ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
TÒA THÁNH TÂY NINH
TIỂU SỬ VÀ LỜI THUYẾT ÐẠO
CỦA
ÐỨC THƯỢNG SANH
CAO HOÀI SANG
ÐIỆN THỜ PHẬT MẪU SAN JOSE
Ấn hành lần thứ nhứt tại Hoa Kỳ
Năm Tân Tỵ (2001)
http://www-personal.usyd.edu.au/~cda...sudts/tdts.htm
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
TÒA THÁNH TÂY NINH
TIỂU SỬ VÀ LỜI THUYẾT ÐẠO
CỦA
ÐỨC THƯỢNG SANH
CAO HOÀI SANG
ÐIỆN THỜ PHẬT MẪU SAN JOSE
Ấn hành lần thứ nhứt tại Hoa Kỳ
Năm Tân Tỵ (2001)
http://www-personal.usyd.edu.au/~cda...sudts/tdts.htm
Last edited by mynhan; 01-11-2012 at 06:13 PM.
MỤC LỤC
- Lời trình dẫn
- Phần Thứ Nhứt: Tiểu Sử Ðức Thượng Sanh
- Tiểu sử Ðức Thượng Sanh Cao Hoài Sang
- Ðức Thượng Sanh về cơ sau khi đăng tiên
- Bản tuyên dương công nghiệp Ðức Thượng Sanh
- Các bài điếu văn
- Điếu văn của Ngài Hiến Đạo, đại diện Hội Thánh Hiệp Thiên Đài
- Điếu văn của Ngài Đầu Sư, Chưởng Quản Cửu Trùng Đài Nam Phái
- Điếu văn của Đức Bà Nữ Đầu Sư, Chưởng Quản Cửu Trùng Đài Nữ Phái
- Điếu văn của Hội Thánh Phước Thiện
- Điện văn phân ưu của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa
- Văn tế của Tuyết Vân Mặc Khách, thay mặc Minh Thiện Đạo và Diêu Trì Phái (Sài Gòn)
- Đôi lời tri niệm của Giáo Hội Cao Đài Thống Nhứt Trung Ương
- Diễn từ của Hội Thánh Tiên Thiên
- Phân Ưu của Tỉnh Trưởng Kiến Phong
- Thi Nhóm Phụng Sự Đại Đạo kính điếu
- Giáo Hội Phật Giáo Bửu Sơn Kỳ Hương kính điếu
- Gia đình Cố Bảo Pháp kính điếu
- Hội Văn Hóa Cao Đài kính điếu
- Thuần Phong kính điếu
- Cảm tạ của Hội Thánh Đạo Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Toà Thánh Tây Ninh
Phần Thứ Hai: Các Bài Thuyết Ðạo, Huấn Từ và Diễn Văn của Ðức Thượng Sanh
Phần Thứ Ba: Thi Văn của Ðức Thượng Sanh
Last edited by mynhan; 21-12-2015 at 07:33 PM.
LỜI TRÌNH DẪN
Ðức Thượng Sanh Cao Hoài Sang là một trong ba vị Tướng soái hàng đầu vâng mạng lịnh Ðấng Chí Tôn đến khai mở nền Ðại Ðạo. Ðức Ngài đã lèo lái con thuyền Ðạo vượt qua những cơn phong ba bão táp và đưa đến bờ bến vinh quang. Ngoài việc phát triển cơ Ðạo về mọi mặt, Ðức Ngài còn để lại những lời vàng tiếng ngọc qua những bài Thuyết Ðạo hay diễn từ trong các dịp hội họp của chư Chức sắc và Tín đồ.
Trong khi những Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp đã được HỘI-THÁNH sưu tập và ấn hành cho toàn Ðạo học hỏi, nhưng chưa có công trình nào sưu tập chính thức khá đầy đủ về Ðức Thượng Sanh. May duyên thay, chúng tôi có được một tập đánh máy về các bài thuyết giảng của Ðức Ngài từ ngày Rằm tháng tư năm Ðinh Dậu (14-5-1957) cho đến ngày 22 tháng 3 năm Ðinh Mùi (1-5-1967) do một vị Chức sắc hay Ðạo hữu ẩn danh nào đó thực hiện mà không có ghi lại tên họ. Từ đó chúng tôi nảy sinh ra ý tưởng sưu tập thêm các bài thuyết giảng cũng như các bài thi của Ðức Ngài để in lại thành một tuyển tập.
Chúng tôi lại được một may duyên kế tiếp nữa là mượn được một bộ Ðặc san Thông Tin của Cơ Quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý (Tòa Thánh Tây Ninh) hơn 100 số do gia đình Hiền tỷ Luật Sự Nguyễn Thị Tư Bé mang sang từ bên nhà. Trong đó có nhiều bài thuyết giảng và thi văn của Ðức Thượng Sanh cũng như có diễn tả đầy đủ về Tiểu sử và Lễ Thánh Tang khi Ðức Ngài qui thiên.
Ngoài ra, chúng tôi còn nhận được một số bài thuyết giảng khác của Ðức Ngài do chư Ðồng Ðạo gởi đến.
Chúng tôi thành kính tri ân những vị nêu trên đã giúp chúng tôi hoàn thành tập sách nầy.
Tuy nhiên, chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót, chúng tôi mong rằng sau khi tập sách nầy được ra mắt, chư Ðồng Ðạo sẽ bổ khuyết thêm những phần thiếu sót ấy. Ðồng thời hy vọng nó sẽ làm tài liệu hữu ích cho các công trình nghiên cứu về Ðức Thượng Sanh sau nầy cũng như sẽ được HỘI-THÁNH kiểm duyệt và ấn hành để phổ biến và lưu lại cho mai hậu.
NHÓM THỰC HIỆN
TIỂU SỬ ÐỨC THƯỢNG SANH
CAO HOÀI SANG
Ghi lại cuộc đời của một nhà lãnh đạo tinh thần như Ðức THƯỢNG SANH CAO HOÀI SANG, muốn cho đầy đủ thì phải lắm công phu và cần có đủ thì giờ sưu tầm mới mong hoàn tất.
Ở phạm vi của THÔNG TIN, một khi đã đậy nắp Liên đài của Ngài, soạn giả xin ghi lại một cách trung thực những gì tai nghe mắt thấy của một vị trong ba vị mà buổi ban sơ Ðức CHÍ TÔN đến lập Ðạo. Chúng tôi không dám gọi là hoàn toàn, nhưng nhờ đó quý vị đọc qua thấy điều sơ sót, lần lượt bổ chính thêm cho hoàn mỹ để trang Ðạo sử được dồi dào phong phú hơn.
Nơi đây, chúng tôi xin chia tiểu sử của Ðức Ngài ra làm hai giai đoạn:a)-PHẦN ÐỜI CỦA ÐỨC NGÀI
*/ PHẦN ÐỜI CỦA ÐỨC NGÀI
*/ PHẦN ÐẠO CỦA ÐỨC NGÀI
Ðức Ngài sanh trong gia đình họ Cao. Cụ thân sinh là CAO HOÀI ÂN giúp việc Tòa Án, Cụ bà HỒ THỊ LỰ (tức nữ Ðầu sư HỒ HƯƠNG LỰ).
Sanh ngày 11 tháng 9 năm 1901 (Al, 29 tháng 7 năm Tân Sửu), Tại Thái Bình - Tây Ninh.
Cụ ông và cụ bà sanh được ba người con, gồm 2 trai và 1 gái;
Người anh cả (thứ hai) CAO ÐỨC TRỌNG - Thiên phong TIẾP ÐẠO, là một trong 12 vị Thời Quân Hiệp Thiên Ðài.
Thứ ba: CAO THỊ CƯỜNG (hiện tại- (năm 1971) - là Giáo Hữu CAO HƯƠNG CƯỜNG, Giám Ðốc Cô Nhi Viện Tây Ninh). Ðức Ngài ngôi thứ trong gia đình vào hàng thứ tư. Cụ Ông và cụ Bà là người hiền hậu gia đình nề nếp Nho phong, giàu lòng từ thiện, hay giúp khó trợ nghèo, người tâm đức như thế mới trổ sanh con Thánh.
Ông Cao Hoài Sang học trường Sư Phạm (Ecole Normale) đổ bằng Thành chung, ra làm việc nơi sở Thương chánh Sài Gòn, lần lên đến cấp bậc Tham tá.
Bạn đời của Ông là Bà Võ Thị Giáo, sanh được 9 người con gồm 5 trai và 4 gái:Hiện còn đủ mặt tại thế, đã lập thành gia thất và cũng đang là Quân nhân, Công chức, ngoại trừ Ông Cao Xuân Phong sống độc thân.Cao Hoài Hà,
Cao Thị Ngọc Thanh,
Cao Xuân Phong,
Cao Hoài Thoại,
Cao Thị Ngọc Lan,
Cao Thị Cúc,
Cao Văn Tùng,
Cao Thị Thu,
Cao Minh Tâm.
TÁNH ÐỨC CỦA ÐỨC NGÀI:
Nói đến tánh đức của Ðức Ngài ở trong giới công chức cũng như đồng bào tại Thủ đô đều hiểu rõ thanh danh của Ngài là một bực Công chức thanh liêm cương trực, Ngài đã được bề trên giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, nhưng không vì đó mà hối mại quyền thế, khoát nạt kẻ dưới hoặc bắt ép người khi có việc cần đến phận sự của Ngài. Gặp việc bất bình thì Ngài thẳng thắn hùng biện một cách chuẩn thằng đanh thép mà hàng ngày Ðức Ngài đã mục kiến.
Ngài nhờ ở chốn quan trường, hằng ngày phải chứng kiến những điều tai nghe mắt thấy nhân tâm thế sự mà buồn tủi cho con người, Ngài tìm lãng quên trong các thú phong lưu, khi mượn cung đàn để xuất phát tâm tư ai oán, hoặc lúc kinh phú hòa thơ, mượn hồn thơ tỏ niềm u uất, lại mượn nước trí non nhân gởi hồn cùng phong nguyệt mơ ước thần uy xoay chuyển thế cuộc.
Nỗi niềm ưu hương, ái chủng của Ngài đã thúc đẩy Ngài cần giao du với bạn bè hầu tìm người tri kỷ, tri âm, trong số ấy có Ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc, Võ Văn Sang..v.v...
Vào tháng 6 năm 1925, Ông Cao Quỳnh Cư vô nhà Ông Cao Hoài Sang chơi ở dãy phố hàng Dừa, lối chợ Thái Bình Sài Gòn, thì thấy Ông Phạm Công Tắc cũng có mặt (vì nhà Ông Tắc ở gần đó), Ông Cư rủ hai ông xây bàn chơi, hai ông đồng ý.
Ba Ông đem cái bàn ra, cả ba cùng để tay lên, một lúc sau cái bàn chuyển động, một chơn linh nhập vô, rồi kế một người khác, thôi thì đủ hạng người, viết đủ thứ không đâu ra đâu.
Qua đêm sau, nhằm ngày mùng 6 tháng 6 năm Ất Sửu (dl. 26/7/1925) sắp đặt tổ chức đàng hoàng hơn thì có ông thân của Ông Cao Quỳnh Cư là Cụ Cao Quỳnh Tuân về cho một bài thi bát cú.
Ngày mùng 10 tháng 6 năm Ất Sửu (dl. 30/7/1925) ba ông lại rủ nhau xây bàn nữa, thì một vong linh nhập vô, cái bàn tự nhiên rung chuyển một cách khoan thai uyển chuyển, cho một bài thi:
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai.Ký tên ÐOÀN NGỌC QUẾ.
Ba ông hỏi Cô Ðoàn Ngọc Quế đau bịnh gì mà thác, cô cho hai bài thi tiếp theo:Ba ông mỗi người họa một bài, chúng tôi xin trích lục bài họa của ông Cao Hoài Sang:Trời già đành đoạn nợ ba sinh,
Bèo nước xẻ hai một gánh tình.
Mấy bửa nhăn mày lâm chước quỉ,
Khiến ôm mối thảm lại Diêm đình.
***Người thì ngọc mã với kim đàng,
Quên kẻ dạ đài mối thảm mang.
Mình dặn lấy mình, mình lại biết,
Mặc ai chung hưởng phận cao sang.Từ ấy, ban ngày làm việc tối lại xây bàn, thi qua họa lại. Nhưng trong ba ông chỉ có Ông Cao Hoài Sang và Ông Phạm Công Tắc hoài nghi vấn đề xây bàn. Có một bửa Ông làm sẳn một bài thi Tự Thuật để trong túi, khi vong linh cô Ðoàn Ngọc Quế vô thì Ông nhờ họa.Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai,
Nông nỗi nghĩ thôi tiếc bấy tài.
Ngọc thốt dám bì trang tuấn kiệt,
Vàng rơi riêng chạnh khách chương đài.
Những ngờ duyên thắm trao phòng bích,
Hay nỗi xương tàn xủ giậu mai.
Một giải đồng tâm bao thuở nối,
Nửa chừng xuân gãy tủi thân ai.
Bài thi của Ông Cao Hoài Sang:Cô Ðoàn Ngọc Quế họa nguyên vận:Sầu dài ngày vắn dễ chi vui,
Toan tính thâu đêm ruột rối nùi.
Ngược gió thuyền đầy cơn gió dập,
Xuôi giòng nước lớn giạt bèo trôi.
Bước đường danh lợi thêm gay trở,
Ngảnh lối tang thương luống ngậm ngùi.
Lần lựa xuân hè năm tháng lụn,
Thôi thôi đến thế, thế thì thôi.
Cũng chưa tin, bửa sau bất thần Cơ đang vô, Ông xin ra đề thi: "Tiễn biệt tình lang", Cơ liền cho:Chung tình đoạn gánh khó làm vui,
Lần gỡ chưa xong chỉ rối nùi.
Lời hẹn xưa còn vầng nguyệt chứng,
Hương thề nay thả giữa dòng trôi.
Kim rời cải rụng lòng ngao ngán,
Ðá nát vàng phai dạ ngậm ngùi.
Một khối tuyền đài tình khó dứt,
Ráp gương kiếp khác quyết chờ thôi.
Ngày 4/8/Ất Sửu (21/8/1925)Chia gương căn dặn buổi trường đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
Bước rõ ngùi trông cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.
Ngày chờ mây án ngàn dâu khuất,
Ðêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.
Lần lựa cô phòng xuân thỏn mỏn,
Xa xuôi ai thấu nỗi đinh ninh.Và rồi từ đó, ban ngày tận tụy với công việc, đêm về lại xây bàn để cùng vui thú thi qua họa lại với các vong linh nơi siêu giới mông lung.HỚN LIÊN BẠCH
Ngày 5/8/Ất Sửu (22/8/1925)
THỜI KỲ NGỘ ÐẠO
b)-PHẦN ÐẠO:
Mượn việc thi qua họa lại giữa kẻ dương gian cùng người âm cảnh làm thú tiêu khiển, dè đâu nó lại là đầu mối khơi nguồn để lập thành nền Ðạo ngày nay. Lần lần có các vị Tiên Nương Diêu Trì Cung giáng, cùng Phật Mẫu dẫn dắt. Khoảng tháng 7 có một chơn linh về Cơ xưng là A, Ă, Â cho thi văn dạy Ðạo và các Ðấng Thiêng Liêng cao trọng lần hồi đều có giáng cơ luận Ðạo.
VỌNG THIÊN CẦU ÐẠO:
Ngày 27 tháng 10 Ất Sửu (dl.12/12/1925) Bà Cửu Thiên Huyền Nữ giáng Cơ mách bảo ba ông ngày mùng 1 nầy tam vị Ðạo hữu VỌNG THIÊN CẦU ÐẠO. Ba ông mới bàn với nhau, không hiểu cầu Ðạo là gì mà Bà dạy vậy. Bữa sau ba ông hỏi Thất Nương dạy giùm cầu Ðạo là Ðạo gì?
Thất Nương trả lời : -Không phải phận sự của Em, xin hỏi Ông A Ă Â.
Ngày 29 tháng 10 Ất Sửu, Ông A Ă Â giáng cơ dạy ba ông: Giờ Tý ngày 30 tháng 10 rạng 1 tháng 11 Ất Sửu phải VỌNG THIÊN CẦU ÐẠO, phải tắm gội tinh khiết ra quì giữa trời cầm 9 cây nhang mà vái rằng:
Ba tôi là CAO QUỲNH CƯ, PHẠM CÔNG TẮC, CAO HOÀI SANG vọng bái CAO ÐÀI THƯỢNG ÐẾ ban ơn cho đủ phúc lành, cho ba tôi cải tà qui chánh.
Ba ông nhứt nhứt vâng lịnh Ông A Ă Â làm y như vậy, thì Ðức CAO ÐÀI THƯỢNG ÐẾ giáng cơ: [Ba ông vì không biết chữ Nho, nên không hiểu nghĩa bài thi tứ cú của Ðức Cao Ðài, ba ông mới cầu Ông A Ă Â Ðại Tiên về hỏi cho rõ nghĩa. Ông về cho bài thi tứ cú:Vọng niệm phân thùy sự sự phi,
Cá lý thiên tâm thường thế nhẫn.
Thiên tâm tu hướng cá trung cầu,
Quân vấn thiên tâm mạc tri tường.Ông A Ă Â giáng dịch nghĩa xuôi bốn câu thi của Ðấng Cao Ðài cho:Cứ níu theo phan Ðức Thượng Hoàng,
Tự nhiên tu tánh đặng bình an.
Nguyệt hoa căn tội tua xa lánh,
Vịn lấy nhành dương hưởng đạo nhàn.Rằm tháng 8 năm Ất Sửu (21/10/1925), ba ông thiết lễ HỘI YẾN DIÊU TRÌ tại nhà Ông Cao Quỳnh Cư lần đầu tiên. Ngày thì bận rộn với công việc, tối lại phò cơ phổ độ mãi mãi.Cần ước phần thửa việc việc,
Chẳng phải nơi lẽ Trời lòng thường thế nhịn.
Trời lòng tua ngó theo nơi giữa khẩn,
Bây hỏi Trời lòng chẳng biết rõ.
Nghĩa xuôi:
Việc cầu ước điều chẳng phải,
Mỗi lẽ do lòng Trời phải đợi lịnh,
Lòng Trời tua ngó theo mỗi việc vừa khẩn cầu,
Bây hỏi lương tâm chưa biết rõ sao?
• Trời lòng (Concience)
Ngày 23 tháng 8 Bính Dần (dl. 29/9/1926) Ông Lê Văn Trung vâng Thánh ý của Ðức CHÍ TÔN hiệp với chư Ðạo hữu hết thảy là 247 vị tại nhà Ông Nguyễn Văn Tường, đứng tên vào Tịch Ðạo để khai Ðạo với Chánh phủ. Tờ khai Ðạo đến ngày 1 tháng 9 năm Bính Dần (dl. 17/10/1926), mới gởi lên Chánh phủ, Quan Nguyên soái Nam kỳ là Ông LE FOL. Trong tờ có 28 người đứng tên thay mặt cho cả Ðạo hữu có tên trong Tịch Ðạo, tờ ấy có tên Ông, Ông lại được phân công chung cặp cơ phổ độ với Ông Cao Quỳnh Diêu nơi các tỉnh thuộc Miền Ðông như: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Gia Ðịnh, Biên Hòa, Bà Rịa.
Ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần Lễ Khai Ðạo tại Chùa TỪ LÂM TỰ (Gò Kén) Tây Ninh, Ngày nầy Ðức CHÍ TÔN phong cho Ông chức THƯỢNG SANH một lượt với Ðức HỘ PHÁP Phạm Công Tắc và Ðức THƯỢNG PHẨM Cao Quỳnh Cư.
Ngày 16 tháng 12 Bính Dần (dl. 20/11/1926) Ðức CHÍ TÔN giáng cơ lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Ðài.
Ngày 9 tháng 1 năm Ðinh Mão (dl. 10/2/1927) Ðức LÝ THÁI BẠCH giáng cơ lập Pháp Chánh Truyền Nữ phái.
Ngày 12 tháng 1 năm Ðinh Mão (dl. 13/2/1927) Ðức CHÍ TÔN giáng cơ lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Ðài.
Từ khi dời về Từ Lâm Tự (Gò Kén) Ông thường lên xuống chung lo việc Ðạo, chưa trọn phế Ðời.
Vì lúc mới khai Ðạo mượn Chùa Từ Lâm của Hòa Thượng Giác Hải, sau vị Hòa Thượng nầy đòi chùa lại, nên chi đến ngày 20 tháng 2 năm Ðinh Mão (dl. 23/2/1927) thì được dời chùa về đất mới mua là Tòa Thánh hiện nay.
Khi Ðức CAO THƯỢNG PHẨM bị khảo phải về Thảo Xá Hiền Cung, nỗi niềm ưu Ðạo ái nhơn chỉ gởi vào thi văn, Ðức THƯỢNG SANH nhân dịp đến thăm Ðức THƯỢNG PHẨM có làm bài thi để họa lại bài thi của Ðức CAO THƯỢNG PHẨM.Châu tri số 42 của Thượng Chánh Phối Sư đề ngày 1/2/1932 nói về phận sự hiện thời của Cơ Bút cũng như Chức sắc Hiệp Thiên Ðài theo lời giải của Ðức HỘ PHÁP.Dập dìu nào buổi Thất Tây Ninh,
Hiu quạnh hôm nay ngó rập rình.
Trước Ðiện lai rai ba chú Ðạo,
Sau hiên meo mốc mấy pho kinh.
Rừng xơ vẻ thắm chim khôn đỗ,
Cảnh cũ màu xanh khách biếng nhìn.
Rường cột Ðạo mầu bao thuở dựng,
Sụt sùi để bước khó làm thinh.
Buổi mới lập Ðạo Thánh ý đã định giao trách nhậm Phò loan cho bốn cặp Cơ và mỗi cặp đều có phận sự đặc biệt là:1) HỘ PHÁP và THƯỢNG PHẨM là CƠ LẬP ÐẠO:1)- CƠ LẬP ÐẠO (Enseignement Réligiaux)
2)- CƠ LẬP PHÁP (Législation Sacordoce)
3)- CƠ PHỔ ÐỘ (Prepagande de la Foi)
4)- CƠ BÍ PHÁP CỦA ÐẠO (Enseignements Esotériques)
Tiên khởi Ðức CHÍ TÔN đã dùng đặng rửa lỗi cho chúng sanh xây nền Ðạo, dựng Hội Thánh, lập Tân Luật và Pháp Chánh Truyền mà thể cho Thiên Ðiều và Hiến Pháp Thiên Ðạo. Khi Ðức THƯỢNG PHẨM qui vị rồi, thì Cơ Phong Thánh đã xong phận sự và nền Ðạo cũng đã lập hoàn toàn thì Chức sắc phải chịu luật lệ công cử và duy có tuân y Tân Luật mà đạt lần phẩm vị.
Cho nên về Cơ bút của Cơ Lập Ðạo, tức là Hộ Pháp và Thượng Phẩm, đã trọn vẹn phận sự rồi.
2} HẬU và ÐỨC là CƠ LẬP PHÁP:
Chuyên về Hiến Pháp của Ðạo {Législation Réligieux}
Hiến Pháp của Ðạo là Tân Luật và Pháp Chánh Truyền thì không ai đặng phép canh cải, thêm bớt mà Cơ Lập Pháp không biết và nhứt là không có Hội Thánh Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài công đồng nhìn nhận, cũng như buổi lập Tân Luật Thánh ý đã muốn cho cả Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài phải công đồng nhìn nhận.
3} MỸ NGỌC và SANG là CƠ PHỔ ÐỘ:
Dẫn dắt chúng sanh vào cửa Ðạo.
4} NGHĨA và TRÀNG là CƠ BÍ PHÁP của ÐẠO:
Nhưng hiện thời Tịnh Thất của Ðạo chưa thành lập thì phận sự chưa đến.
Những lời chú thích chép trên đây là do theo lời của Ðức HỘ PHÁP đã giải ngày 21 tháng 3 năm 1932 {Âl, Rằm tháng 2 năm Nhâm Thân} Thành lập Hiến Pháp và Nội Luật Hiệp Thìên Ðài, ban hành do Châu tri số 60 đề ngày 4/12/1932 của Ðức HỘ PHÁP và Quyền GIÁO TÔNG Thượng Trung Nhựt phê kiến.
Phần đông Chức Sắc Hiệp Thiên Ðài là Công Chức ở Sài Gòn, thỉnh thoảng cũng thư từ góp ý về việc Ðạo mà thôi.
Mãi đến năm 1956 (Bính Thân) Ðức HỘ PHÁP bị một nhóm phản đồ về phản loạn Tòa Thánh, Ðức HỘ PHÁP ra đi Campuchea.
Ðức HỘ PHÁP vắng mặt, không người lèo lái con thuyền Ðạo, nên chi Hội Thánh yêu cầu Ðức THƯỢNG SANH về cầm giềng mối Ðạo do vi bằng ngày 10 tháng 3 Ðinh Dậu (dl. 9/4/1957). Ngài triệu tập phiên họp Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài ở Sài Gòn tại nhà Ông Hiến Thế và Ông Bảo Sanh Quân ngày 15 tháng 4 Ðinh Dậu (dl. 14/5/1957) Ðức Ngài và chư vị Thời Quân về Tòa Thánh cầm giềng mối Ðạo. Khi ấy trào Ngô Ðình Diệm nhã ý muốn cho một phái đoàn đưa Ðức Ngài về Tòa Thánh, nhưng Ðức Ngài từ khước, Hội Thánh định rước Ngài bằng một nghi lễ vô cùng long trọng, nhưng Ðức Ngài cũng từ khước luôn.
Kể từ đây Ðức Ngài đã phế đời hành Ðạo, từ ngày về làm Ðạo tính đến ngày Qui Thiên là 14 năm thiếu 20 ngày.
Con thuyền Ðạo đương hồi sóng gió của bạo quyền, nhơn tâm xao động, Ðức Ngài là con người trầm tĩnh, liêm khiết. Nhờ đức trầm tĩnh tùy thời của Ngài trấn an được nhân tâm và uyển chuyển tùy cơ bảo thủ nghiệp Ðạo, mỗi mỗi đều cân nhắc lợi hại nên hư. Với đức thanh liêm đã tiềm ẩn trong con người phi thường ấy, đã làm cho danh Ðạo khỏi hoen ố, mà trái lại còn được đời kính nể là khác.
Thời kỳ Ðức Ngài cầm quyền đã tiếp tục kiến thiết nhà Hội Thánh Ngoại giáo, tức là Hội Vạn Linh bây giờ, làm vòng rào và các cửa. Xây dựng được Văn Phòng Cơ quan Phát Thanh Phổ Thông Giáo Lý, Văn phòng Ban Thế Ðạo, Bắc Tông Ðạo, Ðường Nhơn, Ðầu Sư Ðường, Tần Nhơn, Văn Phòng Ban Chấp Hành Ðại Ðạo Thanh Niên Hội Trung Ương, Học Ðường Bộ Nhạc, Xây cửa Chánh Môn cùng mở Ðại lộ Chánh Môn, ngoài ra Ðức Ngài còn đôn đốc kiến thiết dãy lầu Ðạo Ðức Học Ðường, trường Trung học Lê Văn Trung và hiện đang xúc tiến việc xây cất Ðại Học Ðường của ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ. Lại nữa, Ðức Ngài là một Nhạc sư vào hàng Hậu Tổ, nên chi Ðức Ngài quyết tâm chấn chỉnh Bộ Nhạc theo Thánh ý của Ðức CHÍ TÔN và lời ủy thác của Ðức HỘ PHÁP.
Huấn luyện các Nhạc sĩ nơi Cơ Quan Phát Thanh về Cổ nhạc để bảo tồn quốc hồn quốc túy, viết bài Giáo lý, sáng tác văn nghệ khuyến tu, chấn chỉnh Văn đàn thi thơ.
Như chúng ta thường để ý thì Ðức Ngài ít tiếp xúc với Bổn Ðạo, là áp dụng đúng theo Ðạo nghị định thứ 9 của Ðức HỘ PHÁP và Ðức Quyền GIÁO TÔNG đề ngày 19 tháng 7 năm Quí Dậu (dl. 8/9/1933), nơi điều thứ nhất: Chức sắc Cửu Trùng Ðài từ phẩm ÐẦU SƯ, CHƯỞNG PHÁP, GIÁO TÔNG và Chức sắc Hiệp Thiên Ðài THƯỢNG SANH, THƯỢNG PHẨM, HỘ PHÁP chẳng đặng giao thiệp, hoặc tiếp rước những Chức việc và Tín đồ đến viếng, cùng là tư thông thơ từ chi mà không có Hội Thánh biết. Nên chi có một số không được hài lòng.
Tuổi già sức yếu, việc Ðạo lại quá đa đoan, nên chi Ðức Ngài khởi chứng mất ngủ, lần sang bịnh thận tiểu máu, rồi biến dần đến bịnh trạng huyết áp cao, nhưng nhờ sự chạy chữa tận tình nên Ðức Ngài đã dần dần bình phục. Nào ngờ chỉ một chứng cảm xoàng thôi, đã giúp Ðức Ngài thoát nơi trần lụy mà qui hồi Tiên cảnh.
Vào đầu năm 1964, trước cảnh cơ đời nghiêng ngửa, cửa Ðạo bị ảnh hưởng ít nhiều, khi Ðức Ngài về Sài Gòn thăm gia đình, Ðức Ngài đã sáng tác một bài thơ Tâm Sự gởi lên cho Ngài HIẾN PHÁP H.T.Ð. Chúng tôi xin trích lục nguyên văn bài thơ ấy như sau:
TÂM SỰChất mối sầu tư ruột nát bầm,
Thời thôi đành phải giả làm câm.
Thiệt thòi cam chịu mình đau xót,
Tranh cạnh để chi kẻ hiểu lầm.
Hắc bạch phú cho vầng nhựt nguyệt,
Thị phi chờ thoát bóng quang âm.
Sóng trần bể khổ mây mờ mịt,
Nghĩ nỗi gần xa lệ ứa dầm.Con chim khi chết còn thốt tiếng kêu thảm thiết, con người trước khi thoát xác, để linh hồn hòa đồng cùng Tạo hóa thường cảm ứng; qua các bài sau cũng như bài giảng ngày 24 tháng 12 Canh Tuất và bài Huấn Từ nhân lễ khoản đãi Chức sắc và Ðạo hữu vào dịp đầu Xuân của Hội Thánh Cửu Trùng Ðài nhằm ngày 18 tháng Giêng Tân Hợi.THƯỢNG SANH
tự HUỆ GIÁC
Mới hôm Rằm tháng 3 Ðức Ngài còn dự cúng Ngọ thời tại Ðền Thánh và cũng lo lắng công việc Ðạo như mọi khi, kế đến ngày 21 tháng 3, trước khi về Sài Gòn dưỡng bịnh, Ðức Ngài lại đi thăm các vị yếu nhân trong Ðạo lần cuối cùng, Ðức Ngài nói cùng Ngài KHAI ÐẠO: Anh không đi Pháp là Thiên ý để Anh ở nhà lo công việc cho tôi.
Những ngày cuối cùng của Ðức Ngài tại Tòa Thánh, Ðức Ngài đã họa nguyên vận bài thơ "Giỗ Tổ HÙNG VƯƠNG" của Ngài HIẾN PHÁP, nguyên văn bài họa ấy như vầy:Việt chủng vì chưng rõ gốc nguồn,
Ðua nhau lễ giỗ Ðức HÙNG VƯƠNG.
Tiền nhân bố đức khai cơ nghiệp,
Hậu đại nhớ ơn dựng thổ cương.
Văn hiến tạo nền còn chói rạng,
Lạc Hồng roi giống há khinh thường?
Hiềm đang tranh chấp chia bờ cõi,
Cầu nguyện Bắc Nam hiệp nhứt phương.HUỆ GIÁC
Ðức CHÍ TÔN đến khai Ðạo thì chi Ðạo do Ðức CAO THƯỢNG PHẨM làm cho nổi bậc ánh Ðạo mầu, bứng chồi phá gốc vai tuồng vừa xong thì Ðức Ngài Qui Tiên.
Kế thời kỳ chấn hưng Ðạo pháp, Ðức HỘ PHÁP cầm quyền chi Pháp, Pháp luật đâu vào đấy được nghiêm minh, tạo qui củ chuẩn thằng cho cả Hội Thánh, gầy dựng khối đức tin cho nhơn loại, Ðạo có tiếng vang khắp năm châu bốn bể, tôn chỉ của Ðạo Ðức Ngài phát huy vừa xong thì Ðức Ngài Qui Thiên.
Tiếp tục vai tuồng chi Thế do Ðức THƯỢNG SANH cầm quyền, Ðời loạn chi Thế nắm quyền đã đúng Thiên cơ dĩ định, nguồn gốc của sự loạn là tham dục, thời kỳ Ðức Ngài cầm quyền nhận xét rõ ra thì chính Ðức Ngài đã đè nén tham dục con người không dấy động. Ðức CHÍ TÔN dạy: "Quỉ vương chỉ kiên oai HỘ PHÁP, THƯỢNG PHẨM và THƯỢNG SANH mà thôi".
Ðức Ngài thường chỉ dùng hai bút hiệu là HUỆ GIÁC và THANH THỦY để ký các sáng tác phẩm của Ðức Ngài.
Ðể kết luận, chúng tôi xin lấy đôi liễn Ðức THÁI THƯỢNG đã cho Ðức THƯỢNG SANH (Thanh Thủy) như sau:
- THANH BẠCH VẸN LÒNG VÌ TRỜI MỞ ÐẠO VỮNG PHONG CƯƠNG
- CHÁNH TRỰC GÌN TÂM CẢI THẾ DÌU NHÂN LÒA BÍCH THỦY.
(Hai câu đối nầy do Ngài BẢO SANH QUÂN Lê Văn Hoạch nói ra ghi lại).
Nghiệp Ðạo đến thất ức niên, nhơn tài còn lắm, trước qua sau tới, bảo thủ cây cờ Ðạo được rạng rỡ năm châu, khắp cùng thế giới là sứ mạng của người Tín hữu Cao Ðài.
Tận tụy với Ðạo nghiệp của CHÍ TÔN, gian nguy chẳng quản, bần khó không đổi chí, đức MINH CANG LIÊM KHIẾT luôn vằng vặc như trăng Thu, lo Ðạo hơn lo cho thân mình, thân thể của mình gắn liền với Ðạo.
Ðược vậy là chúng ta đã đền đáp công ơn của chư vị tiền bối nói chung và Ðức Thượng Sanh nói riêng đã dầy công khai sáng nền ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ và cũng là để báo hiếu cho CHÍ TÔN, PHẬT MẪU./.
(Trích Ðặc San Thông Tin số 28, ngày 19/5/1971)
Chào mừng chư Chức Sắc Thiên Phong, chư Ðạo Hữu Nam Nữ.
Bần Ðạo lấy làm vui sướng được thoát nơi trần lụy. Cái kiếp phù sanh của con người chỉ có giải thoát được là quí hơn hết.
Hôm nay Bần Ðạo đến để thỏa mãn sự yêu cầu của quý vị.
Bần Ðạo không có điều gì hay hơn là bài Thi đã cho lúc Bần Ðạo tái thủ phận sự, nhưng xin sửa lại hai câu đầu như vầy:
THI
Từ lúc đưa tay nắm Ðạo quyền,
Nguyện đem thi thố tấm trung kiên.
Kỳ dư đều để y như cũ.
Bần Ðạo còn rất nhiều Ðạo sự không tiện ở lâu. Xin kiếu.
THĂNG.
BÀI THÀI
Từ lúc đưa tay nắm Ðạo quyền,
Nguyện đem thi thố tấm trung kiên.
Ðộ đời quyết lánh vòng danh lợi,
Trau chí tìm roi bậc Thánh hiền.
Từ ái làm nền an thổ võ,
Ðức ân dụng phép tạo nhơn duyên.
Những mong huệ trạch trên nhuần gội,
Sứ mạng làm xong giữ trọn nguyền.
THƯỢNG SANH
Ðàn cơ kết thúc vào lúc 21 giờ trong đêm.
(Những ngày tiếp theo sau, Hội Thánh đã cho phổ biến Ðàn cơ nầy, có khoảng 20.000 bản quay Ronéo phát không cho Bổn Ðạo dự Thánh tang...)
BẢN TUYÊN DƯƠNG CÔNG NGHIỆP
Ðức THƯỢNG SANH
Chưởng Quản Hội Thánh HIỆP THIÊN ÐÀI
Của Ngài Hiến Pháp Hiệp Thiên Ðài đọc tại Ðền Thánh ngày 4/4/Tân Hợi
***
Kính thưa Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện,
Kính chư Chức sắc, Chức việc và toàn Ðạo Nam, Nữ.
Ðức THƯỢNG SANH CAO HOÀI SANG, CHƯỞNG QUẢN HỘI THÁNH HIỆP THIÊN ÐÀI TÒA THÁNH TÂY NINH đã qui Thiên hồi 17 giờ ngày 26 tháng 3 Tân Hợi (21/4/1971), hưởng thọ 71 tuổi.
Tin buồn nầy làm chấn động cả các giới trong toàn quốc nói chung và toàn Ðạo Cao Ðài nói riêng.
Thánh thể của Ðức Ngài đang quàn tại Tòa Thánh Tây Ninh chờ đến ngày mùng 6 tháng 4 Tân Hợi, nhằm 30/4/1971(dl.) sẽ cung nghinh Liên Ðài kỵ Long Mã di chuyển theo lộ trình trong châu vi Tòa Thánh và sau khi đại diện các Hội Thánh đọc ai điếu xong, lễ cung nghinh Liên Ðài nhập Bửu Tháp sẽ cử hành y theo chương trình của Hội Thánh đã lập mà toàn Ðạo đều hiểu biết.
Nhơn cuộc lễ nầy tôi xin tuyên dương công nghiệp của Ðức Ngài về cả hai phương diện Ðạo lẫn Ðời.Về mặt Ðời:Ông CAO HOÀI SANG (tên họ của Ðức Ngài) sanh ngày 11 tháng 9 năm 1901 (dl.) tại Thái Bình (Tây Ninh) con của Ông Cao Hoài Ân, giúp việc Tòa án và Bà Hồ Thị Lự. Khi trưởng thành và thi đậu bằng Thành Chung trường Trung học Chasseloup-Laubat, Ông vào giúp việc Sở Thương Chánh Sài Gòn cho đến khi gặp Ðạo.
Nói đến Ông ai ai trong giới công chức và đồng bào tại Thủ Ðô đều hiểu rõ thanh danh của Ông là một nhà công chức đúng mực thanh liêm.
Là một chí sĩ thương dân yêu nước, Ông thường giao du cùng các bạn đồng chí khác như hai Ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc chẳng hạn. Cả ba Ông là nhạc sĩ lừng danh trong giới âm nhạc tại Thủ Ðô Sài Gòn, hai Ông Cư và Sang được coi như bậc Thầy trong giới nầy, sau khi Ông Cư đăng Tiên rồi, thì Ông Sang được coi như bậc HẬU TỔ. Ban Âm nhạc Ðạo Cao Ðài đã nhờ Ðức Ngài chấn chỉnh rành mạch thêm, nhứt là trong điệu Cổ nhạc vì Ðức Ngài là nhà điêu luyện rành nghề. Mất Ðức Ngài, giới Âm nhạc trong toàn quốc nói chung và trong Ðạo Cao Ðài nói riêng đã mất một Nhạc sư cự phách, đáng tiếc thay!Về mặt Ðạo:Ðến năm Ất Sửu (1925) là lúc phong trào Xây bàn hay sai ma cũng vậy, đang thạnh hành tại Thủ Ðô Sài gòn, Ông hiệp cùng hai Ông CAO QUỲNH CƯ và PHẠM CÔNG TẮC mỗi đêm đến chơi tại nhà Ông Cao Quỳnh Cư, tức CAO THƯỢNG PHẨM để thỏa mãn tánh hiếu kỳ của mình bằng cách xây bàn để tiếp xúc với những người khuất mặt ở thế giới bên kia (hồn linh).
Một hôm nọ vào lúc tháng 7-1925, Ông CAO QUỲNH CƯ đến nhà Ông CAO HOÀI SANG chơi lại gặp Ông PHẠM CÔNG TẮC cũng ở gần nhà Ông SANG, ba Ông mới hiệp nhau xây bàn chơi.
Bất ngờ cuộc chơi nầy hướng dẫn ba Ông đến chỗ lập được kỳ công trong việc khai sáng Ðạo Trời, tức là ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ mà chúng ta sùng bái đây.
Ðêm 24 tháng Chạp 1925 (dl.) nhơn dịp lễ Giáng Sinh, tại nhà Ông CAO QUỲNH CƯ có mặt cả ba Ông được Ðức CHÍ TÔN giáng với danh hiệu A Ă Â cho một bài thi như vầy:Ðức CHÍ TÔN dạy thêm: "Ðêm nay phải vui mừng vì chính ngày nay, Ta xuống trần dạy Ðạo bên Thái Tây (Europe)."Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên".
Ta rất vui lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta như vầy.
Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta.
Giờ ngày gần đến, đợi lịnh nơi Ta.
Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa".
Sau đó ít lâu Ðức CHÍ TÔN cho bài thi sau nầy, lấy tên những người có mặt tại Ðàn Cơ, trong đó có tên Ông SANG (tức Ðức THƯỢNG SANH):12 chữ lớn trong ba câu trên là tên của 12 môn đệ đầu tiên của Ðức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ.CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành.
HẬN ÐỨC TẮC CƯ thiên địa cảnh,
HƯỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh.
Sở dĩ phải xen đoạn Ðạo sử nầy vào cuộc đời của Ðức THƯỢNG SANH là vì Ông còn đang giúp việc trong công sở nhà nước Pháp mà Ông vẫn nghe theo tiếng gọi Thiêng Liêng cứ mỗi đêm hiệp cùng các bạn Ðạo đi chấp cơ truyền bá Ðạo Trời ở khắp mọi nơi mặc dù nhà cầm quyền Pháp rất để ý đến Ðạo Cao Ðài lúc sơ khởi. Chúng ta nên nhớ rằng: Ðức THƯỢNG SANH là một tay chấp cơ truyền Ðạo cũng như Ðức HỘ PHÁP và Ðức THƯỢNG PHẨM luôn luôn cả ba Ông đồng tâm hiệp lực nhau để phổ độ chúng sanh trong toàn quốc.
Trong tờ khai Ðạo cùng Chánh quyền Pháp năm 1926, Ðức Ngài cũng ký tên với 28 người khác để thay mặt cho tất cả 247 người Ðạo Hữu có tên trong Tịch Ðạo, do ông cựu Thượng nghị viện LÊ VĂN TRUNG đứng đầu tờ khai Ðạo, Ông nầy sau đắc phong QUYỀN GIÁO TÔNG ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ. Ông nầy cũng do Ðức HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC, Ðức THƯỢNG PHẨM CAO QUỲNH CƯ và ÐỨC THƯỢNG SANH CAO HOÀI SANG dẫn độ.
Nhờ sự hướng dẫn đắc lực của Ông Thượng Nghị Viên nầy với sự cộng tác của ba vị kể trên mà cơ phổ độ phát triển quá mau lẹ, kỳ công nầy, một phần lớn là nhờ Ðức THƯỢNG SANH hy sinh đời công chức mình để đi phổ độ các nơi trong toàn quốc. Cơ phổ độ lục tỉnh phân ra như sau:
1) Ông CAO QUỲNH CƯ và PHẠM CÔNG TẮC phò loan phổ độ trong các tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên, Châu Ðốc, Hà Tiên, Rạch Giá.
2) Ông NGUYỄN TRUNG HẬU và TRƯƠNG HỮU ÐỨC phò loan phổ độ các tỉnh: Chợ Lớn, Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Bến Tre.
3) Ông CAO QUỲNH DIÊU và CAO HOÀI SANG phò loan phổ độ các tỉnh: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Gia Ðịnh, Biên Hòa, Bà Rịa, Sa Ðéc.
Ngoài công việc phò cơ phổ độ các tỉnh kể trên, Ðức THƯỢNG SANH còn tùy lúc rảnh ban đêm, lên Gò Kén, chùa Từ Lâm để hiệp cùng Ðức HỘ PHÁP và Ðức THƯỢNG PHẨM để chấp cơ phổ độ và đồng thời lo việc Khánh Thành Thánh Thất Từ Lâm Tự, sau nầy được dời về làng Long Thành, tức Tòa Thánh hiện giờ.
Ngày 26 tháng 10 năm Bính Dần Ông CAO HOÀI SANG, đắc phong THƯỢNG SANH một lượt với Ðức HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC và Ðức THƯỢNG PHẨM CAO QUỲNH CƯ. Ngày 12 tháng 1 năm Ðinh Mão (dl. 13/2/1927) sau khi lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Ðài, Ðức CHÍ TÔN giáng dạy như vầy:
"Hiệp Thiên Ðài là nơi Thầy ngự, cầm quyền Thiêng liêng mối Ðạo, hễ Ðạo còn thì Hiệp Thiên Ðài vẫn còn.
Thầy đã nói Ngũ Chi Ðại Ðạo lại qui phàm vì khi trước Thầy giao Chánh giáo cho tay phàm, càng ngày càng xa Thánh giáo mà lập ra Phàm giáo, nên Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy dỗ các con mà thôi, chớ không chịu giao Chánh giáo cho tay Phàm nữa.
Lại nữa, Hiệp Thiên Ðài là nơi của Giáo Tông đến thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên thế giái, Lục thập bát địa cầu, Thập điện Diêm cung mà cầu siêu cho cả nhơn loại
Thầy đã nói sở dụng Thiêng Liêng, Thầy cũng nên nói sở dụng phàm trần của nó nữa.
Hiệp Thiên Ðài dưới quyền HỘ PHÁP Chưởng Quản,
Tả có THƯỢNG SANH,
Hữu có THƯỢNG PHẨM.
Thầy lại chọn Thập Nhị Thời quân, chia ra làm ba:
Phần của HỘ PHÁP Chưởng Quản CHI PHÁP;
Lo bảo vệ Luật Ðời và Luật Ðạo, chẳng cho ai qua Luật mà Hiệp Thiên Ðài chẳng biết. THƯỢNG PHẨM thì quyền về phần Ðạo: Lo về phần Ðạo nơi Tịnh Thất, mấy Thánh Thất đều xem sóc chư môn đệ Thầy, bênh vực chẳng cho ai phạm luật đến khổ khắc cho đặng.
THƯỢNG SANH thì Chưởng Quản CHI THẾ lo về phần Ðời.
Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành Ðạo. Thầy cho các con biết trước rằng, hễ trọng quyền thì ắt có trọng phạt".
Từ đây về mặt hữu hình ba vị Chưởng Quản tối cao của Hội Thánh Hiệp Thiên Ðài không còn nữa, sau khi Ðức THƯỢNG SANH Qui Thiên, và Ðạo CAO ÐÀI mất thêm một bậc vĩ nhân nữa.
Từ khi trở về tái thủ phận sự nơi Tòa Thánh, Ðức THƯỢNG SANH đã tìm đủ mọi phương pháp để đem lại sự điều hòa trong cửa Ðạo cho toàn Ðạo được hưởng thái bình hạnh phúc.
Những tưởng Ðức Ngài đến với sứ mạng Thiêng Liêng để hoàn thành cơ nghiệp Ðạo, thì chắc là Ðức Ngài phải được sống lâu với Bổn Ðạo để bảo tồn đại nghiệp Ðạo đến cùng.
Nào ngờ đâu! Ta muốn vậy mà Trời chưa cho vậy.
Than ôi! Thiên số nan đào! Tuy sự mất còn là định mệnh, nhưng đối với kiếp sanh của con người sao khỏi đau lòng lúc tử biệt sanh ly.
Kính thưa quý vị!
Chúng ta đã từng khóc nhiều rồi cho số kiếp ngắn ngủi của nhiều bậc Tiền bối chúng ta. Tuy nhiên chúng ta cứ khóc đi cho đến cạn khô giọt lệ, rồi cũng phải nghĩ lại Ðạo nghiệp, nước nhà mà tự trấn tỉnh lấy tâm hồn, để tìm phương bảo tồn đại nghiệp Ðạo và tiếp tục sứ mạng Thiêng Liêng của chúng ta, vì sứ mạng ấy dầu lớn dầu nhỏ, dầu quan trọng hay không cũng là sứ mạng do Ðức CHÍ TÔN cùng các Ðấng Thiêng Liêng giao phó cho chúng ta, phải tùy khả năng mình mà làm cho hoàn thành.
Ðã đành rằng chúng ta phải thương tiếc một Ðấng lãnh đạo anh minh như Ðức THƯỢNG SANH, nhưng thương tiếc bao nhiêu thì phải noi gương của Ðức Ngài bấy nhiêu để gặt hái được một phần công quả nào hữu ích cho Ðạo và cho chúng sanh nhờ. Ðó là sự đền đáp công ơn của bậc tiền bối chúng ta đã dầy công xây dựng, lưu lại một sự nghiệp vĩ đại cho chúng ta thừa hưởng. Chớ không lẽ ngồi khóc hoài để nhìn sự sụp đổ trước mặt chúng ta sao?
Vậy chúng ta hãy đứng lên! Và đồng tâm hiệp lực, tiếp tục xây đắp nền Ðạo cao thêm mãi để khỏi phụ ơn của tiền nhân chúng ta.
Trước khi dứt lời, tôi xin thành tâm cầu nguyện Ơn Trên ban phước lành cho toàn thể quý vị và quý quyến, tôi xin nghiêng mình trước Liên Ðài của Ðức THƯỢNG SANH, và thành tâm cầu nguyện cho Anh linh Ðức Ngài được cao thăng, sau nữa xin chơn thành phân ưu cùng tang quyến./.
Nay kính.
HIẾN PHÁP H. T. Ð.
ÐIẾU VĂN của NGÀI HIẾN ÐẠO
Ðại diện HỘI THÁNH HIỆP THIÊN ÐÀI
Ðọc trước LIÊN ÐÀI ÐỨC THƯỢNG SANH
***
Kính thưa Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện.
Kính thưa Quý Ðại diện Tôn giáo,
Kính thưa Quý Quan khách,
Kính thưa Quý vị Chức sắc, Chức việc và chư Tín hữu Nam Nữ.
Trời Tây Ninh, mây áng sao mờ,
Vùng Thánh Ðịa, hoa sầu cỏ úa.
Bốn mươi sáu năm tuổi Ðạo,
Ðức THƯỢNG SANH cỡi hạc qui Thiên.
Ðã biết sanh là ký tử là qui, lại có câu tử sanh hữu mạng, nhưng ai còn ở thế, còn mang xác trần, gặp cơn vĩnh biệt ngàn năm, sao cho khỏi bồi hồi trong dạ, vừa thấy đó, bỗng đâu mất đó, hình bóng còn đây mà người hãy về đâu?
Nhớ xưa, Ðức THƯỢNG SANH cũng như hầu hết các anh em trong Thập Nhị Thời Quân đều là công chức, hằng ngày phải đi làm việc để nuôi lấy gia đình. Mặc dầu Ðức CHÍ TÔN đã chọn lọc từng người, nhưng ai cũng như ai, còn nặng nợ trần, nên Ðức Ngài cũng không làm gì khác hơn là, vừa làm việc Ðạo vừa lo gia đình, chưa có thể ly gia cắt ái, chuyên lo việc Ðạo, tách rời gia đình được. Trải bao nhiêu năm dài đăng đẳng, Ðạo có những lúc thăng trầm, những hồi biến cố, những cơ thử thất, Ðức Ngài vẫn giữ một niềm tin tưởng mãnh liệt, bền dạ sắt son, trước sau như một.
Ngày lụn tháng qua, tuổi xế bóng chiều, Ðức Ngài xin về trí sĩ, an dưỡng cảnh nhàn, vui thú cầm thi. Nhưng Lòng người dầu muốn, Trời nào đã cho.
Ðạo gặp phải cơn khảo đảo trầm trọng, khuynh nguy như con thuyền chơi vơi mặt biển, giữa sóng ba đào. Ðức HỘ PHÁP lưu vong nước ngoài. Tín hữu Cao Ðài trong vùng Thánh địa không người lãnh đạo, chiu chít như gà.
Ðức THƯỢNG SANH về hưu chưa được bao lâu, chưa mảy may hưởng thú thanh nhàn, nghe tiếng gọi Thiêng Liêng, nguyện hy sinh, xả thân hành Ðạo, quyết ra tay lái con thuyền qua cơn sóng gió. Ấy là hồi đen tối nhứt của ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ TÒA THÁNH TÂY NINH. Rất may thay! Khi nên Trời cũng chìu người, Ðức Ngài mạnh dạn đứng ra cứu vãn tình thế rối ren, vẹt lối chông gai, đánh tan đám mây mù, chuyển họa vi cường, Ðạo mới qua khỏi cơn bỉ cực. Trong 14 năm công nghiệp, Ngài tiếp tục công trình chư Thánh, cầm giềng mối Ðạo dìu dắt nhơn sanh trên bước đường lập công bồi đức. Chí cương quyết làm tròn nghĩa vụ, không có gì lay chuyển tấm trung kiên. Ðức Ngài rất thận trọng, dè dặt từ lời nói đến việc làm, việc gì cũng xem xét tỉ mĩ, kỹ cang trước khi thi thố. Ðối đãi với mọi người giữ niềm hòa ái, bao giờ cũng lấy lòng thành thật, cung kỉnh, dùng lời nói dịu hiền, không chê bai cũng không khinh rẻ ai, lấy từ ái, vun trồng cội đức, dụng nghĩa ân để tạo duyên lành.
Những tưởng người dường ấy, đức dường ấy, Ơn Trên còn lưu lại trần gian để gần gũi chúng ta, khuyến khích và chỉ bảo chúng ta trên bước đường tu học. Nào dè đâu, cõi Thánh sớm gọi về làm cho chúng ta phải xa lìa người hướng dẫn.
Kính bạch Ðức THƯỢNG SANH,
Hôm nay, Ðức Ngài đã làm xong sứ mạng được đắc kỳ sở nguyện, nhờ ơn trạch Ðức CHÍ TÔN. Cửa Ðạo rày vắng bóng Ðức Ngài, nhưng Ðức Ngài vẫn sống trong tâm hồn của muôn vàn Tín hữu! Ðức Ngài mất cũng như còn.
Trong giờ phút nghiêm trọng nầy, chúng tôi thay mặt Hội Thánh Hiệp Thiên nghiêng mình trước Liên Ðài để vĩnh biệt Ðức Ngài an giấc ngàn thu.
Sau cùng chúng tôi thành thật chia buồn cùng tang quyến.
NAM NÔ CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
ÐIẾU VĂN của NGÀI ÐẦU SƯ
CHƯỞNG QUẢN CỬU TRÙNG ÐÀI NAM PHÁI
thay mặt Hội Thánh Cửu Trùng Ðài, đọc trước
LIÊN ÐÀI ÐỨC THƯỢNG SANH.
Tại Bửu Tháp hồi 12 giờ ngày mùng 6 tháng 4 Tân Hợi
(dl. 30/4/1971)
Kính thưa Hội Thánh Lưỡng Ðài: Hiệp Thiên, Cửu Trùng, Phước Thiện,
Kính Quý Ðại diện Tôn Giáo,
Kính Quý Ngoại giao đoàn,
Kính Quý Quan, Quý Khách,
Kính Quý Chức sắc, Chức việc, Ðạo Hữu Lưỡng phái,
Kính Tang gia hiếu quyến,
Kính Quý liệt vị,
Hôm nay ngày mùng 6 tháng 4 Tân Hợi (30/4/1971) Thánh Lễ Liên Ðài Ðức THƯỢNG SANH nhập Bửu Tháp được cử hành vô cùng trang nghiêm, trọng thể.
Nhân danh ÐẦU SƯ Chưởng Quản Cửu Trùng Ðài Nam phái thay mặt Hội Thánh Cửu Trùng Ðài tôi xin nghiêng mình bái kỉnh trước Liên Ðài Ðức Ngài và có đôi hàng thành tâm ai điếu chia buồn cùng Tang quyến, và để tiễn đưa Ðức Ngài qui hồi Tiên cảnh.
Hỡi ôi!!!
Biển Phật mưa tuôn!
Non Tiên gió thoảng!
Cuộc dương thế sanh sanh, hóa hóa,
Kiếp trần gian hiệp hiệp, tan tan,
Ðò Tạo hóa rước đưa người quá vội,
Ôi! Cảnh biệt ly chi xiết mối sầu tư,
Tình đồng Ðạo biết bao niềm thống thiết.
Nhớ linh xưa;
Ðức THƯỢNG SANH thế danh CAO HOÀI SANG, gia đình nề nếp, tánh đức hiền lương, lòng công bình trên dưới ngợi khen, tâm chánh trực tha nhân đều sùng kính.
Khi gặp buổi sanh linh đồ thán, cảnh nước nhà điêu đứng khuynh nguy, lòng Ðức Ngài cương quyết chọn đường đi, theo nẻo Ðạo, quên thế đời vật chất.
Với thiên tính thiện lương, ôn hòa, đức độ.
Lòng thương đời như bể rộng, ái vật tợ sông sâu, nuôi chí lớn nguyện bắc cầu cứu nhân độ thế.
Ðêm ít ngủ ngày chẳng buồn ăn, những tìm phương cứu nước, giúp dân, lòng mong mỏi giải nàn sanh chúng.
Hoài bão lớn, lý tưởng cao siêu, nhưng ngặt nỗi không cơ thực hiện.
Nỗi đau cắt ruột,
Niềm ái rạt rào,
Bóng thời gian chớp nhoáng qua mau.
Tâm sự vẫn ủ màu chua xót.
Năm Ất Sửu (1925) hiệp cùng Ðức HỘ PHÁP và Ðức THƯỢNG PHẨM chung lập Ðàn Cơ, quyết cầu Tiên học hỏi đường tu, hầu cứu vớt nhơn sanh qua bờ Bỉ ngạn.
Việc làm tuy không dè, nhưng xuất bởi chí thành, nên đã trùng hợp với Thiên ý; thuận với Thiên thơ, Ðức CHÍ TÔN liền giao phó trọng trách hoằng khai ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ, lo cứu vớt 92 ức nguyên nhân qui hồi cựu vị.
Thế rồi, trong các Ðàn Cơ kế tiếp, Ðức Ngài được Thiên phong phẩm THƯỢNG SANH, Chưởng Quản Chi Thế Hiệp Thiên Ðài, chấp Cơ phổ độ chúng sanh, rồi mãi đến năm Ðinh Dậu (1957) Ðức Ngài được Hội Thánh mời về cầm giềng mối Ðạo, Ðức Ngài đã đem hết chí nhiệt thành gìn giữ Ðại nghiệp, một phút chẳng lãng xao, lòng quyết dù tròn Thiên mạng. Trải bao cảnh biến thiên, quốc gia gặp hồi gió lốc, Ðức Ngài đã lèo lái thuyền từ một cách vững vàng và bảo toàn được con cái Ðức CHÍ TÔN qua những hồi gian truân thử thách. Ðức khiêm tốn của Ðức Ngài sáng ngời như nhựt nguyệt, khi thành công không tự mãn, lúc trở ngại chẳng sờn lòng, một mực trì chí kiên tâm trước sau như nhứt.Vì Ðạo Thầy hiến trọn thân tâm,Ðức Ngài triều Thiên hồi 16 giờ 45 ngày 26 tháng 3 Tân Hợi (dl. 21/4/1971), hưởng thọ 71 tuổi, gieo vào lòng Hội Thánh và toàn Ðạo một nguồn bi thương dào dạt như muôn lượn sóng trùng dương.
Dù thịt nát xương tan chẳng ngại,
Mười lăm năm lận đận lao đao,
Chịu trăm đắng ngàn cay không đổi.
Lời thị phi gác bỏ ngoài tai,
Tiếng phải trái không màng bày giải.
Nên ngọc dầu tan, vẻ trắng nào phai,
Vườn trước dầu cháy, tiết ngay vẫn để.Than ôi! Ðất Tây Ninh giăng phủ mây sầu,Từ đây nơi cửa Ðạo tuy vắng bóng Ðức Ngài, nhưng bước Ðạo xin có Thánh tay Ngài dìu dắt, chiếc thuyền từ thuận gió lướt dòng khơi, nền Ðại Ðạo sớm hoằng khai khắp trong bốn bể.
Vùng Thánh Ðịa bao trùm gió thảm.
Những tưởng tuổi Ngài còn hưởng thọ,
Nào hay đâu sớm vội về Tiên,
Ðể Ðạo hữu bơ vơ chiu chít.
Ôi! Bát Nhã thuyền chờ,
Bồng lai cảnh đợi.
Thảm là thảm mười lăm năm lo Ðạo,
Bỏ ngủ, quên ăn, khiến bịnh phát sanh.
Thương là thương bảy mươi mốt tuổi già,
Tóc đã bạc mà Ðạo tâm không mỏi.
Giờ đây!Hiển linh chứng chiếu!
Mây phủ trăng lờ, sao sa đêm tối.
Kinh Bạch Ngọc Ngài về chốn cũ,
Giấc chiêm bao vắng bóng ngàn năm,
Chốn hồng trần đồng Ðạo còn đây,
Sầu ly biệt chia lòng trăm mối.
Ðường Tiên Ðạo xin Ngài chỉ lối,
Dìu đàn em vững bước trọn niềm tin.
Lo lập đức bồi công trở về ngôi vị cũ.
Thật trước cảnh nầy,
Âm dương lưỡng lộ, Tiên tục đôi đường,
Não nùng thay toàn Ðạo thở than, thống thiết bấy Tín đồ tang chế.
Người tuy mất, nhưng phương danh không mất,
Xác dù tan, nhưng chí cả không tan,
Máy Tạo còn, Ðại Ðạo vẫn còn,
Xin bảo hộ cơ nghiệp nầy bền vững,
Nguyện linh hồn an bước Tiên du,
Chầu Ðế Khuyết nghìn thu toại hưởng.
Hỡi ôi! Thương thay! Tiếc thay!
CHƯỞNG QUẢN CỬU TRÙNG ÐÀI NAM PHÁI
ÐẦU SƯ
THƯỢNG SÁNG THANH
ĐIẾU VĂN của ÐỨC BÀ NỮ ÐẦU SƯ
đọc trước LIÊN ÐÀI ÐỨC THƯỢNG SANH
Kính Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện,
Kính Quý Quan khách và Ðại diện các Tôn giáo,
Kính toàn thể Chức việc, Ðạo hữu lưỡng phái,
Kính tang gia hiếu quyến và thân bằng.
Kính thưa toàn thể Quý liệt vị,
Ðứng trước Liên Ðài Ðức THƯỢNG SANH Chưởng Quản Hiệp Thiên Ðài, trước một đại tang của toàn thể môn sinh Ðức CAO ÐÀI NGỌC ÐẾ, Bần Nữ nhân danh đại diện cho Nữ phái Cửu Trùng Ðài, xin có đôi lời trạng tỏ lòng luyến tiếc xót thương một Chức Sắc Ðại Thiên phong, từ lúc nền Ðạo mới phôi thai, đã vì Thầy vì Ðạo, vì thương xót chúng sanh, nên từ năm Ất Sửu (1925) đã khổ công hiệp sức cùng Ðức HỘ PHÁP và Ðức THƯỢNG PHẨM, tạo dựng nền Chánh giáo làm tướng soái cho Ðức THƯỢNG ÐẾ giáng cơ dạy Ðạo, hầu cứu vớt sanh linh đang đắm chìm nơi sông mê bể khổ.
Nhớ thuở ban đầu, Ðức THƯỢNG SANH đã cùng với hai Ông HỘ PHÁP, THƯỢNG PHẨM hiệp nhau xây bàn, vọng Thiên cầu Ðạo, cho đến khi có lịnh trên chỉ dạy sử dụng Ngọc Cơ, rồi thọ lịnh chia nhau phổ độ khắp Lục tỉnh, cùng đứng tên Khai Ðạo với Chánh phủ Pháp vào ngày 23 tháng 8 năm Bính Dần (dl. 29/9/1925). Nhứt nhứt mọi việc khó khăn trong buổi ban đầu, đều có tay của Ðức THƯỢNG SANH hiệp sức chung lo nền Ðạo.
Ðức CHÍ TÔN đã ra Thánh chiếu cho Ðức Ngài hiệp với Ông CAO QUỲNH DIÊU (Bảo Văn Pháp Quân) là cặp Phò loan cho CHÍ TÔN giáng cơ phổ độ chúng sanh vào cửa Ðạo tại các tỉnh: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Gia Ðịnh, Biên Hòa, Bà Rịa và Sa Ðéc. Ðến ngày Rằm tháng 3 năm Bính Dần (1926) được Ðức CHÍ TÔN phong THƯỢNG SANH cùng một ngày với HỘ PHÁP và THƯỢNG PHẨM.
Nhờ chí hy sinh khi ấy của Ðức Ngài, nhơn sanh mới được gội nhuần ân giáo hóa mà sớm gặp mối Ðạo Trời.
Ðến lúc sau nầy, khi thuyền Ðạo gặp buổi chinh nghiêng, Ðức HỘ PHÁP qui Thiên nơi Miên Quốc, nền Ðạo thiếu người lèo lái con thuyền Bát Nhã lắm chịu sóng dập gió dồi bao phen lắc lẻo, nhơn sanh không biết nương nơi đâu tìm cơ giải khổ, thì Ðức Ngài chẳng nệ khổ nhọc nguy nan, tái thủ Ðạo quyền, đưa tay giữ lái con thuyền Ðại Ðạo, lướt qua bao sóng to gió lớn, lần lần đem vào bến vinh quang, dẫn dắt chúng sanh an vui trên nẻo Ðạo cho đến ngày hôm nay đã trót 45 năm dư.
Nay bỗng nhiên Ðức Ngài vội trở về Tây vức, thật một tin sét đánh bất ngờ, là một niềm đau vô biên cho toàn thể Chức sắc đến chư Tín hữu trong cửa ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ.
Thật vậy đây là một cái tang chung cho toàn thể con cái của Ðức CHÍ TÔN. Quý liệt vị thử nhìn xem toàn Ðạo khi hay tin Ðức Ngài thoát xác, đều tự động về Tổ đình chầu lễ Qui Thiên và xin cùng Hội Thánh thọ tang Ðức Ngài, đủ nói lên tấm lòng mến tiếc xót thương Ðức Ngài như thế nào rồi.
Bần Nữ chỉ minh xác thêm một điều để Quý liệt vị nhận thức thêm, là:
Một nguyên căn thọ mạng NGỌC HƯ hạ trần cứu thế khi đã làm xong sứ mạng đắc lịnh triệu hồi, thì việc cổi bỏ xác trần vẫn được nhẹ nhàng qui hồi Tiên cảnh. Tuy Ðức Ngài có ngọa bịnh, nhưng đã giảm thuyên, Bần Nữ nhớ ngày 21 tháng 3 Âm lịch vừa qua Ðức Ngài có đến thăm Bần Nữ và khuyên Bần Nữ hãy rán tỉnh dưỡng để lo cho cơ Ðạo lớn lao, Ðức Ngài cho biết, Ðức Ngài về Sài Gòn ít hôm sẽ trở về Tòa Thánh, nào hay đâu đó là lời dặn bảo cuối cùng và là lần thăm chót của Ðức Ngài nơi cõi Thế đối với Bần Nữ.
Ðức Ngài đăng Tiên lẽ dĩ nhiên nơi cửa Ðạo từ đây vắng bóng hình, sao khỏi ngậm ngùi thương xót đau buồn, ấy là thường tình thế sự. Nhưng dầu đau xót buồn thương cũng phải nén tấc lòng, mừng cho Ðức Ngài đã giải thoát khỏi cảnh trần tục lụy, chỉ thành tâm cầu nguyện Ơn Trên hai Ðấng Từ Bi đưa linh phan tiếp rước Ðức Ngài càng cao thăng Thiên vị, hầu nơi cõi Thiêng Liêng đủ quyền năng xoay chuyển cơ đời sớm gội nhuần huệ trạch Trời ban, hạnh hưởng cảnh an cư lạc nghiệp, thoát khỏi vòng nghiệt chướng, chấm dứt đao binh, nhơn loại sớm hiệp Ðại Ðồng trong cảnh Trời Nghiêu Ðất Thuấn.
Kính thưa toàn Ðạo, kính thưa Tang quyến,
Trước cảnh sanh ly tử biệt, ai chẳng đau lòng, nhưng cái chết của Ðức Ngài đây chỉ là việc cổi bỏ xác trần, chớ chơn linh vẫn trường tồn nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Chúng ta có thương tiếc Ðức Ngài, không chi hơn là nhớ đến công ơn dạy dỗ, dắt dìu lẽ đạo, dẫn từ bước, nhắc từ lời, chỉ mong mỏi cho đàn em để trọn tấc lòng an vui bước Ðạo, hầu gội nhuần ân đức Từ bi.
Nhớ công ơn không chưa đủ, mà toàn Ðạo cũng như quý tang quyến, nên noi theo gương hạnh của Ðức Ngài nơi cửa Ðạo để lập chí cho đúng theo những lời dạy bảo của Ðức Ngài khi còn tại thế. Ấy là làm vui lòng Ðức Ngài nơi cảnh Thiêng liêng, mà rồi đây, nơi cõi vô hình với sứ mạng làm chủ Chi Thế Ðức Ngài sẽ đủ quyền năng cầu xin xoay chuyển cơ đời, phù hộ cho toàn Ðạo, Ðời, và sanh chúng sớm hưởng cảnh thái bình an cư lạc nghiệp.
Công nghiệp cũng như ân đức của Ðức Ngài không sao tả xiết, Bần Nữ chỉ tỏ lên mấy lời xin toàn Ðạo và Quý tang quyến gẫm suy.
Bần Nữ thay mặt cho toàn thể Nữ phái kính lời chia buồn cùng tang quyến, đây là lời phân ưu theo lẽ thế tình, chớ nơi cửa Ðạo là mừng Ðức Ngài đã xong phận sự tại thế. Thiên mạng đã tròn, nay được hưởng hồng ân chan rưới, là điều quí báu vô giá không chi sánh kịp.
Bần Nữ kính chào toàn thể Quý vị.
NAM MÔ CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT
CHƯỞNG QUẢN CỬU TRÙNG ÐÀI NỮ PHÁI
NỮ ÐẦU SƯ
HƯƠNG HIẾU
ÐIẾU VĂN của HỘI THÁNH PHƯỚC THIỆN
Ðọc trước Bửu Tháp Ðức THƯỢNG SANH
ngày 6/4/Tân Hợi (dl. 30/4/1971)
Kính bạch Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện,
Kính Quý Quan khách,
Kính Quý Ðại diện các Tôn Giáo,
Kính chư Chức sắc và toàn Ðạo Nam Nữ,
Ô hô!
Thiên tải vân du du.
Tam kỳ phong cấp cấp.
Lôi Âm Cổ vang rền nơi Thánh Ðiện,
Giục người về kịp buổi Triều Thiên.
Bạch Ngọc Chung chấn động cõi Trần ai,
Rước khách đến nhập cung Bạch Ngọc.
Sớm, đất Thánh giăng giăng mưa bụi,
Lướt thướt mảnh khăn sô.
Chiều, Trời Tây thảm thảm mây mù,
Lê thê màu tang tóc.
Nhớ Linh xưa!
Mấy mươi năm ngược xuôi miền hoạn lộ,
Ðủ kinh bang xây dựng quê hương.
Trọn một đời chen rắp chốn phồn hoa,
Dư tế thế chiêu an chủng tộc.
Nhất kiên Minh nguyệt quằn gánh đồ thơ,
Lưỡng tụ Thanh phong nặng bồ văn học.
Sanh gặp thời rối loạn thuần phong,
Sống phải lúc dẫy tràn bại tục.
Ngao ngán nhẻ, vết hồng trần cấu,
Vui mệnh Trời vui kệ vui kinh.
Nặng nề thay, đỉnh bạc lộc quan,
Buồn vận nước, buồn nghiên buồn bút.
Ô Hô!
Sông núi Tiên Rồng vẫn đó!
Nhơn sanh nhà cửa điêu tàn.
Cơ đồ Ðại Ðạo còn đây!
Ðền Ðiện nếp tòa ngang dọc.
Ngài bao nỡ!
Nương Ðài sen thẳng chốn Ðào nguyên.
Kỵ Long Mã dạo miền Tây vức.
Hay giận kẻ bất thành bất tín,
Lên Thiên tiên luyện phép trường sinh.
Hay ghét phường vô đức vô nhân,
Về Bạch Ngọc tấu trình quốc sự.
Hoặc buồn điều kiết hung họa phúc,
Luật huyền vi chưa thấy xử phân.
Hoặc hờn năm Hợi, Tuất, Dậu, Thân,
Quỉ chinh chiến vẫn còn thống ngự.
Mà Ngài vội!
Xếp đồ thơ bặt dấu trần ai;
Ném huệ kiếm đoạn trang Ðạo sử.
Ôi!
Nỗi bi thảm nhơn sanh khôn diễn bằng ngôn ngữ.
Mối ai hoài Chức sắc khó gợi hết thi thơ.
Thôi từ đây Tiên, Tục ngăn bờ,
Lã chã tuôn đôi giòng lụy cảm.
Âu hẳn đó tử, sanh gieo thảm,
Thắt quặn tan vạn mảnh lòng son.
Chữ nghĩa nhân chưa được vuông tròn.
Ðường Ðạo Ðức biết ai dìu dắt.
Thơ năm vận dở dang bình trắc.
Ðờn bốn dây nức nở cung thương.
Giòng Ngọc Tuyền ngan ngát hơi hương,
Phượng hoàng bay vút cánh!
Dãy Nho lâm tờ mờ phong cảnh,
Long Mã thảm lê chân.
Khách nguyên nhân vui nước trí non nhân.
Hồn linh hiển cầu xin về chứng giám.
Kính dâng một vần thơ:
Thoang thoảng nòi hương tập Ðại thành,
Loang trong Trần cấu hóa tinh anh.
Vạn mùi tục lụy xa Trung giới,
Tứ khổ trầm luân biệt THƯỢNG SANH.
Hoa vướng hài Tiên, vân diểm diểm,
Liễu vờn suối ngọc, thủy thanh thanh.
Hồn thơ nay lắng niềm u uất,
Thoang thoảng nòi hương tập Ðại thành.
Hởi Ôi!
Thương thay! Tiếc thay!
Chưởng Quản HỘI THÁNH PHƯỚC THIỆN
CHƠN NHƠN
(Ký tên đóng dấu)
LÊ VĂN TRUNG
VĂN TẾ ÐỨC THƯỢNG SANH
của TUYẾT VÂN Mặc Khách
thay mặt MINH THIỆN ÐẠO và DIÊU TRÌ PHÁI (Sài Gòn)
Hỡi ôi!
Chòm mây bạc bao trùm chót đỉnh,
Trận giông tuôn, mây chập chùng bay;
Ðám sương mù che phủ cội cây,
Ánh nắng tỏa, mây tan tác rả,
Bóng quang âm vãng lai thắm thoát,
Kiếp phong trần nhìn rất đau lòng;
Vầng nhựt, nguyệt xoay chuyển không ngừng,
Kiếp phù thế nghĩ càng não dạ!
Công xây dựng, phô trương cũng lắm,
Khó lướt qua mầu nhiệm Trời cao;
Cuộc tạo gầy, tô điểm đã nhiều,
Nào qua khỏi diệu huyền Tạo hóa?
Những tưởng may mắn vui mừng nhìn Bạch Mai rực rỡ cảnh Ðông Xuân,
Nào dè lại rủi ro, thống thiết thấy Huỳnh Cúc phai tàn kỳ Thu, Hạ,
Ðời chinh nghiêng, người nhiệt thành, thiện chí sao bổng lìa thế tình cờ?
Ðạo rời rạc, bậc chơn thành, từ tâm lại đành tách trần vội vã.
Nhớ Linh xưa!
Nho nhã thái độ đáng gương,
Ðậm đà tác phong cao giá!
Lễ, Nghĩa tròn, tánh chất hể hồ trong,
Trí, Nhơn vẹn, tâm trung dường biển cả.
Trong gia đình, kỷ cương vẹn vẻ, đối thê nhi trọn hạnh lương nhơn,
Ngoài xã hội, trật tự điều hòa, cùng bằng hữu nêu gương tín giã
Giòng gia đạo, cang thường tròn xử, thương thê nhi giáo hóa bền lòng,
Mối xã giao, luân lý vẹn gìn, mến đạo hữu, tiếp giao thật dạ
Mùi vật chất, lưỡi kia từng trải nếm, ngán cuộc đời ít sự chơn thành,
Khối tinh thần, lòng nọ đẳng đeo mang, buồn tình thế nhiều cơn lộng giả.
Ngày qua, tháng lại, bước thênh thang tìm thú thanh nhàn,
Nay nhục, mai vinh, lòng phóng khoáng tránh vòng cương tỏa.
Lòng mộ Ðạo, đã kỉnh tin Ðại Ðạo, tụng Chơn Kinh Di Lạc, lẽ thật vẫn suy tầm,
Dạ thương đời sùng bái Ngọc Hoàng, nghiệm Hiệp Tuyển Thánh Ngôn, lý mầu hằng khám phá,
Lòng mến Ðạo, quyết bồi xong căn quả, trước Thiên Ðài đã thọ sắc Cha Trời.
Dạ chán Ðời, lo dứt sạch nghiệp duyên, nơi Toà Thánh quyết khuếch trương Ðạo cả.
Chiều kinh, sớm kệ, quyết cận kề Ðạo chánh, lý chơn,
Nay nhục, mai vinh, cam xa lánh danh cương lợi tỏa.
Ðạo thanh tịnh càng hòa trí tuệ, ẩn rừng thiền nương cội Từ bi,
Ðời phồn hoa không hạp tâm linh, lìa bể hoạn, lánh vòng xa mã.
Phế nhơn sự treo gương thanh bạch, tỉnh quần linh thoát cảnh Ái hà,
Tùng Ðạo Trời, chiếu ánh quang minh, đưa sanh chúng lên thuyền Bát Nhã.
Góp tư tưởng Ðại Ðồng thực hiện, Ðạo Cao Ðài tận tụy bao nài,
Ðem đức tin chơn giáo khai thông, Cơ Di Lặc lao công chi sá.
Ðời đương lúc phân vân Tâm, Vật, hiện tại mất THƯỢNG SANH biện bác sự thực, hư.
Ðạo gặp cơn nan giải Lý, Tình, tương lai không THƯỢNG SANH phân minh điều cao, hạ.
Tình tri kỷ, THƯỢNG SANH hằng biểu lộ, quyết liên tình mong cơ Ðạo hoát khai,
Nghĩa Ðại Ðồng, Bần Ðạo vẫn tạc ghi, đương hiệp chí, bổng kiếp đời tàn tạ!
Chơn truyền Minh Ðức phổ thông Ðạo lý, THƯỢNG SANH tán thành để làm sách khai thông,
Nhơn đạo thực hành truyền bá Nho Tông, Bần Ðạo hiệp dâng, hầu tạo nguồn thanh nhã.
Tai Chung Tử chực lắng tiếng diệu huyền, trầm mặc, giọng từ bi rất khoan nhặc êm đềm;
Ðờn Bá Nha khéo lên dây Lưu thủy, cao sơn, hơi bác ái càng dịu dàng tao nhã.
Bần Ðạo quyết giải bày ý kiến, nguồn Minh Ðức quyết đem truyền bá, rung chuông cảnh tỉnh, cố duy trì Ðạo Ðức nhơn sanh,
THƯỢNG SANH toan chấn chỉnh cơ quan, mối Tân Dân hằng cố bảo tồn, gióng trống giác mê toan thức tỉnh tinh thần thức giã
Nhưng hôm nay:
Bóng Nguyệt thố khuyết mờ,
Cánh Liên hoa rời rã!
Gia đình đó, thê nhi còn đó, THƯỢNG SANH đành xa lìa để hiu quạnh gia trung,
Toà Thánh kia, Ðạo hữu còn đây, THƯỢNG SANH vội rời tách bỏ lặng tờ Ðạo xá.
Truyền Ðạo lý, chương trình kia chưa kết liễu, THƯỢNG SANH sao đành bỏ dở cuộc thức tỉnh Ðời tàn?
Tạo Qui nguyên, công cuộc nọ sắp khởi đoan, THƯỢNG SANH sao nỡ buông lơi việc phổ thông Ðạo cả?
Ðạo sắp thành, nhân tài cần thắng số, sao bậc chí thành lại xa Ðạo lẹ làng?
Ðời chưa định, Hiền sĩ phải tăng gia, mà người chánh trực đành lìa đời nhanh quá!
THƯỢNG SANH còn đó, chỉnh giềng sửa mối, chốn Tổ đình phần Ðạo hữu vững vàng,
THƯỢNG SANH tách đi, ủ cội, yếu nguồn, nơi Giáo hội số môn sanh buồn bã!
Buồm Phổ tế, dây lèo ai nắm, giữ cho tròn nghĩa vụ chấn hưng,
Thuyền độ điều, tay lái ai nâng? làm đặng vẹn công trình cao nhã.
Ôi!
Nước chảy hoa trôi,
Gió tuôn, mây rả!
Trời Ðiện Bà, mây u buồn, vần vũ, Trời phủ che hồn phách bậc tâm trung,
Ðất Tây Ninh, cảnh hiu quạnh, im lìm, Ðất vội lấp mảnh hình người chí cả.
Nhà còn đó, vợ con còn đó, THƯỢNG SANH đành nhẹ bước đường Tiên,
Cảnh còn đây, dâu, rể vẫn còn đây, THƯỢNG SANH lại vội xa chơi cảnh lạ.
Bóng quang âm vi vút, trăm năm ôm hận biệt ly,
Hồn kim cổ mơ màng, gang tấc, không phương xướng hoạ.
Lầu Huỳnh Hạc, giọng Tiên đã đứt, ngón tơ đồng thôi trổi khúc tri âm,
Khe Bạch Nhàn, tiếng én nỉ non, duyên kim cải hết bày lòng thân giả.
Tiếc là tiếc buổi phong đồi, tục mỵ, vắng chuông ngân cảnh tỉnh cuộc mê say,
Hờn là hờn cơn Ðạo trể, Ðời suy, rơi bút sắt phê bình điều cao hạ.
Ðời đương cảnh phân vân Tâm, Vật, sao mà bớt người biện bạch thực hư;
Ðạo giữa cơn nan giải Lý, Tình, bổng lại mất bậc phân minh chơn giả.
Những ngỡ sống nhiều năm thêm nữa, để làm gương cho nghĩa bạn mến thương,
Nào hay vương một phút phi thường, đành biệt thế, để tình người não dạ.
Gia môn dạ tiệc, chén rượu đưa đường ly biệt, nghĩa chia phôi, người ra đi chơn bước ngập ngừng!
Ðạo xá trường đình, cành liễu tiển dặm quan hà, đành đoạn dứt, kẻ ở lại lệ rơi tầm tả!!
Nơi Tòa Thánh hoa sầu cỏ ủ, tuồng thê lương như hoài cảm THƯỢNG SANH mờ dạng đường xa,
Chốn Tổ đình mõ sớm, chuông chiều, cảnh buồn tẻ, dường cảm thông THƯỢNG SANH biệt hình cõi lạ.
Tiếng dế sầu đêm vắng tiếng não nùng như khóc điếu HỘ PHÁP ÐƯỜNG xưa, vì THƯỢNG SANH chẳng còn bước đến Thánh Tòa,
Hơi gió rít ngày buồn, hơi thảm thiết tợ than sầu HỘ PHÁP ÐƯỜNG cũ, bởi THƯỢNG SANH đã dứt sang qua bờ Ðạo xá,
Hay là lánh thế đồ khắc khổ, tròn quả công, xác thân vùi Thánh địa đời đời,
Chắc là tìm Lạc cảnh tiêu diêu, dứt sứ mạng, Chơn linh đáo Thiên đàng vội vã.
Nơi Kim Khuyết hầu trình Từ Phụ, cầu rỗi dùm Ðạo hữu kiếp căn,
Chốn Phật Ðài bái yết Như Lai, minh biện hộ nhơn sanh nghiệp quả,
Ba chung rượu cầu hồn về tịnh độ, vái chơn linh trực đáo cảnh tiêu diêu,
Một nén hương vái vía được siêu thăng, vái phách quế qui hồi miền Thiên xá.
Hỡi ôi! Thương thay!
Phục duy thượng hưởng.
Thay mặt MINH THIỆN ÐẠO
và DIÊU TRÌ PHÁI (Sài Gòn)
Huy lụy kỉnh điếu.
ÐÔI LỜI TRI NIỆM của GIÁO HỘI CAO ÐÀI
THỐNG NHẤT TRUNG ƯƠNG
Ðọc trước LIÊN ÐÀI ÐỨC THƯỢNG SANH
ngày 5/4 /Tân Hợi
***
KÍNH THƯA: Linh hồn ÐỨC THƯỢNG SANH,Giáo Hội CAO ÐÀI THỐNG NHẤT TRUNG ƯƠNG. Nhân danh Phó Chưởng quản đặc trách Hiệp Thiên Ðài, đứng trước Linh sàn nghiêng mình tỏ đôi lời hoài niệm, trong khi Linh hồn của Ðức Ngài đã trở về ngôi vị.
Kiêm CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ÐÀI ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
TÒA THÁNH TÂY NINH.
Thưa Hội Thánh và tang quyến.THƯA ÐỨC NGÀI: CHƯỞNG QUẢN HIỆP THIÊN ÐÀI.Thuyền Ðại Ðạo sắp đến bến qui nguyên, Ðức Ngài là người Anh Cả tiếp tục đầy sáng suốt hiện thân Ðức Ðông phương tại thế, để tiếp xúc huyền linh mà lập nền Chánh pháp, hầu bảo tồn cơ phổ hóa. Vì có câu:
HỄ ÐẠO CÒN THÌ HIỆP THIÊN ÐÀI VẪN CÒN.Nay Ðức Ngài đã tròn xong sứ mạng, phục vị Tiên bang, chúng em lấy làm vui mừng, tạo lễ mọn đến đây để tưởng niệm và tiển đưa phần xác thịt của Ðức Ngài về nghỉ an nơi lòng đất.
Nay Ðức Ngài đi, chúng em nguyện một lòng nối chí người Thiên mạng, bởi còn xác thịt tại trần quyết noi gương tiếp tục sự nghiệp H.T.Ð., do nơi Ðức Ngài trước kia đào tạo lưu tồn, hầu làm một kỷ niệm bất di, do Ðức Ngài đã dày công di sản.
Trên mảnh đất nầy vùi lấp biết bao xác thân bậc vĩ nhân, đã từng xướng minh nhiều Giáo lý. Xác thân người đã chết, nhưng phần linh hồn, theo lịch sử mãi sống còn trên thế gian, như trong cửa Ðạo./.
KÍNH DÂNG.
Sài Gòn, ngày 5/4 /Tân Hợi (29/4/1971)
HUỆ ÐĂNG
HỘI THÁNH TIÊN THIÊN
Tòa Thánh Châu Minh, Tiên Thủy, Kiến Hòa
Số:__/HT/TT.
TIÊN THIÊN ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
Năm Ðạo thứ 46
Công Bình Từ Bi Bác Ái
Tòa Thánh, ngày 2/4/Tân Hợi (dl. 26/4/1971)
DIỄN TỪ đọc trước Cửu Trùng Thiên, ngày Thánh Lễ Ðức THƯỢNG SANH, 5/4/Tân Hợi tại Tòa Thánh Tây Ninh
Kính thưa Quý Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ Tòa Thánh Tây Ninh.
Kính thưa Quý Quan khách,
Kính thưa Quý Ban Tổ chức Thánh lễ CAO THƯỢNG SANH.
Thưa Quý vị,
Ngày giờ nầy, trước Cửu Trùng Thiên, trước Liên Ðài Anh lớn CAO THƯỢNG SANH, chúng tôi Phái đoàn đại diện Hội Thánh Tiên Thiên Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đồng chung bước đến đây cùng phân ưu với Quý Hội Thánh ngày Anh lớn CAO THƯỢNG SANH qui Thiên...! Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh mất một phẩm tước Hiệp Thiên Ðài cao trọng, toàn thể Tín hữu Cao Ðài mất một người Anh lớn quí mến; cơ lập giáo CHÍ TÔN tại trần đã khuyết đi một Tông đồ THƯỢNG ÐẾ gắn liền với lịch sử Ðại Ðạo từ buổi sơ khai.
Và ngày giờ Anh lớn cố THƯỢNG SANH cao thăng Thiên vị, nhân danh phái đoàn đại diện Hội Thánh Tiên Thiên, thay mặt toàn thể Tín hữu Tiên Thiên, đồng đốt nén hương bái nguyện trước Liên Ðài để tỏ chút tình quí mến người Anh đã tròn Thiên mạng và đổi cảnh lãnh phần vô vi chuyển hóa hộ trì Hội Thánh hữu hình đài, chuyển cơ tâm mọi phận sự đồng tinh tấn cơ qui nguyên Thống Nhất Ðại Ðạo.
Kính bạch Anh lớn CAO THƯỢNG SANH,
26 tháng 3 ngày lành tháng tốt, Hội Thánh Tiên Thiên chúng em y lịnh phục hồi Tòa Thánh Tiên Thiên Châu Minh, ngày đánh dấu giai đoạn mới, chúng em đang vui mừng hòa hợp, đồng quyết phát huy cơ Ðạo Tiên Thiên hầu tròn sứ mạng Thiêng liêng giao phó một Chi Phái Ðạo Trời. Bỗng nhiên nghe tin Anh lớn qui hồi Thiên vị thì hàng hàng lớp lớp nhơn sanh Tiên Thiên đều trầm ngâm ứa lệ vì cảm xúc, và trong cảm nghĩ mọi người lần lượt nói lên lời luyến tiếc người Anh trong hàng Thập nhị môn đồ CHÍ TÔN buổi khai Ðạo; mối tình thiêng liêng ấy, ai là người vì Thầy vì Ðạo lại không kính mến nhớ ơn...Hơn nữa, là người Anh đã dầy công giúp Ðạo, gầy dựng cơ đồ điểm tô đại nghiệp, từng bước hành trình đều gắn liền lịch sử Cao Ðài; một Thiên tướng Ngọc Kinh tá trần đã làm sáng danh hàng lãnh đạo tinh thần Tân Tôn giáo Cao Ðài trước quốc dân và quốc tế, đã từng chịu trách nhiệm bảo thủ Ðền Thánh duy nhứt tại Thánh Ðịa, buổi Tam Kỳ bao trùm đại nghiệp Ðạo... của toàn thể Tín hữu Cao Ðài (không phân biệt Chi phái) đồng góp công của mua sắm tạo nên từ thuở.
Giờ đây, không biết nói chi hơn, Phái đoàn đại diện Hội Thánh Tiên Thiên nguyện cầu Ðại Từ Phụ ban hồng ân, ban lịnh cho Anh lớn đắc kỳ sở nguyện hằng tá cơ dạy đạo, hộ độ chúng em hành tròn Thiên mạng nối chí tiền nhân, và phần vô vi chuyển hóa hộ trì vạn linh, Anh lớn hãy chuyển cơ tâm tất cả đồng ý thức được ngày qui nguyên thống nhất Ðạo Trời, sớm chung bước lập công phát huy Tân Tôn giáo buổi Tam Kỳ Phổ Ðộ hoằng hóa Ngũ châu để được nền Hòa bình thế giới sớm vãn hồi hầu thể hiện đầy đủ ý nghĩa hai câu liễn buổi khai Ðạo trước Ðền Thánh.
Ðược vậy, Cao Ðài giáo mới tròn câu phổ độ.
Lòng luyến tiếc rất nhiều, công trình Anh lớn kể sao cho xiết, mà ngày giờ có hạn, Trước Liên Ðài khói hương nghi ngút, chúng em đồng đẳng đốt nén hương tâm nguyện người Anh quá cố hãy chứng tri.
Ðồng lễ bái./.
PHÁI ÐOÀN ÐẠI DIỆN GIÁO HỘI TIÊN THIÊN
KHÓC ÐỨC THƯỢNG SANH
THI thố ân ban vẹn cuộc đời,
NHÓM truyền đạo lý, trí không ngơi.
KHÓC than chủng tộc tranh hư vị,
ÐỨC bố nhân sinh gọi cạn lời.
THƯỢNG lệnh CHÍ TÔN đà định quyết,
SANH quyền Phật Mẫu hẳn thu hồi.
QUI nguyên tam phẩm nơi cung ngọc,
THIÊN địa u sầu, lệ thảm rơi!
THI NHÓM PHỤNG SỰ ÐẠI ÐẠO
(Cao Lãnh - Kiến Phong)
KÍNH CHÚC HƯƠNG HỒN CỤ THƯỢNG SANH
CAO HOÀI SANG Tiêu diêu miền lạc cảnhCụ đã soi gương sáng sự lành
THƯỢNG tên Ðại Ðạo được nêu danh
SANH ra cõi thế đời oanh liệt
CAO đức hy sinh chí nhiệt thành
HOÀI vọng nhân loài qua bến giác
SANG sông phổ độ đến quang vinh
ÐẮC công lưu để nghìn thu rạng
QUẢ đạt vẹn toàn tạc sử xanhGIÁO HỘI PHẬT GIÁO BỬU SƠN KỲ HƯƠNG VIỆT NAM
(đóng dấu)
Tu sĩ NGUYỄN TẤN ÐẶT
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
Năm thứ 46
***
KÍNH VIẾNG GIÁC LINH ANH LỚN THƯỢNG SANH
-Ðất nước cảnh loạn ly, cơ đời khi biến động, Anh Lớn vội qui Tiên, nguồn phổ độ, đất Tây Ninh, rạng rỡ ngàn năm, ngui ngút tiền nhân công sáng tạo.
-Ðạo Trời cơ khảo thí, vận hội buổi sơ khai, ân dày từng giáo huấn, kẻ hậu sinh, nền Giáo thuyết, vun bồi một thuở, ngậm ngùi thế hệ bậc tiền phong.
Sài Gòn, cuối Xuân Tân Hợi
HỘI VĂN HÓA CAO ÐÀI KÍNH ÐIẾU
KÍNH ÐIẾU GIÁC LINH CAO HOÀI SANG Hiền hữu
Sét đâu bổng đánh, lụy rưng rưng!
Tin báo xem qua những ngập ngừng.
Bút ngọc dây đồng ngơ ngẩn ngón,
Ðài sen cánh hạc vội vàng chưn.
Ðàn tao đã bặt tay hòa xướng,
Nền đạo còn mong bậc đỡ nưng.
Hai cõi dầu nay đành cách trở,
Bên mình như vẫn hiện âm dung.THUẦN PHONG
CẢM TẠ
HỘI THÁNH ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ
TÒA THÁNH TÂY NINH,
chân thành cảm tạ:Hội Thánh và Tang quyến vô cùng cảm động tri ân Quý vị đã đến phúng điếu và tiển đưa Liên Ðài Ðức THƯỢNG SANH chúng tôi vào Bửu Tháp.
-Tổng Thống VIỆT NAM CỘNG HÒA và Phu nhân,
-Phó Tổng Thống VIỆT NAM CỘNG HÒA và Phu nhân
-Ðại Tướng DƯƠNG VĂN MINH và Phu nhân, cùng Phái đoàn,
-Chủ Tịch Tối cao Pháp diện và Phái đoàn,
-Chủ Tịch Thượng nghị viện và Phái đoàn,
-Chủ Tịch Hạ Nghị viện và Phái đoàn,
-Thủ Tướng Phu nhân và Phái đoàn,
-Quý Ðại diện Ngoại giao đoàn,
-Quý Quốc vụ khanh và Phái đoàn,
-Quý vị Tổng Bộ Trưởng Chánh phủ và Phái đoàn,
-Trung Tướng Tư Lịnh Quân Ðoàn 3, và Quý Tướng Lãnh trong Phái Ðoàn,
-Quý Ðại Tá, Trung Tá Tỉnh trưởng thuộc Quân khu 3,
-Quý Thượng Tọa Phái đoàn Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhứt (Ấn Quang)
-Ðức Tăng Trưởng Lâm Em,
-Hòa Thượng Viện trưởng Viện Hóa Ðạo Phật giáo Việt Nam Thống Nhứt, (Việt Nam Quốc Tự),
-Thượng Tọa Trưởng giáo Théravada,
-Cụ Phó Hội trưởng Trung ương và Phái đoàn Phật giáo Hòa Hảo,
-Hòa Thượng Pháp chủ và Quý Thượng Tọa Tổng giáo hội Phật Giáo Việt Nam,
-Quý Linh Mục Phái đoàn Công giáo Việt Nam,
-Hội Ðồng Tôn giáo Trung ương,
-Ngài Giáo chủ Bửu Sơn Kỳ Hương và Phái đoàn,
-Quý Hội Thánh các Chi ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ,
-Ông Chánh Án Tây Ninh và Phái đoàn,
-Trung Tá Tỉnh Trưởng, Hội đồng tỉnh, Quận Trưởng và các Trưởng Ty, Sở tỉnh Tây Ninh,
-Quý Ðại diện các đoàn thể Chánh trị,
-Quý Thân hào, Nhân sĩ, Luật sư, Bác sĩ, Kỹ sư và Quý Hiệp hội Công, Thương, Kỹ nghệ gia,
-Quý Ðại diện Báo chí và Nhiếp ảnh,
-Quý Thân hữu thuộc 28 Quốc gia bạn, cùng 184 Thân hữu ở Quốc nội đã có Ðiện tín phân ưu,
Trong 9 ngày cử hành Thánh Lễ, toàn cả chư Tín hữu và Hội Thánh chúng tôi đa đoan thọ lễ đại tang. Nếu có điều chi sơ xuất xin Quý vị niệm tình miển cố./.
HỘI THÁNH
►Xem tiếp: Phần Thứ Hai:
Các Bài Thuyết Ðạo, Huấn Từ và Diễn Văn của Ðức Thượng Sanh
There are currently 2 users browsing this thread. (0 members and 2 guests)
Bookmarks