Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 31

Ðề tài: Hỏi về " siêu hình "

  1. #1

    Mặc định Hỏi về " siêu hình "

    THẮC MẮC KHÔNG BIẾT HỎI AI.

    BẠN PHI ĐÀI HỎI "Có nhiều vị nói nhiều về thế giới vô hình, vũ trụ huyền bí như huynh Vothuongdao. Tôi là người mới bước vào tìm hiểu về vụ này nhưng xin hỏi bài viết của huynh có nói về nguyên lý siêu hình. Vậy huynh cho hỏi :
    1) Nguyên lý siêu hình nghĩa là gì?
    2) Nội dung của nguyên lý siêu hình là gì?

    Mong huynh phúc đáp cho PĐ hiểu thêm ạ."

    BẠN PHI ĐÀI MẾN
    vấn đề bạn hỏi là một vấn đề rất phức tạp nếu diển về mặt triết học có nhiều triết thuyết (tâm lý và tâm linh - vật lý và vật linh ) duy vật và duy tâm phụ thuộc vào NHÂN SINH QUAN KHÁC NHAU và CŨNG PHỤ THUỘC VÀO NHẬN THỨC ẢNH HƯỞNG VÙNG ĐIẠ LÝ VÀ VĂN HOÁ KHÁC NHAU . Tuy nhiên GL cung cấp vài bài viết chuyên môn ( cuả triết gia và đạo gia về vấn đề này để bạn tham khảo ) giúp bạn có khái niệm về vấn đề bạn quan tâm rỏ hơn . TUY NHIÊN TRIẾT GIA PHƯƠNG TÂY NGHIÊN VỀ PHÂN TÍCH LÝ LUẬN TRIẾT HỌC CÒN CÁC ĐẠO GIA PHƯƠNG ĐÔNG LẠI NGHIÊN VỀ THỰC CHỨNG ĐẠO HỌC mong bạn theo dõi và học tập tinh tấn nhé

    gialam mở topic mới để các chư huynh đệ dễ luận bàn hơn và cũng tiện cho admod xếp bài và các ace thảo luận tập trung hơn ..


    Thân
    Gialam
    Last edited by gialam; 10-03-2010 at 01:21 PM.

  2. #2

    Mặc định

    1. Giới thiệu

    Thuật ngữ siêu hình học (metaphysics) vốn xuất phát từ cụm từ Hy Lạp "meta ta Phusika" (hàm nghĩa phía sau, hay vượt ra khỏi, giới vật chất tự nhiên). Siêu hình học là bộ môn nghiên cứu Thực Tại Tối Hậu, về những gì vượt lên trên hiện tượng vật chất.

    Đối với giới triết gia, những gì mà các giác quan có thể cảm nhận được đều là "hiện tượng" (phenomenal). Trên cơ sở đó, họ phân định sự khác biệt giữa "sự hiện hữu mang tính hiện tượng" (phenomenal existence) và sự thực hữu tối hậu, hay "thực tại siêu hình" (metaphysical reality).

    Thí dụ: Một lượng nước trong cốc chỉ thể hiện hình thái lỏng, ẩm ướt và không mầu; nhưng thực chất, nó bao gồm những phân tử H2O. Không có khả năng cảm nhận được 2 nguyên tử hydrogen và 1 nguyên tử oxygen trong phân tử nước, các giác quan chỉ có thể nắm bắt được sự tồn tại mang tính hiện tượng của loại vật chất ấy.

    Bên cạnh đó, siêu hình học cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa thực tại và hiện tượng nỗ lực miêu tả bản chất của vũ trụ.1

    - Xuất xứ: Theo quan niệm tryền thống, thuật ngữ metaphysics chỉ đơn thuần ghi nhận thứ tự sắp xếp các bộ sách trong thư viện của Aristotle. Do các bộ sách đề cập đến các lãnh vực siêu hình được xếp phía sau các bộ sách vật lý (physics), chúng được biết đến với biệt ngữ meta physics (phía sau vật lý). Giả thuyết này được Andronicus đưa ra. Tác giả này là người đã biên tập và hệ thống hoá các tác phẩm của Aristotle, đồng thời mang đến cho chúng ta thuật ngữ "metaphysics".

    Trong số các tác phẩm của Aristotle, quyển "Triết học đầu tiên" (First philosophy) đề cập đến sự tồn tại của Thượng Đế, bản chất của thực tại và nguyên lý nhân quả, v.v....Vượt ra khỏi khuôn khổ vật chất và hiện tượng giới, một số tác phẩm xem xét, giới thiệu những suy tưởng và chiêm nghiệm về Thực Tại Tối Hậu - đối tượng nghiên cứu của bộ môn siêu hình học.

    - Phân loại: Christian Wolff, vị học giả Đức đã từng hệ thống hoá triết lý của G. W. Leibniz, phân loại siêu hình học ra làm 4 nhánh chính:
    1. Bản thể học (Ontology): Chuyên nghiên cứu Thực Tại Tối Hậu.
    2. Vũ trụ học (Cosmology): Chuyên nghiên cứu trật tự tối hậu của vũ trụ.
    3. Tâm lý học (Psychology): Chuyên nghiên cứu bản chất và sự tồn tại của Thượng Đế trong khuôn khổ các sự kiện tự nhiên và kinh nghiệm lý lẽ.
    4. Tri thức học (Epistemology), bộ môn nghiên cứu khả năng thu thập kiến thức của con người, cũng được một số triết gia vĩ đại xem là một phân môn của siêu hình học, George Hegel đã từng đồng hoá tri thức học với luận lý học, xem sự thật là điều hợp lý và ngược lại.
    John Stuart Mill đã nhận định siêu hình học như "một bộ phận của lãnh vực triết lý tinh thần, cố gắng xác định xem chức năng thần kinh nào thuộc về nguồn gốc tâm linh, chức năng nào được hình thành từ vật chất và ngoại cảnh."

    Với Immanuel Kant, siêu hình học là những gì vượt khỏi kinh nghiệm tri thức của con người. Thượng Đế, linh hồn, sự bất tử,v.v...là những lãnh địa bất khả tri, con người chỉ có thể thu được kiến thức trọn vẹn về thế giới hiện tượng. Qua đó, Kant đã mở đường cho sự ra đời của Hiện Tượng Luận (Phenomenalism) và Thực Chứng Luận (Positivism).

    Schopenhauer kết hợp kinh nghiệm với siêu hình học, nhấn mạnh vai trò của sự phân tích các sự kiện kinh nghiệm và thực chứng.

    Là những người xem mọi cuộc thảo luận về Thực Tại Tối Hậu là nỗ lực vô nghĩa, các triết gia thực dụng rất đồng tình với nhận xét của William Jame về siêu hình học: "Giống như mọi chú mèo đều xám màu trong bóng đêm, mọi lý lẽ đều mờ mịt đi dưới quan điểm phê phán siêu hình."

    Xét về mặt lịch sử, Renes Descartes được xem là cha đẻ của triết học và siêu hình học hiện đại. Vì thế, siêu hình học còn được phân ra làm hai nhánh: Tiền Descartes (Pre-Cartesian) với công trình nghiên cứu của các triết gia Hy Lạp cổ đại, và Hậu Descartes (Post-Cartesian) hay còn được gọi là siêu hình học hiện đại.

    Trich : chungta.com
    bài William S. Sahakan & Mabel. Sahakan- Thanh Chân dịch
    Tư tưởng các triết gia vĩ đại- NXB TP.HCM

  3. #3

    Mặc định

    2. Siêu hình học tiền Derscarte

    Theo truyền thống văn hoá Tây Âu, siêu hình học tiền Descates được xem là bắt nguồn từ các nhà vật lý cổ đại tại Ionia2 (giai đoạn 600-528 trước Công Nguyên), bao gồm bộ ba hiền triết của thành Miletus (Tiểu Á), sống trước thời Socrates: Thales3 (624-546 trước CN) và Anaximander (610-546 trước CN) và Anaximenes(585-528 trước CN).

    a) Ý tưởng của các bậc hiền triết thành Miletus (the Milesian Philosophers)

    Các bậc hiền triết thành Miletus quan tâm đến thực tại và vật chất của vũ trụ, chất liệu đã hình thành nên thế giới. Nói cách khác, họ cho rằng vật chất là thực tại tối hậu (chân xác về mặt bản thể). Bởi vì các bậc hiền triết ấy là những nhà tiên phong trong lãnh vực khoa học và triết học, ý tưởng và ngôn ngữ diễn đạt của họ được xem là có giá trị nguyên thuỷ.


    Thales nhận định rằng nước là thực tại tối hậu, bởi lẽ đó là chất liệu có khả năng tồn tại ở ba trạng thái: rắn, lỏng và khí, Anaxienes lại có quy kết cho không khí, có lẽ ông đã xét đến tầm quan trọng, sự cần thiết và khả năng chuyển hoá linh động của nó. Thực tế, nước và không khí đều là yếu tố có tầm quan trọng sống còn đối với sự tồn tại. Quy kết nguồn gốc sự sống cho vật chất, các nhà vũ trụ học đã đưa ra Thuyết học hoạt (Hylozoism), cho rằng nước và không khí là 2 yếu tố cần thiết cho hoạt động sống. Về phần mình, Anaximander nhận định aperon, trạng thái vô biên và vĩnh hằng, là bản thể nguyên sơ của vũ trụ. Ông cũng đề cập đến bản thể apeiron ấy bằng các tên gọi khác như: Vô Cực, Vô Biên, Vô Hạn hay Thực Tại Thần Thánh.

    b) Trường phái Eleatic

    Trường phái Eleatic (the Eleatic School), xuất hiện vào thời kỳ 540-475 trước Công Nguyên, quan tâm đến vấn đề tính đồng nhất và sự biến dịch, thừa nhận rằng chỉ có một thực tại duy nhất, loại trừ tính thực hữu tối hậu của mọi hình thức thay đổi. Đứng đầu trường phái này là bốn vị hiền triết xứ Elea, bao gồm:

    - Xenophanes (570-475 trước CN), người đề xuất Nhân Hình Luận và vai trò của nó đối với Thuyết Đa Thần, này đã đưa ý tưởng Nhất Thần vào lãnh vực triết học. Kết luận về tính nhất thể của Thượng Đế được ông suy luận ra từ sự vận hành hoà hợp trong thế giới tự nhiên muôn hình vạn trạng. Ngoài ra, ông cũng đồng hoá Thượng Đế với thế giới thực tại vĩnh hằng và vô biên (quan điểm Phiếm Thần).
    - Parmenides, người lãnh đạo trường phái Eleatic, phát triển khái niệm Thực tại (Being) - sự chân xác về mặt bản thể. Ông đánh đồng thực tại với tư tưởng, cho đó là hai mặt của cùng một vấn đề. Những gì không thể tư tưởng, không thể tồn tại. Tư tưởng là điều kiện tiên quyết cho sự thực hữu. Bởi lẽ sự thực hữu là nội dung của tư tưởng, tư tưởng cũng chính là hình thái (hay nguyên lý) của Thực Tại. Thực Tại là những gì hiện hữu, có thể chất và chiếm hữu một phần không gian nào đó. Khoảng không trống rỗng là vô nghĩa, hư vô phi hữu.
    Parmenides lập luận rằng, do khoảng không trống rỗng và phi hữu, mọi chuyển động đều không thực hữu bởi lẽ chuyển động chỉ có thể xảy ra trong vùng hư không phi hữu. Hơn nữa, các đối tượng đa thành phần tách biệt nhau cũng không thực hữu, bởi vì các thành phần của chúng bị phân cách bởi khoảng hư không phi hữu ấy. Vì thế, ông đi đến kết luận rằng thực tại tối hậu (Being) là một (về mặt số lượng và chủng loại), vĩnh hằng (nguyên thuỷ), bất hoại (tồn tại đời đời) nhưng hữu hạn (về mặt không gian).

    - Zeno4 người được Aristole tôn xưng là "nhà phát minh ra phép lập luận biên chứng", nổi tiếng với tài biện luận sắc sảo. Ông thường đẩy những kẻ tranh biện với mình vào chỗ mâu thuẫn và bế tắc. Zeno cho những lập luận đặc sắc phản bác sự thực hữu của mọi chuyển động. Với thí dụ về một mũi tên bay, ông phân tích từng thời điểm của đường bay để chứng mình rằng thực ra mũi tên ấy không hề chuyển động. Ngày nay, chúng ta có thể tiến hành lập luận tương tự bằng cách thu hình một vật thể đang chuyển động. Đoạn phim thu được sẽ cho chúng ta thấy rằng chuyển động ấy thực ra chỉ bao gồm một chuỗi hình ảnh bất động.

    - Melissus cống hiến cho trường phái Eleatic khái niệm thực tại vô biên. Ông lập luận rằng nếu không gian là hữu hạn, nó phải bị giới hạn bởi không gian trống rỗng (vùng hư không phi hữu). Bằng cách đó, ông đặt ra câu hỏi: "Nếu không gian gần càng tại một điểm nào đó, bên ngoài nó có thể là cái gì? không gian khác ư?"

    Đối với luận điểm của trường phái Eleatic (vạn bất nhất thể, biến dịch phi hữu) là luận điểm của Heraclitus5 taị thành Ephesus (544-484 trước CN). Heraclitus cho rằng mọi vật đêu chuyển động và biến dịch (giống như nước sông không ngừng tuôn chảy về biển, vạn vật liên tục biến đổi trong quá trình tiến hoá). Nâng sự biến dịch lên vị trí "thống soái của toàn bộ vũ trụ" ông nhấn mạnh rằng không có gì bất biến, mọi vật liên tục đổi thay trong từng khoảnh khắc. Chuyển dịch là nền tảng của muôn vật và vạn sự. Thực tại là một tiến trình biến đổi. Vì thế, Biến dịch (Becoming) chính là Thực Tại Tối Hậu của vũ trụ.
    Bản chất của lửa chính là minh hoạ sinh động nhất của Biến Dịch Lửa liên tục đổi dạng, không ngừng chuyển động, chẳng bao giờ cố định. Do đó, Heraclitus cho rằng lửa là yếu tính của vạn vật. Mặt khác, để có thể vận hành nhịp nhàng và có trật tự, thế giới tự nhiên phải tuân thủ một hệ thống quy luật có tính hệ thống quy luật có tính đồng nhất. Vì thế, quy luật tự nhiên (The Logos - Lý lẽ của vũ trụ) chính là Thực Tại thường hằng duy nhất.

    c) Đa nguyên luận (Pluralism)

    Cuối cùng, vấn đề bất đồng quan điểm giữa trường phái Eleatic và Heraclitus được giải quyết thông qua quan điểm tổng hợp của các triết gia Đa Nguyên Luận, những người nhận định rằng Thực Tại vừa đồng nhất, vừa biến dịch. Cống hiến những tư tưởng triết học cho nhân loại trong khoảng thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên (470-370 trước CN) Đa Nguyên luận được hình thành nhờ công lao của các triết gia vĩ đại như:

    - Empedocles xứ Agrigentum (thuộc đảo Sicily) nhận định rằng vạn vật được tạo ra từ 4 yếu tố cơ bản: Đất, Khí, Lửa và Nước. Tuy là các yếu tố nguyên thuỷ, bất hoại, thuần nhất và bất biến, chúng đều có thể phân thành những phần tử nhỏ hơn và có khả năng biến dịch. Mặc dù mọi vật đều biến đổi, tự bản thân chúng không có động lực. Theo Empedocles, mọi biến động đều xuất phát từ nguyên lý ngoại tại, từ yêu và ghét. Không chỉ là chức năng, quan hệ hay cảm giác đơn thuần, yêu và ghét còn là động lực, là quyền năng.

    - Anaxagoras xứ Clazomene mặc nhiên thừa nhận một vũ trụ bao gồm vô số nguyên tố (elements). Ông cho rằng mỗi sự vật trong tự nhiên đều bao hàm nhiều nguyên tố vũ trụ, chúng chỉ khác biệt với nhau về mặt hình thái, màu sắc hay mùi vị. Những sự vật ấy tác động đến các giác quan của chúng ta, bộc lộ những thuộc tính vượt trội đặc biệt của chúng (thí dụ như thuộc tính trắng của thạch cao, thuộc tính ngọt của mật, v.v...) Cho rằng các nguyên tố ấy là vĩnh hằng, bất hoại và bất biến, ông đã định hình nên học thuyết về tính bất diệt của vật chất (the Doctrine of the Indestructibility of Matter).

    Ngoài ra, Anaxagoras tin rằng có một nguyên lý tinh thần (được ông gọi là Nous) ban cho các nguyên tố vũ trụ một khả năng chuyển dịch. Ông cũng quy kết các thuộc tính như Trật Tự, Cái Đẹp, Chủ Đích, Quy luật và Sự Hoà Hợp của vũ trụ cho nguyên lý tinh thần ấy. Giống như Lý Lẽ, Tinh Thần hay Tư Tưởng, Nous đã được Anxagoras đồng hoá với Thân Thánh. Chính quan điểm triết lý này đã mở đường cho Chủ Đích Luận ra đời.

    - Leucippus của thành Abdera6 là người đầu tiên đưa ra khái niệm "nguyên tử" (atoms - hàm nghĩa "vật bất khả phân"). Theo ông, đó là những nguyên tố vĩnh hằng, nguyên thuỷ, bất biến, bất hoại, đồng nhất, bấ khả phân và hữu hạn. Tràn ngập khắp không gian, các nguyên tử có số lượng rất lớn, chúng chỉ sai khác nhau về kích cỡ, hình thái và vị trí. Leucippus cho rằng mọi biến động trong vũ trụ đều xuất phát từ sự chuyển dịch vị trí của các nguyên tử trong không gian. Vì thế, chuyển động là kết quả của sự tái lập mối quan hệ giữa không gian và các nguyên tử, những thực thể siêu hình duy nhất trong vũ trụ.

    - Democritus7 của thành Abdera là triết gia nổi tiếng nhất của trường phái Đa Nguyên Luận. Là người phát triển thuyết nguyên tử, cha đẻ của chủ nghĩa Duy Vật (Materialism) ông góp phần hình thành nên nguyên lý bảo toàn năng lượng (the Conservation of Energy) của vật lý học hiện đại. Ông nhận định rằng không có gì được hình thành hoặc tiêu biến đi một cách tuyệt đối, bởi lẽ mọi vật được cấu thành từ các nguyên tử bất hoại, các nguyên tử này chỉ thay đổi và tái lập trật tự, cách sắp của chúng mà thôi.
    Democritus cũng cho rằng các nguyên tử có tính vĩnh hằng, nguyên thuỷ và liên tục biến dịch; do đó, biến dịch cũng có tính vĩnh hằng. Theo quan điểm của ông, thế giới không chỉ là tập hợp của những thuyết nguyên tử hỗn độn, nó được thống trị bởi các quy luật mang tính cơ chế.

    d) Các triết gia cùng thời khác

    - Phythagoras của đảo Samos8 đã phát triển một quan điểm triết học dựa trên cơ sở khái niệm số học, nhận được sự đồng tình của nhiều triết gia khác, đặc biệt là Philolaus của Thebes (sống cùng thời với Socrates). Ông đã kết hợp ý tưởng về số học với các thuộc tính của thực tại tối hậu và siêu hình như: thường hằng, bất dịch, bất hoại, phổ quát, v.v..., những thuộc tính này không bị ảnh hưởng bởi thời gian hay sự biến đổi. Theo quan điểm của Pythagoras, bản chất của thế giới có thể được tìm thấy trong các quy luật toán học, các quy luật mang đến cấu trúc và hình dạng cho các vật thể hữu hình. Ông cho rằng vật chất phải bao hàm những dạng thức toán học, rằng thế giới phải được xem như một tập thể tập hợp các con số. Vì thế, các giá trị tối thượng trong vũ trụ phải bất biến và thường hằng, bởi lẽ mọi thực thể tồn tại trong vũ trụ đều được thống trị bởi các định lý toán học.

    - Protagoras của Thành Abdera, triết gia nguỵ biện nổi tiếng vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước CN, đưa ra lý thuyết lĩnh hội tri thức học (Perception Theory of Epistemology), gói gọn đời sống tinh thần của cá nhân trong khuôn khổ nhận thức. Quan điểm duy cảm (sensualism) thể hiện qua câu châm ngôn của ông: "Con người là thước đo của mọi sự." Đối với Protagoras, kiến thức, thực tại và chân lý chỉ có giá trị khách quan, bởi chúng chỉ là tư kiến chủ quan của con người, không hề có sự kiện khách quan, chẳng hề có chân lý tuyệt đối cho tất cả mọi người. Điều gì có vẻ đúng với tôi chỉ đúng với tôi, điều gì có vẻ đúng với anh chỉ đúng với anh. Bởi vị tính khách quan không thể thành lập được, con người cần phải bằng lòng với tư kiến và chân lý chủ quan.

    - Gorgis (mất năm 380 trướcCN) phát triển ý tưởng của Protagoras thành Chủ nghĩa Hư Vô, cho rằng không có thực tại tối hậu hay siêu hình nào cả. Theo Gorgias, ngoài nhận thức của con người, không hề có một thực thể chân xác nào khác.
    e) Quan điểm của Plato

    Phần nào dựa trên ý tưởng của Democritus, Plato đã phát triển nên một ngành siêu hình học mới, căn cứ vào hai nhánh tri thức học khác nhau, mỗi nhánh bao hàm một học thuyết siêu hình riêng. Theo Plato, nhận thức của con người chỉ có thể nắm bắt được thực tại tương đối và phiến diện (hiện tượng thoáng qua). Trong khi đó, lý trí của con người có khả năng khai phá các quy luật tự nhiên hay thực tại tuyệt đối, thường hằng, đồng nhất và phổ quát. Những dữ kiện về hiện tượng giới là đối tượng tri giác của con người (qua giác quan); những nguyên lý về thực tại tuyệt đối phải được suy tưởng và chiêm nghiệm. Các đối tượng cảm quan tồn tại trong thế giới suy tưởng siêu hình.

    Thế giới thực tại siêu hình là lãnh vực tri thức trọng tâm trong Thuyết Ý Niệm của Plato (Plato's Doctrine of Ideas). Học thuyết ấy bao gồm các nguyên lý và bản thể của thực tại tối hậu, của chân lý tuyệt đối, của đạo lý trong vũ trụ. Đó là những ý tưởng siêu hình, bởi lẽ thực tại tối hậu vốn vượt lên trên thế giới vật chất và hiện tượng, chỉ hiển hiện trong thế giới tâm tưởng và nhận thức. Giống như các nguyên lý toán học nhưng lại không có nội dung cụ thể, thực tại tối hậu không có tướng trạng; vì thế con người chỉ có thể chiêm nghiệm về nó để lý hội. Với quan điểm ấy, Thuyết Ý Niệm của Plato ngụ ý rằng thế giới thực tại được cấu thành từ tinh thần, từ các yêu sách của yếu tố phi vật chất và vô hình tướng. Đó là học thuyết cốt lõi của Chủ nghĩa Duy Tâm theo trường phái Plato (Platonic Idealism).

    f) Quan điểm của Aristotle

    Aristotle đã cố gắng giải quyết vấn đề đồng nhất và biến dịch, vấn đề trọng tâm nẩy sinh từ ý tưởng của Plato về hai thế giới tương hỗ (hiện tượng giới và siêu hình giới). Ông đi đến kết luận về một tiến trình nhận thức, nối kết vô số biến trạng của hiện tượng giới với thực tại thống nhất và vĩnh hằng của thế giới ý niệm siêu hình.

    Plato (trái)- Aristo (phải)
    Đối với Aristotle, thực tại siêu hình là một yếu tính (essense) vốn không tách rời khỏi các hiện tượng, là "mục đích nội tại" (entelechy) của một đối tượng cảm quan khiến nó có khả năng tự nhận thức. Khởi sự tồn tại, mọi hiện tượng chỉ là giả tạm, không thực hữu; chúng đòi hỏi phải được hiện thực hoá. Hiện thực là một tiến trình, một quá trình tự nhận thức. Sự thực hữu của một vật, bản chất của nó, các nguyên lý thống trị nó đều không tách rời khỏi nhận thức về hiện tượng tổng thể. Tính phổ quát vốn tiềm ẩn trong từng chi tiết. Vì thế, thực tại chính là bản chất của một vật thể, nó cần được hiện thực hoá và nhận thức trọn vẹn.

    Aristotle cho rằng các ý niệm siêu hình của Plato tồn tại như "hình thể" (form), trong khi các hiện tượng tồn tại ở dạng vật chất (matter). Nhưng khác với Plato, Aristotle chẳng bao giờ cho phép hai dạng này tách biệt nhau. Hình thể và vật chất luôn hợp nhất, tạo thành "hình thể vật chất" (formed matter). Không có hình thể, vật chất nằm ngoài phạm vi nhận thức. Kết hợp lại với nhau, hiện tượng giới và siêu hình giới cầu thành thế giới thực tại. Trong sự kết hợp ấy, mục đích nội tại (entelechy) chuyển hoá vật chất từ hiện tượng thành hiện thực. Mục đích nội tại là tiến trình tự nhận thức của vật chất, chuyển từ dạng tiềm năng đơn thuần thành thực tại chân xác.

    Theo Aristotle, tiến trình nhận thức và hiện thực hoá được tiến hành với 4 động cơ như sau:
    1. Vật chất (Material cause): Phần vật chất cần thiết để tham gia tiến trình
    2. Hình thể (Formal cause): Lý thuyết, đề án hay nguyên lý mà vật chất phải tuân thủ
    3. Năng lượng( Efficient cause): Nỗ lực hay năng lượng dành để thực hiện tiến trình.
    4. Chung cuộc (Final cause): Mục đích tối hậu của tiến trình.
    Thí dụ: Khi xây dựng một ngôi nhà, chúng ta cần phải có vật liệu (vật chất), bản đồ hoạ thiết kế của kiến trúc sư (hình thể), sức lực của công nhân (năng lượng) và mục đích xây dựng ngôi nhà ấy (chung cuộc).

    Aristotle cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều được tạo thành từ hình thể và vật thể chất, từ đó hiện thực hoá vật chất. Cấu trúc của thế giới phụ thuộc vào vị trí tương đối mà mỗi đối tượng chiếm giữ trong vũ trụ:

    - Thượng Đế, Thực Tại siêu hình và siêu việt, ngự trên tầng cao nhất.
    - Các đối tượng có hình thể siêu việt khác (tinh thần hay linh hồn) ngự ở tầng thấp hơn.
    Đá, khoáng chất và các vật thể vô tri giác chiếm giữ tầng đáy.
    - Chiếm giữ các tầng trung gian bên trên tầng đáy lần lượt là: đời sống thực vật, đời sống động vật và đời sống con người.
    Mặc dù thể hiện quan điểm tiến hoá, hệ thống phân loại hình thể- vật chất của Aristotle bao gồm những đối tượng được sáng tạo trong cùng một thời điểm. (Khác với quan điểm tiến hoá theo quá trình thích nghi và hoàn thiện dần tổ chức cơ thể do Charles Dawin đề ra vào thế kỷ 19.)

    Cuối cùng, Aristotle tin tưởng rằng động lực chủ yếu của vạn vật là Thượng Đế, thực tại có hình thể thuần nhất (pure form), hoàn toàn siêu thoát khỏi ràng buộc vật chất (vật chất vốn không hoàn hảo, cần đến tiến trình tự nhận thức và hiện thực hoá). Là động lực tiên nguyên, bản thân Thượng Đế là bất biến. Ngài là thực tại viên mãn và là nguồn gốc khởi động của vạn vật. Do đó hình thể thuần nhất, Thượng Đế cũng là độnng cơ chung cuộc (final cause), thúc đẩy mọi vật tự nhận thức và hiện thực hoá bản thân.

    Đối với Aristotle, Thượng Đế là siêu hình, phi vật chất, vĩnh hằng và thuần nhất; Ngài là thực thể tuyệt đối độc lập và hoàn hảo. Chỉ có Thượng Đế mới là thực tại viên mãn, không cần đến quá trình tự nhận thức. Do vậy, Ngài là thực tối thượng, là thực thể thuần nhất (actus purus) và tư tưởng thuần nhất.
    Trich : chungta.com
    bài William S. Sahakan & Mabel. Sahakan- Thanh Chân dịch
    Tư tưởng các triết gia vĩ đại- NXB TP.HCM

    còn tiếp...

  4. #4

    Mặc định

    TKT cũng xin góp vui đôi lời : Làm thế nào biết có vô hình? Như khi ta được chứng kiến một hiện tượng hãi hùng như tai nạn xe cộ gây chết người. Hoặc như chính ta bị tai nạn nhưng không chết. Cảm giác đau đớn sợ hãi tưởng như đã qua đi. Nhưng một lúc nào đó nó lại quay lại ám ảnh ta như một giấc mơ hải hùng. Chắc ai cũng ít nhất một vài lần được chứng nghiệm. Nhưng bản chất nó là gì? Phải chăng ngoài thể xác vô hình này Mỗi chúng ta còn một thể vô hình đang luôn theo sát và ghi nhận mọi cảm xúc của chúng ta...
    VÔ VI LÀ HỌC NƠI TẤT CẢ VÀ HÒA NƠI TẤT CẢ

  5. #5

    Mặc định

    Lời bạn TKT nói rất đúng do thể Phách ( thể trung gian cuả thể vật lý ( xác thể ) và thể siêu hình ( hồn ) ghi nhận và cất giử trong tiềm thức ( thức 7 ) và Nhân cuả nó nằm ở thức 8 tạng thức )
    thân
    GL

  6. #6

    Mặc định

    Vậy phải chăng vô hình không phải đâu xa nó là tâm ta.Muốn cho thể xác và linh hồn được đồng bộ thì ý chí, tình cảm phải trong sáng. Nói thì dễ nhưng làm được chắc không dễ chút nào vì ta phải luôn đối phó với hoàn cảnh, với cơm áo gạo tiền... chưa kể bao nhiêu ham muốn đang giằng xé chúng ta vợ muốn thế này, con đòi thế kia... Chúc GL cùng các đạo hữu luôn thân tâm ân lạc.
    VÔ VI LÀ HỌC NƠI TẤT CẢ VÀ HÒA NƠI TẤT CẢ

  7. #7

    Mặc định

    để xác định tính vô hình (tâm ) ở đâu ? nó ra sao ? nó chỉ huy mọi hành động cuả ta hay là thể Phách cuả vật lý xác thể chỉ huy ?...đó là vấn đề cuả Đạo học đó hì hì...( Tâm chơn tâm vọng vẫn là tâm đó bạn ) ? hì hì chúc TKT luôn vui và tinh tấn ...
    gl

  8. #8

    Mặc định

    Để mở hàng cho cái đề mục "Siêu hình" đệ xin phép viết một bài thơ của anh Mõ Bo nói về "Hiện tượng luận"

    Tọa Mộc chi đĩnh
    Kiến nhất Nam nhất Nữ
    Nam kiến Đông Như lai
    Nữ tự Đoài Nhi chí
    Nam kiến Nữ như Hổ kiến Trư
    Nữ kiến Nam như Ngư kiến Thũy
    Nam cấu Mộc vi sàng
    Nữ giãi y vi tịch
    Nam quỳ như Hổ phục
    Nữ ngọa như Long phi
    Tứ túc giao lai bất tri hô hoán
    Ẩu đã bất tri hành sự

    ký tên:Mõ Bo
    Vì lêu lổng mười năm trời mờ mộng
    Ôm tình già quên bẳng tuổi hoàng hôn .

  9. #9

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi KIEMKHACH Xem Bài Gởi
    Để mở hàng cho cái đề mục "Siêu hình" đệ xin phép viết một bài thơ của anh Mõ Bo nói về "Hiện tượng luận"

    Tọa Mộc chi đĩnh
    Kiến nhất Nam nhất Nữ
    Nam kiến Đông Như lai
    Nữ tự Đoài Nhi chí
    Nam kiến Nữ như Hổ kiến Trư
    Nữ kiến Nam như Ngư kiến Thũy
    Nam cấu Mộc vi sàng
    Nữ giãi y vi tịch
    Nam quỳ như Hổ phục
    Nữ ngọa như Long phi
    Tứ túc giao lai bất tri hô hoán
    Ẩu đã bất tri hành sự

    ký tên:Mõ Bo
    Rất vui lại gặp kIEM KHACH :kiss:

    TRANG TỬ VIẾT :

    " TA VÀ TRỜI ĐẤT CÙNG SINH
    TA VÀ MUÔN VẬT SỰ TÌNH CHẲNG HAI ''


    Thân ái
    GL

  10. #10

    Mặc định

    lý siêu hình

    từ đâu mà có khởi sinh
    lý này không phải tính sinh di truyền
    tính lý hồng mông di truyền
    chớ không tính lý di truyền hưũ sinh

    khổ thời vạn vật tán linh
    khổ thời vạn vật còn linh đâu tường
    lý khởi đó gọi vô thường
    lý khởi đó gọi vô thường có không ...

    gl

  11. #11

    Mặc định

    PĐ xin chân thành cám ơn huynh già lam

  12. #12

    Mặc định

    Vì một lý do đặc biệt nên VTD hạn chế, không tham gia thảo luận một số đề tài trong này nữa dù rất muốn.
    Cám ơn huynh Gialam đã trả lời thay cho VTD đến bạn Phi Đài. Tuy nhiên, bài viết của huynh Gialam có phần nghiên cứu về luận lý của nguyên lý Siêu hình, gần như chỉ thiếu có Hegel hay là Goethe... nữa là thành một bài Triết luận.
    Riêng ở góc độ của VTD khi đề cập đến các nguyên lý siêu hình là muốn nói đến một thực tế trong đời sống tu học : những nguyên tắc, nguyên lý của thế giới vô hình, cũa Cõi Siêu Hình bên ngoài đời sống trần tục hữu hình này.
    Bạn Phi Đài qua trang VTHB đọc mà không nhận thấy vì bạn cứ ngỡ là có một topic riêng cho mệnh đề này. Không phải vậy đâu bạn. Các nguyên lý siêu hình là nằm bàng bạc ở nhiều bài viết khác nhau, ta đọc nó và cảm nhận bằng cái tâm của người học Đạo thì sẽ nghiệm ra. Thí dụ một bài viết Nguyên Lý Trừ Tà của huynh Lĩnh Nam. Bạn đọc qua bài viết này và sẽ hiểu dược một số nguyên tắc của Chư Vị Thánh Thần, Bồ Tát trong việc thị hiện huyền năng để trị tà ma. Vì sao có Pháp sư trị bệnh thành công? Vì sao có con Tà không sợ Ấn Chú...vv.
    Hoặc các quy luật NGhiệp và Nhân quả cũng là một nguyên lý chi phối cuộc sống tâm linh của Vũ trụ này. Làm Thiện được thưởng- làm Ác bị trừng, cũng là một nguyên lý của cõi siêu hình đó thôi. Ngoài ra còn có Nguyên Lý Đạo là Một, nguyên tắc công bằng của vũ trụ, nguyên lý Trần sao Âm vậy...vv rất đáng để chúng ta học hỏi. Bản thân VTD khi hiểu ra một số vấn đề như vậy, đã tự trả lời cho mình được một số việc linh ứng mà trước kia không thể giải thích được.

    Bạn Phi Đài nên tìm hiểu và đọc thêm quyển Hành Trình Về Phương Đông. Theo cá nhân của VTD, lời dạy của một số đạo sư trong tác phẩm đó là rất chính xác và hữu ích, cũng nêu ra một số nguyên lý và nguyên tắc của cõi bên kia rất là hay.
    Không thể viết dài dòng để giải thích với bạn Phi Đài được. Ý tại ngôn ngoại. Bạn tự tìm hiểu thêm nhé.
    THỊ CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG

  13. #13

    Mặc định

    BẠN VOTHUONG DAO và các chư huynh đệ thân mến .
    Như lời tưạ khi mở topic nầy GL cŨng có nói đây là đề tài THUỘC PHẠM TRÙ TƯ TƯỞNG CÓ LIÊN QUAN MẬT THIẾT VỚI TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY VÀ ĐẠO HỌC PHƯƠNG ĐÔNG do đó GL muốn giới thiệu tổng quát HỆ TƯ TƯỞNG ĐÔNG TÂY CUẢ TỪNG THỜI KỲ , TỪNG TRIẾT GIA ĐÔNG TÂY đã ảnh hưởng đến tư tửởng nhân loại và tâm linh cuả con người như thế nào ? sau đó chúng ta có thể xem xét và lượng giá các hệ tư tưởng này trong thời điễm hiện nay như thế nào theo sự hiểu biết CHỦ QUAN CUẢ MÌNH dĩ nhiên vấn đề là chúng ta là một phần cuả lịch sử ( hậu nhân cuả các bậc tiền bối tiên hiền )
    xem xét những vấn đề này như thế nào - Dĩ nhiên GL chỉ có thể lần lượt giới thiệu một cách khách quan thôi theo lịch sử ghi nhận ...Còn các vấn đề thực chứng tự mỗi cá nhân trong nhận thức sẽ được lần lược ghi nhận trong diễn đàn này trong thời gian tới xem nó như thế nào nó có hợp với khẩu vị cuả mọi người hay không nưả ...Gl rất mong chúng ta sẽ làm rỏ hơn những quan điểm và kinh nghiệm tự thân cuả mỗi hành giả cùng nêu lên để cùng học hỏi chứ cũng không có ý tranh luận hơn thua vì ĐẠO HỌC THUỘC VỀ ĐỨC HẠNH CHỨ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO TRÍ LÝ ĐƯỢC MỌI NGƯỜI TÁN TỤNG - NHƯNG ĐỂ CÓ HẠNH CHÚNG TA CẦN CÓ TRÍ VÀ LÝ BIỆN BIỆT SỰ VÂT MỘT CÁCH RỎ RÀNG ...

    GL cũng đồng ý ý kiến cuả vothuong dao " nguyên lý trần sao âm vậy " NHƯNG NÓI ĐI CŨNG XIN NÓI LẠI CỌI TRẦN CŨNG QUÁ NHIỀU CHUYỆN BẬY BỞI ĐƯỢC TG TRƯỢC DẨN DẮT - CÒN Ở THẾ GIỚI SIÊU HÌNH DO CÁC BẬC THÁNH THẦN THƯỞNG PHẠT CONG MINH LẮM CHỨ HỌ CŨNG CHA73NG THEO CÁI LỆ CUẢ THẾ GIAN ĐÂU ... nhưng từ xưa đến giờ ít ai có khả năng trưng ra những chứng lý rỏ ràng về điều này một cách " tâm phục khẩu phục" . ( THỜI NÀY NGÀY CÀNG NHIỀU NHỮNG MINH CHỨNG HIỆN HƯŨ HÌNH ĐỂ NHỮNG KẺ SÌNH CÓ MỘT CƠ HỘI CUỐI NHÌN LẠI MÌNH LẦN CUỐI CÙNG TRƯỚC KHI CÓ SỰ TỔNG KẾT NHÂN QUẢ Ở KỲ CUỐI CÙNG NÀY - ĐÓ CŨNG LÀ THIÊN Ý VẬN HÀNH ĐÓ THÔI ). Chứng lý cuả câu HƯŨ VÔ ĐỒNG NHẤT LÝ là như thế nào ??? sự hiểu còn ở ngoài da - lập luận theo những kinh điển hay lý luận theo sách vờ dẩn chứng lời thánh nhân này ông Phật nọ mà lọ vẫn hoàn lọ đó là hệ quả của lý luận suông nên khó ai buông nổi cái kiến chấp nó hấp trong tạng phủ và tinh thần con người nhiều đời bời sự giáo dục theo khuôn mẫu chính trị và môi trường xã hội trong mỗi thời đại hơn là chân lý thực sự cuả Như Lai - vì thế để dẫn chứng hệ quả " TU MÀ ĐÊ TÊ MÊ NHƯ HIỆN NAY SẼ CHO RA MỘT HỆ QUẢ RẤT TỒI TỆ NHƯ TA ĐÃ THẤY " TU THEO PHẬT GIẤY THÌ LÀM SAO CẤY NÓ TRỔ BÔNG HỞ CÁC BẠN " Người thông chử VẠN THÌ KHÔNG THỂ NÀO LẠNG QUẠNG ĐƯỢC MÀ PHẢI THỰC SỰ LÀ NHỬNG QUAN ÂM BỒ TÁT mớt Tát được cái khổ cho chúng sinh chớ - dù ờ thế nào ghế nào BẠN MUỐN CỨU THẾ BẠN PHẢI CÓ THẾ THÌ SỰ CƯÚ THẾ ẤY MỚI HƯŨ HIỆU ( bao gồm Đức và Hạnh vật lực và cả Phật lực ) - tức là sự lo liệu chu toàn cho nhân duyên nhân quả cuả chính mình trước thì mới có thế bước đến mọi người - Các bạn nghĩ xem ai cũng noí là thời mạt Tiên Thánh xuống trần mà lần không ra ? tự kiễm lại xem ai là Tiên là Phật thì phải lật đật cưú thế mà người cưú thế này cũng phải RỎ NÉT chứ không phải tự phong mà hảy để mọi người phong tặng - mà mọi người phong tặng thì rỏ ràng Trời Phật sẽ THỰC VI HÀNH KIỄM TRA chứ - cha là cha mà ma là ma . chứ nhiều đời kiếp rồi cứ NHÂN DANH CHA RỒI LÀM CHA THIÊN HẠ , NHÂN DANH PHẬT MÀ TẬT ĐẦY MÌNH - SÌNH MÀ TƯỞNG SEN LÀM SAO MÀ PHẬT KHEN ĐƯỢC - NÓI TỚI PHẬT CỨ CHỈ VÀO CHUÀ TO PHẬT LỚN MÀ KHÔNG BIẾT CÁI CHỚN NGHIỆP QUẢ MÌNH TỚI ĐÂU - ÔI THẬT LÀ RẦU - THẬM CHÍ GL THẤY RẰNG VIỆC TU HÀNH BÂY GIỜ GIỐNG NHƯ MỘT CÁI NGHỀ VẬY ... VẬY MÀ BÀ CON CỨ LẬY CỨ XÁ MÀ KHÔNG BIẾT KẺ BA ĐÁ MẶC ÁO VÁ CUẢ NHÀ TU ... THẬT ĐÚNG LÀ PHẢI KHÓC HU HU THÔI...

    Việc riêng cuả Vothuong Dao mình cũng rất thông cãm và có cái cãm nhận rằng thiên hạ còn hận, còn giận , VTD gì...gì..đó chắc VTD biết bạn đang ở trong vòng nước xiết thì cần phải bơi riết hơn nửa chứ không nên dừng lại ngơi nghỉ vì ở đâu củng có Lũ Khĩ cả ...hà hà..mình thấy các câu hỏi lặc cành bẻ nhánh thì nhiều chứ kẻ óng ánh hào quang để làm sang cho thiên hạ , vì thiên hạ mà dạ dạ gần như rất rất ít ...Nếu đúng là họ Thích thì phải là kẻ giúp ít chứ, GL thấy nhiều người THÍCH NHIỀU THỨ QUÁ ...bảo sao thiên hạ không khổ ...Dù sao cũng mong bạn vượt cạn và luôn giúp bạn trong diễn đàn này mà góp tiếng góp lời ...Lời này là cái Lời cho mọi người quanh ta chứ không cho riêng ta - đó là cái lời không tính đếm được cuả người Tu đó bạn ..

    GL tạm lấy BỐN câu thơ này để giải bày rằng :

    TU HÀNH CHỈ CÓ CÁI LỜI
    LỜI ĐƯỢC THIÊN HẠ, SÁNG NGỜI LƯƠNG TÂM
    KHÔNG CÒN NHỮNG KẺ LANG BĂM
    CHỈ CÒN NHỮNG BẬC QUAN ÂM GIÚP ĐỜI

    VÀI LỜI TÂM SỰ CŨNG MONG CÁC THÂN HƯŨ HUYNH ĐỆ HIỂU LÒNG
    THÂN ÁI

    GL
    Last edited by gialam; 12-03-2010 at 11:57 PM.

  14. #14

    Mặc định

    Bởi vậy mới có " Phật Pháp vô biên thệ nguyện học " , " Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ " cũng chẵng có gì là sáo rỗng như một số người cho rằng như vậy! Nó quan trọng ở tình yêu,vì chỉ có từ tình yêu mới dẫn đến những nghĩa cử và hành động. Thệ nguyện nó là cái gì bộc phát tự trái tim,nó là cãm xúc mà không phải là hứa hẹn,không phãi là xác định.Nếu không hiễu nó một cách tế nhị chúng ta sẽ bóp chết Phật giáo một cách hồ đồ thiếu trí tuệ.Và tình yêu chính là nền tãng của Đạo đức.
    Không có tình yêu,cho dù chúng ta có tung hô Thần Thánh , làm hàng ngàn việc thiện,có tôn thờ Trời Phật thì cũng chỉ là công việc của máy móc,như người Roboter không hơn kém.
    Có cái gì là " nguyên tắc của "vô minh", của " phiền não" ? Nó đến tự đâu ? Khi chúng ta đề cập đến " nguyên tắc của siêu hình " ? Hay là chúng ta phải dựa vào một nền tãng,hệ thống nào đó ? Ở ý nghĩa của đời thường chẵng hạn,cứ con ông cháu cha là được phép to mồm hơn dân ngu cu đen và cứ cả vú lấp miệng em. Trong khi Đức Phật tuyên bố : " Hãy tin ta khi nào hiẽu ta,ngược lại là phỉ báng ta" Còn các Bố hay dõng dạc :không tin vào Thần Thánh sẽ bị nhiều nghịch duyên! hoặc là những tư tưởng được biễu hiện tương tợ,làm cho người ta mắc phải cái tâm lý sợ hãi,khi nghỉ đến cái gì thuộc về " siêu hình" !
    Bản chất con người thường muốn chiến thắng và chinh phục người khác, lại hay đem người chết dọa người sống.Siêu hình sẽ không có ý nghĩa nếu người ta sợ hãi nó,mà siêu hình phãi thật sự mang đến thăng hoa và yêu thương cho đời sống,lúc này Tình yêu mới thật sự có ở siêu hình.

    Thân mến.

    Kk
    Vì lêu lổng mười năm trời mờ mộng
    Ôm tình già quên bẳng tuổi hoàng hôn .

  15. #15

    Mặc định

    Chắc chắn là gialam trình còn kém, kiếm khách thì theo đạo gia , còn vô thường thì đang lang than trong siêu hình, ha ha ha.

  16. #16

    Mặc định

    GL tạm lấy BỐN câu thơ này để giải bày rằng :

    TU HÀNH CHỈ CÓ CÁI LỜI
    LỜI ĐƯỢC THIÊN HẠ, SÁNG NGỜI LƯƠNG TÂM
    KHÔNG CÒN NHỮNG KẺ LANG BĂM
    CHỈ CÒN NHỮNG BẬC QUAN ÂM GIÚP ĐỜI
    @ -vậy là khõi sợ đói
    kg còn lo bao tữ
    yêm tâm trộm cứop
    trỡ thành từ thiện
    khâm phục hão huynh hề..hihi cafe nhe.mà moi lần kiếm già trẽ mõi chân quá à..ayza
    trần gian là 1 chốn nô đùa ta chơi cho đã 4 mùa về 0'''...0937532387 anhhungdenhatngu

  17. #17

    Mặc định

    @Gialam, và các đạo hữu,
    Bài nầy viết rất hay!
    "Nguyên lý vô hình" nằm trong "Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh"
    Phật nói : ngủ uẩn giai không, ai biết?
    Phật nói: sắc là không, không là sắc đó, ai hiểu?
    Phật nói: chẳng có gì mà chứng đắc, và không chứng đắc, Ai hay?
    Phật nói: bấy lâu bồ tát dựa vào trí bát nhã hành thật thâmsâu, chẳng có gì là chướng ngại. Ai ngộ? Câu nầy là giải thích Mr GL đi tìm Phật Bồ Tát trên cỏi ta bà nầy, cỏi ta bà nầy hôi thúi và uế trược, Phật chẳng thể xuống, mà chỉ phát sóng cảm ứng hay phóng quang, chỉ có Bồ Tát là thị hiện qua các vị thân tâm thanh tịnh, bằng chứng là KrisnaMurty được đức Di Lặc tác pháp .Ngoài ra GL cũng là một Bồ Tát.Nhìn thấu -buông bỏ -kham nhẫn là ba cái hạnh mà các hành giả cần hành.(ai hiểu được câu: ga tê ga tê para ga tê pa ra san ga tê bodhi svaha, và hành theo thì đang đi trên con đường tìm về chánh đẳng chánh giác vô thượng bồ đề)
    Phật nói chả có gì mà chứng đắc, vì ai cũng có thần thông ai cũng bay được hết sau khi "ngủm" ai cũng có tận lậu thông sau khi tắt thở. Vậy thì chứng đắc là cái gì? khi mà mình đã có mà không hay? Khi nào thì nó lộ diện? Khi thân tâm thanh tịnh, nhìn thấu-buông bỏ-kham nhẫn và có đầy đủ tứ vô lượng tâm.
    Từ các lý luận trên theo tôi chẳng có nguyên lý siêu hình nào cả, chỉ có luật nhân quả & luân hồi chi phối vũ trụ 7 cỏi, theo các bạn siêu hình là gì? là "không thấy" nhưng Phật nói "không " là "có" mà!Như vậy nó có mà mình không thấy, một người có đủ hai mắt thấy cái xe đậu trước mặt, người mù không thấy cái xe, khi cây gậy dò đụng vào xe thì mới biết có chướng ngại vật.Như vậy cái xe có hiện hữu mà người còn mắt sáng thì thấy người mù thì không.Vậy cái xe đó có hay không.
    Lại nữa, khi người chết cũng chia ra ba loại, ta tạm gọi loại phách nhẹ là loại không phạm tội ngủ nghịch và không bị nghiệp chướng dữ khi cận tử nghiệp họ sẽ bay lên một "vùng sáng" nhìn xuống thấy và đọc được tưởng nghỉ của mọi người thân, họ có thể luân hồi về 3 cỏi người, Atula & cỏi thiên.
    Loại phách trung là nghiệp nặng và sâu dầy có thể vào 3 cỏi địa ngục, ngạ quỹ & súc sinh
    Loại phách nặng là chết do tự tử, hạy đột tử, loại nầy có thể chưa biết mình đã chết.
    Loại phách nhẹ loại nầy ngủ uẩn giai không, cúng vàng mã là họ chẳng dùng, vì họ chỉ ăn phước do con cháu hồi hướng hay do chính họ tạo phước, càng ngày phách của họ càng nhẹ đi họ sẽ thăng lên cỏi cao hơn và có thể luân hồi tùy vào trạng thái trung ấm có chưởng nghiệp nào kéo đến.
    Loại phách trung thì "tưởng" vẫn còn mạnh vô cùng, họ vẫn dùng tiền để đổi cho nhau dù là không ăn được , nhưng tưởng đói , còn rất mạnh.Loại nầy nếu sa địa ngục thì khó lên, chỉ có rằm tháng 7 là được tự do hay ân xá trong các ngày 2 & 16 hàng tháng.Còn ở cỏi ngạ quỹ và cỏi súc sinh thì có thể đi các nơi....Loại nầy có thể luân hồi vào ba đường dữ.
    Đây là các điều mà tôi sưu tập và đúc kết. Theo tôi thì không hề có nguyên lý nào là siêu hình hay hữu hình, mà chỉ có duy nhất một nguyên lý tâm linh tiến triển dựa theo luật nhân quả & luân hồi áp dụng cho tất cả 6 cỏi luân hồi và các cỏi tịnh độ, nguyên lý nầy là đồng đẳng như nhau không cao không thấp và áp cho mỗi linh hồn đều như nhau ,dựa trên cơ sở:
    "Con người là một linh quang không sinh không diệt,tự có và tự đầy đủ, linh quang nầy phải đi các cỏi để học tập và tiến bộ, sau khi ngộ đạo rồi phải tu tập để sau đó giúp cho chúng sinh vô minh khác giác ngộ và tất cả cùng tiến triển ."
    Đây là ý kiến riêng, xin miễn bình luận.
    Thân mến
    Last edited by Vân Quang; 13-03-2010 at 09:41 AM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  18. #18

    Mặc định

    Thơ lục bát "Bát nhã Ba La mật Đa Tâm kinh"

    Khi hành Bát Nhã Ba La
    Ngài Quán Tự Tại soi ra tột cùng
    Thấy ra năm uẩn đều Không
    Bao nhiêu khổ ách khốn cùng độ qua


    Nầy Xá Lợi Tử xét ra
    Không là sắc đó, sắc là không đây
    Sắc cùng không chẳng khác sai
    Không cùng sắc vẫn sánh tài như nhau
    Thọ, tưởng, hành, thức uẩn nào,
    Cũng như sắc uẩn, một màu không không


    Nầy Xá Lợi Tử ghi lòng
    Không không tướng ấy, đều không tướng hình
    Không tăng giảm, không trược thanh
    Cũng không diệt, cũng không sanh pháp đồng
    Vậy nên trong cái chơn không
    Vốn không năm uẩn, cũng không sáu trần
    Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân
    Vị, hương, xúc, pháp, cùng phần sắc, thinh
    Từ không giới hạn mắt nhìn
    Đến không ý thức, vô minh cũng đồng
    Hết vô minh, cũng vẫn không
    Hết già, hết chết, cũng không có gì
    Không khổ, tập, diệt, đạo kia
    Trí huệ chứng đắc cũng là không không


    Sở thành, sở đắc bởi không
    Các vì Bồ Tát nương tùng huệ năng
    Tâm không còn chút ngại ngăn
    Nên không còn chút băn khoăn sợ gì
    Đảo điên mộng tưởng xa lìa
    Niết Bàn mới đến bên kia bến bờ


    Ba đời chư Phật sau, xưa
    Đắc thành Chánh Giác cũng nhờ huệ năng
    Trí huệ năng lực vô ngần
    Đại Minh vô thượng, Đại Thần cao siêu
    Trí huệ năng lực có nhiều
    Thật là thần chú trừ tiêu não phiền
    Trí huệ năng lực vô biên
    Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn
    Liền theo lời chú thuyết rằng:
    Độ tha giác ngộ khắp trần chúng sanh.


    Yết đế, yết đế
    Ba la yết đế
    Ba la tăng yết đế
    Bồ đề Tát bà ha

    ===================
    Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn.
    Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.
    Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
    Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức.
    Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp. Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới.
    Không có vô minh,mà cũng không có hết vô minh. Không có già chết, mà cũng không có hết già chết.
    Không có khổ, tập, diệt, đạo.
    Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc.
    Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn.
    Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác.
    Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối.
    Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức
    Gate gate pàragate pàrasamgate bodhi svàhà.
    Tiếng Phạn
    Chữ Devanāgarī Chữ Latin hóa Phát âm (theo IPA) Dịch nghĩa
    गते गते Gate gate [gəteː gəteː] Vượt qua, vượt qua
    पारगते Pàragate [pɑːɾə gəteː] Vượt qua bờ bên kia
    पारसंगते Pàrasaṃgate [pɑːɾəsəm gəteː] Vượt qua hoàn toàn
    बोधि स्वाहा Bodhi svàhà [boːdɦɪ sʋɑːhɑː] Tuệ giác Thành tựu.
    Theo giảng giải của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14[2] thì mỗi chữ trong câu chú trên tương ứng với một lộ trình tu tập Bồ-tát giới từ thấp đến cao đó là:

    gate -- Lộ trình tích lũy hay tích lũy đạo
    gate -- Lộ trình chuẩn bị hay gia hành đạo
    paragate -- Lộ trình tri kiến hay kiến đạo
    parasamgate -- Lộ trình thiền định hay tu tập đạo
    bodhi -- Lộ trình vô học hay vô lậu học đạo
    ============================
    Kim cương Bát nhã ba la mật đa kinh
    Bộ kinh này bao gồm một cuộc đàm luận giữa Phật và tôn giả Tu-bồ-đề, và như đã thấy trong các bộ kinh Bát-nhã khác, nhiều đoạn văn được dùng để nhấn mạnh công đức khi hành giả trì tụng kinh này. Có lẽ đây là điểm then chốt giải thích sự phổ biến và hảnh hưởng lớn của kinh này tại Đông, Đông Nam Á.

    Kinh văn chỉ tập trung vào một vài điểm giáo lí quan trọng và chúng được giải thích triệt để. Những điểm này cụ thể như sau:

    1. Hành giả không nên nhìn nhận một "tự ngã" (sa. ātman), một "chúng sinh" (sa. sattva), một "linh hồn" (sa. jīva, thọ mệnh giả) hoặc một "cá nhân" (sa. pudgala, bổ-đặc-già-la) nào cả.

    यावन्तः सुभूते सत्त्वाः सत्त्वधातौ सत्त्वसंग्रहेण संगृहीता अण्डजा वा जरायुजा वा संस्वेदजा वौपपादुका वा रूपिणो वारूपिणो वा संज्ञिनो वासंज्ञिनो वा नैव संज्ञिनो नासंज्ञिनो वा यावन्‌ कश्चित्‌ सत्त्वधातुप्रज्ञ ्यमानः प्रज्ञप्यते । ते च [MM21] मया सर्वेऽनुपधिशेषे निर्वाणधातौ परिनिर्वापयितव्य ः। एवमपरिमाणानपि सत्त्वान्परिनिर् ाप्य न कश्चित्‌ सत्त्वः परिनिर्वापितो भवति। तत्‌ कस्य हेतोः। सचेत्‌ सुभूते बोधिसत्त्वस्य सत्त्वसंज्ञा प्रवर्तेत न स बोधिसत्त्व इति वक्तव्यः। तत्‌ कस्य हेतोः। न स सुभूते बोधिसत्त्वो वक्तव्यो यस्यात्मसंज्ञा प्रवर्तेत सत्त्वसंज्ञा वा जीवसंज्ञा वा पुद्गलसंज्ञा वा प्रवर्तेत।

    Tu-bồ-đề, chừng nào còn chúng sinh trong cõi chúng sinh, được tóm lại bằng từ "chúng sinh", hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh từ bầu thai, hoặc sinh từ chỗ ẩm thấp, hoặc sinh từ sự biến hoá, hoặc có thân sắc, hoặc không có thân sắc, hoặc có thụ tưởng hoặc không có thụ tưởng, hoặc không có thụ tưởng mà cũng không phải không có thụ tưởng, chừng nào còn một ai có thể được nhận thức trong cõi chúng sinh được nhận thức — tất cả chúng sinh ấy đều được Ta dẫn đến cõi vô dư y niết-bàn. Dù đã dẫn vô lượng chúng sinh đến niết-bàn như thế nhưng không một chúng sinh nào được dẫn đến niết-bàn cả.
    Vì sao? Tu-bồ-đề, vì được nói rằng: Nếu Bồ Tát còn có thụ tưởng "chúng sinh" thì ông ta không phải là Bồ Tát. Vì sao? Người mang thụ tưởng "tự ngã" — Tu-bồ-đề —, mang thụ tưởng "chúng sinh" hoặc mang thụ tưởng "sĩ phu" hoặc một thụ tưởng "bổ-đặc-già-la", người ấy không được gọi là Bồ Tát.
    2. Hành giả không nên nhìn nhận bất cứ một pháp, một thật thể bên ngoài nào vì hoàn toàn không có một pháp nào có thể được nhận thức cả. Và dĩ nhiên, điều này cũng có giá trị cho một phi pháp.

    पुनरपरं भगवानायुष्मन्तं सुभूतिम्‌ एतदवोचत्‌। तत्‌ किं मन्यसे सुभूते अस्ति स कश्चिद्धर्मो यस्तथागतेनानुत्त ा सम्यक्सम्बोधिरित यभिसम्बुद्धः कश्चिद् वा धर्मस्तथागतेन देशितः।
    एवमुक्त आयुष्मान्‌ सुभूतिर्भगवन्तमे दवोचत्‌। यथाहं भगवन्‌ भगवतो भाषितस्यार्थमाजा ामि नास्ति स कश्चिद्धर्मो यस्तथागतेनानुत्त ा सम्यक्सम्बोधिरित यभिसम्बुद्धो नास्ति धर्मो यस्तथागतेन देशितः।
    तत्‌ कस्य हेतोः। योऽसौ तथागतेन धर्मोऽभिसम्बुद्ध देशितो वाग्राह्यः (vā + agrāhyaḥ) सोऽनभिलप्यः। न स धर्मो नाधर्मः।
    तत्‌ कस्य हेतोः। असंस्कृतप्रभावित ह्यार्यपुद्गलाः।

    Và Thế Tôn lại nói tiếp với Tôn giả Tu-bồ-đề: Ông nghĩ như thế nào Tu-bồ-đề? Có một pháp nào được Như Lai chứng đắc gọi là "Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác" hoặc có một pháp nào đó được Như Lai thuyết hay không?
    Sau khi nghe hỏi như vậy, Tôn giả Tu-bồ-đề ứng đáp Như Lai như sau: Bạch Thế Tôn, như Con hiểu ý nghĩa của những gì Thế Tôn dạy thì không có pháp nào được Như Lai chứng đắc gọi là "Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác", không có một pháp nào đó được Như Lai thuyết dạy cả.
    Vì sao? Vì ngay pháp được Như Lai chứng ngộ và thuyết giảng không thể nắm bắt và không thể thuyết giảng. Nó không phải pháp, cũng không phải phi pháp.
    Vì sao? Vì các thánh nhân xuất hiện trên cơ sở vô vi.
    3. Hành giả không nên để tâm lưu trú ở bất cứ nơi nào.

    तस्मात्तर्हि सुभूते बोधिसत्त्वेन महासत्त्वेनैवमप् तिष्ठितं चित्तमुत्पादयितव यं यन्न क्वचित्प्रतिष्ठि ं चित्तमुत्पादयितव यं न रूपप्रतिष्ठितं चित्तमुत्पादयितव यं न शब्दगन्धरसस्प्रष टव्यधर्मप्रतिष्ठ तं चित्तमुत्पादयितव यम्‌।

    Thế nên, Tu-bồ-đề, Bồ Tát Ma-ha-tát nên phát triển một tâm thức không nương tựa, nên phát triển một tâm thức không nương tựa bất cứ nơi nào, nên phát triển một tâm thức không nương tựa vào sắc, nên phát triển một tâm thức không nương tựa vào thanh, hương, vị, xúc, pháp.
    Tương truyền là khi nghe câu "nên phát triển một tâm thức không nương tựa, nên phát triển một tâm thức không nương tựa bất cứ nơi nào" (Ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm 應無所住而生其心) thì Lục tổ Huệ Năng có ngộ nhập, sau đó đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn thụ giáo.

    Điểm nổi bật của kinh này là cách dùng phương pháp nghịch lí để trình bày vấn đề: Mỗi khái niệm được nêu ra đều có phần đối đãi tương ưng:

    तत्किं मन्यसे सुभूते रूपकायपरिनिष्पत् ्या तथागतो द्रष्टव्यः। सुभूतिराह। नो हीदं भगवन्न रूपकायपरिनिष्पत् ्या तथागतो द्रष्टव्यः। तत्कस्य हेतोः। रूपकायपरिनिष्पत् ी रूपकायपरिनिष्पत् िरिति भगवन्‌ अपरिनिष्पत्तिरेष तथागतेन भाषिता। तेनोच्यते रूपकायपरिनिष्पत् िरिति।
    Tu-bồ-đề, Ông nghĩ thế nào, Như Lai có thể được thấy qua sự toàn hảo của sắc thân? Tu-bồ-đề nói: Thưa Thế Tôn, không thể được như vậy. Như Lai không thể được thấy qua sự toàn hảo của sắc thân. Vì sao? Thế Tôn, sự toàn hảo của sắc thân được Như Lai dạy dưới danh "sự toàn hảo của sắc thân" chính là "phi toàn hảo", thế mới được gọi là "sự toàn hảo của sắc thân".
    Câu kệ cuối bài kinh nguyên văn tiếng Phạn có khác bản dịch của Cưu-ma-la-thập đôi chút. Phạn bản cho 9 vi dụ, trong khi bản Hán chỉ có 6:

    Bản Phạn:

    तारका तिमिरं दीपो मायावश्यायबुद्बु ं। सुपिनं विद्युदभ्रं च एवं द्रष्टव्यं संस्कृतं।
    Như sao đêm, như mắt loạn, như ngọn đèn, như huyễn thuật, như sương mai, như bọt nước, như cơn mộng, như ánh chớp, như đám mây — những gì hữu vi nên được quán chiếu như vậy.
    Bản Hán:

    一切有爲法
    如夢幻泡影
    如露亦如電
    應作如是觀
    Nhất thiết hữu vi pháp
    Như mộng huyễn bào ảnh
    Như lộ diệc như điện
    Ưng tác như thị quán.
    Tất cả các pháp hữu vi
    Như cơn mộng, như ảo ảnh, như bọt nước, như bóng
    Như sương mai, như ánh chớp
    Nên nhìn nhận chúng như thế
    .
    Last edited by Vân Quang; 13-03-2010 at 09:57 AM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  19. #19

    Mặc định

    Thấy huynh GL bàn về "PHẠM TRÙ TƯ TƯỞNG CÓ LIÊN QUAN MẬT THIẾT VỚI TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY VÀ ĐẠO HỌC PHƯƠNG ĐÔNG" Nhờ huynh GL giải thích dùm:

    1) Sự khác biệt giữa thuyết Duy vật Biện chứng và pháp siêu hình? những cái đó có mối liên hệ gì tác động đến lĩnh vực tu hành của các huynh đệ?

    2) theo duy vật biện chứng thì: Vật chất mang yếu tố quyết định điềun này có đúng ko?
    Last edited by Phi Đài; 13-03-2010 at 11:09 AM.

  20. #20

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi dungwind Xem Bài Gởi
    Chắc chắn là gialam trình còn kém, kiếm khách thì theo đạo gia , còn vô thường thì đang lang than trong siêu hình, ha ha ha.
    Gialam CHÂN THÀNH CÁM ƠN SỰ CHỈ GIÁO CUẢ dungwind , mong huynh góp ý thêm .
    Thân ái
    GL

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. "Yoga" hay " Thiền Công "
    By Bin571 in forum Luân xa, Nhân điện, Cảm Xạ, Yoga, Thôi miên học.
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 06-04-2013, 08:40 AM
  2. Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 23-10-2012, 03:05 PM
  3. Những "bịa đặt chết người" trong "Tam quốc diễn nghĩa"
    By Bin571 in forum Lịch sử, giai thoại, truyền thuyết của các nước khác
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 11-08-2011, 07:51 AM
  4. "sự cố" trong lễ hội "linh tinh tình phộc" năm canh dần
    By Bin571 in forum Các bài NC của XUANDIEN70
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 26-07-2011, 08:52 PM
  5. "Bài hát tử thần" Gloomy Sunday (by Rezso Secess)
    By GiGi2 in forum Âm nhạc, Media
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 13-01-2008, 10:21 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •