ khắp bốn phương trời. Tọa lạc ngay cạnh chợ Bến thành ,trung tâm thành phố HCM, giờ đây chủ hiệu còn trịnh trọng cho kẻ thêm dòng lạc khoản “Phở cho tổng thống” trên bảng hiệu, khiến du khách không thể không tò mò vào nếm thử. Chẳng biết có sự mách bảo nào của ngài Bill Clinton hay không? mà vị tổng tư lệnh quân đội Nam phi khả kính cũng không thể làm ngơ trước hương vị phở việt khi tới Việt nam và ông cũng đã tới nếm phở tại hiệu phở 2000 tp HCM [www.pho2000.com.vn]. Ca sĩ danh tiếng Hàn quốc Bi Rain thú nhận “ tôi rất thích phở mỗi khi đến Việt nam việc đầu tiên là đi ăn phở, cho đã và chàng ca sĩ “Vua nhạc POP châu Á” đã đi thẳng từ sân bay tới tiệm phở trước khi về khách sạn, kể cũng là chuyện hi hữu!

    Đại diện nặng kí nhất cho phở thời @ chính là phở 24. Ánh sáng rất có gu, trang trí nội thất lịch lãm, máy lạnh mát rượi, các đầu bếp nấu phở đội mũ bồng, mặc áo bluse trắng toát khả kính như các vị giaó sư đại học. Đặc biệt: đuã dùng một lần, các lát chanh cắt đều tăm tắp, những cọng rau thơm, giá rửa sạch sẽ, xếp ngăn ngắp trên đĩa men trắng như theo một chương trình máy tính. Vệ sinh ẩm thực nơi đây như tuyên chiến với các mầm bệnh chủng Ecoli…và là tố chất không thể thiếu của những “nàng phở @”. Tuy nhiên giá cả ở đây khá cao ít nhất cũng từ 35.000đ/bát trở lên và ít ai có thể rời nó với số tiền ít ỏi ấy mà đều gấp đôi, gấp 3, gấp 4 bởi những nghệ thuật moi tiền hoàn hảo khi cửa hàng mời chào nhiều “Options-dịch vụ” kèm theo khó có thể từ chối: nước uống, tái ăn thêm, trứng lòng đỏ vv…Chưa kể ở phở 24, thực khách còn dễ dàng thưởng thức thêm những món ăn khẩu vị tây khác như : Spageti, pizza, gà rán Kentucky vv…Ra đời năm 2003 ở tp HCM, phở 24 nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường lan toả ra Hà nội, rồi Huế, Đà nẵng, Vũng tàu. Tới nay, chuỗi hàng chục cửa hàng phở 24 bề thế ẩn hiện khắp nơi, chưa kể tới dịch vụ giao phở tận nhà bằng Honda thật là đại tiện. Phở 24 còn bành trướng sang Philipin, Indonesia, Singapore, Úc, Mỹ và sắp tới sẽ chinh phục Âu châu nhằm hoàn tất cái vị thết toàn cầu của phở việt. Phở 24 là một hiện tượng đặc biệt thành công trong nghiệp kinh doanh ẩm thực việt. Có thể nói phở thời @ là một biểu hiện cao của tính hòa nhập của nền kinh tế Việt nam vào cộng đồng thế giới thời kỳ hậu WTO. Và theo quy luật bù trừ bất biến của trời đất, vị phở @ nhìn chung khác xa của phở truyền thống. Nói một cách khác chất lượng kém cỏi của nó chỉ vượt các loại phở tỉnh lẻ hay phở ăn liền…và vì vậy những “fan hâm mộ” phở chân truyền không bao giời bén mảng đến đây. Thực khách của loại phở @ chỉ là giới làm ăn trẻ luôn trang phục chỉnh tề ra dáng doanh nhân , tây balô và lứa trẻ việt choai choai “tuổi teen” luôn vã mồ hôi chạy theo nếp sống Âu -Mỹ cho ra vẻ thời thượng.

    Phở OZO thời “ngoại nhập” có khác, một ông Nhật lặn lội từ xứ “mặt trời mọc” dám sang thánh địa phở “múa rìu qua mắt thợ” thật chẳng khác nào chàng “samurai Việt” vượt trùng dương sang so kiếm tận “xứ hoa anh đào”. Ấy vậy mà Phở OZO có vẻ thành công! Chễm trệ tọa lạc trên con đường đẹp nhất và xưa nhất Tp.HCM - Đường Catina Sài gòn xưa (đường Đồng khởi) của khu vực vàng, phở OZO bắt mắt người qua lại bằng một vẽ sang trọng trang nghiêm bởi cách trang trí kiểu cung đình truyền thống Việt nam. Trang trí nội thất với những phù điêu ...hoành phi câu đối sơn son thiếp vàng đưa thực khách lạc về thời vàng son của phong kiến Việt nam. Có lẽ cũng chẳng nên chê bai và bàn về chất lượng bởi phở OZO chỉ mượn ánh hào quang chói lọi của phở việt để kinh doanh chứ trên thực tế nó đã biến tấu đến mức độ không còn mùi vị phở truyền thống. Thực khách tiệm phở OZO luôn đông đúc, giới bình dân ít ai dám vào bởi giá khá cao (40 -50 ngàn / bát). Tuy nhiên, quả thực phở OZO biểu tượng cho một tinh thần “Đại đông Á” trước thực khách phương tây.

    Hành trình xuyên thế kỷ của phở đã được các bậc trưởng lão làng phở tổng kết: giai đoạn 1908-1930 xuất hiện và định hình món phở; 1930-1954 phở phát triển và đạt đến đỉnh cực thịnh. Thời kỳ này xuất hiện “Vua phở không ngai 1952” phở Tráng![4:275]. Mọi “khuôn vàng thước ngọc” về Phở được định nghĩa, chọn lọc, chuẩn hoá, tôn vinh lên hàng văn hoá và người ta phong cho nó cái mỹ danh “Phở kinh điển”. Giai đoạn 1954-2000 ghi nhận một thời kỳ đầy biến động mang lại cho phở dung mạo đa sắc như tấm kính vạn hoa. Thời kỳ này chính thức hình thành hai trường phái Phở Bắc và Phở Nam. Phở trở nên thực dụng, bỗ bã hơn, thành “cơm bữa” không còn là “món quà” thanh cảnh có thể “ăn liền hai ba bát” như thủa mới chào đời. Rồi bột ngọt, viên vị phở cạnh tranh gay gắt với gia vị truyền thống đẩy “phở kinh điển” bước dần vào “sách đỏ” để lại nhiều hoài niệm cho đời. Bước sang thế kỷ 21, thời kỳ của thế hệ phở @ chính thức đánh dấu thời kỳ hoà nhập, toàn cầu hoá, công nghiệp hoá “Nghiệp phở việt”.

    VĂN HOÁ PHỞ

    Ít món ăn nào của Việt nam và trên toàn thế giới được thời sự hóa, văn nghệ hóa như “phở”. Ngay lúc ra đời, phở lập tức được Tản Đà (Đánh bạc), rồi Nguyễn Công Hoan (Nhớ và ghi về Hà nội) đưa vào tác phẩm như đã có dịp nhắc ở phần truy căn tên gọi của phở. Hồi thời đầu thế kỷ 20, phở bước vào tiểu thuyết việt với tác phẩm “Anh hàng phở lấy vợ cô đầu”. Khoảng 30 năm sau, đời sống văn hoá phở được thi vị hóa bằng bài “phú phở” của thi sĩ lừng danh thế kỷ 20 - Tú Mỡ. Chỉ trong 39 câu, Tú Mỡ đã tài tình khắc họa chân dung trung thực cùng toàn bộ tinh hoa về phở để rồi ông đưa ra câu kết luận khiến ai chưa ăn phở bỗng thấy “nhột”lập tức phải cân nhắc kỹ:

    …Sống trên đời, phở không ăn cũng dại
    Lúc buông tay, ắt phải cúng kèm
    Ai ơi nếm thử kẻo thèm!
    Tú Mỡ 1937
    Ấn phẩm chuyên về Phở Rồi phở đoàng hoàng bước lên văn đàn việt qua hàng loạt ký sự, tuỳ bút để đời về phở của hầu hết các cây bút lừng danh thế kỷ 20: “Phở bò, món quà căn bản”; “Phở Gà” của Vũ Bằng (trước 1939); “Phở” của Nguyễn Tuân (1957) ; “Hàng quà rong; Phụ thêm vào phở” của Thạch Lam; “ Những bước thăng trầm của phở” của Lý Khắc Cung; “ Phở” của Tô Hoài; “Trăm năm chuyện Thăng long Hà nội” của Siêu Hải và vv… phở trở thành một đề tài đầy ma lực, cám dỗ, có sức hút linh diệu như chính hương vị của nó với giới văn nghệ sĩ Việt nam và quốc tế. Ấy cũng là động lực khiến tôi đeo đuổi cả chục năm sưu tầm, lượm lặt, để nay có dịp thăng hoa viết hầu quý vị diện mạo “100 năm phở Việt”. Phở ẩn hiện trong nhiều tác phẩm văn chương trong suốt thế kỷ 20, bởi nó trăn trở cùng dân tộc, mang đậm hồn việt lãng du với thời gian. Hình ảnh các diễn viên gạo cội vào vai giáo sư đại học đi thái bánh phở thuê tăng thu nhập ở thập niên 90 gây nhiều nỗi u hoài về thời bao cấp. Chưa hết, hào quang của phở việt còn thu hút các nhà làm phim Hàn quốc và hãng phim VIFA khai thác dựng bộ phim truyền hình dài tập “Mùi ngò gai”. Xoay quanh phở, biết bao cảnh đời éo le cùng các số phận trớ trêu làm say mê hàng triệu lượt khán giả truyền hình suốt mấy tháng trời.

    Văn học truyền khẩu còn nhân cách hóa Phở thành cô “bồ nhí nhõng nhẽo” trong mắt nhân gian. Cũng có lẽ bởi phở kề cận với đời sống Việt mọi lúc mọi nơi, chỉ đứng sau cơm theo đúng cả “nghĩa đen lẫn nghĩa bóng”. Chả thế mà bảng hiệu “cơm–phở” nhan nhản khắp đó đây trên mọi nẻo đường. Giới “mày râu” thường tâm đắc ví von: cơm như “bà vợ” hiền hậu, trung thành tận tụy còn phở là “cô bồ trẻ” õng ẹo luôn mới lạ và đầy hương vị hấp dẫn điểm xuyết phút thăng hoa của cuộc đời! Chẳng biết câu ngạn ngữ làng phở: “Thuỷ chung với Cơm, sắt son cùng Phở” hay:

    “Sáng đèo Cơm đi ăn Phở,
    Trưa hăm hở rước Phở đi ăn Cơm
    Chiều cơm về nhà cơm, phở về nhà Phở
    Tối nằm với Cơm, thoảng thơm thơm mùi Phở !”

    đã ra đời tự bao giờ, song nó mô tả dung dị cảnh đời thường, ít nhất cũng một đôi lần vương vấn, thoáng qua trong đời của mỗi đấng mày râu.Ngạn ngữ, truyền khẩu dân gian làng phở tưởng như bất tận, luôn là chủ đề “hot” kiểu: “ Cơm ăn khi đói, Phở thưởng thức khi thích” và đôi khi còn đượm tính triết lý thâm sâu mang tính cảnh báo cao: “Vợ là cơm nguội của ta, nhưng là “phở tái” của cha láng riềng !”. Lại nữa, một câu đối rất rí rỏm thể hiện bằng “ngôn ngữ phở” kiểu tục tục, thanh thanh:

    “Nạc mỡ nữa mà chi! Em nghĩ chín rồi! Đừng nói với em câu tái giá!
    Muối tiêu đâu có ngại ! Lão còn gân chán! Thử vui cùng lão miếng gầu dai!”
    [15:51]. Một nét văn hóa rất riêng của phở, thật tuyệt !

    Phở là món ăn duy nhất được nâng tầm triết lý để có “Hội thảo về phở”. Ông Didier Corlou bếp trưởng khách sạn Sofitel Metropol Hà nội, một môn đồ của phở và sự hấp dẫn của món ăn lạ lùng này đã thuuết phục được vị đại sứ liên minh châu Âu Frederic Baron tổ chức hẳn một hội thảo tầm quốc tế với chủ đề “Phở: Di sản Việtnam” năm 2006. Các đại biểu tham dự được thưởng thức món phở kinh điển đúng theo phong cách cổ điển đầu thế kỳ 20. Để quảng bá rộng rãi, một cuốn sách về Phở, in song ngữ Việt – Pháp đã được Liên minh Châu Âu ấn hành. Ông F.Baron cho biết “Chúng tôi đã dành hơn một năm chuẩn bị cho sự kiện này”[12:60]. Một điều kỳ diệu khác được D.Corlou bật mí : “Tôi thường ăn phở tại hiệu phở gần phố Cửa Bắc, đó là nơi tôi đã gặp vợ tôi”, Phở việt thành bà mối, đã xe duyên cho ông! Nhiều văn nghệ sĩ trên thế giới đã giành cho phở mối quan tâm đặc biệt. Tác giả Alain Guillemin còn viết hẳn một bài báo “Lịch sử phở Việt nam”, một công việc trọng đại chính người việt còn chưa làm được. Tháng 7-2006 cuộc triển lãm 10 ngày về chủ đề “I love phở” thành công rực rỡ chính tại bảo tàng Liverpool nước Úc. Theo một dự án 5 năm của chàng việt kiều trẻ Lê Phú Cường cùng các văn nghệ sĩ Úc một cuốn sách “Tiểu sử phở” và bộ phim tài liệu “Rất gần và rất xa” sẽ ra đời. Nhà đạo diễn Úc gốc Ý Teresa Crea còn dựng vở kịch “Bữa tiệc cho mọi giác quan” thực hiện ý tưởng độc đáo của ông muốn tôn vinh phở như điểm hẹn gặp gỡ của các nền văn hoá! Chúng ta còn có thể hy vọng viếng thăm nhà bảo tàng Phở sẽ ra đời nay mai trong dự án có một không hai này.

    Ngay từ cuối thập niên 20 thế kỷ trước, phở đã được chọn làm đại diện ẩm thực việt tham dự hội chợ Mac xây tại Pháp, nhằm giới thiệu và vinh danh cho toàn xứ Đông dương. Phở trở thành chủ đề “cuộc thi bàn tay vàng nấu phở” trong dịp lễ hội kỷ niệm 990 năm Thăng long ở Hà Nội.

    Tiến sĩ Nguyễn Nhã tâm huyết với phở qua làn điệu ca trù khoan nhặt, huyền ảo “ Mười thương món phở”. Như những đệ tử sành phở chân truyền, ông chỉ tâm huyết với loại phở truyền thống : “Dĩ nhiên phải phở quốc truyền
    Giữ được cốt cách tự nhiên ban đầu” [15:54].

    Phở đi vào họa phẩm của giới nghệ sĩ tạo hình, lay động tâm hồn họ một cách tự nhiên khiến họ cầm bút mà đỉnh cao chính là bức tranh “phở gánh” của cố họa sĩ Nguyễn Gia Trí, cây đại thụ làng mỹ thuật Việt nam cận đại.

    Để cho đầy đủ các gam mầu cho bức “chân dung Phở Việt” nhân kỷ niệm sinh nhật 100 năm tuổi, hy vọng rồi đây sẽ có một nhạc sĩ tài hoa cảm nhận và thăng hoa cùng phở để cho ra đời một ca khúc mượt mà, âu cũng là nét chấm phá cuối cùng hoàn thiện diện mạo văn hóa phở cho đủ cả: Cầm-Kỳ-Thi-Họa, kịch nghệ và phim ảnh !

    Tp HCM 10-2009
    Đông Kinh Cư Sĩ
    Hà Long Trịnh Quang Dũng


    Tài liệu tham khảo:
    1. Nhớ và ghi về Hà nội. Nxb Trẻ 2004
    2. Khơi lại dòng xưa. Nxb Lao động 2007
    3. Trăm năm chuyện Thăng long Hà nội. Nxb Trẻ 2004
    4. Văn hoá ẩm thực và các món ăn Việt nam. Nxb Trẻ 2004
    5. Hương vịNam định. Nxb Phụ nữ 2002
    6. Hà nội 36 phố phường. Nxb Văn nghệ tp HCM1988
    7. Hà nội nửa đầu thế kỷ 20. Nxb Hà nội 1995
    8. Hà nội văn hoá và phong tục. Nxb Thanh niên 2000
    9. Văn hoá ẩm thực Hà nội. Nxb Lao động 1999
    10. Tự điển đường phố Hà Nội. Nxb ĐHQG Hà nội 2002
    11. Fun with Phở. Kinh tế Sài gòn 2004
    12. Phở a speciality of Hà nội. Nxb Thế giới 2006
    13. Khoa học đời sống No 44 xuân Bính tý
    14. Heritage. Mar-April 2007
    15. Tạp chí nghiên cứu và phát triển – Sở KHCN Huế số 1(72)2009
    16. Các Web sites: pho2000.com; phogiatruyennamdinh.com.vn; vv…
    17. Tổng tập nghìn năm văn hiến Thăng long (Tập 4) nxb VHTT 4/2009
    Last edited by Bin571; 30-07-2011 at 09:48 AM.
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  2. #2

    Mặc định

    Bài nghiên cứu rất công phu, rất đáng nên đọc.

  3. #3

    Mặc định

    Tùy bút "Phở" của Nguyễn Tuân
    28/07/2011 1329

    Phở còn tài tình ở cái chỗ là mùa nào ăn cũng thấy có nghĩa thâm thúỵ Mùa nắng, ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt qua lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt chợt thắm tươi lại.


    Xứ Phần Lan rừng thông trùng trùng xanh ngắt, nước hồ biếc biếc, phụ nữ da trắng một màu tượng tuyết, gái trai quần áo len ngũ sắc người nào cũng như nai nịt sắp biểu diễn điền kinh. Mình thành ra lạc lõng vào một thế giới vật chất nó sạch sẽ quá, sạch đến cái mức tạo cho tôi một thứ nghi ngờ nơi đây là một ấn tượng giả tạo. Cảnh và người Hen-xanh-ky, ví phỏng đây đó lem nhem đi ít chút, có lẽ tôi dễ thân gần hơn. Chúng tôi ở đây mười ngày, mỗi ngày họp trả tiền ăn mỗi người là sáu đồng đô la, nó là cái tiêu chuẩn đã khá cao của đoàn đại biểu ta đi hoạt động quốc tế. Mỗi ngày ăn ba bữa, khẩu phần thừa thãi bổ béo; nghi thức lúc ăn thật là trang trọng : đồ sứ, pha lê, khăn bàn trắng muốt, quanh bàn ăn chốc chốc lại cử nhạc, những chị đưa món ăn trông đẹp như rượu rót trong các truyện thần thoại phương Bắc nàỵ Tôi hào hứng làm việc liền liền ở Đại hội Hoà bình thế giới, cơ thể nhịp đều, tâm trí có nhiều sáng kiến. Nhưng ăn uống sao không thấy ngon. Người ta thường nói rằng những bậc vĩ nhân hoặc hiền giả có chí lớn chỉ biết có sự nghiệp mà rất coi nhẹ miếng ăn. Nhưng trường hợp tôi kể ra đây chỉ là cái trường hợp thông thường của một con người bình thường thôi.

    Chúng tôi là mấy anh em trong đoàn đi, mỗi người một công tác chuyên môn, nhưng đều cùng đã gian khổ với nhau trong kháng chiến và cũng là người Hà Nội cả.

    Quanh hồ khu Ô-ta-ni-ê-mi, chúng tôi ngồi dưới rừng thông xanh phân tích với nhau xem tại sao lòng dạ mấy người đang thấy nhớ thương một cái gì xa xôi lắm. Từ hôm xách va ly ra tàu qua nước này nước khác, thế là mấy tháng rồi; ở nhà đã hoàn thành tiếp quản Hải Phòng rồi, đất đai miền Bắc giải phóng toàn bộ rồi ... Nhưng mà chúng tôi đã kéo cuộc nhân đàm xoáy vào chuyện ẩm thực và muốn giúp đỡ nhau tìm hiểu vì đâu mà lâu nay ăn uống kém ngon. Có người bèn chỉ tay thẳng xuống nền cỏ bờ hồ Phần Lan, buông thõng một câu : " Bây giờ có ngay một gánh phở đỗ bên bờ hồ này, thì tớ đả luôn sáu bát ! ". Tất cả đều reo lên. Thì ra gần đây chúng tôi héo hắt đi, vì xa đất nước, khẩu vị lạc điệu, thấy nhớ nhà nhớ nước, trong cái nhớ nhà nhớ đất nước, có cả một sự nhớ ăn phở nữa. Hình ảnh bát phở quê hương đưa ra lúc ấy giải quyết đúng vào thắc mắc chung của mấy người. Tất cả đều thi nhau đề cao những đức tính của phở dân tộc. Dưới đây liên tiếp những mẩu chuyện góp về một bát phở, về một miếng ăn kỳ diệu của tất cả những người Việt-nam chân chính.

    - Này, các cậu có thấy món ăn ở Phần lan có nhiều cái rất kỳ quặc không. Thịt bò rán, lại phiết mứt công-phi chưa ngọt sắt lên trên. Cam chanh lại ăn kèm với cá gỏị Cơm lại ướp vào tủ nước đá, mình thấy đĩa cơm có khói, lúc ăn buốt đến chân răng. Nghệ thuật ẩm thực tôi gọi tên là lối nấu nướng của trường phái lập thể. Cho nên tôi càng thấy cần phải trở về với món quà cổ điển rất tính chất dân tộc của ta, tức là phở.

    - Phở còn là một món ăn rất nhiều quần chúng tính. Ông muốn ăn phở ngồi hay đứng lù lù ra giữa hiệu mà ăn cũng không ai nói, ăn ngồi ăn đứng tuỳ thích. Phở là món ăn bình dân. Công nông binh trí, các tầng lớp nhân dân lao động, thành thị, nông thôn, không mấy ai là không biết ăn phở. Người công dân Việt-nam khi còn ẵm ngửa, cũng nhiều vị đã nếm phở rồi; chỉ có khác người lớn là cái bát phở của tuổi ấu trĩ chưa biết đau khổ ấy chưa cần phức tạp, không cần hành hăng, chanh chua, ớt cay. Con nhà nghèo, nhiều khi lại không cần cả thịt nữa, mà căn bản phở nhi đồng vẫn là bánh và nước dùng thôi.

    - Phở ăn bất cứ vào giờ nào cũng đều thấy trôi cả. Sớm, trưa, chiều, tối, khuya, lúc nào cũng ăn được. Trong một ngày ăn thêm một bát phở, cũng như lúc trò chuyện ăn giọng nhau mà pha thêm một ấm trà, cùng thưởng thức với bạn bè. Hình như không ai nỡ từ chối một người quen rủ đi ăn phở. Phở giúp cho người thanh bạch đủ điều kiện biểu hiện lòng thành theo với bầu bạn nó hợp với cái túi nhỏ của mình. Phở còn tài tình ở cái chỗ là mùa nào ăn cũng thấy có nghĩa thâm thúỵ Mùa nắng, ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt qua lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt chợt thắm tươi lại. Trong một ngày mùa đông của người nghèo, bát phở có giá trị như một tấm áo kép mặc thêm lên người. Đêm đông, có người ăn phở xong, tự coi như vừa nuốt được cả một cái chăn bông và tin rằng có thể ngủ yên đến sáng, để mai đi làm khoẻ. Dùng những hình ảnh bình dị để nói lên mùa đông ở Việt-nam, tôi cho không gì nên thơ bằng cái hình ảnh một bếp lửa hàng phở bến ô tô nhiều hành khách quây quanh chờ đợi bát mình, vai rụt xuống một tí, người nhún nhẩy như trẻ em đang thú đời. Tết, nhà ai cũng bánh chưng, cá kho, thịt đông, nhưng vẫn rất đông người tình cờ mừng tuổi nhau ở những hiệu phở khai trương từ mùng hai Tết.

    - Vì hay la cà với phở, mà tiếng nói của tôi được chính xác và giầu có thêm lên. Trước kia tôi cứ tưởng chữ "xương xẩu" là một tiếng đôi, và chữ xẩu chỉ là một tiếng đệm. Ông hàng phở đã làm cho từ ngữ tôi hôm ấy thêm lên một danh từ. Xẩu khác với xương, dùng để chỉ những cái đầu xương phở có dính thịt và gân róc chưa hết. Tôi đã thấy những người phu xe kéo vào hiệu phở gọi một chén rượu với một bát xẩu. Tôi còn được nghe một ông phở khác nói đến mỡ gầu, cái tảng thịt dắt mỡ quí giá nó không béo quá, mà lại quánh như sáp, ròn và mềm ấy mà gọi là một cánh gầu; và lúc cầm vào cân thịt tái, thịt tươi còn nhảy lên dưới làn dao, mà gọi là một quả thăn. Trong tiểu thuyết Việt-nam trước đây, nhớ người ta có viết cái truyện "Anh hàng phở lấy vợ cô đầu". Tôi còn được nghe một cô điếm ngày xưa ví von than đời tàn " đời hồi này như một gánh phở bánh trương mỡ nguội đóng váng". Phở nguội tanh thật là buồn hơn cả cái sự đời cô gái thập thành bị ma cô lừa bỏ. Chữ nghĩa của ta hay thật ! Người ta bảo chữ phở là xuất xứ từ chữ "ngưu nhục phấn", và ta đã Việt-nam hoá chữ phấn thành ra chữ phở. Chữ phở nguyên là một danh từ, còn chuyển thành một hình dung từ : cái mũ phở. Chữ nghĩa của ta hay thật !

    - Đố biết thế nào là mũ phở ? Lại cứ phải dựng chân dung những người bán phở gánh chân chính ngày xưa thì mới tầm nguyên ra được. Những người bán phở gánh xưa kia có người đỗ ở đầu phố này, hoặc giữa phố nọ, hoặc ở tít trong cùng một cái ngõ cụt, mỗi người một "giang sơn nào, anh hùng ấy", người mua quen mặt người bán, và người bán thuộc cả thói quen và sở thích ngườ ăn trong phố. Những anh hàng phở "hùng cứ một phương" này lại còn thuộc cả nhân số từng bộ khẩu và ngày giỗ tết trong từng gia đình khách hàng quen của mình. Họ thường là những người làm ăn chân thật, hay mặc một cái áo vành tô vải vàng hoặc dạ màu cứt ngựa của ông bình khố đỏ thải ra, trên đầu là một cái mũ cát mất cả núm chỏm, và nhất là hay đội những cái mũ dạ méo mó đã mất cả băng hoặc rách cả bo. Những cái mũ này đặt lên đầu người nào cũng không chỉnh, mà hình như chỉ đặt lên đầu những bác phở gánh là có một ý nghĩa. Không những thế, cái mũ phở ấy, còn là một dấu hiệu tập hợp, một cái hình thức gây tín nhiệm nữa. Những con người đội mũ rách ấy thường là người làm phở ngon, nếu không ngon thì chỉ ít cũng phải là ăn được. Phở gánh với ông đội mũ phở nay thấy hiếm, chỉ còn phở xe, phở hình tàu thuỷ có ống khói phở, phở quán, phở hiệu. Đồ chơi trẻ con ngày xưa làm bằng sắt tây sơn màu, ở phố Hàng-Thiếc, có ghi lại cái dáng ông phở gánh, bánh xe đồ chơi càng chuyển càng cử động cái cánh tay cầm dao nhấc lên thái xuống.

    - Phở cũng có những quy luật của nó. Như tên các hàng phở, hiệu phở. Tên người bán phở thường chỉ dùng một tiếng, lấy ngay cái tên cúng cơm người chủ hoặc tên con mà đặt làm tên gánh, tên hiệu, ví dụ phở Phúc, phở Lộc, phở Thọ, phở Trưởng ca, phở Tư ... Có khi một cái tên tật nguyền trên thân thể người bán phở được cảm tình quần chúng thân mật nhắc lại thành một cái tên hiệu : phở Gù, phở Lắp, phở Sứt ... cái khuyết điểm trên hình thù ấy đã chuyển thành một cái uy tín trong nghề bán miếng chín mà lưu danh một thời trên cửa miệng những người sành. Quần chúng nhân dân, nhất là nhân dân Hà-nội có nhiều sáng kiến để đặt tên cho những người họ yêu tin. Anh hàng phở ấy hãy đứng ở đâu bán hàng, họ lấy luôn cái địa điểm ấy mà gọi thành tên người : Bác phở Nhà thương, ông phở Đầu ghi, anh phở Bến tầu điện, anh phở Gầm cầu ... Có khi lấy một vài nét đặc thù trong cách phục sức mà gọi. Cái mũ tàu bay trên đầu ông bán phở thời Tây xưa, đã thành cái tên một người bán phở trứ danh của thủ đô sau này. Có lẽ vì gần với quần chúng trung lưu và người nghèo, nên cũng như " ông chủ " hiệu hớt tóc, hiệu cà phê, tên anh hàng phở cũng chỉ có một tiếng gọn gàng. Tôi chưa hề thấy ông bà hàng phở nào nổi tiếng trong nghề mà tên lại dài lê thê, chẳng hạn như phở Tôn thất Khoa gì gì, hoặc phở Trần thị Kim Anh gì gì đó. Cái tên càng độc âm ngắn cộc, càng đáng cho người mua tin cậy ; cái tên một chữ, gọn như một nhát dao thái xuống thịt chín. Vả lại những biển hàng hiệu phở dù là giữa đất Hà-nội văn hoa mỹ tự, cũng chỉ đặt tên một cách nôm na, không kẻ những chữ huyênh hoang. Tôi chưa thấy biển hiệu phở nào mà lại đề tên một cách quá trầm bổng du dương cả. Ví phỏng có ai mở phở mà nổi máu hay chữ lên mà đề biển thì tôi không bao giờ chọn những hiệu phở có tên như "Thu Phong", "Bạch Tuyết", "Nhất chi Mai" mà vào ăn. Trong nghề phở, nó cũng có những cái nền nếp của nó.


    Phở ăn bất cứ vào giờ nào cũng đều thấy trôi cả. Sớm, trưa, chiều, tối, khuya, lúc nào cũng ăn được


    - Nhưng khoa phở đã có những việc nó đòi phá cả những khuôn phép của nó. Theo tôi nghĩ, . Có thể có nhiều thứ thịt loài bốn chân, loài ở nước, loài bay trên trời, nó ngon hơn thịt bò, nhưng đã phở thì phải là bò. Có phải là vì muốn chống công thức mà người ta đã làm phở vịt, phở xá xíu, phở chuột ? Cứ cái đà tìm tòi ấy, thì rồi sẽ có những hàng phở ốc, phở ếch, phở dê, chó, khỉ, ngựa, tôm, cá chép, bồ câu, cắc kè ... nghĩa là loạn, phở nổi loạn. Có nhẽ ngày ấy thiên hạ sẽ gọi là đi ăn một thứ phở Mỹ miếc gì đó. Trong năm đói 1945, ở đáy nồi nước phở của thời đại, ở Hải phòng và Hà nội, đã có thùng phở có cả những bàn tay trẻ con : nhưng đó lại là chuyện khác.

    - Lại còn phở ngầu pín. Chắc thứ phở này chỉ những người năm bảy vợ hoặc thích léng phéng mới hay ăn. Tên thứ thịt phở này, còn gợi lại một thứ roi của bọn Tây độc ác hay đánh cu li đến thối thịt tím xương.

    - Lại còn phở gà. Muốn đổi cái hương vị chính thống của phở bò, ăn một vài lần phở gà trong đời mình cũng không sao. Nhưng có một hàng bán phở gà ở Hà nội mà nhiều người thủ đô không bằng lòng chút nào. Y bán vào buổi sớm, người xúm lại kêu ăn gạt đi không hết. Cái người bán hàng khinh khỉnh như một quý tộc đó, cũng đã khéo chọn một góc phố mang tên một bà chúa mà dọn hàng ! Nói của đáng tội, gà ở đấy trông ngon mắt thật. Đã có những bạn lưu dung khen ông ông hàng là nhất nghệ tinh nhất thân vinh, và khen tay ông lách vào con gà béo vàng như tay một bác sĩ khoa mổ xẻ thuộc lầu từng khớp xương thớ thịt. Cái đầu gà, cái cẳng giò gầy, cái cổ, xương mỏ ác, ông hàng thản nhiên vứt nó xuống một cái thùng, không phải để vứt đi, nhưng chắc là đã có những bợm rượu khu phố ăn giá sẵn từ trước rồi để chốc nữa đem ra nhấm nháp. Thực ra, khi mà có người ăn bát phở gà không tiếc tiền dám gọi đến cái thứ phở từ một ngàn năm trăm đồng một bát, thì bát phở ấy cũng khó mà không ngon được. Hãy đứng ở đây một buổi sớm mà xem người ta ăn phở gà. Sốt ruột đáo để. Người ăn mề gà, người ăn đùi, ăn thịt đen chứ không ăn thịt trắng nó chua, ăn lá mỡ, phao câu, ăn đầu cánh. Miếng ăn ở đây đích thị là một miếng nhục, nhục theo cái nghĩa một miếng thịt ngon hợp khẩu vị, và cũng đi theo cái nghĩa nhục nhằn túi bụi . Ở vỉa hè đường ấy, cứ nhao nhao cả lên quanh một ông hàng mặt phớt tỉnh như đế quốc Ăng lê và bán hàng rất cửa quyền, khách phải đi lấy lấy bát. Có người đã dắt sẵn từ nhà đi một củ hành tây, có người quả trứng gà ... đập trứng bỏ hành tây vào cái bát mình đã thủ sẳn và đánh dấu vào bát, dúi dúi bát trước mặt ông hàng, cười cười, nhắc nhắc, xuýt xoa nói to nói nhỏ, cứ như là sợ cuộc đời nó quên mình, nó nhầm mình ... Bên cạnh tiếng thái thịt chặt của gánh phở gà, chốc chốc có tiếng nổ xe bình bịch lái xuống tận đây ăn quà sớm, khói phở phảng phất đây lát ít mùi ét săng. Có người vừa húp vừa kể lại cái thời oanh liệt của cửa hàng này, khi còn đế quốc và bù nhìn, ô tô cứ nối đít xuống đây mà điểm tâm, nhiều bà Hà nội tứ chiếng cầm vào bát phở gà, mười ngón tay lóng lánh nhẫn vàng tắm, vàng, trắng, cà rá kim cương, miếng phao câu lúc ấy còn mọng lên biết mấy nữa kia .

    Trong kháng chiến có những tay phở nổi tiếng ở vùng tự do như phở Giơi, phở Đất, phở Cống, (tên vẫn một tiếng thôi) nhưng cũng có những bát phở, chưa được đúng cách thức lắm mà ăn vào vẫn cứ thấy cảm động. Ví dụ, phở ở căn cứ địa, làm ngày trong cơ quan. Một vài cơ quan ở quanh Trung ương, chung nhau giết bò để bồi dưỡng theo kế hoạch hàng tháng. Có những đồng chí cấp dưỡng rất yêu thương anh em, nhất định tổ chức phở. Thịt sẵn, xương sẵn, nhưng thiếu nước mắm, thơm, hành mùi, bánh lại là bánh đa khô. Nhưng cứ làm. Những chầu phở ngày chủ nhật ở bên bờ suối cơ quan, thật là đầu đề phong phú cho báo liếp. Ăn phở trên rừng càng thấy cồn cào nhớ miền xuôi. Ở các đon vị tĩnh tại, chiến sĩ thỉnh thoảng cũng nấu phở ăn. Vui nhất là ở một trung đoàn gì đó có nhiều chiến sĩ người Hà Nội, trung đoàn ấy về đánh dưới xuôi, đánh cái trận vận động chiến ở Hạ Bằng. Nhân dân đi sát bộ đội, có hàng phở gánh của dân chúng bán ngay tại tuyến lửa, gánh phở cứ quấn lấy hậu quân của đơn vị đang lập công, anh chiến sĩ cầm bát phở đang bốc khói và cạnh anh là những nòng súng cũng chưa đi hết khói.


    - Hình như Thạch Lam trước đây cũng có bàn về phở, nhưng còn phiến diện. Thạch Lam có nhắc đến vấn đề cải lương ở Hà Nội văn vật. Đầu năm 1928, ở Phố Mới, cái phố trước đây mang tên thực dân Đồ phổ Nghĩa, có một hàng phở cho cả húng lìu, cả đầu vừng, đậu phụ. Nhưng những cái lối tìm tòi ấy không thọ, vì trình độ nhận thức của quần chúng phở không sa đoạ như người chế tạo. Quần chúng vẫn đòi hỏi những cái cố hữu của phở. Ngày nay cũng còn có người cho cả tương tầu lạp chíu chương vào phở, nhưng đây là cái quyền của người có tiền, ai muốn bày vẽ ra thế nào, nhà hàng cũng chiều trong phạm vi có thể của phở. Nhiều người bảo nên ăn phở tái thì bổ hơn phở thịt chín. Có thể là như thế đấy. Nếu cần bổ thì cũng có thể uống Pan-tô-cờ-rin Liên xô hoặc làm tễ thuốc Bắc, còn kết quả trông thấy rõ hơn là ăn phở tái. Thật ra, ăn phở cho đúng, đúng cái "gu" của phở, phải ăn thịt chín. Thịt chín thơm hơn thịt tái, mùi thơm miếng thịt chín mới biểu hiện đúng cái tâm hồn của phở. Thêm nữa, về mặt nhận thức tạo hình, người thẩm mỹ bao giờ cũng thấy miếng thịt chín đẹp hơn miếng thịt tái. Thường những hiệu phở không tự trọng, hay thái sẵn thịt chín, thái cứ vụn ra không thành hình thù gì cả, ai đến gọi là rắc vào bát. Có thể việc ấy không hề gì với khách hàng không cần ăn no vội. Nhưng cũng trong một cái hiệu vẫn thái thịt vụn ra ấy, ông chủ phở rất là phân biệt đối xử và không san bằng các thứ khách : đối với những khách quen, với những người có thể ông chưa biết quí danh nhưng ông đã thuộc tính ăn, những người cầu kỳ ấy mà bước vào hiệu, là ông đã đặt ngay tay dao vào những khối thịt chín đặc biệt như khối nạm ròn, nạm dắt hoặc khối mỡ gầu, thái ra những miếng mỏng nhưng to bản, với cái sung sướng bình tỉnh của một người được tỏ bày cái sở trường của mình trong nghề. Ông nào ăn phở mà có chất hoạ thì thấy muốn vẽ tranh tĩnh vật ngay. Có những lúc ông phở ấy gắt, gắt với vợ ông, vì ông thái không đẹp. Một ông làm đầu bếp hiệu chim quay trong hồi Hà nội chiếm đóng, nay cũng ra mở phở và thích múa dao nói chuyện với khách về cái khoa thái. "Chặt thái loài có cánh đã khó, mà thái miếng thịt bò không xương còn khó hơn. Tôi dạy mãi mà đàn bà nhà tôi vẫn không làm được, đàn bà thường chỉ thái bánh thôi".


    - Trong số những thắc mắc của một số ông Hà nội trí thức dở người ta có nhắc đến một ông lo sau này ta tiến lên kinh tế hoàn toàn xã hội chủ nghĩa, kinh tế phân tán không còn nữa, thì mất hết phở dân tộc, và rồi sẽ phải ăn phở đóng hộp, mỗi lúc ăn bỏ cái hộp phở ấy vào nồi nước sôi trước khi đục ra ăn, và như thế thì nó trương hết bánh lên. Cũng ngay trong hiệu phở, có người đã đập ngay lại : " Thôi đốt ông đi . Ông đừng có làm cái chuyện lo giời sập ấy đi. Hiện nay phở đang phát triển mạnh ở thủ đô Hà nội, lớn nhỏ, gánh rong, bán trong nhà, bán ngoài hè, có đến trên dưới hai ngàn chủ phở. Người Việt-nam còn thì còn phở bát, bát phở trong tương lai vẫn nóng sốt như bây giờ. Phở bát của ta không thể thành một thứ đồ hộp đâu, người công dân Hà nội này xin trả lời ông là một nghìn lần không, không, không thể có sự thô bạo ấy ".

    - Cái thế giới phở Hà nội trước đây hình như cũng có nhừng thứ nhân vật nghiệp dĩ của nó. Làng chơi, học trò, ông binh, thày ký sở buôn, ông phán sở toà, con bạc, chủ hiệu nhỏ, những người lao động vận tải, những người làm nghề tự do ... Có những lính lê dương chạy đến hàng phở, ăn xong tính tiền, lật ngay cái mũ đỏ ra trong cái mũ có cái quần lĩnh vừa cướp ở nhà chứa ra; người khách hàng lính đánh thuê đó đã vắt quần lĩnh đó xuống quầy hàng thay một thứ trả tiền, rồi ù té chạy ... Có những tay giàu sụ nhưng tính nết hấp lìm, mua bánh mì thả vào nước phở béo mà cứ gọi là ăn cơm Tây bình dân. Có những người đàn bà trái duyên trộn cơm nguội vào bát phở nóng, mà ăn một cách ngon lành, nhưng người ngoài trông vào thì thấy nó thê lương thế nào ấy. Có những kẻ sống không nhà cửa, chuyên môn đứng đường, chạy hàng sách chợ đen đủ các thứ, lúc tính tiền hoa hồng, lấy bát phở tái năm xu làm đơn vị giá cả, "việc này mà trôi chảy, ông bà chị cứ cho em một trăm bát tái năm, vân vân ... ".

    Hương vị phở vẫn như xa xưa, nhưng cái tâm hồn người ăn phở ngày nay, đã sáng sủa và lành mạnh hơn nhiều ... Ngày trước, anh hàng phở có tiếng rao, có người rao nghe quạnh hiu như tiếng bánh dày giò đêm đông tội lỗi trong ngõ khuất; có người rao lên nghe vui rền. Tại sao, bây giờ Hà nội vẫn có phở, mà tiếng rao lại vắng hẳn đi ? Có những lúc, tôi muốn thu thanh vào đĩa, tất cả những cái tiếng rao hàng quà rong của tất cả những thứ quà rong, của tất cả những thư quà miếng chín trên toàn cõi quê hương chúng ta. Những tiếng rao ấy, một phần nào vang hưởng lên cái nhạc điệu sinh hoạt chung của chúng ta đấy.

    Chúng tôi ngồi trên bờ một cái hồ xứ Bắc ở ngoại thành Hen xanh ky tưởng nhớ đến một bát phở quê hương, và đối với món ăn đó của dân tộc đáng yêu chúng ta ở Đông Nam Châu Á, chúng tôi đã phát hiện những đức tính dồi dào của phở, tự mình cho đó là những cơ sở vững chắc để dựng lên một nền lý luận cho món phở. Sau đó mấy tháng trở về nước, đặt chân lên đất Hà nội, bữa cơm đầu tiên của tôi là một bữa phở. Về sau này, hay rủ nhau đi ăn phở, tôi được đi sâu vào ý nghĩ của một anh bạn nó đã trở thành một ám ảnh : " Mình khen phở mình là một món ăn ngon, nhưng trước khi khẳng định giá trị dân tộc của phở, có nên tranh thủ thêm ý kiến của bạn bè, quốc tế của ta không ? Bạn Liên xô, bạn Ba lan, Hung, Tiệp, Đức sẽ có cảm xúc gì về món phở Việt-nam ? Họ đã có dịp nếm phở chưa ?" Bài dân ca của mình họ nghe rồi, đất nước mình, các bạn thấy rồi. Nhưng còn phải cho bạn mình " thấy " phở nữa, bởi vì phở cũng là một thứ tiếng hát yêu đời của tất cả những tấm lòng con người Việt-nam chân chính và bình dị. Thế rồi một hôm khác, cũng trong một quán phở nổi tiếng Hà nội, tôi đã nghe được mẩu chuyện giữa hai nữ sinh một trường phổ thông cấp 3 gần đây : " Phở hiệu này, ăn mê quá. Thế đố chị biết Hồ Chủ Tịch và các lãnh tụ Đảng có thích phở không ? - Làm thế nào mà biết được - Này, nói đùa chứ các cụ mà đến ăn cho hiệu nào, thì chủ hàng thật là sung sướng vô bờ đấy chị nhỉ ! ". Hai cô rút lấy túi gương con chiếu lẫn vào hàm răng nhau xem có vướng tí hành tí rau mùi nào không, cười ríu rít như chim đàn nhảy quanh bàn phở. Mẩu chuyện hai cô học trò như giúp tôi hiểu thêm nữa về phở, và giúp tôi nhận thức đến những cái nó quan trọng hơn cả phở nữa.

    Ít lâu nay, chúng ta hay nói đến thực tế Việt-nam, đến vấn đề thực tiễn Việt-nam, đến những đặc tính của Việt-nam trong mọi điều kiện chuyển mình tiến lên . Tôi thấy rằng trong muôn vàn thực tế phong phú của nhân dân Việt-nam, có một cái thực tế mà hàng ngày ít ai nỡ tách rời nó, tức là cái thực tế phở. Cái thực tế phở ấy lồng vào trong những cái thực tế vĩ đại của dân tộc. Trong một giọt nước rơi lóng lánh có cả câu chuyện của vầng thái dương; trong một miếng ăn, cũng thấy rộng được ra những điều cao cả yên vui trên đất nước bao la giàu có tươi đẹp. Tôi thấy tổ quốc chúng ta có núi cao vòi vọi điệp điệp, có sông dài dằng dặc, có biển bờ thăm thẳm, có những con người Việt-nam dũng cảm xây đắp lịch sử quang vinh, có những công trình lao động thần thánh như chiến thắng Điện biên, nhưng bên cạnh những cái đó, tôi biết rằng Tổ quốc tôi còn có phở nữa . Trong những năm chiến tranh giải phóng, kẻ thù bay trên bát phở, có những bát phở phải húp vội trong đêm tối tăm, quệt ngang ống tay áo mà nhảy xuống lỗ lầm; có những bát phở bị bom, bánh trương lên mà người ăn không còn thấy trở lại một lần nào nữa . Nhớ lại cái hồi tôi về công tác ở vùng sau lưng địch, tôi không thể quên được mấy cái quán phở khuya trên con đê miết lấy vùng căn cứ du kích; những bát phở nóng ăn sau những đêm vượt vành đai trắng và xuyên qua vị trí địch, ăn có một hương vị thật là đặc biệt; sau này nó tổng càn, nó hất hết các quán trên đê, không biết người bán phở đêm đó, có còn sống hay đã chết trong chuyến ấy rồi ? Lại còn cái lần đi chiến dịch với tiểu đoàn Lũng vài, tôi không quên được những cuộc hành quân với đồng chí cấp dưỡng ban chỉ huy ; đồng chí ấy gánh rất nhiều nồi niêu ga-men và thực phẩm cồng kềnh, các chiến sĩ đều đùa gọi là " ông hàng phở của tiểu đoàn ". Trước kháng chiến đồng chí ấy vốn mở hiệu phở ; nay hoà bình rồi, đồng chí có còn sống mà mở phở lại ? Nhiều hình ảnh phở trong những năn gian khổ đã hiện về. Giờ mà ngồi an tâm ăn bát phở nóng sốt giữa ban ngày bất giác cần nhớ ơn nhiều người . Rồi mối cảm xúc phở vụt chốc bay xa rộng mênh mông . Bỗng nghĩ đến những vùng chăn nuôi xanh rờn áng cỏ sữa khu tự trị Thái-Mèo, những đàn bò Lạng Sơn, Thanh hoá đang cúi xuống ngốn cỏ ngon trên đất nước . Gạo mấy vụ liền lại được mùa, bột bánh mịn và dẻo. Rau cỏ vùng ngoại thành Hà nội : mở rộng mãi những diện tích xanh ngon vô tận, rau thơm hành hoa phưng phức cái hương vị thổ ngơi .

    Đêm Hà nội, nay thức khuya nhất vẫn là những hiệu phở. Xưa kia phở ông Trưởng Ca bán đến bốn giờ sáng ở đình Hàng Bạc - cái nơi tập trung nhân dân Hà nội năm đầu kháng chiến để rút ta khỏi vòng vây địch. Đình cũ không còn ông Trưởng Ca nữa, nhưng nay đã có ông phở Sửa sai thay ông mà thức khuya. Người Hà nội đặt tên đến là hay.

    Trước đây ông nấu bếp hiệu cao lâu Tàu; rồi ông ra mở phở. Rồi ở quê ông quy nhầm ông, ông phải về quê, giao lại quán phở cho bạn. Nay ông được sửa sai, lại trở lại thủ đô, chính quyền khu phố miễn thuế cho ông một thời hạn và tìm một chỗ lợi địa thế cho ông mở hiệu . Món quà của ông phở "Sửa sai" càng thơm ngon một cách chất phác hơn bao giờ. Có thể là cảm tình của khách hàng, đối với một người phở quen nay được khôi phục càng làm cho bát phở giải oan có thêm nhiều dư vị nữa . Những bát phở hồn hậu ấy cũng chỉ là một sự đền bù công bằng đối với những người làm ăn lương thiện khu phố đi xem hát về hoặc họp hành bình bầu học tập xây dựng vừa xong .

    Chuyện góp về phở tới mức độ nào đó là y như tôi lại thấy nhớ một chị bạn rất thân, ngày chưa có cách mạng vẫn hay rủ nhau đi ăn phở đêm và nói những chuyện trên trời dưới nước. Cũng như vô khối người khá, chị đã bỏ đi Nam vì một vài vần đề sĩ diện gì gì đó. Giờ đây mõi lần phát hiện thêm được một hiệu phở ngon sạch là tôi không thể không nghĩ đến cái chị bạn thích ăn phở cay xé lưỡi. Ớt tười, ớt khô, ớt bột ngoài này hiện đang thơm cay, mõi lần ăn bát phở cay và đậm, đôi mọi tôi bỏng cháy lên càng lấy làm thương nhớ vô cùng chị bạn đi Nam. Chỉ mong chóng quan hệ bình thường, tôi rủ chị bạn ngày xưa và các bạn của chị về đây dầu cho chỉ một ngày, để thăm lại phố phường và bạn bè cũ. Và cái món ăn Hà Nội đầu tiên tôi thết chị, vẫn là cái món phở ngày xưa chúng ta vẫn ăn đủ cả rau mùi hành hoa đủ chua cay và sôi sùng sục. Tôi biết ở Nam Bộ vẫn có phở, phở hủ tíu, nhưng bát phở Bắc ăn ở đầu hè di cư không bao giờ có thể ngon được bằng bát phở cổ truyền Hà Nội ăn ngay bên lò than quả bàng đỏ lửa giữa ngàn năm văn vật này.

    Nguyễn Tuân – 1957
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  4. #4

    Mặc định

    Thạch Lam: Chẳng gì ngon hơn một bát phở ngon
    28/07/2011 1329

    Chung quanh nồi nước phở, ta thấy tụm năm tụm ba, các bệnh nhân đàn ông và đàn bà, các bác gác san, các thầy y tá, và cả đến các học sinh trường Thuốc nữa. Chừng ấy người đều hợp lòng trong sự thưởng thức món quà ngon, nâng cách ăn phở lên đến một nghệ thuật đáng kính.


    ... Sao bằng ra đầu phố ăn một bát phở bã của anh hàng phở áo cánh trắng, gilet sđen, và tóc rẽ mượt? Nồi nước sôi sùng sục tỏa mùi thơm ra khắp phố. Nếu là gánh phở ngon -cả Hà Nội không đâu làm nhiều -, thì nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh, ớt, với hành tây đủ cả. Chả còn gì ngon hơn bát phở như thế nữa. Ăn xong bát thứ nhất, lại muốn ăn luôn bát thứ hai. Và anh hàng phở chả phải gánh nặng đi đâu cả, chỉ việc đỗ một chỗ nhất định, cũng đủ bán một ngày hai gánh như chơi. Và người hàng phố tìm dấu hiệu để gọi tên anh cho dễ nhớ: anh phở Trọc, anh phở Bêrê, anh phở Mũ Dạ, anh phở Cao... và dặn thằng nhỏ chớ mua hàng khác về "ông không ăn mà chết đòn". Phở là một thứ quà thật đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng ở Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon. Đó là thứ quà suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa, và ăn phở tối. Phở bán gánh có một vị riêng, không giống như phở bán ở hiệu. Các gánh phở có tiếng ở Hà Nội đều được người ta đặt tên và tưởng nhớ : phố Hàng Cót, phố ô Quan Chưởng, phố Cửa Bắc v.v...



    Phở là một thứ quà thật đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng ở Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon. Ảnh minh họa


    Bây giờ nhiều tài năng trẻ trong nghề phở mới nhóm lên, và trái lại, những danh vọng cũ trên kia không chắc có còn giữ được "hương vị xứng kỳ danh" nữa. Có người nào thử chịu khó đi khảo nếm lại một lượt xem sao? Một vòng quanh Hà Nội bằng vị phở, chắc có lắm điều mặn, chát, chua, cay đấy. Nhưng có một nơi phở rất ngon mà không có ai nghĩ đến và biết đến: ấy là gánh phở trong nhà thương. Trong nhà thương vốn có một bà bán các thứ quà bánh ở một gian hàng dựng dưới bóng cây. Cái quyền bán hàng đó là quyền riêng của nhà bà, có từ khi nhà thương mới lập. Bà là người ngoan đạo nên tuy ở địa vị đặc biệt đó bà cũng không bắt bí mọi người và ăn lãi quá đáng. Thức gì bán cũng ngon lành, giá cả phải chăng. Nhưng gánh phở của bà thì tuyệt: bát phở đầy đặn và tươm tất, do hai con gái bà làm, trông thực muốn ăn. Nước thì trong và lúc nào cũng nóng bỏng, khói lên nghi ngút. Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một chút cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ. Mà nhân tâm tùy thích, nhà hàng đã khéo chiều: ai muốn ăn mỡ gầu, có, muốn ăn nạc, có, muốn ăn nửa mỡ, nửa nạc, cũng có sẵn sàng. Cứ mỗi buổi sáng, từ sáu giờ cho đến bảy giờ,-chỉ trong quãng ấy thôi, vì ngoài giờ là gánh phở hết -, chung quanh nồi nước phở, ta thấy tụm năm tụm ba, các bệnh nhân đàn ông và đàn bà, các bác gác san, các thầy y tá, và cả đến các học sinh trường Thuốc nữa. Chừng ấy người đều hợp lòng trong sự thưởng thức món quà ngon, nâng cách ăn phở lên đến một nghệ thuật đáng kính.


    Thạch Lam (Hà Nội băm sáu phố phường)
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  5. #5

    Mặc định

    Vũ Bằng: Phở bò - món quà căn bản
    28/07/2011 1311


    Sao lại là quà căn bản?



    Vâng, chính thế; người ta có thể nói rằng người Việt Nam có thể không ăn bánh bao, bánh bẻ, có thể không ăn mằn thắn hay mì, có thể không ăn xôi lúa, nhưng chắc chắn là ai cũng đã từng ăn phở.

    Rẻ lắm. Theo giá trị của đồng bạc bây giờ năm đồng một bát phở, mà ba đồng cũng được một bát phở ngon như thường.

    Vì thế, từ cô bán hàng trong một cửa hiệu buôn cho đến một ông công chức, từ một bà mệnh phụ nhà có cửa võng sơn son thiếp vàng, đến một người thợ vắt mũi không đủ nuôi miệng, ai cũng ăn bát phở. Ngon miệng thì ăn hai, riêng tôi thì tôi đã từng thấy có người điểm tâm buổi sáng tới ba bát liền, mỗi bát tám đồng, vị chi hai mươi bốn, hai mươi nhăm đồng bạc.

    Thật thế, phở đối với một hạng người, không còn là một món ăn nữa, mà là một thứ nghiện như nghiện thuốc lào, thuốc lá, trà tươi, thuốc phiện.

    Ngay từ ở đằng xa, mùi phở cũng đã có một sức huyền bí quyến rũ ta như mây khói chùa Hương đẩy bước chân ta, thúc bách ta phải trèo lên đỉnh núi để vào chùa trong rồi lại ra chùa ngoài. Ta tiến lại gần một cửa hàng bán phở, thật là cả một bài trí nên thơ. Qua lần cửa kính ta đã thấy gì? Một bó hành hoa xanh như lá mạ, dăm quả ớt đỏ buộc vào một cái dây, vài miếng thịt bò tươi và mềm, chín có, tái có, sụn có, mỡ gầu có, vè cũng có... Người bán hàng đứng thái bánh, thái thịt luôn tay, thỉnh thoảng lại mở nắp một cái thùng sắt ra để lấy nước dùng chan vào bát. Một làn khói tỏa ra khắp gian hàng, bao phủ những người ngồi ăn ở chung quanh trong một làn sương mỏng, mơ hồ như một bức tranh Tàu vẽ những ông tiên ngồi đánh cờ ở trong rừng mùa thu.

    Trông mà thèm quá! Nhất là về mùa rét, có gió bấc thổi hiu hiu, mà thấy người ta ăn phở như thế, thì chính mình đứng ở ngoài cũng thấy ấm áp ngon lành. Có ai lại đừng vào ăn cho được...

    Ấy vậy mà người sành ăn phở, người ăn phở kỹ càng không thể dễ tính, nhất tề bước vào một cửa hiệu phở thứ nhất nào để mà ăn liều ăn lĩnh.

    Bởi vì những người sành ăn đó, thường không tin gì cho lắm ở những hàng phở mở cửa hàng. Người ta bảo rằng phần nhiều những hàng phở mở hiệu như thế, nước dùng không được ngọt, hoặc có ngọt là cái ngọt của mì chính, chứ không phải là cái ngọt của xương bò, ấy là chưa nói rằng lại còn cửa hiệu phở quá vụng về muốn có nước dùng ngọt lại cho đường vào nữa. Ăn phải một bát phở như thế, không những tiếc tiền, mà lại còn thấy phí phạm cả cái công ăn, đến sinh ra lợm giọng, bực mình là khác.

    Vì thế, người ăn phở muốn cho thật đúng cung cách, phải thăm dò, phải điều tra, phải thí nghiệm kỹ càng rồi mới ăn mà một khi đã chịu giọng rồi, ta có thể tin chắc rằng người đó sẽ là một người khách trung thành, cũng như một người đàn ông nghệ sĩ trung thành với hơi hướng của một người yêu, cũng như một người chồng mê vợ vì người vợ đã có tài làm một hai món khéo, ăn vào hợp giọng.

    * * *
    Chính vì lẽ đó, chúng ta đã từng thấy có những người vất vả vì ăn phở. Trước kia, còn thái bình, ta đã từng thấy có buổi sáng, hàng trăm người chen chúc khổ sở vào cái ngõ con bề ngang không quá một thước ở phố Hàng Khay, bên cạnh nhà Bát Si Nha hay xuống tận đằng sau chợ Hôm, trong một cái quán lá tồi tàn để thưởng thức cho kỳ được một hay hai bát phở mới yên tâm.



    Ảnh minh họa



    Thời đó, nổi tiếng có anh phở Sứt sáng lập ra món phở giò (lấy thịt bò quận lại như cái dăm bông rồi thái mỏng từng khoanh nhỏ điểm vào với thịt). Phở Nhà thương Phủ Doãn ăn được nhưng nước hơi nhạt; phở Đông Mỹ ở phố Mới ăn êm, nhưng tẩy gừng hơi quá tay; phở Cống Vọng, kéo xe, ngon, nhưng nước dùng hơi hôi; phở Mũ Đỏ ở đằng sau miếu chợ Hôm vô thưởng vô phạt, ăn khá, nhưng chưa có gì quyến rũ.

    Còn một anh phở nữa là anh phở Tàu Bay lúc đó cũng nổi tiếng lắm; sáng sáng, người ta đứng đầy cả ra ở ngã ba đầu Hàm Long, xế cửa Sở Hưu bổng để mà tranh nhau ăn, như thể lúc mới hồi cư, người ta tranh nhau đứng lĩnh “bông” sữa, bông vải vậy. Thịt mềm, nước cũng đã ngọt, nhưng thật ra thì chưa có thể gọi là trác tuyệt.

    Phải đợi đến lúc hồi cư về, ta mới thấy, phong trào phở tiến nhanh và tiến mạnh như thế nào. Họa hoằn về phía chợ Đuổi mới thấy một hai hàng phở xe. Còn thì là phở gánh và phở hiệu.

    Một gian nhà đổ căng một cái bạt, bắc vài cái ghế; một cổng đình chắn một tấm phên tre; một cái ngõ, che mấy tấm tôn và kê một hai tấm ghế dài: thế là đã thành ra một cửa hàng rồi, ngồi ăn được, mà rất có thể lại ngon lành là khác.

    Bởi vì ta phải biết rằng, người đi ăn phở - nói cho thật đúng nghĩa chữ ăn phở - không kỳ quản lắm đến sự bài trí của chỗ ăn, cũng như người ăn thuốc phiện, nghiện tiệm, không cứ là phải nằm hút ở một chỗ sang trọng có dọc đẹp, đèn pha lê và tiêm móc làm bằng bạc.

    Nếu ta đã từng thấy có những người giàu có, nghiện thuốc phiện, chui vào những cầu gác bẩn thỉu, hôi hám để ăn thuốc mới thấy “đã thèm”. Thì ta lại cũng thấy biết bao nhiêu người sang trọng lần mò tới chỗ rất tồi tàn để ăn cho được một hai bát phở.

    Đó là do người ăn phở sành, hầu hết, chỉ chủ tâm đến cái điểm chính là phở mà thôi, chứ không quan tâm đến ngoại cảnh làm gì. Điều cần thiết là bánh phải mỏng và dẻo, thịt mềm, và nhất là nước dùng phải ngọt, ngọt kiểu chân thật, nghĩa là ngọt vì nhiều xương, tẩy vừa vặn không nồng, mà lại tra vừa mắm muối, không mặn quá mà không nhạt quá.

    Đạt được mấy điểm đó tức là ăn phở được đấy.

    Vào khoảng 1948-1949, phở Phú Xuân ở phố Rixô ăn được; đồng thời có phở Đông Mỹ, phở Tứ. Phở Tứ, phở Tàu Bay (bây giờ đã dọn thành cửa hiệu) và một ít hàng nữa mà ta không kể hết. Nhưng phở nào hình như cũng chỉ có một thời. Vì thế, nhiều hiệu và nhiều gánh phở có tiếng bây giờ nằm ngủ ở trên danh vọng. Người ta nghiệm thấy điều này: phần nhiều hàng phở lúc còn gánh thì ngon, mà dọn thành cửa hàng rồi thì kém.

    Có phải đó là vì chểnh mảng trong sự cố gắng, hay là vì thành kiến của người ăn?

    Duy ta có thể chắc được điểm này là một hàng phở đương làm ngon mà sút kém đi thì chỉ trong một tuần lễ, nửa tháng, cả Hà Nội đều biết rõ; trái lại, mới có một hàng phở nào làm ăn được thì cũng chỉ dăm bữa, mươi ngày là cả Hà Nội cùng đổ xô ngay đến để mà “nếm thử”, không cần phải quảng cáo lên nhật báo lấy một dòng!

    Âu đó cũng là một điểm đặc biệt trong thương trường vậy.

    Nhiều người cho rằng sở dĩ thế ấy là vì món phở đứng cao hơn mọi sự lừa bịp của thời này: phở ngon là ngon, chứ không thể lừa dối người ta được.

    Mà lừa dối làm sao?

    Một người lầm, nhưng không thể một nghìn người lầm được. Người ta ăn phở có phải là tiêu hóa rồi mà thôi đâu? Không.
    Cũng như đọc một áng văn hay, gấp sách lại mà còn dư âm phảng phất, còn suy nghĩ, còn trầm mặc, người ta ăn phở xong cũng đắn đo ngẫm nghĩ, rồi có khi đem thảo luận với anh em, nhất là các công chức và các tay thương gia rỗi thì giờ thì lại luận bàn kỹ lắm.

    Thì ra phở không những là một món ăn, một sự thích thú cho khứu giác, mà còn là cả một vấn đề; vấn đề ăn phở, vấn đề làm phở.

    Muốn thấu triệt hai phương diện của vấn đề, chúng ta cần phải bỏ mấy tiếng đồng hồ lên trước cửa trường Hàng Than để quan sát một hàng phở nổi danh nhất bấy giờ: phở Tráng - mà có người yêu mến quá mức đã gọi (chẳng biết đùa hay thực?) là “vua phở 1952".

    Tráng là tên ông “vua phở” này. Nhưng người ta không gọi anh bằng tên, cũng như người ta ít khi gọi những hàng phở ngon bằng tên của người bán, mà gọi bằng tên phố người hàng phở đứng bán (như phở Tráng thì gọi là phở Hàng Than, phở Sứt thì gọi là phở Hàng Khay), hoặc gọi bằng sướt hiệu (như phở Lùn, phở Cụt, phở Mũ Đỏ) hoặc gọi bằng đặc điểm nào đó của cái cửa hàng (phở xe đầu Hàng Cá), hoặc gọi bằng tên tự (như phở Đông Mỹ, phở Tân Tân, Phú Xuân) và có khi lại gọi bằng một phù hiệu (như phở Tàu Bay, Tàu Bò)...

    Vậy thì ông vua ấy tên là Tráng, nhưng người ta vẫn gọi là phở Hàng Than.

    Hình thù, vóc dáng của anh ta trông thật nản. Người gầy, môi hơi thưỡi, mắt thì lờ đờ như người chết rồi. Bất cứ lúc nào, nhìn thấy anh, ông cũng cảm giác đó là một người vừa mới thăng đồng, đương sống trong một cái thế giới u minh; thêm vào đó, lại bịt ở trên đầu một cái mùi soa trắng, trông mới lại càng... “thiểu số”.

    Người đâu mà lại “lỳ xì” đến thế là cùng! Hàng năm bảy chục người, hàng tám chín chục người đứng vòng lấy gánh hàng của anh ta, chật cả một cái hè đường để mua ăn, để “đòi ăn” - phải, họ đòi ăn thật - mà anh ta cứ làm như thể không trông thấy gì, không nghe thấy gì.

    Anh ta cứ thản nhiên, thái thịt, dốc nước mắm, rưới nước dùng - ai đợi lâu, mặc; ai phát bẳn lên; mặc; mà ai chửi, anh ta cũng mặc.

    Đi ôtô đến ăn cũng thế, mặc áo vải đến ăn cũng thế; các bà các cô đẹp đáo để, đến ăn cũng thế. Anh ta không đặc biệt riêng với ai - kể cũng dân chủ đấy! - nhưng có nhiều bà tức vì anh ta không nịnh đầm.

    Ghét quá. Thế thì thuê một cái nhà rộng, mượn thêm người làm có phải lợi không? Hay là điều đình với xưởng củi người ta để cho một gian, bày mấy cái bàn, cái ghế, có người trông nom, tính tiền cẩn thận có phải không mất mát không?

    Mặc cho ông cứ nói, anh phở Tráng không trả lời - nhất là không bao giờ cười.

    Trông mà lộn ruột, muốn tát cho một cái. Chết một nỗi ghét người thì thế, nhưng đến cái phở của anh ta muốn ghét, không tài nào ghét được.

    Có ai chen chúc vất vả, hò hét đứt hơi được một bát phở của anh, mà lại chưa ăn ngay, còn dừng lại một phút để ngắm nghía, phân tách bát phở đó ra thế nào không?

    Thật là kỳ lạ! Bánh phở không trắng và dẻo hơn, thịt thì cũng chẳng nhiều, nhưng mà làm sao ngon lạ, ngon lùng đến thế? Chưa ăn đã biết là ngon rồi.

    Cứ nhìn bát phở không thôi, cũng thú. Một nhúm bánh phở; một ít hành hoa thái nhỏ, điểm mấy ngọn rau thơm xanh biêng biếc; mấy nhát gừng màu vàng thái mướt như tơ; mấy miếng ớt mỏng vừa đỏ màu hoa hiên vừa đỏ sẫm như hoa lựu... ba bốn thứ màu sắc đó cho ta cái cảm giác được ngắm một bức họa lập thể của một họa sĩ trong phái văn nghệ tiền tiến dùng màu sắc hơi lố lỉnh, hơi bạo quá, nhưng mà đẹp mắt.

    Trên tất cả mấy thứ đó, người bán hàng bây giờ mới thái thịt bò từng miếng bày lên.

    Đến đây thì Tráng vẫn không nói năng gì, nhưng tỏ ra biết chiều ý khách hàng một cách đáng yêu.

    Ông muốn xơi chỗ thịt nào cũng có: vè, sụn nạm, mỡ gầu, mỡ lật, vừa mỡ vừa nạc, vừa nạm vừa sụn, thứ gì anh ta cũng chọn cho kỳ được vừa ý ông - miễn là ông đến xơi phở đừng muộn quá.

    Ăn phở chín thì như thế là xong, chỉ còn phải lấy nước dùng và rắc một chút hạt tiêu, hay vắt mấy giọt chanh (nếu không là tí dấm).

    Nếu ông lại thích vừa tái vừa chín thì trước khi rưới nước dùng, anh Tráng vốc một ít thịt tái đã thái sẵn để ở trong một cái bát ôtô, bày lên trên cùng rồi mới rưới nước dùng sau.

    Thế là “bài thơ phở” viết xong rồi đấy, mời ông cầm đũa. Húp một tí nước thôi, đừng nhiều nhé! Ông đã thấy tỉnh người rồi phải không?

    Nước dùng nóng lắm đấy, nóng bỏng rẫy lên, nhưng ăn phở có như thế mới ngon. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cay cái cay của gừng, cay cái cay của hạt tiêu, cay cái cay của ớt; thỉnh thoảng lại thấy thơm nhè nhẹ cái thơm của hành hoa, thơm hăng hắc cái thơm của rau thơm, thơm dìu dịu cái thơm của thịt bò tươi và mềm... rồi thì hòa hợp tất cả những vị đó lại, nước dùng ngọt cứ lừ đi, ngọt một cách hiền lành, êm dịu, ngọt một cách thành thực, thiên nhiên, không có chất gì là hóa học... không, ông phải thú nhận với tôi đi: “Có phải ăn một bát phở như thế thì khoan khoái quá, phải không?”

    Quả vậy, ăn một bát phở như thế, phải nói rằng có thể “lâm li” hơn là nghe thấy một câu nói hữu tình của người yêu, ăn một bát phở như thế, thú có thể ví như sau một thời gian xa cách, được ngã vào trong vòng tay một người vợ đẹp mà lại đa tình vậy!

    Y hẳn cũng có người cảm giác như tôi, cho nên biết bao nhiêu bận đứng chờ làm phở, tôi đã thấy những người đàn bà, đàn ông, người già, trẻ con, bưng lấy bát phở mà đôi mắt sáng ngời lên. Người ta chờ lâu thì bực thật đấy, nhưng cũng vẫn cứ chờ cho được, tuồng như đã đến mà không được ăn thì chính mình lại phải tội với mình, vì đã đánh lừa thần khẩu - hay nói một cách khác, đến đấy mà không cố ăn cho kỳ được thì rồi sẽ hối hận như một người tình đã để lỡ cơ hội chiếm người yêu...

    Nhưng mà dù thiết tha đến bực nào, ông cũng rất có thể một hôm nào đó bị ra về mà không được ăn - dù một bát thôi. Ấy là vì chỉ độ chín giờ, chín rưỡi thì thường là phở Hàng Than đã hết.

    Cho nên những người thật nghiện phở thường vẫn rủ nhau đi ăn thật sớm. Theo lời họ nói lại, muốn thưởng thức hoàn toàn hương vị phở Hàng Than, cần phải dậy đi ăn từ sáu giờ, vào lúc trời chưa sáng hẳn. Lúc đó, trời mờ mờ chưa rõ mặt người, phố xá họa hoằn mới có dăm ba người qua lại. Anh đi ăn sẽ thấy một cái thú khác lạ nữa là ăn ngon trong tịch mịch, ăn ngon trong không khí trong lành.

    Khách chưa có ai, anh muốn ăn kiểu gì, muốn xơi chỗ thịt nào, muốn dùng nước thịt bò tươi rưới lên bánh, muốn có mỡ lật, mỡ gầu, muốn nước trong hay béo, tha hồ mà hạch! Anh được như ý và anh sẽ vừa ăn vừa nhìn mấy thanh củi tạ ở trong lò kêu lách tách và bắn ra ngoài trời sắc sữa những hoa lửa vi ti màu đỏ tươi.

    * * *
    Dù sao, ta cũng phải nhận rằng đến vấn đề ăn phở thì người Việt Nam quả là khó tính lạ lùng.

    Một người bạn đã từng nếm đủ hương vị của tất cả những hàng phở danh tiếng ở Hà thành khoảng ba mươi năm trở lại đây, một hôm, cho tôi biết rằng: “Đến cái năm 1952 này, phở hình như đã tiến tới chỗ tuyệt đỉnh của nó rồi, cũng như một bản nhạc tuyệt kỹ... không chê vào đâu được, nghĩa là không thể thêm một món gì hay giảm một món gì”.

    Theo anh ta thì phở mà cho magi vào thì rất hỏng mà quấy “lạp chiếu chương” vào cũng lại dở vô cùng. Phải là hoàn toàn gia vị Việt Nam mới được: hồ tiêu Bắc, chanh, ớt, hành hoa, rau thơm hay là một tí mùi, thế thôi, ngoại giả cấm hết, không có thì là tục đấy!

    Có người kể chuyện rằng trước đây mười lăm, hai mươi năm, đã có một hàng phở ở phố Mới tìm lối cải cách phở, cũng như Năm Châu, Phùng Há dạo nào cải cách cải lương Nam kỳ, tung ra sân khấu những bản “De đơ dà múa”. Họ cho mà dầu và đậu phụ vào phở, nhưng cố nhiên là thất bại.

    Sau còn có người làm phở cho cà rốt thái nhỏ, hay làm phở ăn đệm với đu đủ ngâm giấm hoặc là cần Tây, nhưng thảy thảy đều hỏng bét vì cái bản nhạc soạn bừa bãi như thế, nó không... êm giọng chút nào.

    Một chú khách ở chợ Hôm, chuyên về lối “phở nhừ”, bánh thì thái to, thịt thì thái con cờ hầm chín, nước cho húng lìu, một dạo cũng đã làm cho người nói tới, song những người sành phở chỉ dùng một vài lần thôi, vì không những đã không có vị phở, thịt ăn lại bã, mà nước thì đục mà ngấy quá.

    Một hàng phở ngon là một hàng phở ăn một bát, lại muốn ăn hai và nếu còn sức ăn nữa thì phải ăn ba không thấy chán.
    Gặp phải ngày ta se mình, ngửi mùi thịt thấy sợ, hàng phở ngon vẫn có thể làm cho ta ăn ngon miệng với một bát phở chay, chỉ có bánh và nước thôi. Làm như thế mà ngon, thế mới là ngon đấy.

    Một bát phở vừa tái vừa chín ngon, chưa đủ để định giá trị của hàng phở được; muốn biết chân giá trị của nó, theo lời người biết ăn phở, phải là thứ phở chín không thôi, phở chín mà ngon thì mới thật là ngon đấy.

    Thực ra, điều quan hệ trong một bát phở là cái bánh, nhưng thứ nhứt, như trên kia đã nói, cần phải có nước dùng thật ngọt. Bí quyết là ở chỗ đó. Và tất cả những hàng phở ngon đều giữ cái bí quyết ấy rất kín đáo, y như người Tàu giữ của, vì thế cho nên trong làng ăn phở, vấn đề nước vẫn là một vấn đề then chốt để cho người ta tranh luận.

    Hầu hết người ta đều nhận thấy rằng muốn có một nồi nước dùng ngon, cần phải pha mì chính. Nhưng chưa chắc thế đã hoàn toàn là phải.

    Thuyết cho đường nhất định là bị loại rồi. Có người cho rằng phải có nhiều đầu cá mực bỏ vào; có người chủ trương cần phải có thứ nước mắm tốt lại có người quả quyết với tôi rằng muốn có nước dùng ngọt, không thể thoát được món cua đồng - cua đồng giã nhỏ ra, lọc lấy nước, cho vào hầm với nhiều xương ống, nhưng phải chú ý tẩy cho thật khéo, mà cũng đừng ninh kỹ quá sợ nồng.

    Đến bây giờ, ai đã thật biết cái bí mật ấy chưa? Riêng tôi, tôi cũng đã tìm tòi suy nghĩ rất cẩn thận mỗi khi trịnh trọng nâng một bát phở lên ăn, nhưng thú thực, tôi vẫn chưa biết rằng trong tất cả những “giả thuyết” về “phương pháp làm nước dùng phở” người ta kể ra đó, giả thuyết nào là đúng.

    Kết cục, tôi đã gạt bỏ tất cả những sự băn khoăn đó sang một bên và không buồn nghĩ nữa, vì tôi thấy rằng ăn một miếng phở, húp một tí nước dùng ngon thỉnh thoảng điểm một lá thơm hăng ngát mà không biết tại sao phở lại ngon như thế thì có phần hứng thú hơn là mình biết rõ ràng quá cái bí quyết ngon của phở.

    Vũ Bằng (Miếng ngon Hà Nội)
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  6. #6

    Mặc định

    Băng Sơn : Nói thêm về phở
    28/07/2011 1310

    Phở cũng đã có lịch sử của mình. Cũng có phá cách, biến dị, thêm bớt gia giảm, lúc lên lúc xuống.


    Phở là món ăn thật riêng biệt. Ăn nó vào giờ nào cũng được. Ngày nào, mùa nào cũng ăn được. Bất cứ địa phương nào cũng có phở. Nhưng hình như chỉ có phở Bắc là ngon hơn cả, mà phở Hà Nội phải chăng là ngon nhất. Ngay Hà Nội, phở nội thành, phở ở dăm ba phố lại ngon hơn chỗ khác. Lạ thế đấy? Hình như có một bí quyết riêng, một cái duyên riêng, một cái hương riêng, không gia truyền thì cũng là sự sáng tạo độc đáo, bắt chước được không phải là chuyện dễ. Chả thế mà một thời mậu dịch có đủ ưu thế về mọi phương diện từ độc quyền mua bán, tiền nong thoải mái, người phục vụ thật đông và v.v... nhưng không thể đọ được với vài ba hàng, những ngày này chỉ mấy năm đã lên được nhà ba bốn tầng, như ở phố L. chẳng hạn.

    Miền Nam có hủ tiếu. Miền núi có phở chua. Hoa kiều có mì vằn thắn. Mỗi món ngon một vẻ, nhưng phở vẫn là anh chàng hấp dẫn được mọi khẩu vị, dù là người kỹ càng, khó tính.

    Người Pháp gọi phở là “soup Chinoise” tức là cháo Trung Quốc. Hoàn toàn sai. Phở là của Việt Nam. Phở chỉ là PHỞ, thế thôi.

    Chưa nghiên cứu được ai là người đầu tiên nghĩ ra cái món kỳ lạ mà phổ thông này, bát phở đầu tiên xuất hiện vào ngày tháng năm nào? Cái buổi “trình làng” ấy, hẳn phở còn sơ sài, nhưng cho dù thế, cái người vô danh ấy cũng đáng ghi vào cuốn lịch sử của món ẩm thực tài tình.

    Nhiều người đã viết về phở. Tuy vậy cũng xin lạm bàn đôi ba điều.

    Đầu thập kỷ bốn mươi, Thạch Lam đã viết về phở, cái phở gánh trong nhà hàng thương Phủ Doãn, có rau mùi, hạt tiêu bắc mấy xu một bát. Ông còn viết: “thoáng một chút hương thơm cà cuống như một nghi ngờ”. Câu văn, ngoài Thạch Lam có lẽ ít người ai viết được cái kỳ ảo của cà cuống như thế. Tuy vậy, nay chúng ta thấy, cà cuống chỉ có thể đi với bún thang, bánh cuốn, nhân bánh chưng v.v... mà khó sánh duyên cùng chàng phở được, dù vả hai đều là những món quý, cùng là trai tài gái sắc, nhưng lại “lệch pha”.

    Cũng Thạch Lam, vào thời gian này, còn chê phở gà là nhạt nhẽo, càng thấy phở gà sinh sau đẻ muộn hơn phở bò nhiều. Phở gà lúc ấy chỉ là cái mới, còn chưa được thử thách. Cái đểnh đoảng của nó chưa đủ sức cạnh tranh với ngọt đậm, nồng nàn của phở bò (và có lúc còn là phở trâu mà hàng phở nói dối là phở bò nữa).

    Phở gánh đã thành hình ảnh một Hà Nội ăn chơi ăn bời, không cần no, mà ăn chi thích, ăn cho cái cảm giác trên đầu lưỡi được thay đổi ít phút. Những người nay ở tuổi sáu, bảy mươi chắc không thể nào quên hình ảnh gánh phở bán rao lúc sáng sớm nay về khuya. Hai cái tủ con, nan thưa, cao ngang thắt lưng người. Một bên là chồng bát chiết yêu cho loại hai xu, bát con gà miệng loe cho loại năm xu, hai cái ngăn kéo thật sâu, đựng thịt, bánh và các thứ khác. Còn bên kia là cái thùng nước dùng lúc nào cũng có ngọn lửa bếp le lói, đôi khi từ đấy một đám pháo hoa nhỏ nở bung hoa cà hoa cải, thì ra ông hàng phở dùng cái ống thổi bằng một đoạn tre, thổi vào thanh củi định tàn. Ông cho hồi sinh ngọn lửa, bắt nó cứ lung linh trong bóng đêm hay trong sương sớm, để nồi nước dùng lúc nào cũng sôi lăn tăn. Từ cái bên gánh có bếp lửa này, mùi phở bay đi, níu khách lại. Ông đến đầu phố này thì ngã tư kia thơm mùi ngon ngọt của phở. Con dao phở to bản, hình chữ nhật, chỉ khẽ phầm phập trên miếng thịt hoặc những tay bánh phở xếp lần lượt nhau một cách bình tĩnh. Cả cái dụng cụ có một không hai, chỉ có thời đó là cái ống hạt tiêu, làm bằng một đoạn tre, một đầu nút bằng gỗ hoặc lá chuối khô, đầu kia là mẩu tre, có một lỗ nhở, nút bằng thanh tre con, tròn, to gần bằng đầu đũa. Bát phở làm xong, ông rắc chút hai tiêu bắc, thơm khiêu khích, lượn tay vòng tròn trên mặn bát, như phù thủy bắt âm binh.


    Chỉ riêng cái chuyện “xúc” bánh cũng thật vui mắt. Chiếc giỏ tre hình ống, có quai thẳng đứng, xúc bánh xong, ông nghiêng người vẩy bánh, bánh chỉ đủ cho một bát, không hơn, hoàn toàn xa lạ với kiểu phở sau này, buổi sáng, người ta xúc cả một rổ sề, rồi bày sẵn ra vài trăm bát, bánh nguội tanh đi, sợi còn cứng, sợi đã nát, nhất là bánh đã nguội mất một phần, làm sao ngon được.

    Tiếng rao khàn khàn, quen thuộc của khách ăn từng khu vực. Người bán người ăn nhận ra nhau, sở thích của cái lưới riêng biệt được ưu đãi đến triệt để. Tái gầu, tai nạm, tái giò, thịt chín, thịt nhừ... ít bánh hay nhiều bánh, nước trong hay nước béo, ít nước hay nhiều nước, hành chần hay chỉ rau thơm, ớt tươi, hành sống... khách hoàn toàn thỏa mãn cá kỹ tính của mình, còn được hưởng nụ cười tươi tỉnh của ông hàng phở, như một người thân với câu mời: mời cậu, hoặc mời bà...

    Khách cứ đứng mà ăn. Hàng rong thì làm gì có ghế. Nhưng người sành ăn, cần cái món phở chứ cần gì cái ghế ngồi. Và ăn phở, chỉ cần đôi đũa, có lý do của nó. Ăn bằng thìa, đặt sợi bánh lên thìa mới đưa lên miệng, mất ngon vì bánh đã nguội, nước dùng không thấm đẫm vào bánh phở, nhạt đi nhiều. Và cũng không ai chỉ vớt bánh với thịt mà ăn, còn nước bỏ lại. Ăn phở mà bỏ lại nước thì quả là dại dột. Ngon nhất là nước dùng. Tinh túy của phở là ở đấy chứ không phải ở bánh hoặc thịt. Có người nói ăn phở bỏ nước, chẳng khác nào ăn chuối tiêu trứng cuốc với cốm Vòng mà chỉ ăn vỏ chuối với cái lá gói bánh cốm, còn thịt chuối và hạt cốm thì bỏ lại. Đúng không?

    Hình như phở cũng có linh hồn. Nó có thăng trầm nhưng không chịu què quặt đi mãi. Nhưng năm năm mươi, Hà Nội có phở Giảng, phở Tầu Bay... nổi tiếng, và chủ nhân trở thành giàu có. Thùng nước dùng to gầm bằn cái phuy hai trăm lít, thị bò treo cả một phần tư con. Giò (thịt bò bó lại) to bằng bắp đùi...

    Một thời gian sau, phở gà chiếm ưu thế vì cấm giết thịt trâu bò, ở phố Huyền Trân công chúa (nay là Bùi Thị Xuân) có phở Chí, khách đến chỉ giơ tay làm hiệu, ông Chí huơ dao lên như anh hùng Lương Sơn Bạc, tiếng dao thớt động cả hơi thu, trời thu cả mấy phố xung quanh.

    Những hàng phở nổi tiếng như thế không có nhiều. Hấp dẫn vẫn là nước dùng. Một chút thảo quả (quả tò ho), một mảng quế chi, hành tá nướng chín vỏ. Gừng cả mảng to hơn bàn tay, nướng chín, đập dập, còn nổi ở miệng thùng ước trong vắt, không một gợn bọt, không đục lờ, bởi ngay từ khi bắt đầu sôi, đã có những chú bé được phân công đứng vớt bọt, vớt thật kiệt.

    Thùng nước dùng không chỉ có xương bò lợn mà còn có một vài cái đuôi bò, có khi còn có tôm he khô, tôm nõn cho tăng độ ngọt. Chẳng cần đến xắng xáo, vi-ăng-đốt, chẳng cần bột ngọt, mì chính... Và cần nhất là nước mắm ngon, loại đặc biệt, thửa riêng, mua riêng, cho việc này.

    Nghĩ thương cho phở một thời: không người lái. Gia vị hoàn toàn là thứ xa xỉ. Nước dùng chỉ là một chút xương lợn, có khi còn là nước luộc su hào và muốn ngọt hơn, người ta cho cả đường; như nước chan hủ tiếu. Thịt, may mà có thì toàn thái dọc thớ, canh ớt không có, giấm, nước mắm để vào những cái “vịt” giống nhau, nhiều người nhầm muốn chua thành mặn, muốn đậm mà chua gắt. Thanh Tịnh, sinh thời, ông đã có một bài viết vui và ngắn về cái “vịt”này và nhà độc tấu tài ba ấy đã đề nghị hóm hỉnh nên thửa riêng loại “vịt”sứ có khắc chữ vào... Vui thế đấy...

    Một đôi khi người ta còn làm cả phở thịt ngựa, nên có người nói đùa để tả cái mùi hôi hôi ấy rằng: “Ăn một miếng thịt vịt biết ngay là phở ngựa”, nghĩa là vịt đã hôi, nước dùng phở thì chỉ có một nồi chung cho tất cả các loại phở, nên cái hôi tăng lên gấp đôi vậy.

    Lâu nay, cảnh hàng phở tưng bừng đã trở lại. Nhưng từ cực này nó lại nhảy sang cực khác. Chỗ nào cũng có phở. Phở hiệu, phở bàn, phở quang gánh, phở chõng... bán phở chút ít buổi sáng hay đêm khuya, là cả nhà có thể cải thiện được rồi nên nhiều người chả cần biết kỹ thuật, biết nghề, cũng thành người bán phở. Cũng là một lẽ khách ăn ngày nay hình như dễ tính có khi người ta cần ăn cho no, ăn lấy chất thịt, chứ không phải ăn cho ngon cho thích. Không lạ là có khách ăn phở lại yêu cầu chặt một bát tú hụ thịt gà, ăn xong, bỏ toàn bộ nước phở lại. Hoặc có cậu đập mấy quả trứng vào, đánh tan ra, nước phở vừa đục, trắng như nước vo gạo, vừa tanh, nhưng húp lấy húp để. Và một điều nên vui hay buồn là phần đông đã ăn phở với lạp chí chương, tức tương ót, bát phở đỏ lòm, mà nếu còn, chắc Thạch Lam, Nguyễn Tuân phải kêu trời, âu cũng là sự tiến bộ của phở chăng?

    Nhiều hàng còn có món gọi là phở “mọc”, chỉ đơn thuần là giò sống được thả vào nồi nước dùng. Dăm ba viên, ngọt không ra ngọt giòn không ra giòn... Thôi thì xin tùy cái túi tiền vậy chứ không phải tùy cái lưỡi.

    Cái đuôi bò trong thùng nước dùng, để khách tìm cá món “bốc mả”về khuya ấy, đã thật hiếm hoi. Ít găp món xương đổ ra, khói bốc nghi ngút, tay bới xương, mòm hút xuyn xuýt, tợp ngụm rượu... thật béo, bùi, ngậy, thơm, ngọt, rồi cay chua mặn chát đủ mùi. Không có đuôi bò, nên hèn chi bát phở đưa khách, phải đổ mấy thìa mì chính cánh, loại ngoại vào mà vẫn cứ đuểnh đoảng thế nào.

    Chủ nhật, có gia đình tổ chức ăn tươi ở nhà bằng món phở. Dù bà nội tướng có là người cầm quân bếp núc tài ba đến đâu, bát phở ở nhà cũng không ngon bằng ăn ở hiệu, ở hàng? Tại sao? Tại được ăn không khí hàng quán, thiếu câu chuyện đầu ghế, thiếu cái mùi đặc trưng mà chỉ có ở quán mới có? Kể cả cái ống đũa hơi nhờn nhờn, chưa khô hẳn?

    Phở cũng đã có lịch sử của mình. Cũng có phá cách, biến dị, thêm bớt gia giảm, lúc lên lúc xuống. Ngay phở trinh nguyên với đúng cái tên của nó. Có ăn bát phở nguội, thịt thái dọc thớ, thiếu gia vị, hành mùi, chanh ớt, hạt tiêu... ăn xong chua miệng mãi... quả là khó chịu bực mình, mất đi cả một buổi sáng tốt lành hay một đêm khuya hứa hẹn.

    Phải chăng vì vậy mà phở vẫn là một món hoàn toàn đặc biệt, và Hà Nội vẫn là nơi có khuôn mặt thật của món phở kỳ diệu, một món quí tộc một cách bình dân như thế.

    (Theo Thú ăn chơi người Hà Nội, Băng Sơn, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2009,Tr 253- 258)
    NAM QUỐC sơn hà NAM ĐẾ cư
    TIỆT NHIÊN định phận tại THIÊN THƯ

    Đây là link Fanpage của Diễn đàn TGVH anh em nha https://www.facebook.com/thegioivohinh.fanpage/
    Đ
    ây là Youtube của Diễn đàn hay đăng ký ủng hộ nhé : https://www.youtube.com/@thegioivohinh571
    Tiktok1 - @thegioivohinh.571 : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9Wjn42o3s&_r=1

    Tiktok2 - @thegioivohinh.com : https://www.tiktok.com/@thegioivohin...9WnFaFDRX&_r=1

  7. #7

    Mặc định

    Tui chỉ thích ăn bánh canh và hủ tíu, còn phở thì từ nhỏ đến lớn ăn không quá 10 lần ^^
    Kim ba kim ba đế, cầu ha cầu ha đế, đa la ni đế, ni ha la đế, tì lê ni đế, ma ha dà đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha...

  8. #8

    Mặc định

    Tự nhiên thấy thèm phở quá
    Ta Cứ Tưởng Đầu Đường Thương Xó Chợ
    Ai Có Ngờ Xó Chợ Củng Thương Nhau

  9. #9

    Mặc định

    Từ bắc vô nam, từ thành thị đến nông thôn, nơi nào củng có phở
    Ta Cứ Tưởng Đầu Đường Thương Xó Chợ
    Ai Có Ngờ Xó Chợ Củng Thương Nhau

  10. #10

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi boy93 Xem Bài Gởi
    Nói đến phở thì cứ phải nói đến Nam Định :laughing:
    Theo hiểu biết của mình đa số các chủ quán Phở và chủ lò sản xuất phở phần lớn là dân Nam Định,Còn lại là một số tỉnh khác như Ninh Bình,Thái Bình.... Nhưng phần lớn các quán Phở đều đặt tên quán phở của mình là phở gia truyền Hà Nội (chắc tại Hà Nội là thủ đô nên dễ tạo được tiếng hơn), Nhận biết một số Quán Phở Nam Định thì thường có tên là Bảy Cù , Cù cử...

  11. #11

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi ynguoiloitoi Xem Bài Gởi
    smiley hông thích người bắc nhưng phỏ bắc thì ưa :rock_on:
    me too.......:D

  12. #12
    Thành viên DANH DỰ - Đã đóng góp nhiều về Học thuật cho Diễn đàn Avatar của thienhung_wu
    Gia nhập
    Oct 2007
    Bài gởi
    4,412

    Mặc định

    Phở 'đại gia' 1 triệu đồng vẫn 'hút' khách

    Tuy đang trong thời kỳ “bão giá” kèm theo những lo ngại về nhiễm phóng xạ Nhật Bản nhưng phở bò Kobe vẫn hút hồn nhiều thực khách.

    Với những người yêu thích thịt bò Nhật Bản, món phở bò Kobe tại Khách sạn vườn Thủ đô được xem là lựa chọn tuyệt vời. Vào ngày nghỉ cuối tuần, số lượng khách đặt bàn để thưởng thức món phở bò Kobe luôn đông nghẹt, bất chấp những lo ngại về lượng phóng xạ tìm thấy trong thực phẩm ở khu vực gần nhà máy điện hạt nhân Fukushima ở Nhật Bản.

    Theo đầu bếp Phạm Văn Sơn của Khách sạn vườn Thủ đô, giá mỗi tô phở đã tăng thêm 100.000 theo đà tăng giá của thị trường nhưng món ăn đặc biệt này vẫn rất hút khách.

    Hiện, giá mỗi bát phở bò Kobe có giá từ 40 đến 50 USD, gấp 40 lần giá của một bát phở tiêu chuẩn theo truyền thống tại các cửa hàng khác trên khắp Việt Nam.

    Sở dĩ, phở bò Kobe có mức giá gấp nhiều lần các loại phở truyền thống là bởi nó được chế biến từ thịt bò Kobe. Đây là loại bò được nuôi ở thành phố Kobe, tỉnh Hyogo của Nhật Bản. Các chú bò này được nuôi dưỡng với quy trình cầu kỳ. Bò được cho ăn toàn những thức ăn bổ dưỡng như bắp non, lúa mạch, uống bia thay nước, được tắm nước nóng, nghe nhạc Mozart, Chopin để thư giãn. Ngày ngày, chúng được xoa bóp bằng rượu sake hảo hạng.

    Chưa hết, công đoạn chế biến của món phở này cũng rất “khó tính”, từ chọn nhập thịt đến việc chế biến nước dùng. Đặc biệt, nước dùng món phở này được xem là bí quyết riêng làm nên thương hiệu phở bò Kobe của các mỗi nhà hàng, khách sạn. Do vậy, rất khó để người tiêu dùng có thể làm nên một bát phở Kobe thành công tại nhà dù cũng mua được thịt chính hiệu từ Nhật Bản.

    Dưới đây là cận cảnh bát phở có giá gần một triệu đồng:


    Đầu bếp Phạm Văn Sơn chuẩn bị chế biến thịt bò Kobe.


    Từng miếng thịt được thái lát cẩn thận.


    Thịt bò Kobe được bày riêng trước khi cho vào phở.


    Sau đó, thực khách tự bỏ thịt bò vào bát.


    Phở bò Kobe cũng được ăn kèm với rau sống, dấm ớt và quẩy giòn.


    Cận cảnh tô phở giá gần một triệu đồng.

    Phan Anh (theo Soshiok)
    Thần Chú
    Namo Tassa Bhagavato Arahato
    Samma Sambud dhassa.

    (Nằm mơ thấy ác mộng, bị ma đè, sợ ma, đi đường bất an v.v. thì hãy niệm chú này, tâm sẽ được bình an)
    https://www.youtube.com/watch?v=vsaBKh1PRSs

  13. #13

    Mặc định

    Thấy Bình thưởng, thà ăn mì gói mà có dư tiền để giúp đỡ chúng sinh hơn là phung phí tiền vì cá nhân. :)

  14. #14

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi thienhung_wu Xem Bài Gởi
    Phở 'đại gia' 1 triệu đồng vẫn 'hút' khách

    Tuy đang trong thời kỳ “bão giá” kèm theo những lo ngại về nhiễm phóng xạ Nhật Bản nhưng phở bò Kobe vẫn hút hồn nhiều thực khách.

    Với những người yêu thích thịt bò Nhật Bản, món phở bò Kobe tại Khách sạn vườn Thủ đô được xem là lựa chọn tuyệt vời. Vào ngày nghỉ cuối tuần, số lượng khách đặt bàn để thưởng thức món phở bò Kobe luôn đông nghẹt, bất chấp những lo ngại về lượng phóng xạ tìm thấy trong thực phẩm ở khu vực gần nhà máy điện hạt nhân Fukushima ở Nhật Bản.

    Theo đầu bếp Phạm Văn Sơn của Khách sạn vườn Thủ đô, giá mỗi tô phở đã tăng thêm 100.000 theo đà tăng giá của thị trường nhưng món ăn đặc biệt này vẫn rất hút khách.

    Hiện, giá mỗi bát phở bò Kobe có giá từ 40 đến 50 USD, gấp 40 lần giá của một bát phở tiêu chuẩn theo truyền thống tại các cửa hàng khác trên khắp Việt Nam.

    Sở dĩ, phở bò Kobe có mức giá gấp nhiều lần các loại phở truyền thống là bởi nó được chế biến từ thịt bò Kobe. Đây là loại bò được nuôi ở thành phố Kobe, tỉnh Hyogo của Nhật Bản. Các chú bò này được nuôi dưỡng với quy trình cầu kỳ. Bò được cho ăn toàn những thức ăn bổ dưỡng như bắp non, lúa mạch, uống bia thay nước, được tắm nước nóng, nghe nhạc Mozart, Chopin để thư giãn. Ngày ngày, chúng được xoa bóp bằng rượu sake hảo hạng.

    Chưa hết, công đoạn chế biến của món phở này cũng rất “khó tính”, từ chọn nhập thịt đến việc chế biến nước dùng. Đặc biệt, nước dùng món phở này được xem là bí quyết riêng làm nên thương hiệu phở bò Kobe của các mỗi nhà hàng, khách sạn. Do vậy, rất khó để người tiêu dùng có thể làm nên một bát phở Kobe thành công tại nhà dù cũng mua được thịt chính hiệu từ Nhật Bản.

    Dưới đây là cận cảnh bát phở có giá gần một triệu đồng:


    Đầu bếp Phạm Văn Sơn chuẩn bị chế biến thịt bò Kobe.


    Từng miếng thịt được thái lát cẩn thận.


    Thịt bò Kobe được bày riêng trước khi cho vào phở.


    Sau đó, thực khách tự bỏ thịt bò vào bát.


    Phở bò Kobe cũng được ăn kèm với rau sống, dấm ớt và quẩy giòn.


    Cận cảnh tô phở giá gần một triệu đồng.

    Phan Anh (theo Soshiok)

    ANTĐ - Tại thị trường Việt Nam, thịt bò Kobe (Nhật Bản) nổi tiếng không chỉ bởi chất lượng mà giá mỗi kilogam cũng lên tới 3-4 triệu đồng. Loại thực phẩm này đã được rao bán, chế biến các món ăn khá lâu nhưng thực tế Cục Thú y chưa hề tham gia kiểm dịch bất kỳ lô hàng thịt bò Kobe nhập khẩu nào.

    Trao đổi với báo chí ngày 24/12, Cục trưởng Thú y Hoàng Văn Năm cho biết, đến nay, Cục Thú y chưa hề cấp phép cho đơn vị nào kiểm dịch thịt bò từ Nhật Bản về Việt Nam. Lý do lớn nhất là thiếu văn bản pháp lý giữa hai bên. Các thỏa thuận về điều kiện vệ sinh thú y với các sản phẩm nhập khẩu từ Nhật Bản và Việt Nam cũng chưa có, vì vậy vẫn chưa đủ điều kiện để tiến hành các thủ tục cấp phép nhập khẩu thịt bò từ nước này.Ngoài ra, một lý do khách quan nữa là hiện các doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm chưa có đề nghị nào về nhu cầu nhập khẩu thịt bò từ Nhật Bản nên Cục chưa có thực tế để tiến hành cấp phép kiểm dịch.


    Dư luận đã từng một thời xôn xao về bát phở bò Kobe trị giá 850.000 đồng, hay trong thực đơn tại một số nhà hàng đều có giới thiệu món bò Kobe Nhật Bản. Theo nhiều đồn thổi, bò Kobe vốn thuộc giống Tajima-ushi, được nuôi trên đảo HonShu (Nhật Bản) với chế độ “sung sướng” bậc nhất, xứng danh với nhận định về sự “cực đoan thú vị của người Nhật” trong ẩm thực. Loại bò này còn được biết với tên Wagyu, từ lâu đã trở thành một trong những món ăn danh tiếng bậc nhất thế giới, sánh cùng trứng cá Almas (Iran), nấm truffle trắng (Pháp, Ý)... Đặc biệt, loại mỡ trong thịt bò này không có cholesterol, nên chỉ có tác dụng làm thịt mềm mại chứ không ảnh hưởng đến sức khỏe người ăn. Bởi vậy, giá thịt bò được cho là Kobe tại Việt Nam chỉ dành cho người rất nhiều tiền.

    Cũng tại Việt Nam, không ai có thể khẳng định bò Kobe Nhật Bản du nhập vào từ bao giờ. Hiện loại thịt bò này được nhiều nhà hàng, quán lẩu cho vào thực đơn để thu hút thực khách. Thậm chí, trên Internet, thịt bò Kobe cũng được rao bán khá nhiều. Ví dụ, tại một

    website chuyên về nhập khẩu thịt bò thì thịt bò Kobe Nhật Bản được rao bán với mức 3,5 triệu đồng/kg, nguồn gốc xuất xứ Nhật Bản. Nhiều người bỏ hàng triệu đồng ra mua thịt bò với niềm tin rằng mình đang tiêu dùng đúng loại thịt bò Kobe Nhật Bản nổi tiếng. Song, đến nay, ngay cơ quan chức năng lại không dám khẳng định, các loại thịt bò được gọi là Kobe Nhật Bản đang được bán trên thị trường có nguồn gốc từ đâu.
    Trả lời báo chí xung quanh vấn đề này, ông Hoàng Văn Năm, Quyền cục trưởng Cục Thú y khẳng định, đến nay cục chưa cấp phép cho đơn vị nào kiểm dịch thịt bò nhập khẩu từ Nhật Bản về Việt Nam với lý do là thiếu văn bản pháp lý giữa hai bên. Các thỏa thuận về điều kiện vệ sinh thú y đối với các sản phẩm nhập khẩu từ Nhật Bản và Việt Nam hiện nay vẫn chưa có. Vì vậy, chưa đủ điều kiện để tiến hành các thủ tục cấp phép nhập khẩu chính thống thịt bò từ nước này từ trước đến nay. Một lý do khách quan nữa, hiện các doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm chưa có đề nghị nào về nhu cầu nhập khẩu thịt bò từ Nhật Bản nên cơ quan chức năng chưa có thực tế để tiến hành cấp phép, kiểm dịch cho loại thịt này.

    Song, ông Hoàng Văn Năm cũng thừa nhận, có thực tế là thịt bò được gọi là Kobe đã có mặt ở Việt Nam tại nhiều điểm kinh doanh ăn uống. Sau khi làm việc với đại diện Cục Thú y Nhật Bản, cơ quan này đã cung cấp cho cục một số chứng thư của phía Việt Nam gửi cho họ trên danh nghĩa các cơ quan công quyền của Việt Nam. Vì có giấy tờ này nên nơi cung cấp thực phẩm tại Nhật Bản mới đồng ý xuất loại thực phẩm trên. Vì vậy, cục đề nghị các cơ quan chức năng làm rõ nguồn gốc của các chứng thư giả này xuất phát từ đâu và ai cấp. Vì không được nhập qua chính ngạch, nhiều cơ sở kinh doanh đang gian lận giả mạo thịt bò Kobe hoặc có hiện tượng tạm nhập tái xuất và lợi dụng tình thế này để thẩm lậu vào Việt Nam.

    Tuy vậy, để trả lời câu hỏi, thời gian tới, loại thịt bò này sẽ được kiểm soát như thế nào, ông Hoàng Văn Năm cho rằng, không riêng gì Cục Thú y mà cần có sự vào cuộc của nhiều ngành như Hải quan, Quản lý thị trường… để kiểm chứng nguồn gốc của loại thực phẩm này, khẳng định có thật là thịt bò Kobe hay không, có đảm bảo chất lượng VSATTP hay không. Nếu người tiêu dùng có nhu cầu thực sự và thịt bò Kobe đảm bảo chất lượng vệ sinh thực phẩm, thời gian tới cục sẽ nhanh chóng ký thỏa thuận về điều kiện vệ sinh thú y với phía Nhật Bản để tiến hành cấp phép nhập chính ngạch loại thực phẩm này, ông Hoàng Văn Năm nói.


    Nguồn: http://www.anninhthudo.vn/Xa-hoi/Co-...be/430261.antd
    ===> Bò Kobe toàn là giả và bát phở giá 1tr = 1 tô phở bt giá 20k ăn ngoài chợ :votay::shame_on_you::shame_on_you::shame_on_you:

  15. #15
    Đai Nâu Avatar của Tinatinyyy
    Gia nhập
    Jan 2012
    Nơi cư ngụ
    California
    Bài gởi
    455

    Mặc định

    Phở cứ nấu ở nhà là ngon nhất , vừa ngon lại rẽ, còn được nhìn thấy cả gia đình ăn cùng nhau hihi

  16. #16
    Lục Đẳng Avatar của Dieudiem
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    Đơn sơ nhà gỗ !
    Bài gởi
    13,103

    Mặc định

    Thèm 1 bát phở chính gốc Hà Nội wa' các bác !

  17. #17

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Dieudiem Xem Bài Gởi
    Thèm 1 bát phở chính gốc Hà Nội wa' các bác !
    Đến "Phở Dậu" : Phở chính gốc Bắc trong khu cư xá 288 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3, HCM (đông nghẹt khách).

    link đây bạn : http://yume.vn/news/du-lich/doc-duon....35A8FBF4.html

    Đó là quán phở Bắc ngon nhất Sài Gòn đó, người Bắc nào cũng biết áh, giá 70.000 đ/tô. Đặc điểm của phở Bắc này là không có giá rau gì cả, họ mang ra 1 tô phở thịt bò kèm 1 chén củ hành tây bào ra, rồi người ăn cho tương ớt vào chén hành tây bào đó và ăn kèm với phở. Mình chỉ nhìn người ta ăn thôi chứ không ăn nên ko biết mùi vị ra sao vì ko ăn đc củ hành trắng bào đó hehe...

    Ảnh giống như vầy :
    Có chén củ hành trắng bào để kế bên đó. (người Nam ko ăn hành như thế đâu.)

  18. #18
    Lục Đẳng Avatar của Dieudiem
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    Đơn sơ nhà gỗ !
    Bài gởi
    13,103

    Mặc định

    hihi ! cám ơn bạn Violet nha, mình sẽ ăn thử,mà 70 k lận hả bạn sao đắt thề nhỉ,suy nghỉ lại nha kkk !

  19. #19

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Dieudiem Xem Bài Gởi
    hihi ! cám ơn bạn Violet nha, mình sẽ ăn thử,mà 70 k lận hả bạn sao đắt thề nhỉ,suy nghỉ lại nha kkk !
    Suy nghĩ cho kỹ nha, giá hơi chát đó, mà có ăn được hành tây trộn tương ớt đỏ ... thì đi ăn phở Bắc nha, còn không thì đi ăn phở của Sài Gòn: Phở Hoà ở Pasteur, phở Lệ ở Nguyễn Trãi áh...

  20. #20
    Lục Đẳng Avatar của Dieudiem
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    Đơn sơ nhà gỗ !
    Bài gởi
    13,103

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Violet Xem Bài Gởi
    Suy nghĩ cho kỹ nha, giá hơi chát đó, mà có ăn được hành tây trộn tương ớt đỏ ... thì đi ăn phở Bắc nha, còn không thì đi ăn phở của Sài Gòn: Phở Hoà ở Pasteur, phở Lệ ở Nguyễn Trãi áh...
    Phở Hòa mình ăn rùi,phở Bắc gần nhà cũng ăn ,nhưng phở này cũng lai căn cho phù hợp với khẩu vị cho dân SG,mún giá có giá,mún rau có rau,hương vị cũng tuyệt vời,cám ơn bạn nhắc nhở !

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. BỬU SƠN KỲ HƯƠNG - TÁC GIẢ VƯƠNG KIM
    By vankhuc in forum Bửu Sơn Kỳ Hương
    Trả lời: 9
    Bài mới gởi: 22-07-2012, 04:47 PM
  2. KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN
    By satyaa in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 61
    Bài mới gởi: 01-04-2012, 09:35 PM
  3. Đối thoại với thương đế
    By Itdepx in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 27-01-2012, 05:37 PM
  4. Trả lời: 48
    Bài mới gởi: 29-04-2011, 12:15 AM
  5. TỬ BÌNH CHÂN THUYÊN
    By thaiduong162 in forum Tử Bình, Tướng, Số, Khác...
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 20-04-2011, 11:29 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •