kết quả từ 1 tới 11 trên 11

Ðề tài: Niệm phật vảng sanh -lưu xá lợi & nhục thân bất hoại

  1. #1

    Mặc định Niệm phật vảng sanh -lưu xá lợi & nhục thân bất hoại

    Thêm một chuyện niệm Phật vãng sanh lưu xá lợi ở Úc châu

    Được sự đồng ý của nhà thiêu Altona, con cháu của cụ và Đại Đức Thích Trúc Thông Hoàng đến nhà thiêu lúc 3g30 chiều cùng ngày 13-8-2001. Trong hộp tro cốt, Đại Đức Thích Trúc Thông Hoàng và con cháu cụ Diệu Hỷ, đã tìm thấy hơn trăm mảnh xá lợi đủ 5 màu sắc: đen, đỏ, vàng, xanh, trắng. Đa số các mảnh kết thành Hoa xá lợi, có hình như hoa cúc.


    Cụ Diệu Hỷ và những viên xá lợi sau khi hỏa táng

    Cụ bà Quách Thị Huế, sanh ngày 15-1-1921 tại Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, Việt Nam. Bà là chị thứ tư trong gia đình cùng với 3 người em trai, hai người em đã quá vãng, hiện còn một người em trai là Quách Văn Bội, đang cư ngụ tại Melbourne, Australia .

    Bà lập gia đình với ông Lê Đăng Vinh ( 1917- 1970 ) nguyên quán làng Gia Lộc, huyện Trãng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Ông Vinh, người trong Gia tộc vẫn gọi là ông Ba Ngộ, là con dòng thứ của một đại Hương Cả làng Gia Lộc thuộc Tổng Hàm Ninh Hạ, huyện Trãng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Khi còn trai trẻ, ông Ba Ngộ không ham học chữ nghĩa, chỉ say mê võ nghệ và bùa chú. Khi lập gia đình với bà Huế, sanh được một người con trai, ông Ba Ngộ bỏ gia đình, vợ con lên vùng núi Thất Sơn ( Châu Đốc ) và dãy núi Tà Lơn (Cao Miên ) để tầm Thầy học võ và bùa chú. Trên đường tầm Thầy học võ và bùa chú, ông Ba Ngộ lần hồi qua đến Nam Vang, xứ Cao Miên thì gặp được kỳ ngộ. Ông đã gặp được Sư Hộ Tông, gặp được chánh pháp của Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ông Ba Ngộ bèn rũ bỏ tất cả võ nghệ và bùa chú, quy y Tam Bảo là Phật- Pháp- Tăng, và xuất gia theo hệ phái Phật giáo nguyên thủy Cao Miên Theravada. Đường tu học đưa dẫn ông lần sang Lào và Xiêm La. Năm 1945, nghe mẹ già và vợ con đang kẹt trong lằn chiến tranh ác liệt ở Việt Nam, ông Ba Ngộ xin Thầy cho phép hoàn tục và lập tức trở về Việt Nam đưa mẹ và vợ con đi lánh nạn chiến tranh (thời đó gọi là đi tản cư ).

    Ông Ba Ngộ là người con chí hiếu và lòng tín tâm vào ngôi Tam Bảo thật là sâu xa; nên ông đã lần hồi dắt dẫn vợ và mười một người con vào đường chánh pháp. Bà Quách Thị Huế có mười một người con với ông Ba Ngộ; gồm 7 trai và 4 gái. Người con trai thứ 3 của bà đã tử nạn trong chiến tranh năm 1968 tại Việt Nam.

    Năm 1960, do sự dẫn dắt của chồng, bà Quách Thị Huế đã quy y Tam Bảo và thọ ngũ giới tại chùa Pháp Quang ( đường Nguyễn văn Học , Gia Định ) được Sư Hộ Tông và Sư Thiện Luật ( Giáo hội Phật giáo Nguyên Thủy Việt Nam ) đặt pháp danh là Diệu Hỷ. Cũng năm 1960 ông Ba Ngộ đem hai đứa con trai thứ 5 và thứ 6 ký gởi ở chùa Pháp Quang, làm nghĩa tử của Đại Đức Hộ Giác, giám đốc Phật học viện Pháp Quang thuộc hệ phái Phật Giáo nguyên thủy Việt Nam Theravada. Người con trai thứ 5 của cụ Diệu Hỷ đã xuất gia năm 1964, thuộc hệ phái Phật Giáo nguyên thủy VN và theo học trường Cao Đẳng Phật Học Vạn Hạnh . Năm 1970, ông Ba Ngộ đột ngột qua đời lúc ông mới 53 tuổi. Cụ Diệu Hỷ chọn con đường ở vậy nuôi con. Thật là một "gánh nặng trần ai" nặng nề quằn quại trên đôi vai yếu ớt của bà mẹ Việt Nam. Năm 1972, cụ Diệu Hỷ rời bỏ quê hương Trãng Bàng, đến xứ Cần Thơ sinh sống. Năm 1975, cụ Diệu Hỷ lại rời Cần -Thơ về sinh sống tại tỉnh Vĩnh Long. Tại nơi đây, cụ Diệu Hỷ đã trở thành người hộ Phật, hộ Pháp, hộ Tăng đầy tín tâm của chùa Siêu Lý (thuộc thị xã Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long ).

    Năm 1990, cụ Diêu Hỷ di dân đến Melbourne, Úc Châu để đoàn tụ với 4 người con trai và 3 con gái đang sinh sống tại đây. Từ đó, cụ Diệu Hỷ là đệ tử tín tâm của nhiều ngôi Tam Bảo ở vùng Melbourne, Sydney, Việt Nam và Ấn Độ.

    Cụ Diệu Hỷ là Liên Hữu của Đạo tràng Cực Lạc Liên Hữu, thuộc chùa Quang Minh, do Đại Đức Thích Phước Tấn chủ trì. Do có nhiều thiện duyên người con rể thứ 9 của cụ Diêu Hỷ đã xuất gia vào năm 1996. Cụ Diệu Hỷ không phải làngười có học vấn cao rộng, cũng không phải là người có kiến thức uyên bác về giáo lý, kinh điển của Phật Giáo. Cụ Diệu Hỷ thọ Tam quy và Ngũ giới một cách nghiêm cẩn. Mỗi tháng cụ thọ Bát Quan Trai Giới 4 ngày. Sau khi mổ sạn mật , do lời khuyên của bác sĩ, cụ không còn thọ Bát Quan Trai Giới nữa, nhưng tâm rất luyến tiếc công phu nhiều năm phải bỏ dở.

    Theo những người con, thì cụ Diệu Hỷ là người có tâm cố chấp; khi buồn, giận thì buồn giận rất lâu, không xả bỏ được. Cụ Diệu Hỷ cũng biết rõ tâm cố chấp này của mình, nhưng dù cố gắng tu tập nhiều năm vẫn chưa đoạn trừ được. Theo như nhận xét của nhiều người thân, thì vào những tháng cuối cùng của cuộc đời, cụ Diệu Hỷ đã từng bước đoạn trừ được kiến chấp, lòng sân hận và tỏ rõ quyết tâm sẳn sàng từ bỏ thân ngũ trược này.

    Năm 1995, người con trai thứ 5 của cụ Diệu Hỷ từ Hoa Kỳ đến Úc châu thăm cụ và để lại cho cụ một "nghi tình" lớn: " PHIỀN NÃO LÀ NIẾT BÀN " . Từ đó, trong nhiều năm liền, tâm của cụ Diệu Hỷ không thoát ra khỏi "nghi tình" này. Gặp ai cụ cũng đặt ra câu hỏi: " Vì sao phiền não là Niết Bàn ?? "

    Từ năm 2000, cụ Diệu Hỷ thường nói với con cháu " Mẹ rất chán ngán cõi ngũ trược luân hồi này, một khi đã ra đi, mẹ không muốn trở lại cõi này nữa…" Thấy nhân duyên đã đến, người con trai thứ 10 của cụ Diệu Hỷ khuyên cụ : " Chỉ có con đường Tịnh Độ, nhất tâm niệm Hồng Danh Đức A Di Đà mới có thể vãng sanh về Cực Lạc Tây Phương, Tịnh thổ của Đức A Di Đà Phật được". Cụ Diệu Hỷ vô cùng hoan hỷ, phát tâm tham gia vào Đạo Tràng Cực Lạc Liên Hũu của Chùa Quang Minh ( Melbourne ). Mặc dù vẫn niệm Phật từ nhiều chục năm qua, nhưng cụ Diệu Hỷ vẫn chưa tu tập pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương như một pháp môn trọng yếu thật sự. Khi nhân duyên đã đến, trong hai năm sau cùng của cuộc đời, cụ đã tỏ rõ quyết tâm niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc cõi A Di Đà. Sáng niệm Phật, trưa niệm Phật, chiều niệm Phật, tối niệm Phật, niệm niệm không ngừng với lòng tín tâm vô bờ bến. Bên cạnh công phu nhất tâm niệm niệm Hồng Danh A Di Đà Phật, cụ Diệu Hỷ luôn luôn hoan hỉ công đức, phát tâm hoan hỉ bố thí, phóng sanh, hoan hỉ cúng dường Tam Bảo. Dường như phước báu của công phu niệm Phật luôn làm cho cụ hoan hỉ, an lạc và mát mẻ.

    Trong những ngày tháng sau cùng, cụ Diệu Hỷ dường như đã hoàn toàn biến đổi thành " một người khác". Những kiến chấp nặng nề của tâm thức của cụ đã rơi rớt xuống như những mảnh hồ vữa rơi rớt xuống từ một bức tường cũ kỹ. Gặp ai cụ cũng đều vô cùng hoan hỉ, cụ luôn tìm mọi cơ hội để " cho bớt" những gì thuộc về mình. Gặp ai cụ cũng khuyến khích tu hành, niệm Phật, bố thí, làm phước. Đặc biệt đối với các con cháu, cụ luôn nhắc nhở, khuyến tấn con cháu tu hành, làm phước, làm lành, tránh xa việc ác. Cụ Diệu Hỷ tu hành thật đơn giản : Gìn giữ Tam Qui và Ngũ Giới, Thập Thiện. Hoan hỉ mọi công đức, giữ thân tâm an lạc và thanh tịnh, tinh tấn niệm Hồng Danh A Di Đà Phật.

    Thật là rõ ràng và đơn giản biết bao! Hỡi ôi, sinh tử là việc lớn, tu nhất kiếp, ngộ nhất thời như bậc cổ đức đã từng nói. Với tín tâm như thế, cụ Diệu Hỷ đã nhẹ nhàng trút bỏ tất cả, ra đi trong niềm an lạc vô biên. Sáng ngày 7-8-2001, sau khi công phu sáng xong, cụ Diệu Hỷ đến phòng ăn, pha tách cà phê , uống và ăn bánh sáng. Bất thình lình cụ ngã qu?xuống đất và la lên một tiếng thật lớn. Lúc đó người con gái thứ tư của cụ là cô Oanh, lập tức chạy đến và thấy mẹ mình ở tình trạng rất nguy ngập và chị gọi ngay xe cấp cứu đến để đưa cụ đến bệnh viện. Một giờ sau khi bị tai biến mạch máu não, cụ Diệu Hỷ vẫn còn nhận biết những người con và không ngừng niệm Phật, hòa trong tiếng niệm Hồng Danh Đức A Di Đà Phật của các con cháu. Sau khi giải phẫu đầu, cụ Diệu Hỷ không tỉnh lại nữa. Đại Đức Thích Trúc Thông Hoàng, vị Thầy có nhiều nhân duyên với cụ Diệu Hỷ đã khai thị và trì tụng cho cụ. Đại Đức Thích Phước Tấn, Đại Đức Thích Phước Thiền, Đại Đức Thích Nguyên Tạng , Đại Đức Thích Tịnh Đạo là những vị Thầy mà cụ Diệu Hỷ vô cùng qúy kính cũng kịp thời đến thăm và trì tụng cho cụ Diệu Hỷ tại bệnh viện.

    Vào lúc 9g 45 sáng ngày 10-8-2001, cụ Diệu Hỷ đã vãng sanh một cách nhẹ nhàng, an lạc trong tiếng niệm Hồng Danh A Di Đà không dứt của các con cháu. Cụ Diệu Hỷ đã được chư Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni, đạo hữu các đạo tràng, và các ban hộ niệm của nhiều Chùa ở Melbourne đến viếng và trì tụng vãng sanh từ ngày 11-8-2001 đến ngày 13-8-2001.

    Sáng ngày 13-8-2001, xác thân cụ Diệu Hỷ được Đưa vào nhà thiêu Altona Crematorium để hỏa thiêu lúc 11g sáng. Do có sự cảm ứng được báo trước của người con gái thứ 11 của cụ Diệu Hỷ, nên con cháu cụ xin phép được quan sát tro cốt sau khi hỏa thiêu.

    Được sự đồng ý của nhà thiêu Altona, con cháu của cụ và Đại Đức Thích Trúc Thông Hoàng đến nhà thiêu lúc 3g30 chiều cùng ngày 13-8-2001. Trong hộp tro cốt, Đại Đức Thích Trúc Thông Hoàng và con cháu cụ Diệu Hỷ, đã tìm thấy hơn trăm mảnh xá lợi đủ 5 màu sắc: đen, đỏ, vàng, xanh, trắng. Đa số các mảnh kết thành Hoa xá lợi, có hình như hoa cúc. Đến 4g cùng ngày Đại Đức Thích Phước Tấn đến, và Thầy đã tìm thấy thêm 2 viên xá lợi hình tròn như hạt tiêu màu vàng sậm, bóng sáng rất đẹp, và Đại Đức cũng tìm thấy thêm nhiều hoa xá lợi khác nữa. Sự khác biệt giữa xá lợi và di cốt là: Xá lợi kết thành viên tròn hoặc thành hoa xá lợi hình bông cúc, cứng, rắn chắc không bóp vỡ được và có màu ( đen, đỏ, vàng, xanh, trắng ). Di cốt thì màu trắng ngà, xốp hoặc đặc, nhưng mềm, dùng tay bóp có thể vỡ ra..

    Đại Đức Thích Phước Tấn xác nhận tất cả những phần tìm thấy đều là xá lợi, có giá trị như sự chứng thực cụ Diệu Hỷ đã thực sự vãng sanh. Đại Đức khuyên con cháu nên thờ kính xá lợi không như thờ cha mẹ, mà như bậc Thầy dẫn dắt ta trên đường tu tập. Con cháu cụ Diệu Hỷ hơn 10 người có mặt tại chỗ đều cung kính nhận lấy lời dạy của Đại Đức Thích Phước Tấn. Số xá lợi được đem về tôn thờ tại nhà người con gái thứ 4 của cụ Diệu Hỷ, địa chỉ: 382 Francis st. yarraville. Vic. 3013. Australia.

    Ba ngày sau khi đem về, sau khi đem ra để an vị xá lợi vào hộp kiếng, số xá lợi đã tăng thêm gấp 3 lần và có màu sắc sáng láng hơn. 14 ngày sau, khi con cháu đem xá lợi ra để ngắm dưới kính phóng đại , thấy có nhiều ánh sáng trắng nhấp nháy như ánh sáng kim cương , hoặc như ánh sáng của các vì sao chiếu nhấp nhoáng trên bầu trời vào ban đêm. Đây là một sự huyền diệu, không thể lý giải bằng phương pháp khoa học, chỉ có thể lý giải bằng tín tâm vào sự mầu nhiệm của Phật Pháp mà thôi.
    Đại Đức Thích Phước Tấn có cung thỉnh 2 viên xá lợi tròn màu vàng sậm ( do chính Đại Đức Tìm thấy ) và thêm vài hoa xá lợi khác màu xanh về chùa Quang Minh. Số xá lợi còn lại, được chia cho các con cháu để thờ kính, và các Chùa, Tự viện nếu có lời yêu cầu; nhằm mục đích khuyến tu. Trong kệ kinh sách của cụ Diệu Hỷ, người con trai trưởng của cụ đã tìm thấy nhiều thủ bút của cụ. Trong đó có thủ bút của cụ Diệu Hỷ sưu tập chép lại bài thơ, hoặc sáng tác chưa rõ.

    TA NHÌN TA
    Đêm sầu gần một kiếp

    Ôm bóng tối ưu phiền

    Chính giữa lòng triền miên

    Mang âm thầm tứ nghiệp

    Nằm đu đưa ảo mộng

    Đi suốt trùng sương mù

    Ngồi dưới tàng cây phượng

    Còn nữa đời phù du

    Sáng ngày bên đầu núi

    Bên đất trời mênh mông

    Biết ta là hạt bụi

    Trong cơn lốc vô thường

    Nhìn xuống vào sâu thẳm

    Dòng sông nào vơi đầy

    Biển khơi nào đã cạn

    Mưa nắng nào qua đây

    Làm Thiền sư khoác áo

    Leo lên đỉnh non cao

    Khu rừng xưa mất dấu

    Xuyên lá nắng nào reo

    Ta bước vào tịnh cốc

    Ngồi tụng Kinh Kim Cang

    Chợt nụ cười Di Lặc

    Căn cứ vào những thủ bút do cụ Diệu Hỷ ghi chép và để lại, có thể thấy rất rõ rằng cụ Diệu Hỷ đã đi trên con đường Phước Huệ song tu suốt cả đời cụ. Còn quan sát hành trạng của cụ như gìn giữ Tam Quy, Ngũ giới, thọ Bát Quan Trai giới, Thọ Thập Thiện giới, hoan hỉ công đức cúng dường Tam Bảo, Từ bi , phóng sanh, làm lành, lánh dữ… thì có thể nói cụ Diệu Hỷ đang đi trên đường Giới, Định, Huệ tiệm tu qua nhiều chục năm của cuộc đời cụ. Nhưng nếu nhìn gần những năm tháng cuối đời của cụ Diệu Hỷ, có thể nói cụ chuyên chú vào pháp môn niệm phật, niệm niệm không dừng dứt, để cầu vãng sanh cõi A Di Đà Phật, tịnh thổ của Tây Phương Cực lạc. Như trong kinh A Di Đà đã nói: Hựu nhất nhật… nhất tâm bất loạn, nhất tâm, nhất niệm, niệm niệm Hồng Danh A Di Đà Phật cũng đủ được vãng sanh cõi A Di Đà.

    Trong lần viếng di tích Phật Giáo năm 1997 ở Ấn Độ, mặc dù tuổi đã già sức đã yếu, chỉ với cây gậy chống đỡ , cụ Diệu Hỷ đã leo lên đỉnh núi Linh Thứu trước tất cả mọi người trong đoàn . Và ngay trên tảng đá, nơi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, hơn 2.600 năm trước, đã thuyết Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, cụ Diệu Hỷ đã dùng tóc mình để cúng dường Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật và pháp bảo vô lượng. Ôi! Dũng mãnh thay Đại lực tín tâm của một người phật tử bình thường. Ôi! Kiên cố thay Đại lực tín tâm như kim cương của một hành giả trên đường vượt thoát sinh tử luân hồi. Chỉ bằng sức tín tâm, nhất tâm nhất niệm, niệm niệm không rời Hồng Danh A Di Đà Phật, mà cụ Diệu Hỷ đã chứng thực : VÃNG SANH CÕI DI ĐÀ LÀ HIỆN THỰC.

    Tất cả lời biện luận uyên bác, cao siêu; trăm nghìn vấn đáp phù phiếm chẳng qua là tro cốt còn lại. Tín tâm và hạnh nguyện , nhất tâm, nhất niệm Hồng Danh A Di Đà, dù chỉ 1 ngày, 2 ngày , 3 ngày, 4 ngày, 5 ngày, 6 ngày 7 ngày mà nhất tâm bất loạn cũng chắc chắn vãng sanh về cõi Cực Lạc Tây Phương . Và tinh tủy của công năng niệm Phật ấy đã kết thành xá lợi, lưu ly, sáng ngời, lấp lánh như kim cương. Phải chăng, cụ Diệu Hỷ chỉ muốn để lại cho con cháu lời nhắn nhủ vô ngôn : Trải qua A tăng kỳ kiếp, ngụp lặn trong sinh tử, luân hồi. Trải qua lửa đỏ của 9 tầng địa ngục, Chỉ bằng Tín tâm và nhất niệm Hồng Danh A Di Đà Phật, cũng đủ độ thoát hằng hà sa chúng sanh qua bên kia bờ sinh tử ! Hỡi ơi, kiến thức càng lớn, kiến chấp càng sâu dày, nghiệp duyên càng nặng, tín tâm càng nhỏ, ngã ta càng to, tro cốt càng nhiều, sinh tử bao giờ mới dừng lại ? Kiến chấp bỏ xuống, nghiệp mỏng, duyên dày, tín tâm vô lượng, ngã ta không còn, chỉ còn lại kim cương và lưu ly sáng ngời như hào quang tiếp dẫn của Đức A Di Đà từ cõi Tịnh Thổ Cực Lạc Tây Phương.

    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

    Viết tại Melbourne 25-8-2001

    Thiện Ngộ ( Con trai thứ 5 của bà Diệu Hỷ)

    (copy từ http://www.chuahoangphap.com.vn/news.php?id=397)
    Last edited by Vân Quang; 21-10-2009 at 06:47 AM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  2. #2

    Mặc định

    Thành tâm tôn kính Cụ, Cụ về Cõi Cực Lạc độ cho chúng sanh ở Cõi Ta Bà này sớm về Cõi Cực Lạc

  3. #3

    Mặc định Sư Bà Như Phụng vãng sanh lưu xá lợi

    Sư Bà Như Phụng vãng sanh lưu xá lợi

    Được Phật A Di Đà gia hạn sống thêm 5 năm. Sư Bà Thích Như Phụng thấy Phật, thấy cả cảnh giới Tây Phương Cực Lạc và được chết trong mùi thơm đúng như ước nguyện


    Sư Bà Như Phụng vãng sanh lưu xá lợi

    NHƯ Lai trưởng tử trụ Ta bà,
    PHỤNG sự nhân quần dĩ lợi tha,

    TÂY xứ phu tòa quy bỉ ngạn,
    HƯNG Thiền châu kết độ hà sa,
    NI đồ phổ nhuận Tôn Sư đức,

    TRƯỞNG ấu đồng triêm pháp lục hòa,

    MINH hiển từ tâm hành lục độ,

    CẢNH huyền cao chiếu nhứt thiền gia.



    Tháng 10 năm 2002, chúng tôi có việc phải về Việt Nam, trong thời gian mười ngày bên đó, chúng tôi được nghe quý Sư và Phật tử thường nhắc về hạnh tu của Sư Bà Như Phụng. Chúng tôi rất muốn được đến thăm Sư Bà nhưng vì lý do đặc biệt khiến chúng tôi không thể rời khỏi nhà. Sau khi trở về bên này, trong câu chuyện tham khảo ý kiến với Bác Tịnh Hải về vấn đề vãng sanh, chúng tôi có trình bày với bác rằng: “Dựa theo sách Những Chuyện Vãng Sanh Lưu Xá Lợi của bác, cháu nghĩ tại Sa Đéc sẽ có hai vị cao tăng Ni sau này sẽ vãng sanh lưu Xá lợi”. Dự đoán ấy nay đã trở thành sự thật!

    Mấy tuần trước, chúng tôi được gia đình cho biết, Sư Bà Như Phụng đã thị tịch và để lại rất nhiều xá lợi. Chúng tôi liền báo tin cho Bác Tịnh Hải rõ, bác yêu cầu chúng tôi liên lạc về Sa Đéc để thu thập hình ảnh và bài tiểu sử của Sư Bà do liên hữu Thiện Thành gởi qua, chúng tôi đã liên lạc trực tiếp với Sư cô Thích nữ Như Hiền thuộc chùa Tây Hưng để xin thêm những chi tiết về công hạnh tu tập và trường hợp vãng sanh của Sư Bà.

    Sư Bà Thích nữ Như Phụng tự Diệu Thành, pháp hiệu Giác Mỹ, sinh năm 1911 tại làng Tân Vĩnh Hòa, Quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc. Là đệ tử xuất gia của Hòa Thượng Thích Vạn Ân thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 41. Thân phụ là cụ Phạm Văn Lắm, người rất hiền hòa phúc hậu, thân mẫu là bà cụ Huỳnh Thị Trúc, một người mẹ đảm đang đức hạnh. Sư Bà là con thứ sáu trong gia đình có tám anh chị em và là chị của cố Ni Trưởng Thích nữ Như Lan, trụ trì chùa Thanh Thiền ở Sa Đéc và Ni Trưởng Thích nữ Như Hiếu, đương kiêm trụ trì chùa Tây Hưng.


    Thuở thiếu thời, Sư Bà thường xuyên lui tới chùa Tây Hưng, tụng kinh niệm Phật, công quả sớm hơm và quy y Tam Bảo. Càng ngày Sư Bà nhận thức sâu sắc về cuộc đời giả tạm, khổ nhiều hơn vui, từ đây chí xuất trần tu thiện pháp càng mãnh liệt. Khi duyên lành đã sẵn đủ, lại được sự chấp thuận của song thân, Sư Bà lên đường tầm sư học đạo. Năm 1929, lúc vừa tròn 19 tuổi, Sư Bà đến chùa Tây Hưng cầu Hòa Thượng Thích Vạn Ân xin được thế phát xuất gia tu học. Tháng 11 năm 1945, Hòa Thượng Bổn sư viên tịch, Sư Bà được giao phó trọng trách.


    Sư Bà chuyên tu theo pháp môn niệm Phật A Di Đà. Thuở ban đầu, ngay sau khi xuất gia, Sư Bà niệm Tam Thiên Phật, rồi Vạn Phật, Ngũ Bách, tụng Sám Hối Hồng Danh, nhưng về sau Sư Bà chỉ niệm thánh hiệu “A Di Đà Phật”. Ngay cả khi Sư Bà kết hạt chuỗi bo bo, mỗi hạt bo bo là một biến “A Di Đà Phật”.



    Công phu niệm Phật của Sư Bà không bao giờ dãi đãi, thời khóa niệm Phật hàng ngày bắt đầu từ 2 đến 4 giờ sáng; 7 đến 9:30 giờ; 2 đến 4 giờ chiều; 5:30 đến 7 giờ tối. Sư Bà ngọ trai lúc 12 giờ trưa và sau đó tụng Kinh A Di Đà, việc này Sư Bà đã thực hành nghiêm chỉnh ngay từ lúc mới xuất gia.



    Sư Bà đã niệm Phật miên mật như thế trong suốt thời gian dài làm cho chúng tôi nhớ đến lời dạy của Ngài Ngẫu Ích Trí Húc Đại Sư mà Hòa Thượng Minh Tâm đã ghi trong Lời Bạt của sách Những Chuyện Niệm Phật Vãng Sanh Lưu Xá Lợi: “Đời mạt pháp, ức vạn người tu hành, ít có một người đắc đạo. Chỉ còn nhờ phép Niệm Phật mới được độ thoát. Than ôi, nay chính là đời mạt pháp rồi mà bỏ pháp môn niệm Phật này thì còn pháp môn nào tu học được nữa”. Vì vậy trường hợp vãng sanh lưu lại Xá lợi của Sư Bà Như Phụng đối với hành giả chuyên tu theo pháp môn Niệm Phật chắc cũng không có gì ngạc nhiên.

    Ngoài công phu niệm Phật, Sư Bà đã thực hành hạnh của Bồ Tát mà ít có người làm được. Như trên đã nói, Sư Bà kết chuỗi bo bo, mỗi hạt là một biến “A Di Đà Phật”, mỗi ngày kết hai tràng để tặng cho chúng sanh Phật tử, nguyện của Sư Bà là mong cho mọi người đều niệm Phật. Sư Bà phát năm cầu nguyện khi thí chuỗi là:



    Cầu cho Phật tử dồi sào sức khỏe
    Cầu cho người niệm Phật tài vật đầy đủ

    Chí niệm thường tinh tấn

    Thực hành hạnh nguyện Bồ Tát

    Khi bỏ thân được vãng sanh Cực Lạc.



    Ngày nay nhiều Phật tử ở hải ngoại có dịp về thăm lại chùa Tây Hưng vẫn thường nhớ đến những tràng chuỗi bằng hạt bo bo và ao ước có được xâu chuỗi như thế để tưởng Phật, niệm Phật.



    Với tâm nguyện cứu độ chúng sanh, phát nguyện cầu siêu cho chư hương linh được siêu sanh lạc quốc, Sư Bà đã bỏ ra bốn năm trời, cứ vào mùa Thanh Minh, thường đến hết nghĩa trang này lại qua nghĩa địa khác để trì chú Tán Sa cho hương linh, mỗi phần mộ ba vòng. Năm 1948, Sư Bà cùng với Sư Bà viện chủ chùa Thiền Quang ở Sài Gòn tổ chức kỳ siêu, vớt vong bằng giàn Thủy Lục, trong đêm các Ngài tụng Kinh Địa Tạng, niệm Hồng danh “A Di Đà Phật” để hồi hướng cho chư hương linh.



    Sau đó Sư Bà nhập thất ba năm. Trong thời kỳ nhập thất này, Sư Bà rất ít nói chuyện, thị giả hay Phật tử chỉ mang thức ăn vào thất rồi trở ra. Sư Bà chú tâm vào việc tụng Kinh niệm Phật để hồi hướng cho hương linh các chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn.



    Năm 1964, Sư Bà lại nhập thất tịnh tu ba năm, tiếp tục nhứt tâm niệm Phật và tụng Kinh để hồi hướng cho ngôi Tam Bảo sung túc, huynh đệ tu hành tinh tấn, đàn na hưng thịnh. Và trong suốt thời gian sau này, Sư Bà vẫn thường xuyên nhập thất niệm Phật.



    Năm vừa qua, thấy tuổi hạc đã cao, Sư Bà phát nguyện trước chư Phật: “Con nay đã trên 90 tuổi rồi sao lại chưa đi, nếu như thọ mạng chưa dứt, xin chư Phật cho con ở lại thế gian 5 năm nữa để con gieo trồng bo bo, kết chuỗi hầu khuyến khích Phật tử niệm Phật”. Mấy hôm sau, bên tai Sư Bà nghe có tiếng nói: “Thôi, mãn nguyện rồi, con nên đi đi”. Ở đây, Sư Bà xin thêm 5 năm nữa, chúng tôi vẫn thắc mắc, không rõ trước kia Sư Bà có nguyện gì nữa không, nếu là có thì có thể đã có sự cảm ứng đạo giao mà Sư Bà thường ít nói nên không ai biết được chăng ?



    Sư Cô Như Hiền có kể lại, là cách đây gần một năm, khi ngồi trước chánh điện niệm Phật, Sư Bà ngửi được mùi hương thơm phảng phất rất là dễ chịu và nhìn thấy được cảnh giới tốt đẹp với những thứ cỏ lạ đều đặn, thẳng tấp trên cát mịn màng, thoáng xa xa người người lui tới trong y phục đẹp, trang nhã và lịch sự nhưng Sư Bà chưa được vào cảnh giới đó. Bỗng chốc Sư Bà nhớ ra là mình đang niệm Phật và đang ngồi ở chánh điện.



    Những giờ phút sau cùng của đời người, trước khi được về với Phật, Sư Bà rất tỉnh táo, vui vẻ, hay hỏi han vuốt ve các Phật tử tới viếng thăm. Sanh tiền Sư Bà thường nguyện với Đức Phật A Di Đà, xin “được chết thơm”, xin đến lúc lâm chung được ra đi nhẹ nhàng, tinh thần minh mẫn. Nay nguyện của Sư Bà đã được thành tựu như ý.



    Sư Cô Như Hiền nhớ lại lần thân bệnh vào năm trước, đôi lúc Sư Bà còn kêu than đau đớn nhưng lần sau cùng này, Sư Bà không kêu rên hay than đau và luôn luôn giữ thế nằm nghiêng về phía tay phải, thế nằm của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật khi nhập diệt.



    Hơn chín mươi năm trụ thế, tấm thân ngũ uẩn được sử dụng để phụng sự Đạo pháp và chúng sanh đã hao mòn theo năm tháng, thân thế tuy mỏi mệt nhưng tinh thần luôn luôn trong sáng và tinh tấn niệm Phật. Khoảng bốn ngày trước khi vãng sanh, Sư Cô thị giả bạch thỉnh ý Sư Bà xin tụng bộ Kinh Đại Bi Đạo Tràng Sám Pháp – Lương Hoàng Sám để hồi hướng công đức cho Sư Bà, Ngài hoan hỷ chấp nhận, và thời gian này Sư Bà còn lên chánh điện để quan sát. Khi bộ Kinh được tụng đến quyển thứ bảy, qua phần Chú Vãng Sanh, đang tụng thời Sư Bà đã xả báo thân, thu thần viên tịch. Trong giây phút cận tử nghiệp này, Sư Bà vẫn còn nhép môi để niệm Phật, niệm thầm trong tư tưởng. Ngài ra đi với nét mặt hồng tươi khác lạ, da mặt căng thẳng và đầy nét hoan hỉ, trên tay vẫn còn cầm xâu chuỗi, cho đến lúc tay dũi thẳng ra xâu chuỗi mới rớt xuống một cách tự nhiên, nhẹ nhàng trước mặt quý Sư Cô. Lúc đó là 5 giờ chiều ngày mồng 8 tháng 9 năm Quý Mùi tức ngày 3 tháng 10 năm 2003. Nơi tịnh thất, trên chánh điện chùa Tây Hưng tiếng niệm “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” vang lên. Sư Bà trụ thế 92 tuổi, hạ lạp trải qua 63 mùa an cư kiết hạ.



    Với hạnh nguyện lợi tha cao cả, Sư Bà đã cống hiến cả cuộc đời mình một cách thầm lặng cho đời và đạo. Việc làm của Sư Bà tuy đơn giản nhưng nếu không có Bồ Đề tâm, không có Bồ Tát hạnh thì cũng không dễ gì làm được. Công đức và đạo hạnh của Sư Bà vẫn còn sống mãi trong lòng người con Phật, nhất là Ni giới và hàng Phật tử tại gia. Đặc biệt nhất vẫn là vô số xá lợi đủ màu mà Sư Bà đã lưu lại cho hậu thế, trong đó có 5 viên XÁ LỢI NGỌC. Theo lời Sư Cô Như Hiền, Sư Bà Như Hiếu chỉ giữ lại một số xá lợi như đã thấy trong hình để khuyến khích Phật tử tu hành niệm Phật, số còn lại được đem đi rải trên sông.



    Sư Cô Như Hiền còn cho biết, sau lễ trà tỳ tại lò hỏa táng Bình Hưng Hòa, huyện Bình Chánh – Sài Gòn, Xá lợi được đem về thất để lựa trong tối hôm đó. Đến 2 giờ khuya, giờ mà Sư Bà bắt đầu cho ngày tu niệm Phật, Sư Cô thị giả nghe thấy có luồng gió mát với hương thơm ngào ngạt giống như hương thơm của hoa sứ (ngọc lan). Mùi thơm này lưu lại cho đến mười phút.



    Sư Bà Như Hiếu cho biết: “Sở cầu sở nguyện của Sư Bà Như Phụng đã được như ý nên Sư Bà đã trở về với Đức Từ Phụ A Di Đà Phật”.



    Bốn năm trước đây, tại Sa Đéc, hàng Phật tử tại gia có cụ bà Diệu Thành đã vãng sanh để lại xá lợi với sự nhiệm mầu là từ chín viên nhỏ đã tự kết hợp lại thành ba viên xá lợi lớn (*), nay là Sư Bà Thích Nữ Như Phụng đã vãng sanh để lại nhiều xá lợi đủ màu và năm viên NGỌC XÁ LỢI. Sự vãng sanh của hai vị Bồ Tát nói trên thật là một tấm gương sáng, một bài học quý báu, giúp cho Phật tử ở Sa Đéc có lòng tin sâu xa vào sự thù thắng của Pháp môn Niệm Phật và nhứt là lời dạy vô cùng quan trọng của Đức Bổn Sư trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật nói phẩm thứ hai: “Bởi vậy mà Ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hôm nay trân trọng xác quyết rằng: VÃNG SANH ĐỒNG Ý NGHĨA VỚI THÀNH PHẬT, VÌ VÃNG SANH TỨC LÀ THÀNH PHẬT”. Chắc chắn là trong tương lai nơi đây sẽ còn có thêm nhiều vị được vãng sanh!

    Thiện Thành và Minh Thịnh cẩn ghi.

    (*) Đây là lời thuật của vị Sa Môn đã trường chay trong suốt hơn hai mươi năm trước khi được đắp y vàng từ ba mươi năm qua. Ngài nay đã chín mươi tuổi, có lòng tin sâu xa vào Pháp môn niệm Phật, đã và đang thực hành pháp môn này một cách rốt ráo.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  4. #4

    Mặc định TT. Thích Chơn Thanh lưu lại chiếc lưỡi xá lợi huyền diệu

    TT. Thích Chơn Thanh lưu lại chiếc lưỡi xá lợi huyền diệu

    Thượng Tọa đã cùng với các pháp hữu luân phiên nhập thất tịnh tu, tránh duyên bớt cảnh, một lòng phát nguyện vãng sanh, hầu báo đáp công ơn Thầy Tổ, nguyện sanh về cõi Hoa Liên, là nơi Cực Lạc ở Tây Phương, đến khi thọ mạng vô thường, Phật A Di Đà tiếp dẫn.


    TT. Thích Chơn Thanh
    Phật giáo toàn thế giới có viên Xá Lợi được nhắc nhở và tôn sùng, đó là Xá lợi lưỡi của Ngài Cưu Ma La Thập được truyền tụng hơn 2000 năm.

    Cưu Ma La Thập dịch nhiều Kinh từ Phạn ra tiếng Tàu, khoảng 98 Kinh, nay mất lạc chỉ còn độ 50 Kinh. Ngài là người nước Dao Tần, ngày nay gọi là Tân Cương. Cha Ngài là người Ấn Độ, mẹ là công chúa nước Dao Tần.
    Ngài dịch nhiều Kinh Phật nhất, nên có lời nguyện, nếu Kinh Ngài dịch ra không sai chánh pháp thì, khi lâm chung xin lưu lại chiếc lưỡi để làm chứng tích. Kết quả, Ngài được như ý.





    Tuy Cưu Ma La Thập dịch nhiều Kinh cho nước Tàu, nhưng Ngài vẫn chưa phải là người dịch đầu tiên. Người đầu tiên là An Thế Cao. An Thế Cao là vua của nước Ba Tư ngày nay. Ngài kế thừa ngôi vua chỉ có nửa năm, nhường ngôi vua cho người chú rồi đi tu Phật, dịch Kinh Phật tại nước Tàu và chết ở đấy!

    Một nhà sư Việt Nam lưu lại
    chiếc lưỡi Xá lợi huyền diệu

    Nhà sư nói đây là Thượng Tọa Thích Chơn Thanh. Nhiều trường hợp, vị Thầy đặt huy hiệu cho đệ tử, lắm khi đã đặt để cả tương lai sự nghiệp của người ấy.

    Chơn Thanh - một âm thanh, hay một cái gì thanh tịnh, thanh cao chơn thật nhất. Cho nên trong cuộc đời tu hành, Thượng Tọa Chơn Thanh đã dùng âm thanh tiếng nói đi giảng pháp khắp nơi, hoằng truyền giáo Pháp của Phật.

    Năm 1971, Viện Cao Đẳng Phật học Huệ Nghiêm chính thức khai giảng, do Hòa Thượng Thích Trí Tịnh làm Viện trưởng, Hòa Thượng Thích Bửu Huệ làm Phó Viện trưởng, Thượng Tọa Chơn Thanh theo học suốt chương trình 8 năm tại Viện và mãn khóa vào năm 1977. Tuy nhiên, chương trình học Kinh bộ vẫn tiếp tục đến năm 1991 do Hòa Thượng Trí Tịnh hướng dẫn.


    THỜI KỲ HÀNH ĐẠO


    Trong thời gian tu học tại Viện, nhất là từ năm 1966-1975, Thượng Tọa là một trong những cán bộ Phật giáo đi xây dựng cơ sở Phật giáo các tỉnh miền Tây và miền Đông theo chủ trương của Giáo Hội. Đồng thời là một thành viên trong Giảng sư đoàn Trung ương thuộc Tổng vụ Hoằng pháp do Hòa Thượng Thích Huyền Vi làm Tổng vụ trưởng đi truyền bá chánh pháp khắp nơi cho đến ngày Sàigòn đổi chủ.

    Sau ngày 30/4/1975, chương trình theo dấu chân xưa trở về cảnh cũ của Hòa Thượng Viện chủ chùa Huệ Nghiêm đã đề ra, nhằm tạo thắng duyên trong sự giải thoát, qua pháp môn niệm Phật.

    Thượng Tọa đã cùng với các pháp hữu luân phiên nhập thất tịnh tu, tránh duyên bớt cảnh, một lòng phát nguyện vãng sanh, hầu báo đáp công ơn Thầy Tổ, nguyện sanh về cõi Hoa Liên, là nơi Cực Lạc ở Tây Phương, đến khi thọ mạng vô thường, Phật A Di Đà tiếp dẫn.

    Chúng ta chú ý ở đây, sau 30/4/1975, vì hoàn cảnh đất nước, Thầy Chơn Thanh nhiều lần nhập Phật thất niệm danh hiệu A Di Đà Phật.

    Theo một vị Thượng Tọa, rất gần gũi với T.T. Chơn Thanh đã viết cho chúng tôi, từ đó mỗi ngày giới đức của Thầy càng tỏa chiếu. Giáo hội Phật giáo trong nước mời Thầy ra đảm trách vai trò giáo dục Tăng Ni và Trưởng Ban Hoằng Pháp. Từ đó, “chơn thanh” của Thầy được dùng đến và gót chân Thầy bước khắp mọi miền đất nước. Với giọng nói nhu hòa, Thầy dùng ái ngữ từ tâm hướng dẫn mọi người. Thầy có cuộc sống đơn giản, không tranh đua danh lợi, không mong cầu hưởng thụ.

    Từ năm 1981 đến 2002, trong suốt trên 20 năm, Thầy dùng cái lưỡi niệm hồng danh A Di Đà Phật và khuyến tấn mọi người niệm Nam Mô A Di Đà Phật, khi Thầy đi giảng pháp.

    Khi thu thập tài liệu viết về Thầy Chơn Thanh, chúng tôi đọc đi đọc lại nhiều lần, nhưng không thấy nguyên nhân tại sao Thầy Chơn Thanh lưu lại cái lưỡi Xá lợi.

    Vì vậy, chúng tôi nhiều lần yêu cầu người quen ở Việt Nam tiếp xúc với Thượng Tọa gần gũi với Thầy Chơn Thanh để hỏi mấy điều và được biết

    1- Trước khi mất, Thầy Chơn Thanh đã có lời từ giã tại các lớp giảng và khuyến tấn mọi người nên tịnh tâm niệm Phật. Thầy còn chụp hình gởi tặng các Tăng Ni sinh làm kỷ niệm. Như vậy, có nghĩa là Thầy đã biết trước ngày vãng sanh của Thầy. Vậy có lần nào nghe Thầy vô tình hé lộ chăng?

    Thật ra, ít người tiết lộ điều này, như trường hợp của Sư Bà Trí Thuần, viện chủ chùa Dược Sư cũng không tiết lộ; dù rằng Sư Bà đã để lại chúc thư trước 2 năm.

    2- Với ý chí niệm Phật cầu vãng sanh, Thầy Chơn Thanh đã nhập Phật thất mấy lần. Thiên hạ nhiều người tuy cũng tu hành, nhưng lo cho thân sống nhiều hơn là lo cho đạo pháp. Nhưng với Thầy Chơn Thanh, Thầy nhìn rõ thấy cần phải chuyên tâm niệm Phật và luôn luôn dạy người niệm Phật trong suốt 20 năm.

    Nếu nói rằng, do Thầy có tài xướng ngôn điều khiển các buổi lễ lớn, nên khi vãng sanh Thầy lưu lại chiếc lưỡi Xá lợi thì thật không đúng.

    Trong sách này, chúng tôi có nhắc lại chuyện Thầy Thiện Thông, trước tu Thiền sau quy hướng Tịnh Độ. Nhờ niệm Phật mà Thầy hết bệnh nặng. Rồi Thầy dịch 3 Kinh Tịnh Độ, học thuộc lòng 48 Đại nguyện của Phật A Di Đà. Khi Thầy lâm chung, Thượng Tọa Như Điển thấy Phật A Di Đà đến rước Thầy.

    Nhờ đọc bài của T.T. Thích Minh Thông cũng là một giảng sư gần gũi với Thầy Chơn Thanh, chúng tôi thấy ngay chỗ lưu lại “Xá Lợi Lưỡi” của Thầy Chơn Thanh.

    Thầy Minh Thông viết cho chúng tôi:
    “Vì hơn 20 năm, Thầy luôn dùng lưỡi này để truyền bá chánh pháp dẫn dắt người ta ra khỏi bến mê. Cũng lại dùng lưỡi này niệm lên hồng sanh A Di Đà Phật. Khuyến tấn mọi người niệm Phật, mau thoát khỏi cảnh khổ”.
    Đặc biệt, với pháp môn niệm Phật là mình phải tự lực và hành hạnh Phổ Hiền cúng dường cho tất cả chúng sanh. Thầy Chơn Thanh tự mình niệm Phật không ngừng mà còn dạy và nhắc nhở mọi người niệm Phật. Đây mới là thật sự cúng dường.

    Như chúng tôi đã nói, dùng lưỡi giảng pháp thì các vị Pháp sư chuyên giảng pháp đều làm. Đặc biệt là Thầy Chơn Thanh tự mình niệm Phật và không ngừng giảng dạy cho người khác niệm Phật, khuyên mọi người niệm Phật.

    Đây là bài học chung cho tất cả những ai muốn được vãng sanh Cực Lạc, phải có công phu thật sự. Nhờ vào công phu thật sự mà Thầy Chơn Thanh biết trước ngày ra đi của Thầy.

    Thầy Minh Thông viết :
    “Thầy ra đi rất nhẹ nhàng sau một cơn bệnh nhẹ, giữa tiếng trợ niệm của những người đồng tu”.

    Tại sao Thầy Chơn Thanh ra đi được tốt đẹp như thế? Vì trong ngót 20 năm qua, Thầy chẳng vướng bận lo lắng tiền bạc chùa chiền. Thân tâm Thầy thanh tịnh chỉ biết đi giảng pháp, dạy người niệm Phật cầu vãng sanh và tự mình niệm Phật.

    Hãy nghe lời bình phẩm của Thầy Minh Thông nói về Thầy Chơn Thanh.
    “Thầy Chơn Thanh là một nhà sư điềm đạm nhu hòa luôn luôn hy sinh vì mọi người. Quả thật Thầy đã hành hạnh Phổ Hiền Bồ Tát”.

    Kinh Hoa Nghiêm, Phật nói: “Bồ Tát mà chẳng hành hạnh Phổ Hiền, chẳng chứng thành Phật đạo”.

    Chúng tôi rất tiếc rằng mình không thể có mặt tại Sàigòn để tiếp xúc với những ai đã sống hoặc từng là học trò của Thầy Chơn Thanh, để tìm hiểu nhiều hơn đối với những điều đã viết.

    Chúng tôi hy vọng sau khi sách này được phổ biến rộng, chúng tôi sẽ được cung cấp thêm dữ kiện để lần tái bản bổ túc đầy đủ hơn. Vì với bấy nhiên đây thật quá nghèo nàn, không nói lên được hết công phu tu hành của một bậc Bồ Tát vãng sanh đã lưu lại cho hậu thế chiếc lưỡi Xá Lợi bất diệt.


    Thượng Tọa Thích Chơn Thanh, thế danh Phan Văn Bé, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1949 tại xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, tỉnh Kiến Phong nay là tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ ông Phan Văn Vinh, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Mến. Thượng Tọa có 6 anh em, 2 trai 4 gái. Ngài là anh cả trong gia đình.

    Vốn sinh ra và lớn lên trong gia đình bần nông phúc hậu, giàu lòng tin Tam Bảo, nhất là đã gieo trồng hạt giống Bồ Đề, nên sau khi cơ duyên đã đủ, nhân xuất gia đến thời bộc pháp. Thượng Tọa phát tâm xuất gia đầu Sư với Hòa Thượng Thích Thiện Thọ, trụ trì chùa Phước Lâm, huyện Tân Uyên, Biên Hòa nay là tỉnh Bình Dương. Được Bổn sư ban pháp húy là Nhật Bé, hiệu Chơn Thanh.

    Tại Đại hội đại biểu Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VI, Thượng Tọa được đại hội suy cử làm Chánh Thư ký Ban Trị sự kiêm nhiệm Trưởng ban Hoằng pháp Thành Hội Phật Giáo Thành Phố Hồ Chí Minh cho đến ngày xả báo an tường

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  5. #5

    Mặc định Sau 80 năm, thi hài của một vị Tăng sĩ vẫn như người sống

    Sau 80 năm, thi hài của một vị Tăng sĩ vẫn như người sống

    MOSCOW, Russia: Cuộc khai quật nhục thân của Lạt Ma Tăng Thống (Hambo) Itigelov được diễn ra vào hôm 10 tháng 9 năm 2002 trong khu vực nghĩa trang thuộc vùng phụ cận thành phố Ulan Ude (Liên Bang Nga). Ngài viên tịch và được chôn cất vào năm 1927. Cuộc khai quật này đã được thực hiện dưới sự chứng kiến của thân nhân, giới chức hữu trách và các nhà chuyên môn.

    Nhục thân kim cương bất hoại

    Đây là những thông tin được đăng tải trên các cơ quan truyền thông đại chúng liên quan đến việc Lạt Ma Buryat được khai quật lên từ phần mộ của ngài vào đầu thế kỷ thứ 21. Huyệt mộ này chứa đựng một cổ quan tài bằng gỗ trong đó chôn cất một vị Lạt Ma Phật giáo đang ngồi trong tư thế kiết già. Nhục thân của ngài thoạt nhìn tưởng là được bảo quản như một xác ướp, nhưng thật ra không phải thế. Da thịt của ngài vẫn còn tươi nhuận mịn màng, các khớp xương vẫn có thể co duỗi. Nhục thân của ngài được liệm trong y phục bằng lụa và vải.

    Lạt Ma Tăng Thống Itigelov là một con người có thực, và khá nổi tiếng trong lịch sử nước Nga. Ngài theo học tại Anninsky Datsan (một Đại học Phật giáo tại Buryatia mà nay đã hoang phế) và tốt nghiệp cả hai bộ môn y khoa lẫn triết học (về tánh không), ngài là người đã làm nên bộ từ điển bách khoa về dược học.

    Năm 1911 ngài Itigelov trở thành Lạt Ma Tăng Thống (lãnh đạo giáo hội Phật giáo Nga). Trong khoảng thời gian từ 1913-1917 ngài đã tham gia vào các công tác xã hội giúp đỡ Nga hoàng và đã được hoàng gia Nga mời tham dự ngày kỷ niệm 300 năm của đế quyền Romanov. Ngài cũng là người thành lập ngôi chùa Phật giáo đầu tiên tại thành phố St. Petersburg và Nga hoàng Nikolai II đã tặng thưởng ngài huy chương St. Stanislav vào hôm 19 tháng 3 năm 1917.

    Trong thời Đệ Nhất Thế Chiến, Lạt Ma Itigelov đã thành lập và là nguồn hứng khởi cho một tổ chức có tên là "Huyng Đệ Buryat". Ngài đã giúp đỡ, tài trợ cho quân đội Nga tiền bạc, lương thực, thuốc men đồng thời dựng lên hàng loạt những bệnh viện để chăm sóc các binh sĩ bị thương do các bác sĩ lạt ma điều trị. Với những hoạt động này ngài đã được ân thưởng huy chương St. Anna và nhiều huy chương cao qúy khác.

    Vào năm 1926 ngài đã khuyến cáo các tăng sĩ Phật giáo nên rời khỏi nước Nga khi làn sóng đỏ đang tràn ngập đất nước này –nhưng ngài thì tự nguyện ở lại. Năm 1927, ở tuổi 75, ngài bảo các lạt ma khởi sự nhập thiền cùng với ngài và báo cho họ biết rằng ngài sắp viên tịch. Các vị lạt ma đã không muốn thực hiện nghi thức này trong khi ngài đang còn sống. Thế là ngài đã tự mình nhập định và các vị lạt ma khác tiếp tục nghi thức này ngay khi ngài vừa nhập diệt.

    Lạt ma Ititgelov để lại một văn bản chỉ dẫn cách thức tống táng mình, đó là để ngài ngồi trong tư thế kiết già như lúc thiền định, bỏ vào trong một cổ áo quan bằng gỗ tuyết tùng và chôn cất ngài trong nghĩa trang truyền thống của tu viện. Tất cả đều đã được thực hiện đúng theo yêu cầu. Trong một văn bản khác, ngài yêu cầu chư tăng hãy khai quật nhục thân của mình vài năm sau khi ngài qua đời (đây là điểm khá lý thú vì điều này có nghĩa là ngài đã biết trước rằng nhục thân của mình sẽ bất hoại). Việc này đã được thực hiện hai lần, một lần vào năm 1955 và sau đó là năm 1973, nhưng các tăng sĩ Phật giáo rất sợ hãi nên không dám tiết lộ điều này cho bất cứ ai bởi vì dưới chế độ cộng sản, tôn giáo đã không hề có chỗ đứng trong xã hội. Mãi cho đến năm 2002, nhục thân của ngài mới được khai quật lần nữa và chuyển đến Ivolginsky Datsan (nơi thường trú của vị Tăng Thống Lạt Ma hiện nay). Tại đây nhục thân của ngài đã được khám xét kỹ lưỡng bởi các tăng sĩ, và quan trọng hơn, bởi các nhà khoa học cũng như bệnh lý học. Một văn bản chính thức của giới chức hữu trách được ban hành nói rõ rằng nhục thân của ngài đã được giữ trong tình trạng hoàn hảo, toàn bộ bắp thịt, tế bào nội tạng, gân, da, không có bất kỳ dấu hiệu nào thối rửa. Và điều đáng nói là nhục thân của ngài không hề trải qua một kỹ thuật ướp xác nào.

    Hai năm đã qua, nhục thân của Lạt ma Itigelov đã được để tiếp cận với không khí, với con người mà không cần đến bất cứ chế độ bảo quản nào về nhiệt đô hay độ ẩm. Làm thế nào mà nhục thân của ngài vẫn giữ được trong tình trạng nguyên vẹn như thế là điều không ai hiểu được.

    Đây là MỘT TRƯỜNG HỢP DUY NHẤT ĐƯỢC BIẾT VÀ CÔNG NHẬN VỀ NHỤC THÂN BẤT HOẠI trên toàn thế giới. Những kỹ thuật ướp xác thường được biết đến ở những quốc gia và dân tộc khác nhau, cụ thể như Chili (Chinchora), những xác ướp Ai Cập, những vị thánh Cơ Đốc, các nhà lãnh đạo cộng sản,… Một số xác chết được tìm thấy trong băng tuyết lâu đời, thế nhưng khi đem ra tiếp cận với không khí, chúng đều bị tan rửa chỉ trong vài giờ đồng hồ.

    Tuy vấn đề nhục thân bất hoại đã được đề cập đến trong nhiều kinh sách Phật giáo, thế nhưng chưa có trường hợp nào được công nhận. Mãi cho đến bây giờ.

    Trải qua hai năm khi nhục thân của ngài Itigelov được khai quật, nó không hề thối rửa, không hề bị mốc meo hay bất cứ triệu chứng tiêu cực nào. Ngài Itigelov đã tuyên bố trước khi viên tịch rằng ngài muốn để lại một thông điệp cho toàn thể con người ở trên trái đất. Đấy là một thông điệp không lời. Và bây giờ đến phiên chúng ta đã hiều được thông điệp đó.


    (Theo Bumninorn.ru, Feb 25, 2007- Tâm Hà Lê Công Đa chuyển ngữ)

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  6. #6

    Mặc định

    Lành thay, lành thay!!!
    Nam Mô A Di Đà Phật
    Đệ tử mong cầu cho tất cả chúng sanh các cõi đều thành Phật, địa ngục vắng tênh ...
    Nam Mô A Di Đà Phật
    ... A Di Đà Phật ...
    ... A Di Đà Phật ...
    ... A Di Đà Phật ...

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Mính Tâm Xem Bài Gởi
    Lành thay, lành thay!!!
    Nam Mô A Di Đà Phật
    Đệ tử mong cầu cho tất cả chúng sanh các cõi đều thành Phật, địa ngục vắng tênh ...
    Nam Mô A Di Đà Phật
    Tín nguyện hạnh dầy
    Tâm từ dàng trải
    Quyết giúp chúng sanh
    không đến nơi đó
    còn đến nơi nao

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  8. #8

    Mặc định Một lần hộ niệm vãng sanh

    Một lần hộ niệm vãng sanh

    Tôi là một Phật tử cư ngụ tại miền Đông Bắc nước Mỹ, tiểu bang Pennsylvania. Tiếng là Phật tử nhưng thật ra tôi chỉ mới chập chững bước vào cửa đạo. Tôi biết rất ít về Phật pháp. Nhưng có lẽ nhờ nhân duyên đặc biệt nào đó từ đời trước nên tôi tin tưởng hết lòng vào pháp môn Tịnh độ. Còn nhớ lần đầu tiên khi mới bắt đầu tìm tòi học hỏi về Phật pháp đã gặp ngay pháp môn này, tôi mừng còn hơn bắt được vàng, không gì có thể so sánh được với nỗi vui mừng của tôi lúc đó, không gì có thể đánh đổi được giá trị của pháp môn Niệm Phật đối với tôi.


    Bông hồng thiêu không cháy

    Tôi thầm nhủ: “Thì ra mình có thể thoát ly sanh tử ngay trong kiếp này, chứ không phải tu hành cả mấy tỉ tỉ kiếp mới có thể thành Phật như mình đã từng nghe từ trước và e ngại sẽ không làm được”. Kể từ đó, tôi miệt mài tìm hiểu về pháp môn Niệm Phật, say mê nghe những bài giảng về pháp môn này và cố gắng thu thập tất cả những điểm trọng yếu trong phương pháp tu tập để biết phải làm thế nào mới được vãng sanh Cực Lạc. Tôi ao ước mình sẽ được vãng sanh và thiết tha mong ước tất cả mọi người đều biết tu theo pháp môn này để tất cả đều được vãng sanh Cực Lạc. Tôi được nghe về phương pháp hộ niệm qua sách vở và băng dĩa, nhưng chưa bao giờ chứng kiến tận mắt. Vì thế, tôi thầm mong mỏi có một dịp nào đó mình sẽ được hộ niệm cho một người nào đó để họ được vãng sanh. Nhưng ở vùng này hình như không ai muốn chúng tôi hộ niệm trong lúc sắp lâm chung mà chỉ mời Ni sư đến sau khi người thân đã qua đời và chúng tôi chỉ được cơ hội đó theo quí Sư cô đi tụng niệm mà thôi. Cho đến một hôm…


    Ni Sư cho biết là có một bà cụ đang nằm bịnh viện, bịnh trạng cũng khá trầm trọng và gia đình cho phép chúng tôi đến niệm Phật cho cụ. Chúng tôi mừng khấp khởi, vội vào bịnh viện thăm cụ và cùng với quí Sư cô niệm Phật cho cụ. Bà cụ lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì nằm liệt ra không biết gì cả, khuôn mặt nặng nề trì xuống một cách méo mó và một con mắt thì bị xệ hẳn xuống; lúc tỉnh thì không nói được nhưng đau đớn rên rĩ, vung tay thật mạnh lên khỏi đầu như không còn chịu đựng nổi cơn đau. Nhìn cụ tôi thấy lòng xót xa, thương vô cùng nhưng không biết phải làm sao để giúp cụ, chỉ còn cách niệm Phật để cụ bớt đau. Vì mong ước được niệm Phật cho cụ vãng sanh nên tôi lo lắng đủ điều: tôi lo rằng nếu cụ mất trong bịnh viện thì chúng tôi sẽ không được phép niệm Phật cho cụ như ở nhà, và như vậy thì khó mà giúp cụ về Tây phương Cực Lạc được. Tôi cứ thầm nói với cụ: “Cụ ơi! Cụ khoan chết nghe, cụ rán đợi cho đến lúc bác sĩ “chê” cho cụ về nhà rồi cụ hẳn chết, để chúng con có thể niệm Phật cho cụ suốt ngày đêm để cầu cho cụ được vãng sanh Cực Lạc”. Vào bịnh viện thăm cụ được vài ngày thì có một ngày cụ tỉnh lại, và cụ đã cố gắng nhép miệng niệm Phật theo chúng tôi. Cụ muốn chúng tôi niệm Phật cho cụ, chúng tôi rất mừng và khuyên cụ cố gắng niệm theo hay nghe chúng tôi niệm cũng được. Vài ngày sau, tức là ngày 10 tháng 11 năm 2008, cụ được xuất viện và về đến nhà vào buổi chiều, chúng tôi định bắt đầu từ ngày hôm sau đến nhà niệm Phật cho cụ mỗi ngày 1-2 tiếng đồng hồ. Nhưng vào khoảng 8 giờ tối hôm ấy, Ni sư gọi chúng tôi bảo rằng cụ đang hấp hối. Chúng tôi vội vã lên đường…



    Lúc chúng tôi bước vào nhà thì cụ đã ra đi được một tiếng đồng hồ. Quí Sư cô đang ngồi bên cạnh giường niệm Phật cho cụ. Đôi mắt cụ nhắm nghiền, khuôn mặt cụ từ mắt trở xuống trông vàng nhợt nhạt, màu vàng của một cái thể xác không còn sinh khí. Vầng trán thì màu sậm hơn một tí, nhưng cũng khô khan một màu của người chết. Hai vành môi của cụ thâm đen và hở cách khoảng nhau gần bằng 1 inch. Cổ bên trái của cụ có một vết bầm đen và bầm đỏ lớn khoảng bằng bàn tay. Chúng tôi ngồi xuống sau lưng quí Sư cô niệm Phật cho cụ. Chúng tôi hẹn nhau quyết định sẽ thức trắng đêm nay niệm Phật cho cụ suốt tám tiếng đồng hồ cho đến khi nhà quàng đến mới thôi. Chúng tôi thành tâm và tha thiết niệm Phật: cái tâm thành của một tấm lòng vì người khác mà hết lòng hết sức niệm để mong cho người được vãng sanh, mong cho tiếng niệm và tấm chân tình của mình thấu đến tâm từ bi của đức Phật A-di-đà để được sự cảm ứng; cái tha thiết của một tấm lòng mong cho người người được vãng sanh để cho người người được giải thoát, để cho cõi Ta-bà này bớt đau khổ, để cho mọi người sớm thành Bồ-tát, thành Phật rồi trở lại độ tất cả chúng sanh. Tôi thầm nguyện cầu đức Phật A-di-đà đại từ đại bi hiểu thấu lòng thành của chúng tôi mà phóng hào quang đến tiếp dẫn cụ về Cực Lạc.



    Đêm đã về khuya, chúng tôi vẫn tiếp tục niệm, con cháu của cụ cũng đã tham gia niệm Phật với chúng tôi tự nãy giờ nên sự trợ niệm của chúng tôi mạnh hơn. Chốc chốc anh trưởng ban lại ghé vào tai cụ nhắc nhở cụ niệm Phật và nhất là khẩn cầu đức Phật A-di-đà đến tiếp dẫn. Chúng tôi cứ kiên trì và thành tâm niệm, niệm hoài niệm mãi không ngừng dù chỉ một giây, khi thật lớn tiếng, khi thì vừa vừa, khi nhanh khi chậm. Sau khoảng hơn hai tiếng đồng hồ thì thấy màu môi của cụ đã bớt thâm đen. Rồi một lúc sau màu vàng nhợt nhạt của phần dưới khuôn mặt từ từ thay đổi giống như màu da của một người sống, còn màu sậm của vầng trán thì từ từ nhạt dần để phù hợp với màu da của phần dưới khuôn mặt cho đến khi cả khuôn mặt cùng có một màu giống như người bình thường. Đôi mắt của cụ nhắm lại thẳng hàng với nhau và khép một cách nhẹ nhàng, thoải mái như đang ngủ chứ không phải bị sưng và bị xệ hẳn xuống một bên như lúc nằm trong bịnh viện. Hai vành môi của cụ nhạt dần màu thâm đen và từ từ khép gần lại, mỗi lúc một chút, thật ít đến độ mình không thấy rõ khép gần lại bao nhiêu, nhưng lại thấy rõ sự thay đổi khép lại mới thật là lạ. Vết bầm đen và đỏ ở cổ cũng đã phai nhạt đi phần nào. Trong vòng hai đến bốn tiếng đồng hồ thì sự thay đổi rất là chậm. Từ bốn đến sáu tiếng đồng hồ thì sự thay đổi nhanh hơn một chút. Khoảng sau bảy tiếng đồng hồ thì làn da trên má của cụ bắt đầu mơn mởn ra và hơi săn lại. Vết bầm ở cổ đã nhạt đi rất nhiều. Còn đôi môi? Đôi môi cụ đã khép kín lại, không những khép kín lại thôi mà còn như đang mỉm cười… Nụ cười thật nhẹ nhàng, thoải mái, hoan hỉ. Nét mặt của cụ thật an lạc. Tôi ngồi mà nhìn ngang cũng thấy cụ đang mỉm cười, đứng dậy để nhìn thẳng vào mặt cụ cũng thấy cụ đang cười mỉm, rõ ràng là một nụ cười mỉm thật nhẹ nhàng, kín đáo, thanh thoát, đẹp không thể tưởng tượng, nụ cười mỉm chỉ đủ cho thấy cụ đang mỉm cười nhưng hai vành môi vẫn khép kín, đủ để thấy hai má lún đồng tiền của cụ. Các con của cụ bảo nhau: “Lạ quá! Sao bây giờ mẹ đẹp hơn cả lúc còn sống!”.



    Chúng tôi vẫn niệm đều đều không ngừng nghỉ từ lúc bắt đầu cho đến bây giờ là đã gần 5 giờ sáng. Tự nhiên, anh trưởng ban của chúng tôi đang niệm đều đều bất ngờ thay đổi tốc độ và cường độ, niệm ào ào như vũ bảo và thật lớn tiếng. Chúng tôi cũng niệm theo như vậy nhưng tôi không hiểu tại sao và thầm thắc mắc: “Không biết ông này ổng thấy cái gì mà tự nhiên ổng làm ào ào như vậy”. Ngay lúc đó anh ấy thúc vào tay tôi bảo: “Giờ linh thiêng, niệm mạnh lên!”. Tôi sực nhớ lại, đúng rồi, từ 3 đến 5 giờ sáng là giờ linh thiêng. Tôi liền dùng hết sức, niệm nhanh và thật lớn tiếng với tất cả tâm thành, cả nhóm cũng làm theo. Tiếng niệm của chúng tôi sang sảng vang vang làm chấn động cả bầu không khí tĩnh mịch, ào ào như thác đổ, và hùng dũng như bất chấp mọi trở ngại… Chúng tôi niệm như vậy có lẽ khoảng hơn một tiếng đồng hồ thì nhà quàng đến. Thăm dò điểm nóng thì thấy hơi nóng xuất ra từ đỉnh đầu của cụ nên chúng tôi càng phấn chấn hơn, niệm liên tục không ngừng nghỉ cho đến giờ phút cuối. Lúc ấy tôi nhìn lại thì thấy vết bầm ở trên cổ của cụ đã nhạt mất đến khoảng 95% so với lúc đầu. Sau khi mọi việc đã xong xuôi, anh trưởng ban mới kể rằng lúc nảy anh đang niệm đều đều và cảm thấy như sắp ngủ gục thì tự nhiên hai tay anh run bần bật và có một sức mạnh nào đó từ trong tâm của anh thúc đẩy anh phải niệm thật hùng dũng và thật lớn tiếng như vậy.



    Nhân viên nhà quàng người Mỹ chỉ cử một người đến nên anh trưởng ban của chúng tôi phải phụ một tay khiêng cụ chuyển sang giường khác. Lúc ấy cơ thể của cụ vẫn còn mềm mại đến độ ông nhân viên ấy hỏi anh trưởng ban rằng đã chết bao lâu mà sao cơ thể còn mềm như vậy. Anh này bảo đã 9 tiếng rưỡi đồng hồ, ông ấy ngạc nhiên bảo là chuyện lạ mà ông chưa từng thấy bao giờ.



    Vào ngày hỏa táng, tôi cầm một cánh hoa hồng màu tím nhạt đến trước mặt cụ, khấn rằng: “Thưa cụ, con biết chắc rằng cụ đã được vãng sanh, con xin phép được dâng cụ đóa hoa hồng này, xin cụ ban cho một kỳ tích nào đó để cho mọi người thấy mà tăng thêm lòng tin, phát tâm tinh tấn tu theo pháp môn niệm Phật và cầu vãng sanh để mọi người đều được Vãng Sanh Cực Lạc”. Khấn xong tôi nhẹ nhàng để đóa hoa hồng trên ngực của cụ chỗ gần cánh tay phải và sau đó nắp quan tài được đóng lại.



    Sau khi hỏa thiêu, con cháu của cụ tìm được một số xương còn lưu lại, ngoài ra còn có đóa hoa hồng của tôi. Hoa vẫn còn giữ được màu sắc xanh của đài hoa, còn màu tím nhạt của cánh hoa thì bây giờ trở thành một màu tím tươi thắm hơn vì đóa hoa được ép nhỏ lại một cách cẩn thận, chỉ bằng một lóng của ngón tay út, dày khoảng 2 ly dưới hình dạng của một búp hồng mới hé mở để chỉ đủ cho thấy màu sắc tươi đẹp của cánh hoa bên trong. Hoa rất xinh, đẹp và cũng cứng như xá lợi. Nhiệt độ của lò thiêu nóng khoảng 3000 độ F, thế mà đóa hoa tươi mềm mại và mong manh của tôi, mặc dù rất dễ dàng bi tan vỡ trước một cơn gió thổi, nhưng lại không bị thiêu rụi thành tro mà còn giữ được hình dáng và màu sắc.



    Ôi! PHÁP PHẬT NHIỆM MẦU KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN! Chỉ có những ai tự mình uống nước thì mới biết được nước nóng hay lạnh. Hào quang của Phật tỏa chiếu khắp mười phương, tâm từ bi của Phật bao trùm cả vũ trụ, chỉ cần chúng ta biết Thức Tỉnh, Tu Tập và Quay Về…




    Cực Lạc Tây Phương quê hương còn đó,

    Sao dại khờ nở hờ hửng quay lưng?

    Di Đà đợi - Từ Bi Tâm rộng mở,

    Hào quang nương – ta mau trở về Nguồn.



    Giờ phút cuối xin được Ngài tiếp dẫn,

    Dưới chân Ngài nguyện hết dạ tu hành.

    Một ngày kia khi ước nguyện đã thành,

    Ta Bà khổ - ta xin hết lòng Độ.



    Bằng tất cả tâm thành, tôi đã kể lại những điều tôi được chứng kiến tận mắt từ đầu đến cuối trong cuộc vãng sanh của cụ bà Nguyễn thị Nhật, pháp danh Diệu Minh, 86 tuổi, tại Telford, Pennsylvania – USA.



    A-di-đà Phật! Con xin thành tâm cúng dường công đức này đến tất cả tam thế thập phương chư Phật, chư Bồ-tát, chư Hiền, Thánh, Tăng, nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho tất cả chúng sanh đều biết tu theo pháp môn Tịnh Độ và được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.





    * Vài dòng về tiểu sử của cụ bà Nguyễn Thị Nhật, pháp danh Diệu Minh:



    Cụ sinh năm 1923 tại Hà Đông Việt Nam, mất ngày 10 tháng 11 năm 2008 tại Telford, tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi



    Sinh thời cụ là một người rất hiền lương, làm nghề buôn bán hàng vải. Cụ góa bụa từ năm 52 tuổi, một mình tần tảo nuôi chín đứa con cho đến ngày khôn lớn.



    Cụ rất thành tâm và có lòng tin sâu đối với Phật pháp. Lúc còn ở quê nhà, cụ đi chùa lễ bái và dự những chuyến hành hương, nếu chùa chiền nào cần sự giúp đỡ, cụ lúc nào cũng sẵn sàng. Tâm từ thiện và lòng bố thí rất cao: bằng tiền tài, thực phẩm, quần áo... cụ thường xuyên giúp đỡ cô nhi viện của chùa và những người nghèo khổ. Ngay cả sau năm 1975, mặc dù gia đình đã suy sụp nhưng cụ vẫn tìm cách giúp đỡ những người khốn khổ, hoạn nạn hơn mình. Ở Mỹ, những ngày lễ chùa của cụ không bao giờ vắng mặt cụ. Và lúc nào đến chùa, dù bận cách mấy, cụ cũng rán tìm cho được Sư cô để ân cần dặn Sư cô là lúc nào cụ ra đi thì xin niệm Phật và tụng kinh cho cụ thật nhiều. Ở nhà, cụ niệm Phật theo thời khóa và hết lòng cầu vãng sanh Cực Lạc.



    Cụ mất đi làm cho con cháu vô cùng thương tiếc, nhưng cụ đã được vãng sanh Tây phương Cực Lạc, để lại một tấm gương sáng cho mọi người và con cháu, khiến họ phát khởi lòng tin sâu đậm vào pháp môn Tịnh Độ mà tinh tấn tu tập để tất cả đều được vãng sanh Cực Lạc.



    Quý vị nào cần biết thêm chi tiết, xin gọi anh Nguyễn Phú Nhuận, con trai của cụ, số điện thoại là (627)772-9564.



    11/27/08

    Phật tử Chủng Hải

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  9. #9

    Mặc định Thiền sư Hổ Phách lưu lại nhục thân xá lợi trong tư thế chắp tay niệm Phật .

    Thiền sư Hổ Phách lưu lại nhục thân xá lợi trong tư thế chắp tay niệm Phật .

    Hiện nay, tại Thái Lan, ngoài nhục thân xá lợi của Thiền sư Phổ Sái tại chùa Khánh Vân còn có nhục thân xá lợi của Thiền sư Hổ Phách tại thất Khánh Thọ1 thuộc tỉnh Kanchanaburi, cách thủ đô Bangkok hơn 100km.

    Thiền sư Hổ Phách
    Tiểu sử của Thiền sư Hổ Phách, được ghi bằng Hán văn, dựng ngay trong Tổ đường, nơi thờ nhục thân của ngài tại thất Khánh Thọ. “Thiền sư Hổ Phách tên là Trần Xuân Dụ, phụ thân tên Trần Chiếm và mẫu thân tên Lâm Đức Ma. Ngài là huynh trưởng trong gia đình có ba anh em trai. Ngài sinh tại tỉnh Kanchanaburi vào năm Phật lịch 2447 tức năm Giáp Thìn (1904). Năm 11 tuổi, xuất gia tại chùa Khánh Thọ2 , thờ Hòa thượng Bạch Ngọc3 làm bổn sư. Thiền sư Hổ Phách một đời từ bi thương người, chuyên tâm tu học, chăm chỉ hành thiền, không giữ tài vật, xả bỏ tất cả, trường trai thanh tịnh, chuyên cần tụng niệm, luôn nhập thiền định, cầu sớm ngộ đạo, liễu thoát sinh tử, quyết tâm trừ bỏ tất cả dục tình; do đó đạt được trí tuệ, đạo đức, Phật tử xa gần tôn sùng quy ngưỡng. Vào ngày 1 tháng 2 năm Phật lịch 2493 tức ngày 15 tháng 12 năm Kỷ Sửu (1949), tại thất Khánh Thọ này, Thiền sư Hổ Phách viên tịch một cách nhẹ nhàng như người đang ngủ, hưởng dương 46 tuổi, xuất gia hành đạo được 35 năm. Sau khi ngài viên tịch được 7 ngày, môn đồ đặt kim quan của ngài tại thất Khánh Thọ này, định ba năm sau tổ chức lễ hỏa táng. Nhưng ba năm sau, khi mở nắp kim quan, thân của Thiền sư không bị hủy hoại, da thịt khô sáng, mắt hơi mở, tượng giống như hồi còn sinh tiền không khác. Thiện tín xa gần đều đến tham quan và tất cả đều công nhận rằng Thiền sư Hổ Phách tu hành đắc đạo, đạt được diệu quả. Ban quản lý thất Khánh Thọ cùng nhau bàn bạc, cuối cùng quyết định phủ vàng lên nhục thân của ngài và thờ nhục thân của ngài tại Tổ đường này”.

    Trên đây là tiểu sử của Thiền sư Hổ Phách tại thất Khánh Thọ. Tiểu sử này quá sơ sài, không cho chúng ta biết nhiều về hành trạng cũng như lý do tại sao ngài lại viên tịch tại thất chứ không phải là chùa Khánh Thọ, nơi ngài xuất gia và sự khác nhau thế nào giữa chùa Khánh Thọ và thất Khánh Thọ. Rất may, vì Thiền sư mới viên tịch cách nay khoảng 60 năm nên chắc chắn còn có nhiều người đang sống biết về hành trạng của ngài. Chúng tôi tìm gặp và được nghe Hòa thượng trụ trì chùa Sắc tứ Cảnh Phước ở Bangkok, Thái Lan, là đệ tử út của Thiền sư Hổ Phách kể về cuộc đời bổn sư của mình.

    Theo Hòa thượng trụ trì chùa Cảnh Phước: “Thiền sư Hổ Phách là người Việt, tuy sinh trưởng tại Thái Lan nhưng rất thông thạo tiếng Việt, xuất gia với Hòa thượng Bạch Ngọc tại chùa Khánh Thọ. Phái Annam Nikaya4 tại Thái Lan ngày xưa không có nhiều Tăng sĩ nên sau khi vị trụ trì của một ngôi chùa nào đó viên tịch thì chùa thỉnh chư Tăng từ các chùa khác đến trụ trì. Cho nên khi Hòa thượng trụ trì chùa Hội Khánh5 viên tịch, bổn sư cử Thiền sư đến đây làm trụ trì. Sau đó, các Hòa thượng lại cử Thiền sư đến trụ trì chùa Sắc tứ Khánh Vân (nơi đang thờ nhục thân của Thiền sư Phổ Sái). Rồi ngài lại được Hòa thượng Giác Mẫn cử về trụ trì chùa Long Sơn nhưng không nhận chức vị trụ trì, ngài chỉ xin được ở trong chùa như một vị Tăng sĩ bình thường và chuyên tâm hành đạo. Tại chùa Long Sơn, hàng ngày ngài lấy việc tụng kinh, bái sám và hành thiền làm thời khóa chính. Trong thời gian này ngài cũng thường xuyên nhập thất để tọa thiền và niệm Phật, không giao tiếp với bất cứ ai. Khi nào chùa có việc gì quan trọng thì viết giấy gởi vào thất cho ngài. Nhận thấy chùa Long Sơn không phù hợp với việc tu học của mình nên cuối cùng ngài xin về thất Khánh Thọ. Tại đây, ngài nhập thất, hàng ngày tụng kinh, niệm Phật, tọa thiền, chỉ ăn mỗi ngày một bữa vào giờ Ngọ, do thị giả mang vào thất. Trong thời gian cư ngụ tại chùa Long Sơn, dù ngài thường xuyên nhập thất nhưng lại giúp cho rất nhiều chư Tăng, Phật tử Việt cũng như Thái về mặt phong thủy trong xây dựng chùa hoặc nhà. Ngài chỉ ở trong thất, ghi trên giấy phương hướng, ngày giờ, tuổi tác xây dựng v.v... Đây là điều hiếm có nên chư Tăng và Phật tử cho rằng ngài đã chứng quả A la hán. Sau khi ngài viên tịch một tuần, da thịt của ngài không đông cứng lại mà vẫn mềm mại như người đang sống, trong tư thế ngồi chắp tay niệm Phật. Do đó các đệ tử của ngài dùng dây cột vào bụng ngài để giữ thăng bằng, giúp cho nhục thân ngài có thể ngồi bền vững6 , sau đó đóng một quan tài hình trụ để quàn nhục thân của ngài tại thất Khánh Thọ. Hai năm sau khi mở quan tài hình trụ ra để nhập tháp thì thấy nhục thân của ngài vẫn còn nguyên vẹn trong tư thế ngồi chắp tay niệm Phật. Phật tử xa gần đến đảnh lễ và biết ngài đã đắc quả nên thờ nhục thân của ngài tại Tổ đường thất Khánh Thọ cho tới ngày nay”.

    Theo hai nguồn tư liệu trên, chúng ta biết được Thiền sư Hổ Phách tuy sanh ở Thái Lan nhưng nói thông thạo tiếng Việt. Chỉ muốn chuyên tâm hành đạo nên tuy được cử làm trụ trì nhiều ngôi chùa nhưng ngài đều từ chối, cuối cùng chọn thất Khánh Thọ làm nơi hành đạo và viên tịch tại đây. Nhục thân của ngài ngày nay được phủ một lớp vàng bên ngoài7 có lẽ do phần bụng bị hư hoại. Nhưng điều đặc biệt, tư thế ngồi của ngài hoàn toàn khác tư thế ngồi của các nhục thân mà chúng ta biết được. Nhục thân của các vị cao tăng đắc đạo chúng ta biết được từ trước đến nay ngồi theo tư thế thiền định kiết già hoặc bán già, còn tư thế ngồi của Thiền sư Hổ Phách là chắp tay niệm Phật. Như vậy, ngài viên tịch trong khi đang niệm Phật và vãng sanh.

    1. Tên chữ Hán của thất Khánh Thọ là Khánh Thọ đường. Tuy nhiên, ngày nay cũng trở thành chùa. Nhưng để phân biệt với chùa Khánh Thọ nơi ngài Hổ Phách xuất gia, chúng tôi gọi nơi tôn thờ nhục thân của ngài là thất Khánh Thọ.

    2. Chùa Khánh Thọ nếu nói đủ là Sắc tứ Khánh Thọ tự, thuộc tỉnh Kanchanaburi, cách thất Khánh Thọ (nơi thờ nhục thân của ngài Hổ Phách) khoảng 30km.

    3. Hòa thượng Bạch Ngọc có hình thờ tại chùa Khánh Thọ và theo bài vị ghi tại Tổ đường thì Hòa thượng Bạch Ngọc thuộc đời thứ 43 tông Tào Động. Do vậy, ngài Hổ Phách thuộc đời 44 tông Tào Động.

    4. Chỉ cho các ngôi chùa Việt Nam (Bắc tông) tại Thái Lan. Ngày nay thống kê có 17 ngôi chùa nhưng không còn vị trụ trì nào là người Việt.

    5. Chùa Hội Khánh trước kia gần con sông Chaophraya của Bangkok. Theo lời của Hòa thượng trụ trì chùa Cảnh Phước thì đa số các ngôi chùa Việt Nam ở Thái Lan đều nằm gần những con sông (chùa Khánh Thọ cũng nằm gần sông) để tiện liên lạc với Việt Nam.

    6. Chính vì điều này mà sau này phần bụng của ngài bị hư hoại, không còn nguyên vẹn. Nhìn vào tấm hình chụp nhục thân của ngài ba năm sau khi viên tịch sẽ thấy phần bụng của ngài không còn nguyên vẹn.

    7. Trong khi nhục thân của Thiền sư Phổ Sái tại chùa Khánh Vân thì còn được giữ nguyên theo trạng thái nguyên thủy tức không phủ vàng như nhục thân Thiền sư Hổ Phách, không phủ lớp sơn như nhục thân của hai ngài Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở Việt Nam.
    THÍCH GIÁC DŨNG

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

  10. #10

    Mặc định

    "Hỡi ơi, kiến thức càng lớn, kiến chấp càng sâu dày, nghiệp duyên càng nặng, tín tâm càng nhỏ, ngã ta càng to, tro cốt càng nhiều, sinh tử bao giờ mới dừng lại ? Kiến chấp bỏ xuống, nghiệp mỏng, duyên dày, tín tâm vô lượng, ngã ta không còn, chỉ còn lại kim cương và lưu ly sáng ngời như hào quang tiếp dẫn của Đức A Di Đà từ cõi Tịnh Thổ Cực Lạc Tây Phương."
    Thật là hay cho câu nói này. Chỉ có người đã trãi qua thăng trầm đường Đời, thanh tịnh tâm cùng Đạo mới đúc kết được chân lý ấy.

  11. #11

    Mặc định Vãng sanh cần phải có nhân duyên đầy đủ

    Vãng sanh cần phải có nhân duyên đầy đủ
    Thứ tư, 01 Tháng 4 2009 08:56 Diệu Âm (site vienduc.de)


    Hỏi: Ngày hôm qua cháu cùng cô Diệu Thường và ban hộ niệm có hộ niệm cho một bác trai 70 tuổi, bác thường xuyên đưa đón vợ mình đi hộ niệm. Ngay cái hôm hộ niệm cho một bà cụ được vãng sanh vào ngày 12 tháng giêng, thì vợ bác trở về thấy bác đã bị té trong nhà tắm, nhưng miệng thì cứ kêu "Phật ơi cứu con, Phật ơi cứu con và niệm mười niệm", nhưng gia đình vẫn đưa bác vào bệnh viện cấp cứu, nhưng bác sỹ từ chối và mang bác về nhưng vẫn được thở ô xy, nhưng đã mê man bất tỉnh. Cô Diệu Thường đến khai thị và cùng ban hộ niệm, niệm Phật cho bác được 12 tiếng đồng hồ (sau khi tắt thở).

    Nhưng khi khám xác thì xác cứng và ấm ngực, bác đã không được vãng sanh. Ban hộ niệm buồn lắm chú ơi! Tại sao bác thành tâm như vậy mà không được vãng sanh vậy chú? Có phải tại gia đình đưa bác vào cấp cứu trong bệnh viện nên thần thức đã bị tán loạn không chú? Trong vòng 49 ngày mình có thể làm gì cho bác ấy được vãng sanh không chú? Bác rất có tâm đạo, thường xuyên niệm Phật, và thường chở vợ mình đi niệm Phật, đáng lý ra bác có rất nhiều công đức, phải có cơ hội vãng sanh nhiều chứ chú, cháu buồn lắm!!

    Kính thư
    cháu Huệ Hạnh
    Nguyễn Thị Hồng

    Trả lời:
    Người được vãng sanh không phải dễ dàng. Tất cả đếu phải có nhân có duyên đầy đủ mới được. Đừng thấy mình hộ niệm được một số người ra đi với thoại tướng tốt đẹp thì tưỏng rằng với ai cũng được phước phần này.

    Người niệm Phật mà sau cùng không được vãng sanh chính vì nhân niệm Phật đời này chưa thành tựu mà nhân trong nhiều đời trong quá khứ đã kết tựu về.

    Nhân quả thông ba đời. Cận tử nghiệp rất dễ sợ! Người niệm Phật mà ỷ lại hay sơ ý, thi dù có hộ niệm, người đó cũng khó tránh khỏi ách nạn của cận tử nghiệp.

    Hộ niệm là trợ giúp người ra đi thêm Tín Nguyện Hạnh để vãng sanh, chứ Hộ niệm đâu thể quyết định giùm cho người ra đi.

    Chính người ra đi phải quyết định. Chính Tín-Nguyện-Hạnh của người ra đi phải đầy đủ. Điều này chính người đi phải lo huân tu, phải ngày đêm tự mình cố gắng mới được, chứ không phải hỗ trợ cho vợ con tu hành là đủ, không phải cúng dường cho chùa chiền là xong, không phải giúp cho người khác tu hành là Phật thương sẽ cứu mình đâu...

    Tâm Phật tịch tĩnh, có cầu có ứng, cứu độ tùy duyên, không có phan duyên. Giống như cái chuông, có đánh có tiếng. Liệu người tu hành có cầu đúng không. Nói rõ hơn, tất cả do chính tâm mình quyết định vậy. Cho nên, phải nắm rõ đường thành đạo.

    Nghe kể lại sự việc, thì hình như ông bác này nặng về tu phước, chứ không nặng tu vãng sanh. Tu như vậy chẳng qua là kiếm chút phước báu nào đó mà thôi.

    Tu phước thì hưởng phước. Nhưng thưa thực rằng, hưởng được phước cũng không phải dễ, vì phải đợi cái duyên phước đến mới hưởng được cái phước này. Giả như có hưởng được phước đi nữa, thì cái phước này liệu có bao phủ được nghiệp chướng trong nhiều đời nhiều kiếp không?

    Thành tâm niệm Phật, cầu sanh Tây phương, khi bị hoạn nạn thì hãy niệm "A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật,..", phải nhiếp tâm vào câu Phật hiệu để cầu vãng sanh Cực Lạc, chứ sao lại kêu "Phật ơi cứu con, Phật ơi cứu con,... ". Cứu gì đây? Người đó đang xin Phật cứu cái tai nạn của mình hay cứu cho mình khỏi bị chết chăng?

    Hãy tha thiết cầu sanh Cực lạc thì mới có cảm ứng, mới hợp với đại nguyện của Phật. Nếu sơ ý cầu lệch ra khỏi quỹ đạo này thì chính mình bị lạc đường. Tất cả đều do tâm mình tạo ra. Phật chính là tâm, tâm chính là Phật. Tâm nguyện cuối cùng là điểm giải quyết tương lai.

    Cho nên, chính người trong cuộc đang hướng về đâu trong lúc này. Nếu chuyển đổi tâm ý, thay vì :"mười niệm tất sanh", thì công đức niệm Phật (nếu có) đã biến thành phước báu nhân thiên, hoặc bất thành tựu.

    Ông bác thường chở vợ đi hộ niệm, tại sao ông không chịu tham gia hộ niệm với vợ vậy? Có lẽ chính ông bác này cũng ỷ lại vào vợ chăng?

    Người nào ăn nấy no, ai tu nấy chứng. Không ai tu giùm cho ai được!

    Vậy người niệm Phật hãy nhiếp tâm niệm Phật, đừng quá ỷ lại. Mình ưng thuận cho người niệm Phật, mà chính mình không niệm Phật, thì chủng tử Phật trong tâm của mình yếu, hoặc không có. Vì thế nên lúc hữu sự không cất nổi tiếng Phật hiệu.

    Muốn nhân chủng Phật mạnh trong tâm thì làm sao?

    Ngày đêm niệm Phật, huân tu câu Phật hiệu, niệm thành thứ phản xạ tự nhiên mới được.

    Niệm Phật có Phật, niệm ma có ma. Người không niệm Phật thì ma, niệm cạnh tranh hanh tỵ, niệm lý hay luận giỏi, niệm lục đạo vô thường. Niệm lục đạo thì đành phải chịu sanh tử luân hồi.

    Đừng lý luận, triết lý, nói huyền, nói diệu nữa. Đừng nên tham gia vào các cuộc hội đàm, tranh cãi, thị phi, hơn thua nữa. Những thứ này nó làm mình phải mê muội, tâm hồn không thanh tịnh. Tâm loạn thì đường giải thoát bị che kín. Những cái tâm hăng sùng, cạnh tranh, hơn thua, lý lẽ... chính là những chiếc lưỡi hái do chính mình tạo ra, nó sẽ chờ ngày đoạn mất cơ hội thoát nạn của chính mình. Uổng lắm!

    Vậy tốt nhất hãy thành tâm niệm Phật, chí thành niệm Phật. Thành tất linh, một ngày nào đó mình được thành đạo. Đừng để quá trễ mà ân hận.

    Cho nên, cố công niệm Phật, phải tự mình làm lấy chứ không thể làm một chút ít việc thiện là đủ đâu. Nên nhớ căn nghiệp của mỗi người chúng ta lớn lắm, không thể sơ ý được.

    Người khi chết, trong vòng 8 giờ mà bị đụng chạm, bị cắt mổ, bị đưa vào ướp xác, v.v... rất khó thoát nạn. Người biết hộ niệm phải hiểu rõ chuyện này. Nếu khinh thường thì khó có thể tránh khỏi ách nạn.

    Trong vòng 49 ngày, thần thức còn có cơ hội siêu sanh. Gia đình nên chí thành cầu siêu, làm thiện làm phước, phóng sanh để hồi hướng. Hằng ngày tụng kinh niệm Phật và khai thị cho hương linh sớm giác ngộ mà phát tâm niệm Phật cầu vãng sanh. Việc hiếu nghĩa thì người sống phải cố gắng làm, thành tâm làm, đây là điều cần thiết, chớ nên sơ suất vậy.

    Diệu Âm
    (1/4/09)
    Last edited by Vân Quang; 22-10-2009 at 11:30 PM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Hồi Hướng Vãng Sanh Tây Phương!
    By khang in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 18
    Bài mới gởi: 23-08-2011, 02:24 PM
  2. Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 09-04-2010, 09:50 AM
  3. Cực Tịnh Sanh Động
    By hoanganthi in forum Đạo Phật
    Trả lời: 45
    Bài mới gởi: 14-08-2008, 04:02 PM
  4. Sanh Tử Và Luân Hồi
    By kimcang in forum Đạo Phật
    Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 10-07-2008, 10:28 AM
  5. Tướng Điềm Tái Sanh
    By kimcang in forum Mật Tông
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 07-05-2008, 09:05 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •