kết quả từ 1 tới 6 trên 6

Ðề tài: Trích lục từ Khai Thị của Triệt Ngộ ĐS

  1. #1

    Mặc định Trích lục từ Khai Thị của Triệt Ngộ ĐS

    TÂM VÀ CẢNH

    (Trích lục từ Khai Thị của Triệt Ngộ ĐS, Tổ Thứ Mười Hai, Tịnh Độ Tông)

    Tất cả cảnh giới chỉ do nghiệp chiêu cảm, chỉ do tâm hiển hiện, đương thể cảnh giới ấy tức không. Phàm có tâm thì không thể không có cảnh. Cho nên, không hiển hiện cảnh Phật thì hiển hiện chín cõi, không hiển hiện cảnh Tam Thừa thì hiển hiện cảnh Lục Phàm, không hiện cảnh trời, người, ngạ quỷ, súc sanh thì hiện cảnh địa ngục...Cho nên nói: "Chưa có cảnh vô tâm cũng không có tâm vô cảnh". Quả ắt phải từ nhân, nhân ắt phải kết quả. Nếu người biết được đạo lý tâm cảnh, nhân quả nhất như bất nhị mà còn không niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ thì tôi không tin.

    Tâm thể vô niệm chỉ chư Phật mới chứng đắc, còn từ Đẳng Giác trở về trước đều thuộc hữu niệm. Phàm khởi một niệm, nhất định sẽ rơi vào mười cõi, vô niệm thì vượt ngoài mười cõi. Vì không một niệm nào vượt ra khỏi mười pháp giới. Cho nên, vừa khởi một niệm tức đã có một duyên thọ sanh. Người biết rõ lý này mà không niệm Phật thì chưa từng có vậy.

    Tâm tạo nghiệp thì tâm cũng chuyển được nghiệp. Nghiệp do tâm tạo thì nghiệp tùy tâm chuyển. Nếu tâm chẳng chuyển được nghiệp, tức bị nghiệp trói buộc. Nếu nghiệp chẳng chuyển theo tâm tức nghiệp trói buộc tâm. Vì sao tâm chuyển được nghiệp? Vì tâm hợp với đạo, tâm hợp với Phật. Vì sao nghiệp trói buộc được tâm? Vì tâm nương gá theo trần cảnh, mặc tình tạo tác, mặc tình lãnh thọ.

    Ở thế gian, cái đáng quý trọng nhất là tinh thần, đáng mến tiếc nhất là thời gian. Một niệm thanh tịnh là duyên khởi của Phật giới, một niệm nhiễm ô là sanh nhân vào chín cõi. Phàm động một niệm tức tạo chủng tử mười cõi, như thế há chẳng quý trọng ư? Một ngày đã trôi qua, mạng cũng theo đó mà giảm dần, một tấc thời gian tức một đoạn thọ mạng, như thế há chẳng mến tiếc ư? Nếu biết tinh thần là cái đáng quý trọng, chớ nên uổng phí, phải nên niệm niệm chấp trì danh hiệu Phật.

    Sự sanh tử của con người chỉ do hai lực tạo nên, một là tâm lực thật nhiều mối, bên nào nặng thì nghiêng về. Hai là nghiệp lực, như người mang nợ, mạnh thì kéo dắt trước. Nghiệp lực rất lớn mà tâm lực còn lớn hơn. Vì nghiệp lực không có tự tánh, chỉ hoàn toàn nương vào tâm. Tâm hay tạo nghiệp, thì tâm cũng chuyển được nghiệp. Tâm lực có nặng, nghiệp lực có mạnh thì mới dẫn dắt thọ sanh. Nếu dùng tâm nặng này mà tu tịnh nghiệp thì tịnh nghiệp rất mạnh. Tâm nặng nghiệp mạnh thì chỉ một bề nghiêng về Tây phương mà thôi. Thế thì mai sau thân chung mạng tận nhất định vãng sanh Tây phương chứ chẳng thể sanh vào chốn khác. Như cây lớn, tường cao bình thường đã nghiêng về hướng Tây, mai sau nếu có đổ hẳn sẽ không đổ về hướng khác.

    Như tin mà chẳng phát nguyện thì cũng như chẳng tin. Đã phát nguyện mà chẳng hành trì, thì cũng như chẳng nguyện. Hành trì mà chẳng dõng mãnh, thì cũng như chẳng hành. Hành trì sở dĩ không dõng mãnh là do nguyện chẳng thiết tha; nguyện sở dĩ chẳng thiết tha là do lòng tin chẳng chân thật. Tóm lại, sanh lòng tin chân thật quả rất khó. Nếu Tín thật đã chân, thì nguyện tự sẽ tha thiết; nguyện thật đã tha thiết, thì hành trì tự nhiên dõng mãnh. Tín đã chơn, nguyện đã thiết, thêm sức hành trì dõng mãnh, thì nhất định vãng sanh Tịnh Ðộ.

    Mộng ở Ta Bà là từ mộng vào mộng, mộng rồi lại mộng, mãi mãi trầm mê. Còn mộng ở cõi Cực Lạc là từ mộng để vào giác, giác rồi lại giác, dần dần đạt đến Đại Giác. Thế nên, mộng tuy đồng mà nguyên nhân của mộng thì chưa từng đồng.


    http://www.youtube.com/watch?v=QGYgLrzFf_k
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  2. #2

    Mặc định

    Chương 3: TÌNH ANH EM


    兄道友,弟道恭,兄弟睦,孝在中。


    Huynh đạo hữu, đệ đạo cung.
    Huynh đệ mục, hiếu tại trung.

    Anh thương em, em kính anh.
    Anh em hòa, là hiếu kính.



    1. Làm anh phải thương mến các em của mình, các em cũng biết kính trọng anh của mình. Anh em chị em có thể sống chung hòa thuận, đó là hiếu kính cha mẹ.


    Có một bài thơ như sau:

    Đồng khí liên chi các tự vinh,
    Ta ta ngôn ngữ mạc thương tình.
    Nhất hồi tương kiến nhất hồi lão,
    Năng đắc kỉ thời vi đệ huynh.

    Tạm dịch:
    Cùng chung cha mẹ ai nấy tiến,
    Đừng cho xung đột tổn thâm tình.
    Mỗi lần gặp mặt già thêm mỗi,
    Còn làm huynh đệ được mấy đêm.

    (Quảng Chánh dịch)

    Bản dịch khác:
    Anh em cha mẹ sinh ra,
    Mỗi người mỗi cảnh mỗi nhà mỗi vinh.
    Ai ơi giữ lấy thân tình,
    Đừng vì tự lợi mà sinh xáo xào.
    Mỗi lần gặp mặt mỗi chào,
    Nhìn anh em đấy, già sao thêm già.
    Anh em chung một mái nhà,
    Lần hồi còn được bảy ba mấy lần.


    Anh chị em trong nhà đều cùng được cha mẹ sinh ra, như các nhánh của cùng một cây. Mặc dù phát triển riêng biệt nhưng chúng đều có chung một gốc. Chúng ta không nên tranh cãi và làm tổn thương lẫn nhau. Thời gian trôi qua rất nhanh, mỗi người chúng ta sẽ mau chóng có gia đình và sự nghiệp riêng. Khi đó ta không còn sống chung dưới một mái nhà nên khó có cơ hội gặp gỡ. Mỗi lần gặp lại sẽ thấy người kia già đi. Đời người chỉ có vài chục năm ngắn ngủi; chúng ta được làm anh chị em trong bao lâu? Nếu chúng ta không hòa thuận khi còn nhỏ, khi lớn lên ta sẽ gây gổ mỗi khi gặp mặt. Nhưng liệu chúng ta có sức tranh đấu đến khi da nhăn đầu bạc? Và khi chết đi, ta sẽ ôm theo nỗi oán ghét đi vào địa ngục. Cổ nhân nói: “Đồng thuyền cộng độ, yếu tu ngũ bách niên” (tu năm trăm năm mới đi cùng thuyền). Vậy phải mất thời gian bao lâu mới có thể là anh chị em của nhau? Hãy nghĩ về điều này, thật sự không dễ dàng chút nào. Tất cả mối quan hệ nhân sinh đều bắt đầu từ vợ chồng; phát triển theo chiều dọc là quan hệ cha con, theo chiều ngang là quan hệ anh chị em. Ba mối quan hệ căn bản này mở rộng thành chín họ (cửu tộc) - là họ hàng thân thiết nhất của một người. Làm thế nào chúng ta có thể không yêu thương và gần gũi họ?


    Người xưa ví anh em như “thủ túc” (tay chân) nhằm nhấn mạnh sự liên kết không thể tách rời của anh chị em. Những đứa con đối với cha mẹ như các ngón tay cùng một bàn tay. Các ngón tay có dài ngắn khác nhau nhưng đều gắn liền với bàn tay, một ngón đau thì cả bàn tay cùng đau. Những đứa con dù thông minh hay ngu ngốc, hiếu thảo hay ngỗ nghịch thì chúng cũng như lòng bàn tay và lưng bàn tay, đều thuộc một bàn tay. Những đứa con có thể giàu nghèo, sang hèn khác nhau. Dẫu cho cha mẹ được những đứa con giàu có chu cấp thức ăn ngon, quần áo đẹp, họ vẫn không thể an lòng khi thấy những đứa khác kém may mắn hơn. Nếu chúng đấu đá làm tổn thương lẫn nhau thì họ còn đau buồn hơn nữa. Một người con hiếu thảo luôn biết yêu thương chăm sóc anh chị em. Khi thành công trong cuộc sống, anh ta sẽ không quên quan tâm và giúp đỡ anh chị em của mình.


    Trong thời kỳ Tam Quốc (cuối triều nhà Hán, năm 241 - 277 sau công nguyên), Tào Tháo làm Ngụy Vương, nhiều lần muốn đưa người con trai thứ ba vốn được sủng ái là Tào Thực thừa kế ngai vàng thay cho thái tử Tào Phi. Khi Tào Phi kế vị, ông phế bỏ Hán Hiến Đế và lên ngôi hoàng đế. Ông liên tục bày mưu giết em ruột là Tào Thực. Mặc dù mẹ ông là thái hậu, bà cũng không thể ngủ yên vì lo lắng cho con. Sau cùng, Tào Phi đày em trai đến vùng đất xa. Khi Tào Thực đến cung điện chào từ biệt, ông bắt người em sáng tác một bài thơ trong vòng bảy bước chân. Nếu Tào Thực thất bại, ông sẽ lấy đó làm cớ để xử tội. Nào ngờ, trong thời gian ngắn chỉ bảy bước chân, Tào Thực đã ngâm bài thơ bảy bước - “Thất Bộ Thi” trứ danh:

    Chử đậu nhiên đậu ky,
    Đậu tại phủ trung khấp;
    Bổn thị đồng căn sinh,
    Tương tiễn hà thái cấp?

    Bản dịch Bài thơ bảy bước:

    Củi đậu đun hột đậu
    Đậu trong nồi khóc kêu
    Cùng sinh trong một gốc
    Bức nhau chi lắm điều
    (Tử Vi Lang)


    Tào Thực ngụ ý: “Em như hạt đậu trong nồi, và cành đậu - nhiên liệu dùng để đốt lửa nấu là chính là anh. Hạt đậu và cành đậu đều từ một gốc. Anh à, sao anh lại nỡ hại em như vậy?” Lúc đó thái hậu đang bí mật theo dõi, bà không thể chịu đựng thêm nữa. Bà chạy ra ôm lấy Tào Thực và òa khóc. Tào Phi cũng rơi nước mắt, ông chào tạm biệt Tào Thực.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  3. #3

    Mặc định

    Người xưa nói: “Đế vương chi gia vô thân tình!” (hoàng gia vốn không có tình thân). Sự ham muốn quyền lực và vương vị đã khiến cho cha con - anh em giết hại lẫn nhau vô số lần. Tuy nhiên vẫn có những trường hợp ngoại lệ. Vua Thuấn được khen là đại hiếu do vẫn giữ lòng hiếu thảo với cha và mẹ kế mặc dù họ nhiều lần hãm hại ông. Người em trai là con mẹ kế cũng đồng lõa với họ. Ông không những không thù hằn em mà còn ban cho tước vị và bổng lộc. Ông thật sự hiểu được lòng của cha mẹ.


    Một ví dụ khác là vua Đường Huyền Tông của nhà Đường. Bởi vì ông có công dẹp loạn nên được anh trai nhường ngai vàng. Sau khi lên ngôi, ông cho sửa chữa cung điện nơi ông ở khi còn là hoàng tử, xây một tòa tháp “hoa ngạc tương huy” (sự soi sáng lẫn nhau giữa đài hoa) ở đó. Ở bốn mặt, ông xây năm cung điện cho bốn anh em trai và một người em họ, gọi là “Ngũ Vương trạch”. Nếu leo lên đỉnh tòa tháp, người ta có thể nhìn thấy năm cung điện giống như là đài hoa và năm cánh hoa.


    Đường Huyền Tông thường đi săn với các anh em. Trong suốt thời gian này, họ đối xử với nhau như một gia đình bình thường; không câu nệ nghi lễ vua tôi. Nếu anh em ông có ai bị bệnh, ông không thể ăn ngon ngủ yên và liên tục hỏi thăm sức khỏe. Có lần ông làm cháy sém râu của mình khi sắc thuốc cho em trai. Điều người ta hay kể nhất về ông là “hoa ngạc bị” (chăn đài hoa) và “hoa ngạc sàng” (giường đài hoa) - ông có một cái gối dài, một cái chăn lớn và một cái giường lớn được thiết kế cho sáu người nằm để ông và anh em có thể cùng ngủ chung. Do vậy, từ “hoa ngạc” đã được dùng để biểu trưng cho tình anh em.


    Trong các gia đình thời xưa, cha mẹ thường ẵm đứa con nhỏ trên một tay và tay kia dắt đứa lớn. Khi ăn, những đứa con ngồi dọc theo hai bên cạnh của cái bàn dài. Quần áo của đứa lớn sẽ được dùng lại cho đứa nhỏ. Thậm chí chúng còn ngủ chung gối và đắp chung chăn nên rất gần gũi nhau. Khi những đứa con lớn lên và lập gia thất, trong nhà có thêm vài thành viên mới. Sự xung đột bắt đầu xảy ra. Lúc đó, phẩm chất đạo đức của mỗi đứa sẽ bộc lộ rõ ràng. Nhìn chung, gia đình nào dạy con cái từ nhỏ phải biết kính trọng và thương yêu anh chị em thì lúc này sẽ yên ổn đầm ấm hơn.


    Những gia đình ngày nay thường có ít con hơn ngày trước. Chủ nghĩa cá nhân bắt đầu nảy sinh. Không chỉ những đứa trẻ là con một không có khái niệm gì về tình anh em, những đứa có anh chị hoặc em vẫn có tính ích kỷ; chúng không biết nhường nhịn, chia sẻ và bao dung lẫn nhau. Một gia đình có thể có ba hoặc bốn lối sống khác nhau, họ gọi đó là “tự do” và “tiến bộ”. Họ không biết rằng như thế là đang quay ngược về xã hội nguyên thủy - một xã hội không có pháp luật và luân thường đạo lý. Chúng ta không nên bỏ lỡ thời gian nữa, hãy nhanh chóng khôi phục lại các giá trị đạo đức xưa!

    __________________
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  4. #4

    Mặc định

    財物輕,怨何生,言語忍,忿自泯。


    Tài vật khinh, oán hà sanh.
    Ngôn ngữ nhẫn, phẫn tự mẫn.

    Tiền của nhẹ, oán nào sinh.
    Lời nhường nhịn, tức giận mất.


    2. Khi anh em chị em hiểu được coi trọng tình nghĩa hơn cả tài vật, bỉ thử không vì tranh giành tài vật mà sanh lòng oán hận. Nếu bỉ thử biết cẩn thận lời nói, có tâm nhẫn nại, có thể bao dung nhịn nhường, thì lòng oán hận sẽ tự nhiên tiêu mất.


    Khổng Tử nói: “Người quân tử có ba điều răn: Khi còn trẻ khí huyết chưa định (thân thể chưa phát triển đủ), nên răn về sắc dục; tuổi tráng niên, khí huyết cương cường, nên răn về tranh đấu; về già, khí huyết đã suy, nên răn về tính tham”.
    (Tử viết: “Quân tử hữu tam giới: thiểu chi thời, huyết khí vị định, giới chi tại sắc; cập kì tráng dã, huyết khí phương cương, giới chi tại đấu; cập kì lão dã, huyết khí kí suy, giới chi tại đắc”.)

    (trích Luận Ngữ, thiên Quí Thị, chương XVI.7, Nguyễn Hiến Lê chú dịch và giới thiệu)


    Con người tranh đấu trong suốt cuộc đời của mình. Trên thế giới có hàng triệu người khác nhau và họ tranh giành hàng triệu thứ khác nhau. Tuy nhiên, các thứ tranh này có thể quy về hai loại chính: một là tranh danh, một là tranh lợi. Hầu hết mọi người đều tranh cả hai thứ trên.


    Khi tham đắm danh lợi, họ có thể từ bỏ cả tình thân, huống chi là những thứ khác. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng cách cho họ thêm nhiều tiền tài và địa vị không? Vô ích! Nó giống như ta cho củi vào lửa vậy; lửa chỉ cháy dữ dội hơn mà thôi. Lòng tham của họ sẽ gia tăng, làm họ càng đấu tranh hăng say hơn. Có câu: “Lòng người không biết đủ, cũng như rắn muốn nuốt voi” (Nhân tâm bất túc xà thôn tượng), “Lòng tham muốn như hố sâu không đáy” (Dục vọng do như vô để động). Nguyên do của sự tranh chấp không phải vì thiếu thốn, mà ở nơi lòng tham. Tham không biết đủ, tham không biết chán. Vì thế, giáo dục cho người ta không tranh mới là phương pháp đúng đắn. Nó giải quyết được vấn đề cá nhân, phục hồi lại trật tự trong xã hội và chấm dứt chiến tranh.


    Không có sự giáo dục nào quan trọng hơn giáo dục trẻ em. Sự giáo dục này phải bắt đầu từ trong gia đình. Cổ nhân nói: “Có yêu thương người thân thì mới có lòng nhân với người khác, có lòng nhân với người khác thì mới có thể yêu thương muôn loài” (Thân thân nhi nhân dân, nhân dân nhi ái vật). Do vậy, trẻ em phải được học về “hiếu” và “đễ” trước tiên.


    Tăng Tử nói: “Thận trọng trong tang lễ cha mẹ, truy niệm và tế tự tổ tiên xa, thì đức của dân sẽ thuận hậu (Tăng Tử viết: “Thận chung truy viễn, dân đức qui hậu hĩ” - Trích Luận Ngữ, Thiên I - Học Nhi, chương I.9, Nguyễn Hiến Lê dịch). Một người con hiếu thảo phải làm tròn rất nhiều bổn phận và nghĩa vụ, trong đó bao gồm việc chăm sóc cha mẹ khi họ còn sống và thờ cúng khi họ qua đời. Không những thế, anh ta còn luôn chăm chỉ thực hiện trong suốt cuộc đời của mình. Như thế, tự nhiên anh ta sẽ tuân thủ pháp luật và có lòng tốt, biết quan tâm đến người khác. Lòng hiếu thảo còn chứa đựng cả sự kính trên nhường dưới giữa anh em trong nhà, như đã nói ở trên: “Huynh đệ mục, hiếu tại trung” (anh em thuận, chính là hiếu). Làm thế nào để anh em hòa thuận? Phải dạy chúng “không tranh”. Dạy như thế nào? Chúng phải học cách “nhẫn” - nhẫn khi bị trách mắng, nhẫn khi chịu đau khổ, nhẫn khi gặp khó khăn và nhẫn khi bị đối xử không công bằng.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  5. #5

    Mặc định

    Hiện nay, các nhà giáo dục chỉ khuyến cáo cha mẹ nên để ý đến cảm xúc của con cái. Kết cục của sự chú trọng thái quá này là trẻ em trở nên hư hỏng. Chúng chỉ xem phần của chúng có bằng với người ta không và chẳng chịu nhường nhịn kẻ khác. Chúng chỉ bận tâm đến sự thiếu thốn của riêng mình mà không bao giờ chiếu cố đến sự khó khăn của người khác. Khi ở nhà, chúng than phiền về những điều nhỏ nhặt như: “Tại sao anh có thể ra ngoài chơi mà con lại không được?”, “Tại sao chị có quần áo mới mà con không có?”. Chúng than phiền về tất cả mọi thứ dù nhỏ nhặt mà chúng nghĩ rằng “không công bằng”. Điều gì xảy ra khi chúng tức giận về những thứ không công bằng? Chúng đánh nhau! Chúng cãi nhau! Khi là trẻ con, chúng cãi nhau về những thứ vặt vãnh, nhưng khi lớn lên chúng sẽ đấu tranh cho những thứ lớn hơn. Ở nhà chúng tranh cãi với anh chị, ở trường chúng tranh cãi với bạn bè, và trong xã hội chúng đấu tranh với mọi người. Người trên kẻ dưới đều tranh danh đoạt lợi thì làm sao xã hội lại không động loạn? Cho nên, muốn chấm dứt đấu tranh giữa người với người phải bắt đầu từ việc giáo dục trẻ nhỏ trong gia đình. Bạn phải dạy chúng giảm thiểu sự ham muốn, nhẫn với sự bất công và học cách chịu thiệt thòi.


    Một người bạn của tôi có ba cô con gái. Mỗi lần lãnh lương, cô đều đi mua đồ chơi hoặc quần áo cho chúng. Khi mua quần áo, cô luôn mua ba bộ cùng kiểu dáng. Tôi khuyên cô nên tiết kiệm: “Trẻ con lớn rất nhanh nên quần áo sẽ mau chật. Tại sao bạn không mua một cái và để cho đứa lớn mặc trước rồi đứa nhỏ mặc lại sau?”. Cô ấy phản đối: “Tại sao những đứa nhỏ hơn phải mặc đồ cũ?”. Tôi bèn thận trọng đưa ra đề nghị khác: “À, vậy thì ít nhất chúng có thể mặc đồ khác kiểu chứ?”. “Không. Nếu kiểu quần áo khác nhau cũng không công bằng. Nếu chúng nghĩ đồ của đứa khác đẹp hơn, chúng lại bắt đầu cãi nhau. Mình đã chịu đựng quá đủ sự đối xử bất công của mẹ, nên mình sẽ chẳng bao giờ để cho các con phải nếm trải mùi vị đó”.




    Sau này tôi mới biết cô ấy là người con thứ hai trong nhà có ba chị em gái. Từ nhỏ, cô cảm thấy cha mẹ yêu thích chị và em gái hơn nên bỏ mặc cô. Vì thế, cô luôn cãi vã với mẹ và chị em của mình. Nhiều năm qua cô không còn liên lạc với họ. Mười năm sau đó, tôi nghe rằng những đứa con gái của cô chẳng những không hòa thuận mà còn đổ lỗi cho mẹ chúng. Cô hiện sống rất cô đơn. Từ đây, ta có thể thấy rằng cứ cố tỏ vẻ công bằng hoặc gắng làm cho đứa trẻ hài lòng bằng vật chất không phải là cách dạy chúng “không tranh”. Phải tác động tới trái tim và trí óc của chúng. Nếu chúng ta dạy chúng giảm thiểu sự ham muốn thì làm sao chúng có thể tranh cái gì nữa? Nếu chúng ta dạy chúng nhẫn với sự bất công thì làm thế nào chúng còn tranh cãi?


    Người xưa nói:
    “Đệ huynh đồng cư nhẫn tiền an
    Mạc nhân hào mạt khởi tranh đoan
    Nhãn tiền sinh tử hựu huynh đệ
    Lưu dữ huynh tôn tác dạng khan”.

    Chung sống anh em nhẫn trước tiên
    Chớ vì lợi lộc hại tâm hiền
    Sinh con nếu muốn thành người tốt
    Phải sống làm gương để chúng tin.
    (Đào Mộng Nam dịch)



    “Hào mạt” nghĩa là những vấn đề không trọng yếu. Cái gì không trọng yếu? Là tài vật, là danh tiếng, là tình cảm nam nữ. Bởi vì chúng đều là vô thường, không có cái nào kéo dài mãi mãi. Cái gì mới trọng yếu? Nhân cách đạo đức là trọng yếu, bởi vì chúng không bao giờ diệt mất. Bồi dưỡng nhân cách đạo đức khởi đầu từ sự hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng anh chị và thương yêu em út. Nếu chúng ta không biết cách đối xử tốt với cha mẹ và anh em thì tất nhiên ta sẽ không thể dạy con cái đối xử tốt với cha mẹ và anh em của chúng. Chúng ta sẽ phải nhận lãnh hậu quả cay đắng sau này. Đã có nhân thì ắt có quả. Chúng ta không thể lơ là được!
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  6. #6

    Mặc định

    長呼人,即代叫,人不在,己先到。

    Trưởng hô nhân, tức đại khiếu.
    Nhân bất tại, kỷ tức đạo.

    [Người] lớn gọi người, liền gọi thay.
    Người không có, tự đến giúp.


    4. Khi bậc trưởng bối gọi người, chúng ta nghe được thì phải lập tức đi gọi dùm. Nếu người không ở đó, thì liền trở về báo cho họ biết, đợi xem bậc trưởng bối có sai bảo gì không, chúng ta phải hết lòng giúp đỡ cho họ.


    Tử viết: “Sâm hồ! Ngô đạo nhất dĩ quán chi”. Tăng tử viết: “Duy”. Tử xuất, môn nhân vấn viết: “Hà vị dã?” Tăng tử viết: “Phu tử chi đạo, trung thứ nhi dĩ hĩ”.


    Dịch. – Khổng tử nói: “Sâm này! Đạo của ta chỉ có một lẽ mà thông suốt cả”. Tăng tử thưa: “Dạ”. Khổng tử ra rồi, các môn sinh khác hỏi Tăng tử: “Thầy muốn nói gì vậy?” Tăng tử đáp: “Đạo của thầy chỉ có trung, thứ mà thôi”. (trích Luận Ngữ, thiên IV – Lí Nhân, chương IV.15).


    “Trung” nghĩa là tận hết sức mình, chúng ta phải hoàn tất những gì chúng ta đã khởi sự. “Trung” cũng có nghĩa là thận trọng, cung kính và bình đẳng. “Thứ” nghĩa là điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân). Đây là thái độ quan tâm đến cảm xúc của người khác, cũng chính là đại bi tâm. Để có được những đức tính tốt đẹp này, người ta phải bồi dưỡng chúng từ thuở nhỏ trong sinh hoạt gia đình.


    Chẳng hạn như khi làm những việc do trưởng bối sai bảo thì ta được huấn luyện tính cẩn trọng và cung kính trong việc tiếp xúc với người và xử lý công việc. Vì sao thế? Ắt hẳn trưởng bối có việc cần sự giúp đỡ thì mới gọi người khác. “Khi có việc, con em hết lòng phụng sự” (“Hữu sự, đệ tử phục kì lao”, trích Luận Ngữ, thiên Vi Chính, chương II.8), vì thế tất nhiên chúng ta phải đi gọi người mà trưởng bối muốn gặp. Nếu tìm không thấy người mà ta không quay lại báo cho trưởng bối biết, họ sẽ ở đó chờ đợi và lo lắng. Như vậy không phải là ta vô trách nhiệm hay sao? Vì thế ta phải làm cho chu đáo. Không chỉ quay lại để thưa rằng ta không tìm thấy người đó, ta còn phải hỏi trưởng bối liệu ta có thể giúp thêm gì được không. Sự thận trọng và cung kính này sẽ bồi dưỡng tinh thần trách nhiệm của chúng ta. Một người có trách nhiệm sẽ không xử lý công việc một cách hời hợt, hoặc là bắt đầu một kế hoạch thật lớn nhưng kết thúc lại chẳng làm được gì (hổ đầu xà vĩ: đầu cọp đuôi rắn). Đây chính là tinh thần của “trung”. Đừng nghĩ rằng làm việc lặt vặt cho người khác là công việc tầm thường; nhân cách đạo đức lớn được khởi đầu từ chính việc thực hành những việc nhỏ này.


    Không gọi người lớn bằng tên của họ cũng là biểu hiện của sự thận trọng và cung kính. Trẻ em ngày nay không chỉ gọi thẳng tên anh chị chúng mà còn gọi cha mẹ và người lớn bằng tên của họ. Vài người ủng hộ xu hướng này, nói rằng nó thu hẹp lại khoảng cách giữa mọi người, nhưng thực tế nó lại tạo ra sự không khác biệt giữa người lớn và trẻ nhỏ. Hậu quả của việc không có trật tự lớn nhỏ này là gì? Trẻ em trở nên quá thân thiết với cha mẹ từ khi còn nhỏ, nên chúng không biết kính trọng cha mẹ. Đến tuổi thành niên, nếu cha mẹ không đáp ứng được mọi nguyện vọng thì chúng sẽ cảm thấy cha mẹ không còn quan tâm đến mình nữa. Khi lớn hơn, chúng sẽ phản kháng, ngỗ nghịch và trở thành những người con bất hiếu. Vì vậy, từ khi con cái còn nhỏ, nếu cha mẹ không dạy chúng kính trọng anh chị, thậm chí khi thấy chúng có ngôn ngữ và cử chỉ không lễ phép thì lại cười xòa cho rằng chúng thật đáng yêu và còn quá bé để dạy dỗ, thì bậc cha mẹ này sẽ phải nếm trải quả đắng ngày sau.


    Tại sao ta không nên khoe khoang trước mặt người lớn? Người xưa nói: “Gặp người hãy nên nói ba phần chuyện” (Phùng nhân đãn thuyết tam phân thoại), lại nói: “Kẻ thường dân vốn không có tội, chỉ vì có ngọc bích mà thành có tội” (Thất phu vô tội, hoài bích kỳ tội). Chúng ta sẽ ít bị ganh tỵ khi chúng ta không phô trương. Đó không chỉ là bảo hộ chính mình, mà còn thể hiện lòng từ bi với người khác. Hãy tưởng tượng nếu có người cố khoác lác về những điều anh ta có thể làm mà chúng ta lại không, chúng ta sẽ cảm thấy như đang bị dọa dẫm hoặc bối rối, ngượng ngùng. Từ những cử chỉ nhỏ này, chúng ta sẽ hun đúc tâm từ bi và học được cách quan tâm đến người khác. Đây chính là “thứ”.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. LUYỆN NGỤC
    By abbachaoi in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 02-08-2016, 12:14 AM
  2. Thần học về Chúa Thánh Thần
    By minhthai in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 17
    Bài mới gởi: 22-08-2014, 09:56 AM
  3. Sự có mặt liên tục của Quán Thế Âm Bồ Tát
    By Nicholas268 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 27
    Bài mới gởi: 18-06-2012, 10:55 AM
  4. Phật và chư Thiên-Thế giới quan của Đạo Phật
    By Cửu Phẩm Liên Hoa in forum Đạo Phật
    Trả lời: 18
    Bài mới gởi: 08-06-2012, 01:28 PM
  5. YOGA GIẤC MỘNG VÀ SỰ THỰC HÀNH VỀ ÁNH SÁNG TỰ NHIÊN
    By ÁNH SÁNG -T2- ÚC CHÂU in forum Mật Tông
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 21-01-2011, 01:35 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •