Trang 2 trong 3 Đầu tiênĐầu tiên 123 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 21 tới 40 trên 50

Ðề tài: GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

  1. #21

    Mặc định

    cho mình giải nghĩa tây du ký theo ý mình cái nha...!!!

    đường Tam Tạng: biểu hiện cho tâm chúng ta...
    Tôn ngộ không biểu hiện cho trí thông minh thần thông...
    Sa tăng biểu hiện cho cần cù siêng năng.....
    chư bát giới biểu hiện cho ham ăn,tham ái,si mê,sân.....
    Long mã biểu hiện cho đường đi không ngại gian nan...

    tam tạng là thầy biểu hiện cho tâm, tất cả các biểu hiện còn lại phải nghe theo tam tạng...!!! còn lại các bạn cũng đã hiểu rồi vậy nếu mình làm được như vậy là thỉnh được kinh rồi hi...!!!vui...
    Mẹ đấy con! Xác phàm mang mển,
    Chẳng một ai không đến lỗi lầm;
    Nhưng kẻ lầm biết hối nơi tâm,
    Là kẻ trí sẽ làm Tiên Phật.

  2. #22
    Lục Đẳng Avatar của vothuong1978
    Gia nhập
    Dec 2011
    Nơi cư ngụ
    Thánh Địa Tâm Linh
    Bài gởi
    16,168

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi 0127 Xem Bài Gởi
    cho mình giải nghĩa tây du ký theo ý mình cái nha...!!!

    đường Tam Tạng: biểu hiện cho tâm chúng ta...
    Tôn ngộ không biểu hiện cho trí thông minh thần thông...
    Sa tăng biểu hiện cho cần cù siêng năng.....
    chư bát giới biểu hiện cho ham ăn,tham ái,si mê,sân.....
    Long mã biểu hiện cho đường đi không ngại gian nan...

    tam tạng là thầy biểu hiện cho tâm, tất cả các biểu hiện còn lại phải nghe theo tam tạng...!!! còn lại các bạn cũng đã hiểu rồi vậy nếu mình làm được như vậy là thỉnh được kinh rồi hi...!!!vui...
    hahahahhahahha:rolling_on_the_floo:rolling_on_the_ floo:rolling_on_the_floo
    Thị Trấn Về Đêm...

  3. #23
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định

    Bạn 0127 thân, nhận định của bạn hoàn toàn đúng nhưng chưa đủ vì nếu chỉ có bấy nhiêu thì Tây Du Ký không thể nào trở thành tác phẩm vỉ đại trường tồn qua bao nhiêu thế kỷ như vậy được. Ẩn đằng sau câu chuyện thầy trò Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh còn ẩn dấu nhiều huyền cơ mà tác phẩm "Giải mã truyện Tây du" của Dủ Lan - Lê Anh Dũng mà Kinhvotu đang poste là một ví dụ. Chúc 0127 tiếp tục đọc và khám phá thêm nhiều huyền cơ qua sự gợi mở của tác phẩm "Giải mã truyện Tây du" nhé . Thân ái...
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  4. #24
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định

    0127 ơi, nếu bạn thích thì Kinhvotu sẽ gởi link của tác phẩm "Giải mã truyện Tây du" tác giả Dủ Lan - Lê Anh Dũng để bạn tiện nghiên cứu đối chiếu.
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  5. #25

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi kinhvotu Xem Bài Gởi
    0127 ơi, nếu bạn thích thì Kinhvotu sẽ gởi link của tác phẩm "Giải mã truyện Tây du" tác giả Dủ Lan - Lê Anh Dũng để bạn tiện nghiên cứu đối chiếu.
    ah` thôi thanks huynh tại đệ cũng ích có thời gian nghiên cứu lắm...đọc bài của huynh là được rồi..thanks
    Mẹ đấy con! Xác phàm mang mển,
    Chẳng một ai không đến lỗi lầm;
    Nhưng kẻ lầm biết hối nơi tâm,
    Là kẻ trí sẽ làm Tiên Phật.

  6. #26
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định

    OK ! Chúc bạn đạt nhiều thành quả trong việc nghiên cứu và tu tập nhé ! Thân...
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  7. #27

    Mặc định

    Xem cuốn sách đường qua Xứ Phật cuả tác giả Duong trung Con dịch, nhận thấy công đức của ngài Huyền Trang thật lớn lao, trong khi Truyện Tây du ký và phim Tây du ký dựng hình tượng Đường Tăng khác với thực sự quá xa, không biết tác giả ( người thời nhà Nguyên) có mục đích gì? Hạ thấp vai trò cuả đạo Phật?

  8. #28
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Vạn năm chờ quả chín


    Trên con đường sang phương Tây thỉnh kinh, năm thầy trò Đường Tăng không thiếu những cơ hội tiếp xúc với các đạo sĩ Lão giáo, và chuyện họ đến núi Vạn Thọ, ghé vào tá túc ở Ngũ Trang Quán là một trường hợp điển hình [TDK III 1988: 71-139].

    Chùa (hay tự) là nơi nương thân của tăng ni. Quán (hay đạo quán) là chỗ náu mình của đạo sĩ. Ngũ Trang Quán do quyền cai quản của Trấn Nguyên Đại Tiên. Ông chủ này còn có tên là Dữ Thế Đồng Quân.

    Một hôm trước mặt học trò, Trấn Nguyên Đại Tiên dặn dò rằng: “Sắp tới, có một cố nhân của ta đi qua đây, hai con phải tiếp đón nồng hậu, mang hai quả nhân sâm ra mời ngài xơi, để tỏ chút tình cố cựu. (...) Năm trăm năm trước, ta với ngài ấy có quen biết nhau (...). Ngài đã từng tự tay mời trà ta, kính trọng ta. Từ đấy ta coi như bạn cũ.” [TDK III 1988: 76]

    Khi mượn miệng Đại Tiên nhìn nhận Đường Tăng là “cố nhân”, là “bạn cũ” của ông, Ngô Thừa Ân đã tế nhị bày tỏ quan điểm Tiên Phật đề huề, Thích Lão không hai.

    Thầy trò Đường Tăng đến núi Vạn Thọ và tạm trú trong Ngũ Trang Quán nhằm lúc Trấn Nguyên Đại Tiên đi vắng, vì phải dự buổi thuyết pháp quan trọng do Nguyên Thủy Thiên Tôn triệu tập. Hai đồ đệ Thanh Phong, Minh Nguyệt ở nhà vâng lời dặn dò của sư phụ, đón tiếp Đường Tăng chu đáo. Đường Tăng được mời thưởng thức hai trái nhân sâm, trông hao hao dạng người.

    Vốn tu hành, trường trai giới sát (ăn chay trường, không giết hại sinh mạng), nhìn thấy hai trái sâm, Đường Tăng hoảng vía, cho nên “run rẩy sợ hãi, lùi xa ba thước, nói: Lạ quá! Lạ quá! Năm nay được mùa, mà sao nơi đây thất bát đến nỗi phải ăn cả thịt người? Đứa trẻ này chưa đầy ba ngày mà mang cho tôi giải khát ư?” [TDK III 1988: 82]

    Nài ép cách mấy, giải thích cách chi cũng không mời được Đường Tăng, hai đệ tử của Trấn Nguyên Đại Tiên về phòng riêng bèn bảo nhau... “đại diện” Đường Tăng chia đôi mỗi người một quả xơi tất.

    Rủi ro, Bát Giới đang ở khít vách nghe lóm chuyện hai Thiên lén ăn trộm nhân sâm chia nhau ăn cho biết mùi mẽ. Đến khi việc ăn trộm đổ bể, Tề Thiên giận, phá nát cây nhân sâm, đánh cho bật gốc chết khô. Sau phải cầu viện Quan Âm tới cứu cho cây nhân sâm sống lại.

    Chuyện dẫn từ Hồi thứ 24, sang cuối Hồi thứ 26 mới dứt. Coi như trọn đủ ba hồi. Dài dòng và... vô lý đến khó hiểu! Vô lý, vì lẽ trên đời làm gì có cây nhân sâm nào to như thế, linh diệu đến thế!

    Những điều vô lý khi tả cây nhân sâm

    Ngô Thừa Ân miêu tả hình dáng cây nhân sâm ở Ngũ Trang Quán như sau: “Một thân cây cổ thụ cực to, cành xanh thơm ngát, lá biếc um tùm, lá trông từa tựa lá chuối, dựng đứng cao hơn nghìn thước, gốc to đến bảy tám ôm. Hành Giả tựa vào gốc cây nhìn lên, thấy cành phía nam lấp ló một quả sâm rất giống đứa trẻ, cuống quả dính vào ngọn cây, chân tay đung đưa, đầu mặt gật gù, gió thổi qua kẽ lá như tiếng trẻ kêu.” [TDK III 1988: 86]

    Trái nhân sâm đặc sản của Ngũ Trang Quán còn có tên là nhân sâm quả hay thảo hoàn đơn. Theo Ngô Thừa Ân thì: “Giống cây này ba nghìn năm mới nở hoa, ba nghìn năm mới kết quả, lại ba nghìn năm nữa mới chín. Tính ra phải một vạn năm mới được ăn. Và trong một vạn năm ấy chỉ kết được ba mươi quả. Hình dáng quả này tựa như trẻ mới sinh chưa đầy ba ngày, tứ chi hoàn toàn, ngũ quan đủ cả.” [TDK III 1988: 75]

    Người học thuốc, nghiên cứu nhân sâm đều thừa biết rằng không có cây nhân sâm nào to như đại thụ, không có lá nhân sâm nào giống như lá chuối, và rõ nhất là không có trái nhân sâm nào mọc đong đưa trên cành chờ hái, mà chỉ có củ (hay rễ) nhân sâm nằm dưới đất phải đào lên mới lấy được.

    Lẽ thường lá nhân sâm mọc vòng, cuống dài, lá kép gồm nhiều lá chét mọc thành hình chân vịt; củ hay rễ nhân sâm không hề giống như truyện Tây du miêu tả. Cây nhân sâm từ năm thứ ba trở đi là đã đơm hoa kết trái được rồi. Quả mọng và dẹt, to bằng hạt đậu xanh, khi chín thì đỏ... Còn củ hay rễ nhân sâm thì sau sáu năm trồng cây là đã có thể đào lên dùng.
    Người Việt Nam gọi nhân sâm là củ sâm vì chính là rễ sâm (radix ginseng) mới có dạng hao hao như hình người. Thực ra, khi mới đào lên thì củ sâm nhìn chưa giống dạng người cho lắm, phải qua một quá trình chế biến rất công phu như sau:

    - Lấy củ: Cây sâm tối thiểu đã trồng được sáu năm thì có thể đào lấy củ. Đào củ khoảng cuối mùa Thu (trung tuần tháng Chín) hay đầu mùa Đông (thượng tuần tháng Mười). Lúc đào củ phải rán giữ để khỏi làm đứt các rễ lớn, nhỏ. Còn phải giữ nguyên độ ẩm của củ, do đó không được hong gió hay phơi nắng.

    - Rửa củ: Dùng bàn chải nhỏ cọ rửa từng củ cho sạch đất. Lúc rửa phải ngâm củ trong nước.

    - Hấp và sấy củ: Củ rửa sạch cho vào nồi hấp chừng một tiếng rưỡi, ở nhiệt độ 80o-90o. Sau đó sấy khô khoảng 6-7 giờ (nếu nhiệt độ 50o-60o).

    - Sửa và phơi củ: Củ đã sấy khô rồi, dùng tay bứt các rễ nhỏ để dùng vào việc khác. Rễ này gọi là tu sâm (tức sâm râu hay râu sâm). Dùng tay sửa nắn lại vị trí các rễ lớn, tạo dáng dấp như một người có đủ hai tay hai chân (nên gọi là nhân sâm). Tùy theo củ sâm nhỏ lớn mà đem phơi cho khô để bảo quản được lâu. Thời gian phơi từ một tuần đến nửa tháng là xong quy trình chế biến [Đỗ Tất Lợi 1981: 799].

    Trong quá trình thực hiện sáu công đoạn (đào, rửa, hấp, sấy, sửa, phơi), củ sâm đã phải tiếp xúc đầy đủ với cả ngũ hành: củ nằm trong đất (thổ), rửa và ngâm trong nước (thủy), hấp trong nồi kim loại (kim), sấy bằng lửa (hỏa), phơi nắng thì bày trong nia, hay mẹt (mộc). Như vậy, nhờ có đủ cả ngũ hành mà nhân sâm mới trở thành một thứ củ quý trần gian.

    Ngược lại, “quả” nhân sâm mọc từ cây báu ở núi Vạn thọ, vốn đã có “từ khi còn hỗn độn mới chia, trời đất còn mờ mịt chưa phân” [TDK III 1988: 75], và lạ thay, thứ quả sâm này lại rất “kỵ” ngũ hành, nghĩa là phải chịu cảnh... ngũ hành tương khắc. Tây du ký nói rõ chỗ ngũ hành tương khắc như sau: “Quả này gặp kim thì rụng, gặp mộc thì khô, gặp thủy thì hoá, gặp hoả thì héo, gặp thổ thì nhập. Hái quả phải dùng đồ kim khí mới rụng được, rụng rồi phải đựng trong một cái khay lót vải, nếu không chạm vào đồ gỗ là khô ngay, ăn vào cũng vô ích không thể kéo dài tuổi thọ được. Muốn ăn phải đựng vào đồ gốm, chiêu với nước trong. Quả này gặp hỏa là héo, vô dụng, gặp thổ là chui vào đất.” [TDK III 1988: 88]

    Óc tưởng tượng của người thuật chuyện Tây du như vậy là vô địch! Mà nào đã hết! Trước khi xem lại sự huyền diệu của quả sâm ở Ngũ Trang Quán cũng nên biết qua về dược tính của nhân sâm, để hiểu phần nào vì sao tác giả Tây du lại mượn củ sâm mà bịa ra chuyện quả sâm.

    Đông y coi có bốn thứ thuốc đại bổ, theo thứ tự từ hạng nhất tới hạng tư là: sâm, nhung, quế, phụ.

    - Phụ tức là phụ tử (tên khoa học: aconitum napellus).

    - Quế (cinnamomum, tiếng Anh là cinnamon).

    - Nhung tức là lộc nhung hay mê nhung, là sừng của con hươu (con lộc).

    - Sâm (tên khoa học là panax gingeng).

    Ginseng là tên phiên âm hai chữ nhân (gin) sâm (seng). Còn panax xuất phát từ gốc tiếng Hy Lạp là panakes, tương đương với chữ panacea trong tiếng Anh, ý nghĩa của nó là trị đủ bệnh, trị bá chứng (all-healing, cure-all).

    Xét về từ nguyên cũng đủ rõ giới thầy thuốc đã coi nhân sâm là linh dược thần diệu cho con người. Sách thuốc cổ từng cho rằng nhân sâm bổ ngũ tạng (tim, gan, bao tử, phổi, thận), giúp nhẹ mình, tăng tuổi thọ, trị bệnh đường ruột. Theo Đỗ Tất Lợi, các cuộc thí nghiệm ở Nga, Nhật, Trung Quốc vào giữa thế kỷ 20 cũng cho thấy nhân sâm làm giảm mệt mỏi, hưng phấn, tăng hô hấp, tăng sức đề kháng của cơ thể, giảm lượng đường trong cơ thể, và tăng cường sinh lực!

    Tuy nhiên, cho dù nhân sâm thực sự có là panax đến đâu thì cũng chưa ai dám bạo miệng như Ngô Thừa Ân khi miêu tả dược tính của quả nhân sâm núi Vạn thọ, Ngũ Trang Quán , quả quyết rằng: “Ai có duyên được ngửi quả này một lần, thì sống lâu ba trăm sáu mươi tuổi; ăn một quả, sống mãi bốn vạn bảy nghìn (47.000) năm.” [TDK III 1988: 75]

    Vốn dĩ nhân sâm trong dân gian đã là huyền thoại cho nên Ngô Thừa Ân đã thừa gió bẻ... sâm, bằng cách khuếch đại nên câu chuyện hoang đường, biến củ thành trái, biến rễ thành quả, tức là đem cái dưới đất mà đặt lên ngọn cây. Nói cách khác, đây là nghịch chuyển, nghịch hành. Hiểu như vậy, là bắt đầu nắm được chiếc chìa khóa để giải mã câu chuyện hư cấu này.

    DỦ LAN - LÊ ANH DŨ
    (Còn tiếp)
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  9. #29
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    mỗi người chúng ta là một cuốn truyện Tây Du riêng biệt,khặc khặc. Hạnh phúc biết bao vì một lần được sinh ra.
    haiz...........................

  10. #30
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Vạn năm chờ quả chín

    (Tiếp theo)


    Những sợi chỉ mỏng manh

    Họ Ngô đã tạo nên những tình tiết nho nhỏ hỗ trợ cho chủ đề chính của câu chuyện. Đó là những sợi chỉ mỏng manh nhưng sẽ giúp người đọc Tây du lần phăng ra manh mối của trái nhân sâm.

    Thoạt đầu, mới vào chuyện liền giới thiệu tên núi là Vạn thọ. Mà Vạn thọ đồng nghĩa với truờng sinh bất tử.

    Lại nói quả nhân sâm còn có tên là thảo hoàn đơn [TDK III 1988: 75]. Đơn (đan) gợi nhớ đến nghĩa luyện đơn, nấu thuốc (thiền) của đạo Lão. Đã vậy, muốn ngầm mách nhỏ người đọc Tây du hãy hiểu câu chuyện này qua lăng kính đạo Lão cho nên vừa vào chuyện là đã nhắc ngay đến đại tiên, đạo quán.

    Nói quả nhân sâm ba nghìn năm mới nở hoa, ba nghìn năm mới kết quả, ba nghìn năm mới chín, tức là nói đến chín nghìn năm. Số chín ám chỉ cửu chuyển công thành hay cửu chuyển đơn thành trong phương pháp tu luyện của đạo Lão [xem bài Ngọn gió trong lò].

    Nói nhân sâm có hình đứa trẻ mới sinh chưa đầy ba ngày [TDK III 1988: 75] là ngụ ý nhắc đến anh nhi, xích tử (new-born child).

    Anh nhi cũng là thánh thai (holy embryo). Nhân sâm trong câu chuyện này tượng trưng cho tinh trùng của người. Sống theo nếp đời trần tục, nam nữ phối hợp thì tinh cha huyết mẹ sẽ tạo nên phàm thai (human embryo), sản sinh con nít. Đó là con đường mà tinh đi xuống để nối dõi tông đường, bảo tồn giống nòi. Đi xuống như vậy thì cây nhân sâm cho củ dưới đất.

    Sống theo đời tu hành thiền định của Lão, Phật và Cao đài thì khởi đầu phải tập giữ thân thanh tịnh bằng cách trường trai, ăn thuần rau quả (nên quả nhân sâm có tên thứ hai là thảo hoàn đơn, thảo là cây cỏ); kế đó, tiến lên một nấc cao hơn là diệt dục, tránh giao hợp, giữ gìn tinh huyết để có đủ “nguyên liệu” mà đốt lửa bắc lò bát quái [tức là tham thiền luyện đạo, xem bài Ngọn gió trong lò]. Cũng phải dứt hết những lo nghĩ, những việc làm nào khiến cho hao thần tổn khí.

    Theo đạo Lão và Cao đài, tinh, khí, thần là ba món báu (tam bửu) của hành giả tu thiền. Lão giáo và Cao đài coi việc giữ gìn tinh, khí, thần là quan trọng nên luôn dạy hành giả phải bảo tinh, dưỡng khí, tồn thần. Đề cao tam bửu hơn nữa thì nói đến nguyên tinh, nguyên khí, nguyên thần. Vậy, đâu phải khơi khơi mà Ngô Thừa Ân bèn đặt tên cho chủ nhân quán Ngũ trang là Trấn nguyên Đại tiên. Trấn hiểu là gìn giữ; còn nguyên lại gợi nhớ đến nguyên tinh, nguyên khí, nguyên thần.

    Tu theo đạo Lão (cũng như Cao đài) cần giữ nguyên tinh để tham thiền tịnh luyện, tạo thành thánh thai, trường sinh bất tử. Đó là đi ngược lại thói tục đời thường, đó là nghịch chuyển công phu, cho nên Tây du mới bảo cây nhân sâm mọc trái lên ngọn.


    Anh nhi hiện hình đồ: đạo sĩ tham thiền, đã tạo được thánh thai nơi đan điền ở bụng.

    Nói nhân sâm kỵ ngũ hành thì phải hiểu là ngũ hành hậu thiên, ám chỉ thân xác con người [xem bài Núi cao chi mấy núi ơi]. Sự chung đụng xác thịt trong vòng tình dục sẽ chỉ tạo ra phàm thai chứ không biến tinh ra thánh thai. Ngược lại, nhờ diệt dục, trường trai mà cơ thể, thân xác được tinh khiết, thanh tịnh; đó là điều kiện tối thiểu để luyện đạo cho thành công. Cho nên Ngô Thừa Ân mới đặt tên quán là Ngũ trang. Trang là trang nghiêm. Tất cả ngũ quan (mắt, tai, mũi, miệng, thân thể), ngũ tạng (tim, gan, tì, phổi, thận) đều trong sạch. Nói theo Phật, ngũ căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng ,hành, thức) đều không còn làm người tu hành điên đảo nội tâm; người tu dứt bỏ xong dục vọng, mê luyến, sân giận, v.v... thì khi ấy thân xác ngũ hành (Phật gọi là ngũ đại) biến đổi nên cõi thanh tịnh, trang nghiêm, là Ngũ trang quán. Chỉ với những điều kiện như vậy mới tác thành nổi “quả nhân sâm”. Quả cũng là kết quả.

    Con đường tu luyện để đắc đạo đương nhiên rất khó. Vì bắt buộc phải đi ngược dòng thế tục. Cho nên Tây du bảo rằng đúng mười ngàn năm mới được ăn được quả nhân sâm [TDK III 1988: 75]. Còn khi đã “hái” được “quả” nhân sâm rồi thì đắc đạo, thành tiên thành phật, trường sinh bất tử, không còn phải chịu cảnh luân hồi sinh tử nữa. Thế nên, kết thúc chuyện nhân sâm quán Ngũ trang, núi Vạn thọ, Ngô Thừa Ân nhắn nhủ rằng:

    Có duyên ăn thảo hoàn đơn,

    Sống lâu ma quỉ tai ương lo gì.

    [TDK III 1988: 139]

    Người có được “nhân sâm”, ấy là người đắc đạo. Đắc nhưng mà vẫn không có chỗ được. Vì có ai cho ai đâu mà nói được nói đắc! Căn tiên cốt phật (chủng tử) vốn đã tự có, tự hữu, hằng hữu ở mỗi con người, đâu phải từ bên ngoài đem vào trong thân mà có. Vì thế Ngô Thừa Ân mới bảo rằng cây nhân sâm đã hiện hữu từ lúc vũ trụ còn hỗn mang, khi chưa tạo thiên lập địa [TDK III 1988: 75], tức là tiên thiên.

    Theo Phật, người đắc đạo chưa vội vào niết bàn mà còn chung sống với phàm phu cõi tục để cứu đời, tùy duyên hóa độ. Phật gọi đó là bồ tát. Theo Đạo đức kinh, đó là bậc thánh nhân, biết “hòa kỳ quang, đồng kỳ trần”, tức là dù đã giác ngộ, nhưng vẫn đem cái sáng (quang) của mình hòa cùng cái sáng phàm tục của đời, tuy thân thoát ra vòng trần cấu mà vẫn không nỡ riêng mình rời bỏ trần gian. Triết lý đó, cả Phật, Lão và Cao đài xưa nay đều cùng chủ xướng.

    Hiểu Phật và Lão cho đến kẽ tóc chân tơ, cho nên Ngô Thừa Ân mới dám trộn lộn cả chuyện phật lẫn chuyện tiên thành một bộ Tây du. Họ Ngô lại kín đáo nói tới cái chủ trương người đắc đạo tuy thoát tục mà không lìa tục của Lão, Phật, bằng cách bảo rằng chủ nhân cây nhân sâm ở quán Ngũ trang nơi núi Vạn thọ còn có tên là Dữ thế Đồng quân [TDK III 1988: 75], tạm hiểu là bậc cùng sống chung lẫn lộn với thế nhân cõi tục.

    Bằng hình tượng ngôn ngữ vạn thọ, ngũ trang, trấn nguyên, dữ thế đồng quân, thảo hoàn đan; bằng tượng số chín ngàn năm đơm hoa kết quả và trái chín; bằng biểu tượng nhân sâm giống trẻ con mới đẻ, tất cả những điều ấy, qua óc tưởng tượng phong phú, tài nghệ hư cấu tuyệt kỹ của Ngô Thừa Ân, tác giả đem cái chuyện luyện đan nấu thuốc, tham thiền tịnh luyện ẩn náu sau câu chuyện tưởng chừng chỉ để mà giải trí mua vui. Trong cái giả tưởng lại hàm tàng cái phi giả tưởng. Sau lớp hư cấu là chân lý giải thoát bằng tu chứng của Phật và Lão. Để đạt đến sự chứng đắc ấy, con đường nhiêu khê chi xiết! Ai đâu dám lấy thời gian mà đặt cuộc cho sự viên thành? Ôi, một vạn năm mới chờ ăn được... quả chín! Con đường ngược chiều, con đường phản bổn hoàn nguyên, là con đường của Đường tăng đi về vĩnh cữu thường hằng, mà Ngô Thừa Ân ví von là vin cành hái trái.

    DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG

    (06-11-1991-16-01-1995)
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  11. #31
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Bốn biển không yên cơn lửa trẻ



    Già đầu mà có khi thua con nít. Trong những cái trớ trêu của Tây du, vẫn không loại trừ điều ấy. Mào đầu câu chuyện nghịch lý này, Ngô Thừa Ân liền dùng ngay hai chữ “trẻ thơ” để nói đến Hồng hài nhi: “Trẻ thơ bỡn cợt lòng thiền rối...” [TDK IV 1988: 224]. Nhưng đứa trẻ này quả thật chẳng phải tay vừa, “thằng bé” đã làm “Lão Tôn” điêu đứng, chẳng thể trị nổi!

    Ngọn lửa trớ trêu

    Chuyện đánh nhau với Hồng hài nhi phải kéo dài từ Hồi thứ 40 qua đến hai hồi 41 và 42 mới xong. Hồng hài nhi quả rất đáng sợ. Bề ngoài, y được miêu tả là một đứa trẻ nhỏ, “mình không áo giáp, chỉ mặc độc chiếc quần gấm thêu thắt ngang lưng, đi chân không”. [TDK V 1988: 7]

    Lai lịch Hồng hài nhi kể ra cũng khá rõ ràng. “Nó là con trai Ngưu ma vương. Mụ La sát nữ nuôi nấng nó. Nó đã tu ba trăm năm ở Hỏa diệm sơn. (...) Tên lúc bé của nó là Hồng hài nhi, hiệu là Thánh anh Đại vương." [TDK IV 1988: 224]. Y lại còn có quan hệ chú cháu với Tề thiên vì lẽ xưa kia cha Hồng hài nhi là Ngưu ma vương và năm yêu quái khác có kết nghĩa anh em với Tề thiên; họ Ngưu làm anh cả, Tề thiên đứng hàng thứ bảy, tức là em út [TDK V 1988: 9].

    Hồng hài nhi lại sở trường về chơi lửa; “đồ nghề” chuyên dùng của đứa nhỏ này còn có thêm năm chiếc xe nhỏ. Cách y nổi lửa cũng lạ đời. Thoạt tiên y cho bày xe theo phương vị ngũ hành: bên ngoài là bốn chiếc ứng với kim, mộc, thủy, hỏa; trung ương đặt một xe ứng với thổ. Thế rồi “yêu tinh đứng trên cỗ xe nhỏ ở chính giữa, một tay vung cây giáo lửa nhọn, một tay nắm thành nắm đấm, tự đấm hai quả vào mũi mình.” Sau đó y lại “đọc thần chú, phun từ trong miệng ra một vệt lửa: từ hai lỗ mũi, khói đen nồng nặc cũng tuôn ra. Rồi mắt hắn cứ chớp chớp, lửa đỏ lại bùng lên. Lửa cháy ngùn ngụt trùm cả năm chiếc xe nhỏ.” [TDK V 1988: 7, 11]

    Lửa của “thằng bé” cũng khác thiên hạ! Có bài thơ tả lửa ấy như sau:

    Ngụt ngụt ngùn ngùn lửa bốc lên,

    Bừng bừng cuồn cuộn khắp trăm miền.

    (...) Lửa trời lửa đất đều không phải,

    Ấy lửa tam muội của ma vương.

    Năm cỗ xe kia hợp ngũ hành,

    Ngũ hành sinh hóa lửa kia thành.

    Can mộc phát sinh tâm hỏa vượng,

    Tâm hỏa khiến cho tỳ thổ bình.

    Tỳ thổ sinh kim, kim sinh thủy,

    Thủy sinh ra mộc thật tài tình.

    Sinh sinh hóa hóa đều do hỏa,

    Cháy khắp không gian vạn vật vinh.

    [TDK V 1988: 11-12]

    Chính vì lửa ấy dị thường, nên Tề thiên dù mời được bốn anh em Long vương ở khắp bốn biển đông tây nam bắc đến làm mưa trợ giúp, cũng chẳng ăn thua gì! Truyện kể: “Mưa sầm sập trút xuống, nhưng không dập tắt nổi ngọn lửa của yêu quái. (...) Mà trái lại, khác nào lửa đổ thêm dầu, càng mưa, lửa càng bốc to.” [TDK V 1988: 20]. Cuối cùng chỉ có Quan âm Bồ tát mang bình tịnh thủy đến mới trị được Hồng hài nhi, thu phục y làm Thiện tài Đồng tử [TDK V 1988: 56, 218].

    DỦ LAN - LÊ ANH DŨ
    (Còn tiếp)
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  12. #32
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Bốn biển không yên cơn lửa trẻ


    (Tiếp theo)


    [COLOR="Red"]Ai người đốt lửa?[/COLOR]

    Khi đã thấy ngọn lửa của Hồng hài nhi là trớ trêu thì chính những tình tiết đầy trớ trêu ấy lại gợi ra cho người đọc hằng loạt nhiều câu hỏi liên quan. Thực vậy:

    Tại sao tu ba trăm năm nhưng vẫn là đứa con nít? Tại sao trót làm thân yêu tinh mà còn xưng “Thánh anh”? Tại sao yêu ấy tên là Hồng hài nhi? Và tại sao yêu tinh lại có quan hệ chú cháu với Tề thiên?

    Lửa của Hồng hài nhi là thứ gì mà nước mưa bốn biển của bốn Long vương chẳng những không dập tắt lại còn như lửa đổ thêm dầu, càng mưa, lửa càng bốc to? Vậy mà, Quan âm Bồ tát trị được. Chỉ với bình tịnh thủy. Tại sao phải nhờ tới Quan âm?

    Tại sao khi đốt lửa phải bày trận ngũ hành, và lửa phát ra từ trung ương? Tại sao lúc “mồi lửa” thì chẳng dùng bùi nhùi, diêm quẹt mà phải tự đấm hai quả vào mũi mình? Tại sao lại có cây giáo lửa nhọn? Tại sao lửa lại phun ra từ trong miệng, hai lỗ mũi, thậm chí cả từ đôi mắt?

    Những câu hỏi liên tiếp ấy chính là chiếc chìa khóa giải mã câu chuyện về Hồng hài nhi.

    Câu chuyện được dẫn dụ rất khéo. Trước hết, nói cha của yêu tinh là Ngưu ma vương, anh kết nghĩa với Tề thiên, Tề thiên với yêu tinh có tình chú cháu. Đặt ra mối quan hệ “bà con” như vậy để thấy yêu tinh dữ dằn (cái ác, cái xấu) không ở đâu xa, nó trong chỗ “thân thích”, gần gũi với mình. Ý này rất quan trọng, vì thông thường không ai dè chừng kẻ dữ lại là người nhà.

    Nói Hồng hài nhi là con mụ La sát nữ để miêu tả cái “độc” của yêu tinh. Theo Phật giáo, la sát (tiếng Sanskrit: rakchasas) là ác quỷ ăn thịt người, chúng xuất hiện khắp nơi, cả trên biển lẫn trên đất liền. Giống cái gọi là la sát nữ (rakchasis).

    Phật bảo trên đời có ba thứ độc (tam độc: tham, sân, si). Món thứ hai, sân độc, hàm nghĩa rằng giận rất độc hại. Giận cũng đi kèm với nóng nảy, nên Phật ví giận như lửa, gọi là sân hỏa (lửa giận). Lửa của Hồng hài nhi, hiểu theo nghĩa hình nhi hạ là lửa giận. Trong lịch sử, điển tích kim cổ đông tây, không thiếu những chuyện chỉ vì nóng giận mà người giết người! Vậy, quỷ la sát ăn thịt người đâu phải hoang đường, và đó chính là lý do Tây du dựng chuyện con trai quỷ la sát nữ sở trường chơi lửa. Cũng thế, nóng giận tuy không hình không dạng mà giết người không thua gươm giáo, nên vũ khí cầm tay của Hồng hài nhi là một ngọn giáo lửa.

    Tục ngữ nói: “No mất ngon, giận mất khôn.” Hết khôn thì dẫu già đầu vẫn cứ nói năng, cư xử giống y đứa trẻ nhỏ dại không hiểu biết, thiếu suy xét. Vì lẽ đó Ngô Thừa Ân mới dựng chuyện thủ phạm đốt lửa là một đứa con nít. Khi nào bừng bừng lửa giận, người ta vùng vằng quăng ném, cung tay đá chân, hình ảnh đó ở Hồng hài nhi tượng trưng bằng cái kiểu tự đấm hai đấm vào mũi mình! Chưa hết, khi nóng giận quá mức, không kềm chế nổi, người ta mắt lộ ánh hung quang, hơi thở cũng hổn hển gấp gáp, và miệng thì buông ra những lời nặng nề, đau đớn, tổn thương kẻ khác. Do đó Tây du kể rằng lửa của yêu tinh bốc ra ở cả mắt, mũi, và miệng!

    DỦ LAN - LÊ ANH DŨ
    (Còn tiếp)
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  13. #33
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Bốn biển không yên cơn lửa trẻ


    (Tiếp theo)

    Mỗi khi nổi lửa Hồng hài nhi phải bày trận ngũ hành. Lão giáo coi ngũ hành là những yếu tố tạo nên con người. Nho giáo (sách Lễ ký) cũng bảo con người là kết tụ tinh hoa của ngũ hành: “Nhân giả, kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí.” (Người là cái đức của trời đất, nơi gặp gỡ của âm dương, nơi hội tụ của thần minh, là tinh hoa tốt đẹp của ngũ hành.)

    Tương tự, Phật giáo coi con người là thân tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Tứ đại hiệp với hư không (akâsa) thành ra ngũ đại. Bằng hình tượng trận lửa ngũ hành, kẻ đốt lửa thì đứng ở trung ương, Tây du ngụ ý rằng sân hỏa phá hoại công đức người tu hành khởi lên từ chính bên trong nội tâm mỗi người mà ra, nó chẳng đâu xa lạ, thế nên kẻ đánh yêu và yêu tinh mới có dây mơ rễ má bà con với nhau, kêu nhau là... chú cháu!

    Lửa gặp nước thì tắt. Nhưng bốn Long vương đem nước bốn biển vẫn không dập tắt lửa Hồng hài nhi nhằm ngụ ý rằng lửa sân giận khó dẹp. Khi đã “bốc hỏa”, nổi giận đùng đùng rồi, khó ai có thể tự chủ kềm chế được cơn giận. Chỉ có Quan âm mới trị xong bởi vì sở trường bửu bối của Quan âm là tịnh thủy (nước thanh tịnh). Vậy, chỉ có lòng thanh tịnh mới chế ngự lửa giận mà thôi.

    Ngoài ra, còn thêm hai nguyên cớ nữa:

    (1) Hồng hài nhi là con của La sát nữ, vậy yêu này chánh hiệu... tiểu la sát, la sát con. Kinh Pháp hoa (Diệu pháp liên hoa), phẩm Phổ môn, dạy rằng khi gặp loài la sát bức hại hãy niệm danh Quan âm sẽ được giải cứu.

    (2) Lửa của Hồng hài nhi là lửa giận (sân hỏa). Cũng kinh Pháp hoa, phẩm Phổ môn, dạy rằng muốn trừ tam độc (tham, sân, si) phải cầu đến oai lực Quan âm.

    Như thế, khi đưa hình tượng Quan âm vào truyện, Ngô Thừa Ân cũng đã thể hiện trung thực truyền thống kinh điển nhà Phật.



    Quan âm tịnh thủy

    Bản tướng Hồng hài nhi

    Về mặt hình nhi thượng, đạo Lão, đạo Phật, và Cao đài dụng công phu hàm dưỡng giống nhau. Phật gọi thiền thì Lão và Cao đài kêu tịnh. Thiền và tịnh xưa nay đều rất kiêng sợ lửa giận. Nhưng cũng đồng thời là lửa, biết khéo dùng thì nấu cơm đặng. Không biết dùng thì... cháy nhà!

    Cũng thế, nếu hành giả biết luyện rèn để chuyển hóa lửa giận khí huyết trở thành lửa tam muội nấu “kim đơn” giống như Thái thượng Lão quân dùng lửa văn lửa vũ đốt lò bát quái luyện thuốc [xem bài Ngọn gió trong lò], thì con người sẽ đắc đạo. Theo Lão giáo, khi ấy con người tạo được thánh thai, là anh nhi, là xích tử. Đó là lý do yêu tinh không mang họ Ngưu của bố đẻ, mà Ngưu ma vương và La sát nữ lại nấu chè đặt tên con trai là Hồng hài nhi. Hồng là đỏ; hài nhi là trẻ còn... bú. Vậy Hồng hài nhi đích thị là con nít còn đỏ hỏn (xích tử), mình trần trụi, chân không dép giày, còn chiếc quần gấm thêu thắt ngang lưng có khác gì tấm tả quấn sơ cho trẻ mới đẻ. Cho nên tuy cốt tử yêu tinh, thuộc dòng dõi la sát hung ác, nhưng vẫn cứ đàng hoàng tự xưng là “Thánh anh” (trẻ thánh), và tu đã ba trăm năm mà vẫn cứ mang hình hài trẻ nít.

    Từ bỏ lối văn nghiêm trang nghi thức của kinh điển Phật, Lão mà dùng phương pháp ẩn dụ để kể chuyện đánh nhau, đấu phép, bắt yêu, trừ quái... Ngô Thừa Ân quả là một đại gia bất hủ trong làng ngụ ngôn. Thấu đáo được từng ẩn ngữ tinh tế của Ngô mới thực sự hiểu vì sao Tây du ký là một tuyệt phẩm vượt không gian và phi thời gian.

    LÊ ANH DŨNG

    (Tháng 8-1991–24-01-1995)
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  14. #34
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Sáu bảy mười ba


    Trên con đường sang phương Tây thỉnh kinh, thầy trò Đường Tăng không chỉ đụng độ yêu tinh ma quái mà còn có khi chạm trán cùng giặc cỏ cướp đường. Mào đầu Hồi thứ 14, Tây du nói:

    Viên tâm qui chính,

    Lục tặc vô tung.

    Nghĩa là:

    Lòng vượn theo đường chính,

    Sáu giặc mất tăm hơi.

    [TDK II 1982: 69]

    Qua đến Hồi thứ 72, lại dẫn chuyện rằng:

    Bàn ty động thất tinh mê bổn,

    Trạc cấu tuyền Bát giới vong hình.

    Nghĩa là:

    Động Bàn ty bảy tinh mê gốc,

    Suối Trạc cấu Bát giới quên hình
    .

    [TDK VIII 1988: 29]

    Hai hồi ấy nhắc đến lục tặc và thất tinh. Lục tặc là sáu tên cướp. Thất tinh là bảy đứa yêu tinh. Sáu bảy mười ba. Tuy rằng chuyện trước cách chuyện sau đến những năm mươi tám hồi dài, nhưng trước với sau vẫn chỉ là một chuyện. Ngô Thừa Ân muốn nói tới thập tam ma (mười ba con ma), tức là bè lũ sáu giặc cướp bảy yêu tinh cùng cấu kết với nhau để phá hoại tấm lòng thanh tịnh của con người, làm con người mê mờ đi vào đường quấy, xa lìa chơn lý, xa chánh đạo.

    Sáu tên cướp

    Tây du kể rằng sau khi nghỉ đêm tại nhà một cụ già họ Trần, Tam Tạng và Tề Thiên lên đường đi thỉnh kinh. “Thầy trò đi được lúc lâu, bỗng ven đường nghe soạt một tiếng, thấy sáu người xông ra, đứa nào cũng giáo dài, kiếm ngắn, dao sắc, cung cứng, quát vang...” [TDK II 1982: 81]

    Tề Thiên hỏi lai lịch, bọn cướp tự giới thiệu: “Nhà ngươi không biết, bọn ta nói cho mà nghe: Chúng ta, một người gọi là mắt thấy mừng, một người gọi là tai nghe giận, một người gọi là mũi ngửi thích, một người gọi là lưỡi nếm nghĩ, một người gọi là ý thấy muốn, một người gọi là thân vốn lo.” [TDK II 1982: 82]

    Biết chúng là ăn cướp, Tề Thiên đòi chia của, thế thì: “Sáu tên cướp nghe nói, thằng mừng thì mừng, thằng giận thì giận, thằng thích thì thích, thằng nghĩ thì nghĩ, thằng muốn thì muốn, thằng lo thì lo, cả lũ xông lên hò hét loạn xị...” [TDK II 1982: 82]

    Như vậy sơ yếu lý lịch của lũ cướp đường trắng trợn này đã rõ. Chúng vốn là sáu căn (lục căn) của mỗi người, gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý).

    Bản lý lịch trích ngang của chúng còn cho thấy tuy năng khiếu sở trường hay “tay nghề chuyên môn” của từng tên rất khác nhau, nhưng đều giống nhau ở một căn bản chung: đối cảnh sinh lòng.

    Sáu căn hàng ngày hàng giờ tiếp cận với ngoại cảnh thì sinh lòng biến đổi theo cảnh. Biến theo cảnh hoài thì tâm điên đảo, giống như nước trong bị vẩn bụi dơ bẩn.

    Có sáu thứ bụi trần (lục trần) từ bên ngoài đột nhập vào tâm con người (lục ngoại nhập) thông qua lục căn, và tương ứng với lục căn là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

    1. Nhãn – Sắc: mắt thấy màu sắc, hình dạng vừa lòng thì tham, trái ý thì chê. Mắt gặp sắc tướng sinh ra kiến (thấy).

    2. Nhĩ – Thính: tai nghe âm thanh ngọt ngào thì chê, âm thanh chói tai thì ghét. Tai gặp âm thanh sinh ra văn (nghe).

    3. Tỷ – Hương: mũi ngửi mùi thơm tho thì thích thú, hít phải hơi hôi hám thì chẳng ưa. Mũi gặp hương sinh ra khứu (ngửi).

    4. Thiệt – Vị: lưỡi nếm vị ngon béo thì khoái, nhấp phải đắng cay thì ớn. Lưỡi gặp vị sinh ra vị (nếm).

    5. Thân – Xúc: Thân xác thịt da cọ xát với da thịt hay lụa là êm ái thì mê, chạm phải sần sùi nhám nhúa thì chán. Thân xác do chung đụng mà sinh ra giác (cảm giác).

    6. Ý – Pháp: ý gặp tư tưởng (pháp) thì sinh ra phân biệt, chê khen, ưa ghét, tính toán... Ý gặp pháp sinh ra tri (hiểu biết).

    Giải thích căn do, duyên cớ của lục tặc, Cao Đài cũng cho rằng: “... hễ có lục dục thì có lục trần, mà có lục trần thì mới sanh lục tặc.” [Đại Thừa Chơn Giáo 1950: 356]

    Theo Phật, lục căn gặp lục trần sinh ra lục thức, làm cho tâm con người đối đãi thị phi theo kiểu nhị nguyên (tương đối). Muốn đạt đạo, tức là thủ đắc được chân lý nhất nguyên (tuyệt đối), thì phải biết đối trị với lục dục là sáu điều ham muốn của con người mà lục thức đã gieo rắc lên mảnh tâm điền của mỗi người.

    Thiền Phật, Lão và Cao Đài quan niệm sở dĩ sáu tên ăn cướp xông vô nhà được là vì nhà vắng chủ. Hành giả biết làm chủ bản tâm, củng cố địa vị chủ nhà (chủ nhân ông) thì làm sao có nạn lục trần đột nhập để sinh ra lục tặc. Chính vì thế, khi giáp mặt lũ cướp, lập tức Tôn Hành Giả khẳng định liền vai trò chủ nhân ông của mình: “Ồ, các ngươi là sáu thằng giặc cỏ, không nhận ra người xuất gia này là chủ của các ngươi sao mà lại dám chận đường?” [TDK II 1982: 82]

    Như đã nói, con người là một hình ảnh hai cuộc đời [xem bài Đường Tăng! Anh là ai?]. Không chế ngự đặng thì lục căn sinh lục dục, lục tặc. Chế ngự đặng thì lục tặc trở nên lục thông là sáu món thần thông. Cao đài dạy: “Vả lại lục dục là sáu con quỷ, tức là sáu đứa du côn, nhưng nếu biết cách thâu phục chúng nó đặng thì sáu con quỷ ấy trở nên lục thông là đắc đạo.” [Đại Thừa Chơn Giáo 1950: 354].

    Diễn tả sự đối trị của hành giả trước lục tặc, Ngô Thừa Ân mượn tay Tề Thiên tiêu diệt trọn lũ cướp sáu tên: “Sáu tên cướp bỏ chạy tán loạn. Hành Giả nhanh nhẹn đuổi theo tóm gọn, đập chết hết.” Sau đó Tề Thiên báo cáo cùng Đường Tăng: “Xin mời sư phụ lên đường, lũ cướp đã bị lão Tôn giết hết rồi.” [TDK II 1982: 83] Ở đây họ Ngô hàm ý: muốn lên đường tìm chơn lý tuyệt đối (thỉnh kinh) thì trước hết phải đại hùng đại lực, nhất tâm diệt xong lục dục. Do đó, sự truy quét của Tề Thiên là dứt khoát, quyết liệt, không khoan nhượng.

    Tuy nhiên con người vốn dễ dàng có khuynh hướng thỏa hiệp với cái xấu của bản thân. Lý trí thì bảo phải quyết liệt: “Hành Giả nói: Thưa sư phụ, mình không đánh chết họ, họ cũng đánh chết mình.” Nhưng tình cảm bản năng yếu đuối lại không nở dứt bỏ những ràng buộc của đam mê ham muốn, sở dục tư riêng, cho nên: “Tam Tạng nói (...) bọn chúng tuy là giặc cướp chặn đường (...) chỉ đuổi chúng đi là xong, việc gì phải giết?” [TDK II 1982: 83]

    Sự tranh cãi giữa hai thầy trò đã phản ánh hiện thực cuộc đời: có rất nhiều anh Tam Tạng đi thỉnh kinh, nhưng chỉ rất ít chàng tới được chùa Lôi Âm gặp Phật. Nguyên do thành công hay thất bại là chỗ dám giết hay buông tha. Vì sự ngậm ngùi thiên cổ đó mà khi được hỏi rằng người tu hành chân chính nên hiếu sinh hay hiếu sát, một thiền sư đã trả lời rất nghiêm túc: Hiếu sát! Phải hiểu là sát lục tặc để cho lòng trống tâm không, cảnh thế sự đời thôi chẳng còn vướng víu buộc ràng.

    Cũng vậy, khi Tổ sư Vương Trùng Dương dạy đạo cho vợ chồng Mã Ngọc và Tôn Huyên Trinh, đã khuyên hai ông bà: “Sát sanh thăng thiên đường, phóng sanh sa địa ngục.” [Thất chơn nhơn quả 1974: 37]. Nghĩa là muốn giải thoát thì phải giết chết phàm tâm; còn thả lỏng phàm tâm thì phải chịu luân hồi.

    DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG
    Còn tiếp
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  15. #35

    Mặc định

    “Tam Tạng nói (...) bọn chúng tuy là giặc cướp chặn đường (...) chỉ đuổi chúng đi là xong, việc gì phải giết?”

    Sự...

    (hết trích)

    Đoạn này phần phân tích sai rồi! Nhà Phật không có giết theo nghĩa thô thiển của trí năng là anh Tôn đâu, bởi anh Tôn chưa rốt ráo nên chẳng có lòng từ bi như thật của Phật Tâm cho nên hành xử lỗ mãng như vậy - đó là cái nhìn của nhị biên mà chưa thấu đến cái nhất nguyên tuyệt đối không đối đãi. Anh Đường tuy cũng chưa rốt ráo đến Nhất thiết chủng trí nhưng lại có cái nền tảng sâu thẳm của Bồ Đề Tâm cho nên mới nói như vậy chứ tuyệt nhiên chẳng phải ý muốn nói đến sự do dự. Mặc dù tại đây đúng là có sự do dự đó, nhưng đó không phải là chỗ muốn nói trong một câu chuyện ngụ ngôn Phật pháp như thế này. Với trí tuệ của tự tánh thì thấy ngay lục tặc vốn "Không" vậy chẳng phải là biết nó rồi thì nó cũng tự chuyển hóa sao, ấy gọi là thức thành trí đó mà (đoạn phân tích trên nữa thì lại nói được ý này - như thế cho thấy tri hành của người viết chưa tương thông).

    Thiền sư kia nói: Hiếu sát! Lời nói đó đúng nhưng chưa đủ, bởi nếu không thì bỏ cái vướng này (lục tặc và thất tình) lại rơi vào cái vướng kia, tức là vướng vào cái "sát". Chỗ này cần phải tham cứu cho kĩ kẻo lại ăn phải lời có thuốc độc!

    Kính!!!
    ... Sàng lưới Dần vào tế trong thô
    Chỉ cái tế trong thô cũng không.
    Tức là viên minh chân thật đế.
    ... (Tôn Giả Bôi Độ)

  16. #36
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Sáu bảy mười ba

    Tiếp theo


    Bảy con yêu tinh

    Bảy con yêu nữ nõn nà xuất hiện ở Hồi thứ 72 không giống như các giặc cái khác ở truyện Tây du: chúng không hề đòi hỏi Tam Tạng cung ứng cho chúng cái khoản... dịch vụ tình yêu. Trước sau chúng chỉ muốn “hầm lão hòa thượng béo ấy lên ăn...” [TDK VIII 1988: 41]

    Cách xử trí của Tề Thiên với bảy con yêu nữ lần này cũng khác. Thông thường hễ gặp yêu tinh quỷ quái là Tề Thiên lập tức vung thiết bảng chực giết chết ngay tức khắc. Với xê ri bảy ả này, Tề Thiên lại tỏ thái độ hoàn toàn thay đổi:

    “Hành Giả nghĩ: Ta mà đánh chúng (...) cả lũ toi mạng hết, như thế đáng thương lắm! (...) không nên đánh chúng, chỉ cần dụng một kế tuyệt hậu, bắt chúng không dám rời đi đâu còn hay hơn nhiều.” [TDK VIII 1988: 43]

    Tưởng sao, kế tuyệt hậu của Tề Thiên hóa ra là dở. Tề Thiên lý luận với Bát Giới: “Bọn chúng định tắm xong sẽ quay về hầm sư phụ ăn thịt. Tôi theo bọn chúng tới đó thấy chúng cởi quần áo xuống tắm, định đánh chết chúng, nhưng sợ bẩn cây gậy và mất danh dự, bèn chẳng hề dùng tới gậy, biến thành một con chim ưng đói, quắp quần áo chúng mang đi. Bọn chúng chắc phải chịu thẹn thùng xấu hổ, dìm người trong nước, không dám lên đâu. Chúng ta mau đi cứu sư phụ để lên đường.” [TDK VIII 1988: 44]

    Không giết, chỉ cắp quần áo mặc ngoài. Ẩn ý ở đây là hời hợt, bì phu. Cách xử lý như vậy không rốt ráo, chẳng dứt khoát. Tề Thiên nói “Tôi thì chẳng đánh.” (tr.45) bởi vì Tề Thiên nghĩ rằng “cả lũ toi mạng hết, như thế đáng thương lắm!” (tr. 43)

    Trái lại, Bát Giới tỏ ra rất vững vàng quan điểm, lập trường: “Bát Giới cười nói: Sư huynh làm việc gì cũng không đến cùng. Đã thấy yêu tinh sao không giết chết chúng để còn đi cứu sư phụ (tr. 43). Theo em, trước hết đánh chết yêu quái, sau giải cứu sư phụ. Đó là kế nhổ cỏ nhổ cả rễ (tr. 45).”

    Chính vì ngay từ đầu Tề Thiên đã có ý nương tay cho nên không diệt được bảy nữ yêu, tuy tạm cứu được Tam Tạng (Hồi thứ 72), nhưng rồi về sau lại bị chính lũ yêu đó hãm hại cả mấy thấy trò thêm lần nữa ở Hoàng Hoa Quán (Hồi thứ 73).

    Sự toan tính chần chừ, thiếu dứt khoát, không rốt ráo của Tề Thiên là dễ hiểu. Vì vũ khí tấn công của bảy yêu nữ rất đặc biệt: “Bỗng thấy bảy cô gái cởi khuy áo, để lộ eo bụng trắng phau như tuyết, làm phép từ trong rốn ùn ùn nhả những sợi tơ ra như một tấm lưới mù mịt một khoảng trời, trùm kín lấy Hành Giả.” [TDK VIII 1988: 63]

    Nhận định của Tề Thiên với loại vũ khí này như sau: “Vật cứng còn có thể đánh đứt, thứ này mềm đánh chỉ lún xuống thôi. Khéo nó biết, nó quấn chặt lấy mình, lại hóa dở.” [TDK VIII 1988: 38]

    Chính vì bảy yêu nữ sở trường vũ khí chuyên dụng như vậy nên Ngô Thừa Ân mới chuyển chỗ ở của chúng về động Bàn Ty. Bàn viết với bộ chu (thuyền) nghĩa là quanh quất, lòng vòng. Ty là tơ; sợi tơ nhu nhuyễn, mềm mại mà khó dứt. Ý ở đây đã rõ: tơ là tơ tình, không thể dứt ngay, ngụ ý là díu dan vấn vít. Chế ngự cái tình cảm con người không phải chuyện dễ, vì con người ưa luyến tiếc, khoan nhượng với tình cảm bản thân.

    Tuy không thấy Ngô Thừa Ân nói rõ lai lịch từng nữ yêu như khi giới thiệu từng tên trong bọn sáu giặc cướp, đến đây cũng có thể sưu tra được danh tính của bảy cô nàng. Bảy chị em chính là thất tình một bọn, gồm có: mừng, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, muốn (hỷ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục). Đôi khi bảy ả còn đổi tên khác đi chút xíu là: mừng, giận, lo, nghĩ, buồn, sợ, khiếp (hỷ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh).

    Thất tình và lục dục, cấu kết nhau nội công ngoại kích, là mười ba con ma phá hoại tâm thanh tịnh, gây phiền não chướng ngại, cản trở người tu (hành giả).

    Về hiểm họa ấy, Cao Đài dạy:

    “Thất tình lục dục là mối loạn hàng ngày ở trong tâm trí, không phương trừ khử. Một đám giặc liệt cường tài trí, đánh phá ruồng trong núi cao non thẳm còn dễ dẹp trừ đặng, chớ mối loạn nơi tâm khó mà diệt đặng cho yên, nhứt là ma lục dục (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) nó phá hoại hàng ngày.” [Đại Thừa Chơn Giáo 1950: 354]

    “Con người vì bị thất tình, lục dục mà hao tổn tinh thần, tiêu mòn khí phách. Nó luống đẩy xô nhơn loại vào ao lửa núi gươm, hang sâu vực thẳm.” [Đại Thừa Chơn Giáo 1950: 358]

    Người tu thiền (hành giả) khi ấy phải biết mài gươm trí huệ mà đối địch cùng lũ thập tam ma. Cao Đài dạy phải biết thu phục mười ba con ma này cho chúng cải tà qui chánh:

    Muốn phản bổn huyền công tu tập,

    Muốn huờn nguyên phá chấp giải mê.

    Bảy tình sáu dục quay về,

    Về nơi căn cội bồ đề khi xưa.

    Ngô Thừa Ân ở Hồi thứ 72 tuy phớt lờ lai lịch bảy yêu nữ, nhưng lại bày ra phương châm đối trị với chúng. Lũ yêu này cư ngụ động Bàn Ty và chiếm cứ suối Trạc Cấu. Trên kia đã nói rõ Bàn Ty là tơ tình vướng vít, làm sao dứt bỏ? Thì đây, Trạc viết với bộ thủy (nước) nghĩa là rửa ráy; cấu là nhơ bợn cặn cấu. Trạc cấu tức là hãy rửa sạch bụi bặm lòng trần.

    Cũng vậy, Cao Đài dạy muốn trị mười ba con ma ấy, phải hết sức kiên trì với lòng thanh tịnh (tâm không):

    Thất tình lục dục sớm trừ xong,

    Luyện tập ngày đêm sửa tấm lòng,

    Khử diệt thất tình an tánh thiện,

    Tu hành phải để chí không không.

    [Đại thừa chơn giáo 1950: 360]

    Núi Bàn Ty nằm gần suối Trạc Cấu, và Thất tinh đã được chuyển về ở đó, theo ẩn ý của Ngô Thừa Ân, có nghĩa rằng trước sau gì cũng sẽ đoạn trừ xong được thất tình. Đoạn diệt được, thì Tam Tạng mới có thể tiếp tục lên đường thỉnh kinh (truy cầu chân lý tối thượng).

    Hiểu trên lý thuyết là đơn giản, nhưng trong thực nghiệm tâm linh của hành giả cổ kim, có biết chăng đã không ít kiếm khách phải bẻ kiếm bên trời mà ngậm ngùi than dài thở vắn. Than rằng:

    Diệt trừ sáu bảy mười ba,

    Trăm năm trong cõi người ta dễ gì!

    DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  17. #37
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Nẻo về bên ấy


    Có đi ắt có đến. Cuối cùng, thầy trò Đường tăng cũng đặt chân tới cảnh giới của Phật. Thấy Đường tăng mải mê ngắm cảnh đẹp, Tề thiên nhắc khéo: “Sư phụ những lúc gặp cảnh giả, phật tượng giả thì vội sụp người lạy. Bây giờ gặp cảnh thật, phật tượng thật lại chẳng xuống ngựa là cớ sao?” Tam tạng nghe vậy, vội vàng xuống ngựa, bước tới cửa tòa lầu, nhìn thấy một đạo đồng đứng nghiêng người trước cổng chùa... [TDK X 1988: 156]

    Đọc chậm rãi tới đây, nếu tinh ý một chút, người đọc dừng lại tự hỏi rằng: Sao lạ vậy? Tại sao trước cổng chùa không bố trí một chú tiểu, sa di, tì kheo hay hòa thượng? Tại sao trước cổng chùa lại để một đạo đồng? Phải chăng sơ tâm nên viết lẫn lộn? Đạo đồng sao không đứng nơi đạo quán (Lão, Tiên) mà ra cổng chùa (Thích, Phật) để đón Đường tăng?

    Hỏi, rồi lại đọc thêm xem cớ sự thế nào. Hóa ra, đạo đồng ấy vai vế rất lớn, “đó là Kim đính Đại tiên ở quán Ngọc chân dưới chân núi Linh sơn...” [TDK X 1988: 157]

    Đầu chương nói chùa, bây giờ bảo quán!

    Linh sơn là đất Phật, Đường tăng tìm Phật để thỉnh kinh Phật, ai ngờ đến cõi Phật thì lại gặp... tiên! Và ông tiên đó lãnh nhiệm vụ của Quan âm (Phật) chờ đón người thỉnh kinh Phật! Ngô Thừa Ân phải chăng phóng túng ngòi bút bất chấp sự nhất quán, nhất trí của câu chuyện?

    Nhớ lại trong những hồi trước đây, có nhiều đoạn kể việc Tề thiên đập phá đạo quán, chỉ trích đạo sĩ, lấy nước tiểu giả làm “kim đơn”... [TDK V 1988: 110]. Có người sẽ lầm tưởng rằng Ngô Thừa Ân bài bác Tiên, Lão và cổ vũ riêng cho Phật, Thích. Thực sự không phải thế!

    Tam giáo một nguồn

    Tây du ký dung hòa Tiên, Phật và chủ trương Thích, Lão không khác nhau về con đường giải thoát. Đi Tiên thì về Phật. Đến Thích thì khởi đi từ Lão. Ẩn ý này được thể hiện nhiều chỗ trong toàn bộ Tây du. Chẳng hạn, ở đầu truyện, Tề thiên học đạo Tiên với Bồ đề Tổ sư, rồi sau quy y làm hòa thượng. Và cuối truyện, trước khi vào đất Phật, mấy thầy trò phải dừng chân nghỉ qua đêm ở quán Ngọc chân của Kim đính Đại tiên.

    Có người cho rằng Phật lớn hơn Tiên. Qua Tây du người ta có thể vin vào nhiều chi tiết để cố minh chứng cho quan niệm Tiên thấp hơn Phật. Chẳng hạn: Lão quân, Ngọc hoàng (tiêu biểu cho bên Tiên) không trị được Tề thiên, mà chỉ có Phật tổ Như lai mới nhốt được Mỹ hầu vương dưới Ngũ hành sơn. Hoặc vin ngay câu chuyện Kim đính Đại tiên được cắt cử làm “receptionist” (tiếp tân) trực dưới núi Linh sơn đón khách.

    Ngô Thừa Ân phải chăng đã khéo léo phủ nhận thành kiến đó một cách kín đáo? Bởi lẽ, khi Phật tổ trao kinh Phật cho Đường tăng lại ân cần dặn dò rằng: “Phải quý báu! Phải coi trọng! Bởi trong đó có phép màu đắc đạo thành tiên...” [TDK X 1988: 176]

    Phật trao kinh Phật cho đệ tử Phật, để rồi theo đó con Phật tu hành sẽ đắc đạo thành... Tiên! Như vậy, theo Ngô Thừa Ân, dù Tiên hay Phật, dù Lão hay Thích, sự khác nhau chỉ là danh xưng, hình thức, cốt lõi vẫn là một. Đi xa hơn, Ngô Thừa Ân còn gồm luôn cả Nho vào một bảng giá trị của chân lý giải thoát, tuy rằng về cơ bản Nho hầu như thiên về nhập thế. Quan điểm Tam giáo đề huề, đồng đẳng của họ Ngô đã được tác giả nói ra bằng cách mượn lời Như lai khi trao kinh cho Đường tăng:

    “Công đức của những quyển kinh này không có gì sánh nổi. Tuy là giới luật của cửa ta (Phật môn), nhưng cũng là nguồn dòng của Tam giáo...” [TDK X 1988: 176]

    Lời tâm huyết của Như lai trên điện Lôi âm cũng là lời vua Trần Thái tông sau khi đại ngộ, đã ân cần gửi gấm trong sách Khóa hư lục:

    Vị minh nhân vọng phân Tam giáo,

    Liễu đắc để đồng ngộ nhất tâm
    .

    Nghĩa là:

    U mê đời lầm lẫm mà coi Tam giáo khác nhau,

    Khi đạt được gốc cội rồi đều giác ngộ một tâm.

    Nói thêm:

    Về chủ trương dung hòa Tam giáo, ngoài Ngô Thừa Ân với Tây du ký, đời Minh còn có Tiên phật hiệp tông ngữ lục (một quyển) do đạo sĩ Ngũ Thủ dương tuyển chọn. Thủ dương là đạo hiệu, còn có hiệu là Xung hư (tử). Theo [Ngô Phong 1994: 1226], trong quyển Tiên Phật hiệp tông, Ngũ Thủ dương đã dung hòa công phu thiền định (nội đan công pháp) của Tam giáo.

    Vì sao quyển sách có tên Tiên Phật hiệp tông? Theo Thủ dương, mục đích luyện đan là thành phật thành tiên, con đường luyện đan là hoàn hư mà hoàn hư là lý luận dung hợp của Nho, Thích, Lão. Ông cho rằng Tiên Phật tu đạo đồng công phu, đồng hiệu quả (đồng công đồng hiệu). Ông viết:

    “Ngộ hữu Tiên khả học, tắc học Tiên tức Phật dã. Ngộ hữu Phật khả nhập, tắc nhập Phật tức Tiên dã.” (Gặp Tiên có thể theo học, học Tiên tức là học Phật vậy. Gặp Phật có thể nhập môn, vào cửa Phật tức là vào cửa Tiên đó.) Lê Anh Minh dịch.

    DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG
    Còn tiếp
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  18. #38
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Nẻo về bên ấy

    Tiếp theo


    Đường vô xứ Phật

    Ngủ một đêm tại Ngọc Chân Quán, hôm sau mấy thầy trò chuẩn bị lên đường. Tề Thiên nói với Kim Đính Đại Tiên: “Sư phụ tôi đang sốt ruột muốn bái Phật, phải đi ngay đừng chậm trễ nữa.”

    Đại Tiên cười khà khà dắt tay Đường Tăng dẫn vào cửa pháp môn. Nguyên con đường này không ra lối cổng chùa, mà từ gian giữa trong quán, đi xuyên qua lối cửa sau. Đại Tiên chỉ Linh Sơn nói: “Nơi ấy là núi Linh Thứu, thánh địa của Phật Tổ đấy.” [TDK X 1988: 158]

    Nói cách khác, muốn đi vô đất Phật, chỉ có con đường một chiều như trên. Không thể nào đi lộn trở ra. Con đường này đưa vào lối phía sau. Chi tiết này gợi nhớ đến lúc Mỹ Hầu Vương cầu đạo ở Tà Nguyệt Tam Tinh Động, phải “đi vào bên trong, đóng cửa giữa lại, rồi đi vào lối cửa sau, ở chỗ kín ấy sư phụ sẽ truyền đạo cho.” [TDK I 1982: 55]

    Học tu theo Lão hay Phật, đi vào con đường thiền, tức là hành giả chọn con đường hướng nội (đi vào trong). Đi ra (hướng ngoại), chỉ gặp âm thanh sắc tướng; nói theo Phật, đó là huyễn ảo. Đạo Đức Kinh, Chương XII có câu: “Vị phúc bất vị mục.” (Vì bụng chứ không vì mắt.) Đó là ám chỉ hành giả phải quay vào, quay vô trong, đừng nhìn ra ngoài, như thế mới gặp được chân, bỏ được giả.

    Theo truyền thống phương Đông, giáo pháp chỉ bày con đường tu thiền phải mật truyền, giống như Bồ Đề Tổ Sư dạy Hầu Vương ở cửa sau, nơi chỗ kín nhiệm. Kinh kệ, cúng bái, cầu siêu, sám hối, lập đàn, v. v... là hình nhi hạ học, là ngoại giáo công truyền (exoterism), dành cho đại chúng.

    Trái lại, con đường đi tìm trăng sao cửa động (tìm tâm) của hành giả cô đơn, âm thầm lặng lẽ, là hình nhi thượng học, là nội giáo tâm truyền (esoterism), hay nói theo Bồ Đề ĐạtMma ở Trung Quốc vào thế kỷ thứ Sáu là giáo ngoại biệt truyền. [ Xem bài Nỗi lòng giấy trắng.]

    Trên bến Lăng vân

    Sau khi từ biệt Kim Đính Đại Tiên, mấy thầy trò Đường Tăng tiếp tục đi tới bến Lăng Vân và “nhìn thấy một dòng nước cuồn cuộn, sóng vỗ tung trời, rộng tới tám chín dặm, bốn phía tịnh không một bóng người.” [TDK X 1988: 159]

    “Bến này nguyên chỉ có một cây cầu độc mộc.” Đường Tăng không chịu qua cầu, vì lẽ cầu ấy:

    Muôn trượng cao một cọng cầu vồng.

    Trơn như mỡ khó đặt chân...

    [TDK X 1988: 159]

    Tuy nhiên Tề Thiên cứ nhất định bảo: “Phải bước qua cây cầu này mới thành Phật được chứ.” [TDK X 1988: 160]

    Cây cầu trớ trêu ấy thực sự nằm chính trong thân con người. Trong phép tu thiền của đạo Lão và Cao Đài, hành giả phải uốn cong đầu lưỡi cho đụng vào hàm trên, tạo thành cây cầu nối liền hai bờ, là hàm dưới và hàm trên. Động tác này tạo thuận lợi cho nước miếng tiết ra nhiều. Nước miếng (tân dịch) vốn được các đạo sĩ quý báu, coi là một “vị thuốc” thiên nhiên sẵn có trong thân mỗi hành giả (nội dược), dùng để luyện nội đơn cho thành chánh quả (đắc đạo).

    Giữa lúc Đường Tăng còn phân vân chưa dám qua cầu, bỗng có Tiếp Dẫn Phật Tổ mang thuyền đến rước qua sông. Truyện Tây du tả đoạn này rất khéo: “Tam Tạng quay đầu, chợt nhìn thấy phía hạ lưu có một người đang chèo thuyền bơi tới, cất tiếng gọi to: Lên đò! Lên đò!” [TDK X 1988: 160]

    Đọc kỹ đoạn này, cần lưu ý trình tự sự việc. Không phải vì Đường tăng nghe tiếng gọi đò trước mà sau đó mới quay đầu lại. Chính nhờ Đường tăng quay đầu lại trước nên mới gặp người lái đò đang tới.

    Đò là để đưa người qua sông, sang tới bờ bên kia (đáo bỉ ngạn). Đường Tăng quay đầu lại nhìn thấy đò tức là gặp được phương tiện để sang bờ bên kia (bỉ ngạn) cũng là bờ giác ngộ (bến giác) hay cõi Phật. Bờ bên này là luân hồi sanh tử (bờ mê).

    Nói rằng Đường Tăng quay đầu lại thấy đò, tức là sẽ thấy bờ bên kia; ở đây truyện Tây du muốn ám chỉ bốn chữ của nhà Phật: hồi đầu thị ngạn (quay đầu lại là bờ).

    Con người phàm phu hướng ngoại cứ đi hoài trong cõi hồng trần, lênh đênh trên biển khổ sóng gió chập chùng (khổ hải vạn trùng ba). Nhưng trong tự thân con người đã có sẵn chủng tử của Phật (Phật tính), do đó, một khi con người sực tỉnh dừng bước giang hồ, quay đầu lại thì không còn tiếp tục đi sâu vào biển trần nữa, bến giác sẽ hiện ra.

    Do triết lý đó mà có câu chuyện mười tám ông ăn cướp, vừa mới kịp buông dao giã từ đời oan khiên nghiệp chướng, lập tức đã trở nên thập bát La Hán trang nghiêm cho đời sùng mộ, kính ngưỡng.

    Trở lại chuyện chiếc thuyền (hay con đò). Nó không có đáy! Đường Tăng hỏi người lái đò: “Thuyền của ngài là thuyền hỏng, không đáy, qua sông làm sao?” [TDK X 1988: 161]

    Thuyền có đáy là thuyền hữu hình cõi tục. Nó chỉ có thể chở khách trần đi từ bờ mê này sang bến mê kia. Thuyền có đáy dù to đến mấy, sức chở người cũng có giới hạn.

    Thuyền không đáy là thuyền vô hình cõi tiên cõi phật. Nó đưa khách trần lìa bến mê sang bờ giác. Nó không đáy mà chở người vô hạn. Không có sóng dữ nào nhận chìm được.

    Chính vì huyền diệu như thế nên thuyền ấy được Phật Tổ tán thán rằng:

    Thuyền ta đây:

    Thuở hồng hoang từng nổi tiếng,

    Có ta đây chèo chống giỏi giang.

    Sóng to gió cả vững vàng,

    Không đầu không cuối bước sang cõi lành.

    Quay về gốc, bụi trần chẳng bợn,

    Muôn kiếp đày, thanh thản qua sông.

    Thuyền không đáy vượt trùng dương,

    Xưa nay cứu vớt muôn vàn sinh linh.

    [TDK X 1988: 161]

    Chiếc thuyền trên bến bến Lăng vân chính danh của nó là thuyền bát nhã. Phật gọi cõi đời này là sông mê, biển khổ. Qua sông vượt biển cần phải dùng thuyền. Con thuyền đạo pháp đưa chúng sanh đến bến bờ giải thoát hay niết bàn tịnh lạc chính là trí huệ, còn gọi là bát nhã (prajna).

    Cái trí huệ bát nhã ấy không phải Phật đem trao, ban tặng cho chúng sinh, mà bản thân chúng sinh đã có từ lâu. Nó vô thủy vô chung (không đầu không cuối). Phật chỉ giúp đỡ cho chúng sinh tìm lại cái mà họ đã có sẵn. Phật chỉ là bà đỡ, bà mụ; chúng sinh phải đẻ chứ Phật không đẻ dùm! Chính do ý đó mà trong bài kệ về thuyền bát nhã, câu 2 nói thuở hồng hoang (tiên thiên); câu 5 nói không đầu không cuối (bất sinh bất diệt); câu 3 nói có ta (Phật) đây chèo chống...

    Phật là người đưa đò cho chúng sinh sang bến giác, chúng sinh phải xuống đò, phải tự bước lên thuyền mà sang sông. Nói cách khác, chúng sinh phải tự mình lên đường; Phật chỉ là người dẫn dường dắt lối, cho nên người đến đón thầy trò Đường tăng mới có pháp hiệu là Tiếp Dẫn Phật Tổ.

    Bát nhã còn gọi là bát nhã ba la mật đa (prajna-paramita). Ba la mật đa (paramita) theo chữ Nho là đáo bỉ ngạn (qua tới bờ bên kia, bờ giác ngộ). Khi Đường Tăng quay đầu lại thấy thuyền (hồi đầu thị ngạn), ấy mới chỉ là nhân. Có nhân vẫn chưa đủ, cho nên dù đã được Phật tổ bảo đảm sẽ đi qua tới bến giác, Đường Tăng cứ mãi dùng dằng không muốn lên thuyền.

    Phải chăng, đó cũng là tâm lý thế gian: làm Phật Tiên thời phần đông ai cũng muốn cũng ham, nhưng mà coi lại cõi trần, tuy bản chất (nói theo Phật) là khổ, nhưng hiện tượng (cảm nhận bằng trí phàm phu) cớ sao lại muôn màu muôn vẻ; chèng ơi, vui quá! Cho nên bỏ đi cũng chẳng đành! Bởi vậy, trong Cao Đài có bài thơ làm chứng cho nỗi lòng thế nhân ở bên này sông, một chân dợm bước xuống thuyền, mà một chân còn trì vào bờ lưu luyến:

    Điên đảo lòng con nỗi đạo đời,

    Đời con rộn rực luyến mê chơi.

    Đạo thì cũng muốn tu thành Phật,

    Theo đạo thì con lại tiếc đời.

    [Đại thừa chơn giáo 1950: 86]

    Vậy, tuy có nhân rồi nhưng lại cần có thêm duyên. Cái duyên ấy sẽ dồn cho chúng sinh không còn phải lưỡng lự gì cả. Trong cuộc đời, đó là nghịch cảnh. Nghịch cảnh làm con người chán chường phồn hoa vật chất và hồi tâm nghĩ đến chuyện tu hành giải thoát. Ở Tây du, Ngô Thừa Ân mượn tay Tề Thiên để tạo ra duyên:

    “Hành Giả đứng khoanh tay trước ngực, bất ngờ đẩy mạnh một cái, Tam Tạng đứng không vững, rơi đánh ào một cái xuống nước, Phật Tổ nhanh tay đỡ lấy, dắt xuống đò. Tam Tạng vừa phủi quần áo vừa dậm chân oán trách Hành Giả.” [TDK X 1988: 161]

    Tâm lý của Tam Tạng “oán trách Hành Giả” cũng là tâm lý của Ngưu Ma Vương và bà La Sát (Thiết Phiến Công Chúa), oán hờn thù ghét Tề Thiên, vì Tề Thiên đã trợ duyên cho Hồng Hài Nhi (yêu ma) trở nên Thiện Tài Đồng Tử nơi cõi Phật, hầu cận Quan Âm. Cho nên, cái éo le cay đắng là nhiều khi làm ơn mắc oán.

    Chú: Khi nghe Tề Thiên nhận vợ chồng Ngưu Ma Vương vào vai vế anh chị, vợ Ngưu Ma Vương (bà La Sát) liền trách mắng: “Con khỉ khốn kiếp kia, đã là tình anh em thân thiết, sao lại hại con ta?” (tr. 201). Còn Ngưu Ma Vương thì quát lên: “... cớ sao lại nỡ hại con ta là Ngưu Thánh Anh ở động Hỏa Vân, khe Khô Tùng núi Hiệu? Ta đang căm giận nhà ngươi...!” [TDK VI 1988; 223]

    Cũng vậy, lịch sử các tôn giáo hoàn cầu, từ Đông qua Tây, từ xưa tới nay, đều có một định lệ gần như bất di bất dịch: Anh mà đem đạo, đưa giáo lý tới cõi đời để cứu đời, thì chính người đời sẽ đóng đinh, sẽ bức tử, giam cầm, dè bỉu, chỉ trích anh thậm tệ. Bởi thế, trên đường sang Thiên Trúc gặp Phật, Đường Tăng đâu phải chỉ riêng gặp tai ương với quỷ ma yêu quái, mà Đường tăng còn gặp cả những hiểm nguy giữa con người với con người, đồng loại với đồng loại. (Đường tăng ơi! Muốn đáo bỉ ngạn ư? Muốn đưa người sang sông ư? Nẻo về bên ấy chông chênh lắm!)

    DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  19. #39
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Nỗi lòng giấy trắng


    Nghe tin báo thầy trò Đường Tăng đã đến, “Phật Tổ mừng lắm, lập tức xuống chiếu vàng, cho gọi tám vị Bồ Tát, bốn vị Kim Cương, năm trăm vị A La Hán, ba nghìn vị Yết Đế, mười một vị Đại Ddiệu, mười tám vị Già Lam vào đứng xếp thành hai hàng, sau đó mới xuống chiếu vàng cho gọi Đường Tăng vào.” [TDK X 1988: 164]

    Mở đầu cho việc truyền kinh mà tả tỉ mỉ cảnh đón tiếp long trọng hiếm có như thế nhằm ngụ ý rằng đạo pháp không phải dễ duôi truyền thụ (đạo pháp bất khinh truyền).

    Trong chùa Lôi Âm, được diện kiến Phật Tổ Như Lai tại Đại Hùng Bửu Điện, sau một số nghi lễ cho đủ thủ tục, Đường Tăng quỳ lạy và thưa rằng:

    “Muôn xin Phật Tổ ra ơn, ban cho chân kinh sớm mang về nước.” Như Lai bèn mở miệng từ bi, động lòng thương xót, nói với Tam Tạng: “Cõi đông thổ của nhà ngươi (...) người đông vật thịnh, tham lam độc ác, trí trá gian dâm, (...) bất trung bất hiếu, bất nghĩa bất nhân, lừa mình dối người (...) Nay ta có ba tạng kinh có thể siêu thoát khổ não, giải trừ tai ương (...). Các ngươi từ xa xôi tới đây, ta cũng muốn trao cho tất cả mang về, chỉ e người phương đó ngu si lỗ mãng hủy báng chân ngôn, không biết ý chỉ sâu xa trong đạo của ta.” [TDK X 1988: 165-166]

    Trước khi tìm hiểu dụng ý của Ngô Thừa Ân vì sao phải dông dài như thế, cũng nên biết rằng đoạn văn trên đây của Tây du hoàn toàn phù hợp với lịch sử truyền giáo của nhà Phật.

    Ba lần thỉnh pháp

    Lịch sử đạo Phật ở Ấn Độ, khi chép về thời kỳ tu chứng của tu sĩ khổ hạnh Cồ Đàm, cho biết rằng lúc đắc quả Phật Chánh Đẳng Chánh Giác, ngồi ở gốc cây Ajapala bên bờ sông Ni liên thiền, đức Phật đã trầm tư về vấn đề có nên đem cái đạo pháp giải thoát mà Phật đã tự chứng đắc truyền bá cho người đời hay không, thì mấy lượt ngài đã do dự.

    Lần thứ nhất, Đức Phật nghĩ rằng: “Đạo Pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi luận lý, mà tế nhị, chỉ có bậc thiện trí mới thấu hiểu (...) Như Lai đã khó khăn lắm mới chứng ngộ được đạo pháp. Không cần phải phổ biến đạo pháp ngay lúc này. Người thế gian còn mang nặng tham ái và sân hận không dễ gì thấu triệt.”

    Liền sau đó, một vị Phạm Thiên (Brahma) ở cõi trời đọc được tư tưởng của Phật, liền cầu thỉnh Phật từ bi mà truyền đạo. Phật trả lời: “Người đời tham ái chìm đắm trong đêm tối, bị đám mây mù tham ái bao phủ, sẽ không thấy được đạo pháp bởi vì đạo pháp đi ngược dòng tham ái. Đạo pháp sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức, và tế nhị. Vì suy gẫm như thế, Như Lai chưa quyết định truyền bá đạo pháp.”

    Vị Phạm Thiên khẩn nài lần thứ nhì, Phật cũng đáp như thế. Mãi đến khi thỉnh pháp lần thứ ba, Phật mới đồng ý và tuyên bố: “Cửa vô sanh bất diệt đã mở cho chúng sanh. Hãy để cho ai có tai nghe đặt trọn niềm tin tưởng!” [Narada 1964: 60-63]

    Trương Lương ba lần nhặt dép mới được tiên ông Hoàng Thạch Công trao quyển thiên thư. Lưu Bị ba lần hạ mình tới nhà tranh (tam cố thảo lư) mới thỉnh được Khổng Minh. Cái gì khó khăn mới đạt được, càng khó thì đời càng quý, càng trọng. Cái gì dễ dàng có được thì người ta dễ duôi, coi thường. Và chỉ ai biết giá trị của quý mới rán sức đánh đổi tương xứng để đạt được bảo vật đó. Đây cũng là ẩn ý đạo pháp bất khinh truyền.

    Bởi thế, muốn lấy được bảo bối của Phật, tức là thỉnh được kinh mầu nhiệm có thể cứu người thoát vòng luân hồi sinh tử, Đường Tăng đương nhiên phải đánh đổi lại cho tương xứng. Đánh đổi cái gì và đánh đổi như thế nào?

    Mật nghĩa việc đánh đổi bình bát

    Truyện Tây du kể rằng:

    “A Nan, Ca Diếp dẫn Đường Tăng xem khắp tên các bộ kinh một lượt, đoạn nói với Đường Tăng: Thánh Tăng từ phương Đông tới đây, chắc có chút lễ vật gì biếu chúng tôi chăng? Mau đưa ra đây chúng tôi mới trao kinh cho.

    Tam Tạng nghe xong nói: Đệ tử là Huyền Trang, vượt đường sá xa xôi, chẳng chuẩn bị được quà cáp gì cả.

    Hai vị tôn giả cười nói: Hà! Hà! Tay trắng trao kinh truyền đời, người sau đến chết đói mất.” [TDK X 1988: 168]

    Đọc tơ lơ mơ, lắm người bảo rằng A Nan và Ca Diếp đòi ăn hối lộ! Thực ra, làm gì có chuyện vòi vĩnh của đút lót ở cửa Phật!

    Trong mười đại đệ tử của Phật, ông Ca Diếp đứng hạng ba, A Nan đứng thứ mười, đều đắc quả A La Hán, dứt bỏ hết các lỗi lầm (nhứt thiết lậu tận), không lẽ lại vướng lụy vì chút của cải vụn vặt của thế gian ư?

    Theo lịch sử Thiền Tông Ấn Độ, Phật Thích Ca (Phật Tổ) là Sơ Tổ, Ca Diếp là Nhị Tổ, A Nan là Tam Tổ. Bậc giác ngộ đã lìa thế gian, thoát vòng sanh tử, làm sao có thể mở miệng vòi của lót tay?


    Khi Hành Giả (Tề Thiên) khiếu nại sự việc bị đòi lễ vật, Phật Tổ cười nói: “Nhà ngươi cứ bình tĩnh. Việc hai người [A Nan, Ca Diếp] vòi lễ các ngươi, ta đã biết rồi. Có điều kinh không phải trao cho một cách dễ dàng, không thể lấy không được.” [TDK X 1988: 172]

    Rốt cuộc, khi đổi kinh vô tự để lấy kinh có chữ, Đường Tăng vẫn bị đòi dâng lễ vật. “Tam Tạng chẳng có vật gì dâng, đành bảo Sa Tăng mang ra chiếc bát tộ vàng (...) A Nan nhận lấy chiếc bát, tủm tỉm cười.” [TDK X 1988: 173]

    Tại sao Tam Tạng chẳng có vật gì dâng? Thực ra Tam Tạng còn có hai bảo vật của Phật Quan Âm tặng: chiếc cà sa báu và cây thiền trượng. Thế thì tại sao lại chỉ dâng cho A Nan chiếc bình bát?

    Trong đời sống xuất gia, bình bát (patra) vốn là biểu tượng của nhà tu khất thực (khất sĩ trì bát). Nhưng chiếc bình bát bằng vàng nguyên là của vua Đường tặng cho ngự đệ (em vua) kết nghĩa. Vì thế, trong tình huống này, nó còn tượng trưng cho của cải và danh vọng ở thế gian.

    Ngoài ra, nói rằng Tam Tạng chẳng có vật gì đem theo là ám chỉ kẻ xuất gia tu hành không còn tư hữu (tăng vô nhất vật). Để lãnh kinh báu của Phật, dâng nạp bình bát là ngụ ý: muốn thọ lãnh đạo giải thoát của Phật, con người phải xuất gia, lìa bỏ danh vọng và của cải thế tục.

    Hành động của Đường Tăng ở đây là ẩn dụ, có tính cách biểu tượng. Theo truyền thống đạo học thì đạo pháp không thể truyền thụ dễ duôi (đạo pháp bất khinh truyền), cho nên kẻ học đạo, muốn thọ pháp, phải đánh đổi. Đánh đổi có nhiều hình thức.

    Khi Thái tử Cồ Đàm tìm đạo giải thoát, Ngài đã phải đánh đổi cả ngai vàng, vợ đẹp, con thơ, cả cuộc sống nhung lụa đế vương.

    Khi Thần Quang (tức Huệ Khả, Nhị tổ Thiền tông Trung Hoa) cầu đạo với Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, và bị từ chối, Ngài đã tự mình chặt lìa cánh tay trái dâng lên thầy. Đó là ngụ ý sẵn sàng đánh đổi sinh mạng phàm phu để thọ lãnh đạo giải thoát tối thượng của thiền môn.

    DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG
    Còn tiếp
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  20. #40
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Nỗi lòng giấy trắng

    Tiếp theo


    Vì sao A nan và Ca diếp sợ người sau chết đói?

    Ngoài ý nghĩa đạo pháp bất khinh truyền và phải đánh đổi như trên, cũng nên chú ý đến lời nói của A Nan và Ca Diếp: “Hai vị tôn giả cười nói: Hà! Hà! Tay trắng trao kinh truyền đời, người sau đến chết đói mất.” Tại sao lại là người sau chết đói? Tại sao có chuyện ăn uống nơi đây?

    Xin thưa, đạo giải thoát cũng được gọi là pháp thực. Con người thân xác hữu cơ vốn cần có thực phẩm hữu cơ nuôi dưỡng thì con người tâm linh cũng cần có đạo pháp làm thực phẩm dưỡng nuôi.

    Muốn cho đời này sang đời khác vẫn có được pháp thực nuôi tâm linh con người thì đạo pháp phải được trường lưu. Muốn đạo pháp trường lưu thì phải có con người xứng đáng nắm giữ đạo pháp để xiển dương và hoằng giáo. Đạo tuy thiêng liêng, nhưng bắt buộc phải có vai trò chủ sử của con người. Bởi thế, sách Nho có câu: Nhân năng hoằng Đạo, phi Đạo hoằng nhân.

    Nếu dễ dải truyền đạo pháp cho người không xứng đáng, chẳng những kẻ ấy không thể hoằng dương được chánh pháp mà còn khiến cho dòng đạo pháp suy tàn, bế tắc. Như thế, đời sau sẽ không còn hưởng được vị ngọt pháp thực nữa, nghĩa là tâm linh con người sẽ “đói”.

    Chính vì lẽ sống còn này mà các bậc giáo tổ ngày xưa trước khi được lãnh trọng trách, đã phải chịu thử thách, chịu “bầm dập” đủ điều từ nội tâm tới thân xác và ngoại cảnh.

    Mạnh Tử đã sớm nói rõ điều trọng yếu ấy như sau: “Thế nên hễ Trời định phó thác trách nhiệm lớn lao cho người nào, trước hết phải làm cho người ấy khổ não tâm chí, lao nhọc gân cốt, đói khát cầu bơ cầu bất, nghèo nàn thiếu trước hụt sau, và làm rối loạn, điên đảo các việc làm của người ấy. Làm thế để mà phát động lương tâm của người, cho nhẫn kiên tánh tình của người, và gia tăng tài đức còn khiếm khuyết của người.” [“Cố Thiên tương giáng đại nhiệm ư thị nhân dã, tất tiên khổ kỳ tâm chí, lao kỳ cân cốt, ngạ kỳ thể phu, không phạp kỳ thân, hành phất loạn kỳ sở vi. Sở dĩ động tâm nhẫn tánh, tăng ích kỳ sở bất năng.” Mạnh Tử: Cáo tử, chương cú hạ, 15.]

    Trở lại với việc A Nan và Ca Diếp đòi lễ vật. Ngoài những ý nghĩa hàm ngụ như đã trên đây, hư cấu sự kiện này còn để gài vào một tình tiết hợp lý là lãnh kinh không chữ và đổi kinh có chữ.

    Từ kinh vô tự đến kinh hữu tự (pháp vô vi ra pháp hữu vi)

    Thoạt đầu, A Nan và Ca Diếp trao kinh không chữ (kinh vô tự), các quyển kinh toàn giấy trắng! Phật Tổ dạy thầy trò Đường Tăng: “Quyển trắng tinh là chân kinh không chữ, cũng là những kinh hay.” [TDK X 1988: 172]. Tuy vậy, Phật cũng đồng ý cho đổi lấy kinh có chữ. Then chốt ở đây là kinh vô tự có trước rồi sau mới có kinh hữu tự. Nó đúng với lịch sử truyền pháp của đạo Phật và nhiều tôn giáo khác ở phương Đông.

    Khai sáng Phật giáo là Thích Ca. Khi Thích Ca đi tu, không có tụng kinh, không có lễ bái, dộng chuông, thắp nhang, đốt sớ. Thích Ca đắc đạo, chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác (a nậu đa la tam miệu tam bồ đề) thì Ngài vốn không có thầy. Không thầy, không kinh, biết lấy chi bám víu mà đạt đạo? Ngài chỉ nhờ giác ngộ được bổn tâm của mình. Bằng con đường tham thiền mà Ngài giác ngộ. Kinh vô tự ám chỉ pháp môn thiền. Thiền hay nội giáo tâm truyền (esoterism) dành cho những bậc đại căn đại trí.

    Khi Phật truyền tâm ấn cho Nhị Tổ Ca Diếp, cũng không có văn tự. Sử chép rằng: Ngày kia, Phật tại núi Linh Thứu, trước đông đảo đệ tử Phật bắt đầu thuyết pháp bằng cách im lặng (vô ngôn) và cầm một cành hoa đưa lên trước đại chúng (niêm hoa). Mọi người bàng hoàng chẳng hiểu ý chi. Riêng đại đệ tử thứ ba là Ca Diếp nhoẻn miệng cười (vi tiếu). Phật thấy Ca Diếp đã lãnh hội được, bèn truyền tâm ấn cho Ca Diếp làm Nhị Tổ Thiền Tông với lời lẽ như sau: “Ngã hữu chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, vi diệu pháp môn, thực tướng vô tướng, kim phó chúc Ma Ha Ca diếp.” (Ta có kho tàng con mắt của chánh pháp, tâm huyền diệu của niết bàn, cửa pháp vi diệu, thực tướng vô tướng, nay đem trao lại cho Đại Ca Diếp.)

    Tổ thứ 28 của Thiền Tông Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma qua Trung Quốc làm Sơ Tổ Thiền vào năm 520 cũng tóm tắt tôn chỉ lập giáo của Ngài như sau:

    Bất lập văn tự,

    Giáo ngoại biệt truyền.

    Trực chỉ nhân tâm,

    Kiến tánh thành Phật.

    Tôn chỉ của Đạt Ma có nghĩa là: Không thông qua chữ nghĩa, không sử dụng kinh điển giáo lý, nhắm thẳng vào nội tâm con người, hễ thấy bổn tánh thì thành Phật.


    Tọa thiền là tụng kinh vô tự

    Tóm lại, kinh vô tự giấy trắng là biểu tượng của tâm pháp, của thiền môn, là nội giáo, cái mà Khổng Tử gọi là hình nhi thượng học (esoterism). Ở Ấn Độ, nó có từ Thích Ca, ở Trung Quốc, nó truyền từ Đạt Ma.

    Sau khi Phật Thích Ca tịch diệt, nhập niết bàn, do nhu cầu truyền giáo, các đại đệ tử mới tổ chức ghi chép lại lời dạy của Phật. Công lao này đứng đầu là A Nan. Vì khi Phật còn tại thế, ông A Nan được tuyển làm thị giả hầu cận Đức Phật, nên ông được nghe Phật thuyết pháp nhiều hơn ai hết, và nhờ có trí nhớ kiểu Lê Quý Đôn, nên đã nghe thì bộ nhớ ghi lại trọn vẹn, không sót một lời.

    Ông nghe kinh nhiều quá thành ra... tu luyện huyền công có phần nào hơi kém cỏi hơn đồng đạo, thần thông đã thua anh em, mà chứng ngộ cũng trễ hơn anh em. Bù lại, ông được tôn là Đa Văn đệ nhứt trong mười đại đệ tử; ông tuy hạng nhứt về nghe kinh nhiều, nhưng lại xếp hạng chót trong mười đại đệ tử. (Lý thuyết kém hơn thực hành chăng?)

    Vậy vô vi hay kinh vô tự có trước, về sau mới có kinh hữu tự, hữu vi. Có hữu vi nên mới dựng chùa, đúc chuông, tô tượng Phật, tụng kinh, thắp nhang, đốt sớ, v.v... Con đường truyền giáo này phù hợp cho đại chúng, nó là phổ độ, là hình nhi hạ học, là ngoại giáo công truyền (exoterism).

    Phật pháp truyền từ Thích Ca đến Ca Diếp đánh dấu bằng tâm ấn niêm hoa vi tiếu, vắng bặt ngôn ngữ. Ca Diếp là Nhị Tổ, truyền đến Tam Tổ là A Nan thì bắt đầu có tổ chức kết tập kinh điển, văn tự miên man, lời lẽ dằng dặc. Cho nên có thể thấy Ca Diếp là tiêu biểu cho con đường tâm pháp nội tu (kinh vô tự giấy trắng) và A Nan là tượng trưng cho giáo lý công truyền (kinh hữu tự). Hiểu như vậy mới cảm nhận được trọn vẹn chỗ tài tình của Ngô Thừa Ân, vì sao lại phải chọn đúng Ca diếp, A nan là người trao kinh cho Đường Tăng trong lúc bấy giờ ở điện Đại Hùng còn có tám Bồ Tát, bốn Kim Cang, mười một Đại Diệu, mười tám Già Lam, năm trăm La Hán, và ba ngàn Yết Đế [TDK X 1988: 164].

    Kinh vô tự bị đem trả lại chùa Lôi âm để đổi lấy kinh hữu tự! Đó là con đường mà tâm pháp bị hữu vi hóa, đạo pháp thất chơn truyền. Ở Trung Hoa đó là hình ảnh mà thiền (tâm pháp) từ Bồ Đề Đạt Ma truyền xuống Lục Tổ Huệ Năng thì rẽ ngang nhánh Thần Tú (ngoại giáo). Cũng là hình ảnh của đạo Lão từ Lão Tử truyền xuống tới Trương Đạo Lăng thì biến ra âm thanh sắc tướng.

    Theo Phật, Lão và Cao Đài, chỉ có thực hành thiền (nội tu) mới có thể giải thoát thực sự. Ngoài ra, tu kinh tu kệ thì chỉ là lý thuyết. Giáo lý chỉ có thể giúp con người sáng suốt, trang bị thêm một mớ kiến thức chữ nghĩa chứ không biến được phàm phu ra phật ra tiên. Nói cách khác, tu bằng kinh hữu tự con người chưa thể đáo bỉ ngạn để qua tới bến bờ giác ngộ. Kinh hữu tự không thể đưa con người đến rốt ráo của giải thoát. Ý chỉ sâu sắc đó được Ngô Thừa Ân diễn tả bằng việc phơi kinh ướt ở bờ sông Thông Thiên [TDK X 1988: 189], bị mất hết mấy tờ cuối quyển. Đọc kinh mà không tới chung kết cũng giống như tu hành mà không đạt kết quả (không giải thoát).

    Trở lại với lời cảnh tỉnh của Phật Tổ trước lúc trao kinh cho Đường Tăng: “... chỉ e người phương đó ngu si lỗ mãng huỷ báng chân ngôn, không biết ý chỉ sâu xa trong đạo của ta.” [TDK X 1988: 166]. Kinh giấy trắng cao siêu quá, tuy không hủy báng, nhưng đã đặt vào tay mà còn đem trả lại, cũng gần như là chê bỏ!

    Không ai giao sách cho người không biết đọc. Kinh vô tự của Phật vì vậy không đọc được bằng nhục nhãn (mắt thịt). Nhục nhãn chỉ đọc đưọc kinh hữu tự không toàn vẹn (thiếu trang chót). Kinh vô tự phải đọc bằng tâm, bằng nghị lực tự thắng của hành giả cô đơn. Và như thế, nỗi lòng giấy trắng không phải để san sẻ cho đại chúng bì phu, mà chỉ hiện chữ cảm thông cho riêng ai âm thầm với trăng sao soi cửa động.

    DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Để Bạn Hiểu Rõ Hơn Về Mễ Du !
    By vohinh69 in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 14-06-2012, 06:59 AM
  2. Tây Phương Cực Lạc Du Ký (Tế Công - Thái sinh)tt
    By lyquochoang in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 28-12-2011, 01:31 PM
  3. Giải mã 'giếng thần' chữa vô sinh ở làng sinh đôi
    By Bin571 in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 31-10-2011, 09:16 PM
  4. Tây Phương Du Kí
    By cloudstrife in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 01-10-2011, 11:28 AM
  5. Đạo gì?
    By phúc minh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 20-04-2011, 10:42 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •