Trang 1 trong 3 123 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 50

Ðề tài: GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

  1. #1
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Tác phẩm này Kinhvotu đã đọc rất nhiều lần nhưng vẩn thấy hay nên hôm nay poste lên để chia sẽ cùng các bạn. Mong rằng sau khi đọc cuốn sách này mỗi người chúng ta sẽ có một cái nhìn mới về một tác phẩm đã quá quen thuộc : TÂY DU KÝ của NGÔ THỪA ÂN.

    I. ĐƯỜNG TĂNG ! ANH LÀ AI ?

    NĂM MÀ MỘT

    Tây du ký là câu chuyện trường thiên về hành trình qua phương Tây thỉnh kinh của năm thầy trò: Tam Tạng, Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng, và con Long Mã.

    Thông thường, người ta sơ ý, chỉ kể có bốn, quên đi con ngựa, nguyên là con rồng ngọc (ngọc long), thái tử thứ ba, con của Tây Hải Long Vương Ngao Nhuận. Quên kể đến ngựa rồng, phải chăng vì vai trò đỡ chân cho Đường Tăng của Ngọc Long Tam thái tử hình như có vẻ lu mờ? Hay quên kể, vì không thấy ở Tây du ký tản mác ẩn ngữ nơi này, rải rác ẩn dụ nơi kia, mà ngòi bút của Ngô Thừa Ân đã ung dung viết như giỡn chơi, như bông đùa, mà ý hàm tàng thì rất thực. Và nên hiểu chỗ thực trong cái hư của Tây du ký, nét nghiêm trang trong vẻ bỡn cợt của Ngô Thừa Ân như thế nào?

    Tây du ký là truyện xuất thế gian, do đó không có dấu ấn của Nho giáo, vì Nho giáo về cơ bản là đạo nhập thế, thuộc phạm vi hình nhi hạ học mà ngày nay Cao Đài gọi là ngoại giáo công truyền (exoterism).

    Đọc Tây du mà bảo Ngô Thừa Ân có cái gọi là tư tưởng chống Trời, chống thiên tử, tức là đã quên đi ngay từ ban đầu câu chuyện xuất gia, thỉnh kinh vốn đã hàm ngụ ý ngoại thế gian pháp.[1]

    Tây du nào có chống ai đâu, vì Tây du là câu chuyện ngụ ngôn, đem chuyện thỉnh kinh để diễn bày tư tưởng thiền học giải thoát trong đạo Lão, đạo Phật, thuộc phạm vi hình nhi thượng học mà ngày nay Cao Đài gọi là nội giáo tâm truyền (esoterism).

    Muốn đọc Tây du, hiểu Ngô Thừa Ân, cần thiết biết đọc giữa hai hàng chữ, nắm lấy bốn chữ ý tại ngôn ngoại (ý ở ngoài lời).

    Như chép ở kinh Viên giác, Phật bảo lấy ngón tay chỉ trăng, nếu đã thấy mặt trăng thì có thể biết rằng phương tiện để chỉ trăng rốt cuộc chẳng phải là mặt trăng. Trang Tử khuyên: «Có nơm vì cá, đặng cá hãy quên nơm. Có dò vì thỏ, đặng thỏ hãy quên dò. Có lời vì ý, đặng ý hãy quên lời.»

    Thế thì, vượt lên trên mọi hư cấu văn chương của Tây du ký với tài hí lộng chữ nghĩa của Ngô Thừa Ân, cuộc thỉnh kinh của Đường Tăng thực chất là chi? Đường Tăng là ai đó? Nước Thiên Trúc với chùa Lôi Âm ở đâu?

    Sẽ là sửng sốt nếu nói rằng Đường Tăng vẫn còn đang thỉnh kinh dù đã thỉnh kinh xong rồi từ vạn cổ. Tề Thiên đã hàng phục xong thiên ma vạn quỷ, đã cởi được kim cô niệt đầu, đã được Phật Tổ tán thán là Đấu Chiến Thắng Phật ở giữa bửu điện trang nghiêm của chùa Lôi Âm, nhưng Tề Thiên vẫn còn đang và vẫn sẽ còn tiếp tục vất vả đánh nhau với yêu tinh ma quái. Mãi mãi cuộc chiến đấu vẫn chưa xong. Tề Thiên nào đã thành Phật? Tề Thiên nào chưa thành Phật? Yêu ma nào đã quy hàng? Yêu ma nào còn chưa ngừng dấy động phong ba? Nước Thiên Trúc với chùa Lôi Âm không ở về phương Tây, và cũng không phải là một địa danh trên bản đồ kim cổ. Vậy, cuộc thỉnh kinh đi về phương trời nào viễn xứ?

    Nên ta thử hỏi lớn tiếng rằng: Đường Tăng! Anh là ai? Câu hỏi ấy phải chăng xấc xược? Sao lại dám xưng hô với Đường Tăng là... Anh? Ta cứ hỏi nữa: Đường Tăng! Anh là ai?

    Cũng là ta hỏi chính ta đó thôi. Mỗi một người trong chúng ta đều là Đường Tăng. Mỗi thời đại của quá khứ, hiện tại và vị lai đều có Đường Tăng, đều vẫn đã, đang và sẽ còn tiếp tục thỉnh kinh. Cuộc thỉnh kinh chính là hành trình đầy trắc trở của mỗi người trong chúng ta truy tầm Chân lý - tìm cái mà Lão Tử gượng cho là Đạo, gọi tên là Xích tử chi tâm, Phật mệnh danh là Bổn lai diện mục, và Cao Đài ngày nay bảo là Nhân bản hay Thượng Đế tính - vốn dĩ đã sẵn tàng ẩn trong mỗi con người.

    Đi về đâu để có được Chân lý đó? Thiên Trúc ư? Hà xứ tại? Thưa rằng nước Thiên Trúc ấy nào có đâu xa và con đường thỉnh kinh cũng chẳng phải là hành trình từ phương Đông qua phương Tây diệu vợi. Vương Dương Minh bảo: Vũ trụ là tâm ta, tâm ta là vũ trụ. Ngô Thừa Ân ám chỉ: Thiên Trúc là thân ta, thân ta là Thiên Trúc. Kinh báu chùa Lôi Âm là hình ảnh tượng trưng cho Chân lý, nó nằm trong tự thân nội thể con người. Cuộc thỉnh kinh vì vậy là con đường quy hướng về nội tâm của mỗi người, là hành trình phản tỉnh nội cầu, quay lại nhìn vào chính nội thân của mình, tìm thấy trong chính ta cái chân lý: Người là một thiêng liêng tại thế, cùng với Trời đồng thể linh quang (ánh sáng thiêng liêng).

    Do đó phải nói rằng bộ phim Tây du ký hai mươi lăm tập của nữ đạo diễn Trung Quốc Dương Khiết đã rất tài tình khi nhạc mở đầu cho phim là bài hát «Con đường nào ta đi...» Con đường thỉnh kinh là đường trở về nội tâm. Trên con đường cô đơn đó, ta là Đường Tăng, và ta cũng là Tề Thiên, Sa Tăng, Bát Giới, Long Mã. Như vậy cuộc thỉnh kinh phải bắt buộc đủ bộ năm thầy trò. Thiếu một là không được! Nhưng năm mà một: là một con người với năm phương diện.

    Long Mã

    Con ngựa mà vua Đường cấp cho Đường Tăng bắt buộc phải chết đi, để đem thay bằng ngựa thần, ngựa rồng. Ngựa là xác thân. Ngựa thần là xác thân cương kiện. Một tinh thần minh mẫn trong một xác thân tráng kiện. Con người đi tìm Chân lý, tìm Đạo, cần có xác thân vững vàng, khoẻ mạnh. Không có ngựa tốt thì Đường Tăng không tới được Lôi Âm. Người mà thể xác bịnh hoạn, tinh thần ươn hèn thì làm sao có thể quyết tâm chiến đấu để đạt tới Chân lý, đạt Đạo?

    Sa Tăng

    Sa Tăng là tánh cần cù, nhẫn nại. Ngô Thừa Ân bắt Sa Tăng phải nhọc nhằn gánh hành lý là lẽ ấy. Tề Thiên mấy bận giận Thầy, mấy phen đào nhiệm, từng quay về Thủy Liêm động quê xưa; Bát Giới nào có thua, đã trăm lần ngàn lượt cứ lẻo nhẻo đòi chia của, rồi mạnh ai đường nấy, chàng về cố thổ lấy vợ cho xong. Chỉ riêng có Sa Tăng suốt cuộc hành trình thiên ma bách chiết, vào yêu ra quỷ, một lòng một dạ quảy hành trang tiến tới. Không một lời thối lui. Không một lòng biến đổi. Sa Tăng là hình ảnh của tinh tấn, trì thủ, tâm bất thối chuyển. Dù khó khăn đến đâu, đã quyết rồi, thì cứ đi tới. Khí giới của Sa Tăng vì thế là bảo trượng có đầu dẹp và bén nhọn, để mà dễ dàng găm chặt vào, ghim chặt vào. Chí đã định rồi thì không biến đổi, lòng đã quyết rồi thì chẳng chuyển lay. Pháp danh của Sa Tăng vì thế là Ngộ Tịnh: tịnh để mà khắc chế cái động, cái chưa thanh tịnh; tịnh để mà kham nhẫn, chịu đựng.


    Sa Tăng


    Bát Giới

    Bát Giới

    Bát Giới là tánh tham. Tham ăn, tham ngủ, tham của, tham sắc và tham nịnh nọt cho được lợi về mình. Khí giới của họ Trư vì thế phải bắt buộc là đinh ba, là cào cỏ, để mà vơ vào cho nhiều, cho vừa lòng tham dục. Bát giới là sự tập hợp những bản năng rất vật dục và tầm thường nơi con người. Có lẽ vì thế mà pháp danh của chàng là Ngộ Năng.[2]

    Tề Thiên

    Tề Thiên là trí, lý trí. Bộ phim Tây du của nữ đạo diễn Trung Quốc Dương Khiết cho thấy đạo diễn dường như đã hiểu được vai trò quan trọng của Tề Thiên. Lý trí phải dẫn dắt, phải soi đường cho hành động. Thế nên, trong phim, luôn luôn vai Tề Thiên đều đi trước, để dẫn đầu mấy thầy trò.

    Lý trí ưa nổi loạn, ngang tàng phách lối, chẳng chịu thua kém nhường nhịn ai. Cho nên Tề Thiên coi mình to ngang với Trời (Tề Thiên: bằng Trời), và muốn lên trời xuống biển, quậy phá đều làm được tất, không chút đắn đo, chẳng hề ngần ngại. Đối với Trời vẫn tự xưng «Lão Tôn» là tánh kiêu căng. Trước mặt Trời vẫn nghinh ngang, đứng xổng lưng không chịu quỳ, ăn nói lôi thôi bất kể tôn ti trật tự, đó là tượng trưng cho đầu óc duy lý của những người muốn phủ nhận Thượng Đế.

    Lý trí ưa phân biện, cho nên TềYthiên mới có con mắt lửa tròng vàng, nhìn một cái là thấy rõ bản chất và hiện tượng, biết ngay ai đúng là căn tiên cốt phật, ai đậy che dáng quỷ hình ma. Lý trí cũng thích đả phá, ưa đả kích, cho nên khí giới của Tề Thiên phải là thiết bổng (gậy sắt), để mà đập phá. Pháp danh của Tề Thiên vì thế là Ngộ Không: Không (sunyata) để mà siêu vượt lên mọi đối đãi của thế giới sắc tướng và thế giới phi sắc tướng.

    Lý trí, tư tưởng đã suy xét, đã vận động thì ôi thôi, thiên biến vạn hóa. Cho nên thiết bổng của Tề Thiên khi nặng thì nặng vô cùng, mà lúc nhẹ thì nhẹ hơn mảy lông, muốn to nhỏ ngắn dài tùy ý, nhét gọn lỗ tai cũng xong, thế nào cũng được. Đó cũng là tư duy, ngôn ngữ, lý lẽ của con người. Hay cũng nó. Dở cũng nó. Bóp méo, vo tròn đều được cả. Đó vốn là nghề của chàng.

    Lý trí vì những «thuộc tính» như thế nên cần thiết phải được uốn nắn luôn luôn cho hợp với kỷ cương, khuôn phép. Tề Thiên bởi vậy mà phải đội kim cô. Tuy nhiên, khi về tới chùa Lôi Âm, thành Phật rồi, không cần cởi, vòng kim cô tự lúc nào đã biến mất. Cái trí con người khi đã thuần dưỡng thì không cần kỷ luật nó vẫn vận động đúng. Giống như trẻ con mới đi học, tập viết phải có giấy kẻ hàng đôi, đến chừng lớn lên viết giỏi rồi, giấy chẳng vạch hàng kẻ ô vẫn dễ dàng viết ngay ngắn.

    Cái trí của con người còn có một đặc điểm là xẹt rất lẹ, phóng rất nhanh, cực nhanh. Ngồi ở Sài Gòn mà có thể lan man nghĩ ngợi tới tận đâu đâu, như chu du năm châu dạo cùng bốn biển; chuyện mấy chục năm quá khứ, chớp mắt một cái là cả cuốn phim dĩ vãng trường thiên vùn vụt hiện về. Diễn tả ý này, truyện Tây du bảo Tề Thiên có được phép cân đẩu vân, «mỗi cân đẩu vân đi được mười vạn tám nghìn dặm» [TDK I 1982: 63]. Con số 108.000 dặm ngoài ý nghĩa tượng số học [3] còn nhằm ám chỉ tốc độ khủng khiếp của tư tưởng con người.

    DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG
    (Còn Tiếp)
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  2. #2
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU


    Tôn Ngộ Không


    Đường Tăng

    Đường Tăng

    Đường Tăng là con người có lòng từ bi, nhân hậu, bao dung, có quyết tâm tu hành vượt qua muôn vàn cám dỗ. Truyện Tây du chưa lột được cái đấu tranh ghê gớm của Đường Tăng ở Tây Lương Nữ Quốc và khi chàng rơi vào tay yêu nữ động Tỳ bà [TDK VI 1988: 88-92, 108-109], thì bộ phim Tây du của Trung Quốc đã dàn dựng rất đạt những thử thách này. Đường tăng trong hai đoạn phim ấy hoàn toàn là một con người bằng xương bằng thịt, có giới hạn mà bản thân Đường Tăng không thể vượt qua, nếu không được Tề Thiên giải cứu kịp thời.

    Đường Tăng còn có tánh phàm, u mê, nhu nhược, ba phải. Đọc truyện hay xem phim Tây du ai cũng dễ thấy ghét... chàng. Một trăm lần Tề Thiên cản: Yêu ma đấy, Thầy chớ có cứu. Và đủ một trăm lần Đường Tăng cãi, cứ cứu, để rồi mắc nạn vương tai. Đó là nhận giặc làm con vì sự nhận thức của cảm tính không biết nghe theo tiếng gọi sáng suốt của lý trí.

    Đường Tăng cứ lặp đi lặp lại những sai lầm của mình, và không có sai lầm nào giống sai lầm nào. Con người cũng thế, cứ đi từ sai lầm này đến sai lầm khác mà thôi, nếu không nghe theo lý trí, lương tâm mà chỉ biết chìu theo vọng tâm, tình cảm nhất thời.

    Trong các đệ tử, Đường Tăng thường «cưng» ai nhứt? Chàng vốn tỏ ra cưng Bát Giới hơn cả. Bát Giới tượng trưng cho các bản năng dục vọng tiềm tàng trong tâm mỗi người; vậy, phải chăng chính ta, ta vốn vẫn thường có xu hướng nhắm mắt đưa chân, phớt lờ cái lẽ đúng mà nuông chìu theo thói hư tật xấu của mình?

    Trong Tây du, luôn luôn xảy ra những mâu thuẫn có khi gay gắt giữa Tề Thiên và Đường Tăng, khiến cho thầy trò phải mấy phen chia lìa, thậm chí ngay khi Tề Thiên mới bái Đường tăng làm sư phụ xong mà đã vội giận dữ bỏ đi [TDK II 1982: 84]. Đó cũng là cách biểu tượng hóa những đối nghịch giữa lý trí với tình cảm, cảm tính.

    Cà sa và tích trượng

    Đường Tăng rõ ra là lương tri, nhưng tiếng nói của lương tri nhiều khi quá yếu mềm trước những sức mạnh đối kháng. Ngoài cái lý trí (là Tề Thiên) chống đỡ, bảo vệ, Đường Tăng còn cần phải được trang bị thêm hai phương tiện hữu hiệu để hộ thân, tự vệ. Đó là cà sa và tích trượng.

    Cà sa là áo giáp chở che, tích trượng để thêm sức cho đôi chân vững vàng trụ lập. Cà sa và tích trượng ấy chính là đạo đức chân chánh của con người. Có đạo đức, con người đủ khả năng tự phòng thủ, tự bảo vệ mình khỏi sa chân vào tội lỗi lạc lầm, tránh xa được sự trừng phạt của ngục hình đày đọa. Cho nên, khi Phật Tổ Như Lai sai A Nan và Ca Diếp mang áo cà sa gấm và tích trượng chín vòng trao cho Quan Âm Bồ Tát, đã dặn dò rằng: «Tấm áo cà sa và cây gậy này đưa cho người lấy kinh dùng. Nếu người ấy (...) mặc tấm áo cà sa của ta, thì thoát khỏi luân hồi; cầm gậy tích trượng của ta thì không bị hãm hại.» [TDK I 1982: 190]. Và khi ở kinh thành Trường An, giải thích chỗ quý báu của cà sa, Quan Âm Bồ Tát cũng bảo: «Mặc tấm áo cà sa của ta thì không bị đắm chìm, không sa địa ngục, không gặp tai ương ác độc, không bị hoạn nạn sói lang.» [TDK II 1982: 36]

    Trong bộ phim Tây du hai mươi lăm tập của Trung Quốc, nữ đạo diễn Dương Khiết có lẽ đã hiểu tường tận ý nghĩa cà sa là áo giáp đạo đức hộ thân, cho nên rất tài tình khi dàn dựng cảnh yêu nữ động Tỳ bà quyến rũ Đường Tăng sa vào sắc dục. Lúc ấy Đường Tăng như trong cơn mộng du, lảo đảo bước gần tới vòng tay yêu nữ đón mời, và mảnh cà sa đỏ rực bỗng nhẹ tênh, vuột bay khỏi thân Đường tăng. Còn tấm áo, Đường tăng còn an ổn; áo vuột rơi rồi, tội lỗi mở cửa chực chờ. Đạo đức mất đi, cái xấu chen vào.

    Yêu tinh

    Yêu tinh quỷ quái hằng hà sa số cản đường ngăn lối cuộc thỉnh kinh cũng là những thói hư tật xấu của chính ta. Yêu tinh có hai loại. Có thứ là giống chồn cáo, rắn rít, cọp beo... biến thành. Hình ảnh này là ẩn dụ con người luôn luôn đương đầu với cái xấu, cái ác, các nghịch cảnh từ bên ngoài tác động vào bản thân. Loại yêu quái này luôn luôn bị Tề Thiên đập chết, không ai cứu chúng. Trên nẻo đường truy cầu Chân lý, tìm Đạo, con người phải dũng mãnh, nghị lực, quyết tâm san bằng mọi trở lực, chướng ngại ngoại lai để đạt cho kỳ được cứu cánh chân lý của mình. Dứt khoát không khoan nhượng.

    Nhưng... lại kỳ quặc hơn, có thứ quỷ quái mà Tề Thiên vừa vung thiết bổng định đập chết, thì liền có tiên này phật kia hiện ra cản lại, xin tha mạng chúng để rồi mang về thượng giới quản lý. Loại yêu này xét lý lịch đã rõ, vốn là các con thú con vật mà các vị ở cõi trời nuôi giữ, chẳng may để sổng, nên chúng lẻn xuống trần làm tinh ma quái quỷ.[4] Có người xem phim hay đọc truyện Tây du, gặp những chỗ như vậy, liên hệ gần xa rồi nhếch miệng cười: Tưởng sao, cũng là một kiểu «xử lý nội bộ»!

    Loại yêu có «ô dù» cỡ bự như vừa nói, chính là cái xấu, cái ác, cái chướng ngại cản ngăn nội tại. Chúng nằm trong chính ta, và là một phần của ta. Giết chúng đi là giết ta ư?

    Một hình ảnh hai cuộc đời

    Phật bảo: Hồi đầu thị ngạn. Quay đầu nhìn lại sẽ thấy ngay bến bờ giác ngộ. Buông dao đẫm máu xuống, mười tám ông ăn cướp lập tức hóa ra thập bát la hán. Con người là một hình ảnh hai cuộc đời. Trong ta là sự tồn tại của hai mặt đối lập lẫn nhau. Ta là Jesus mà ta cũng là Lucifer chúa quỷ. Ta là Thích Ca, Lão Tử mà ta cũng thừa sức bày trò ngạ quỷ, giở thói súc sanh. Trong ta vừa có thiên đàng, niết bàn cực lạc, vừa có cả hỏa ngục, a tỳ.

    Trong cuộc chiến đấu để đạt tới Chân lý, con người có thể chuyển hóa cái ác thành cái thiện. Hôm trước còn là Hồng Hài Nhi hung tợn, khoái ăn thịt người thì hôm sau đã là Thiện Tài Đồng Tử trang nghiêm, cung kính hầu cận một bên Quan Âm Bồ Tát .[5] Bữa nọ còn làm yêu quái tụm bầy chận đường bắt người cướp của, ăn tươi nuốt sống, thì bữa nay đã thành voi thần, sư tử thánh đỡ chân cho Phổ Hiền và Văn Thù Bồ Tát nơi cõi phật [TDK VIII 1988: 173-174].


    Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát


    Phổ Hiền bồ Tát

    Tánh tham là xấu, nhưng thay vì tham cái vị kỷ đê hèn, biết tham làm cái vị tha ích quốc lợi dân, thì tham ấy Chúa, Phật cũng tham. Tánh sân giận đáng chê, nhưng thay vì cái giận khí huyết của lòng ty tiểu, biết giận cho cái bất bằng chính nghĩa, thì giận ấy Lão Đam, Khổng Tử cũng xá dài bái phục.

    Phân biệt hai hạng yêu tinh nội tại và ngoại lai như thế, người đọc truyện Tây du thử gẫm lại vì sao luôn luôn khi Tề Thiên gặp yêu quỷ đều tróc Sơn thần, Thổ địa để truy tầm ngọn nguồn, gốc tích con yêu ở đâu. Cho dù đang thua sức lũ yêu, mà một khi đã nắm chắc lý lịch của chúng rồi thì trăm lần đánh là trăm lần thắng. Chuyển bại thành thắng là sau khi đã điều tra, xác minh lý lịch xong xuôi. Sao lạ vậy? Cái xấu, cái ác vốn muôn đường nghìn lối, thiên hình vạn trạng. Con người phải biết nó từ đâu tới, do đâu mà ra. Như thầy thuốc giỏi, trị bịnh phải biết trị tận gốc chứ không trị ngọn.



    Đi tìm nghịch lý

    Tây du thoạt xem, tưởng đâu rặt chuyện nghịch lý, vô lý. Tại sao Tề Thiên náo loạn thiên cung, cõi trời nghiêng ngửa, vậy mà lắm phen cam đành thất điên bát đảo với lũ yêu ma? Tề Thiên không ngán Lão Tử, thế sao chẳng trị nổi con trâu xanh của Lão Tử sổng chuồng ở núi Kim Đâu? [TDK V 1988: 227-247; TDK VI 1988: 5-51]

    Tề Thiên tuy có con mắt lửa tròng vàng, nhìn một cái biết ngay chân tướng yêu ma nhưng không phải luôn luôn đều dễ dàng chế ngự được yêu ma. Phải lắm phen cất công đi tìm Phật, Tiên, Bồ Tát cứu nạn. Bồ Tát và Phật Tiên trong Tây du tượng trưng cho đạo đức chơn chánh. Vậy, phải chăng lý trí tuy có khả năng xét suy phân biện phải trái rạch ròi, nhưng chưa đủ mạnh mẽ? Đối với tha nhân, sửa chữa cái xấu, cải tạo cái ác có khi không bằng lý lẽ, hay sức mạnh, mà phải cảm hóa bằng đạo đức nghĩa nhân. Còn với chính bản thân, có những cái xấu, cái ác mà lương tri, lương tâm đã tự biết là xấu, là ác, là không nên nhúng tay vào, nhưng con người lại quá yếu đuối, thường không đủ sức cưỡng lại nổi những ham muốn mãnh liệt, đành buông xuôi. Khi đó, chỉ còn có nhân nghĩa đạo đức là chiếc phao cuối cùng cho khách hồng trần bấu víu để khỏi đắm chìm trước cơn phong ba bão táp của hải hà dục vọng.

    Phật Tiên hay Thượng Đế cõi trời còn là hình ảnh biểu tượng của chính đại quang minh, của đại nhân quân tử. Yêu ma quỷ quái là phản diện, tiêu biểu cho tiểu nhân, giả trá, lọc lừa. Tề Thiên vốn không từng lép vế với cõi trời mà lại nhiều phen chịu ngậm hờn cùng lũ quỷ. Trong cuộc đấu tranh của con người với con người, từ nghìn xưa đến nay, soi gương kim cổ, phải chăng ai cũng thấy rằng ta không sợ đấu lý, đấu tranh với người biết điều, đại độ, chính trực, mà ta lại đều phải sợ giáp mặt cùng kẻ hẹp hòi, ngu dốt, chấp nê. Hai mặt trận với hai đối thủ rõ ràng khác biệt!

    Đọc Tây du hóa ra không phải đọc Tây du, mà là đọc lại chính ta. Ngô Thừa Ân hóa ra không phải Ngô Thừa Ân mà là mật ngữ siêu thoát của Lão, Phật. Ngô là họ Ngô; Thừa là thừa hưởng, thọ nhận; Ân là ân sâu đức cả. Ai xưa kia đã thọ hưởng được cái học của thánh hiền mà giác ngộ, không nỡ đem giấu làm của báu tư riêng, nên lấy cuộc văn chương, mượn trò chữ nghĩa bày truyện Tây du? Thọ nhận ân Ai mà Ngô Thừa Ân muốn đáp tạ ân Ai?

    Kiếp tằm đem trả nợ dâu,

    Đem lời huyễn tưởng diễn câu diệu huyền.

    Ngỡ rằng ma quái thần tiên,

    Nào hay rốt lại nhãn tiền chính ta.

    Cuộc chơi sực tỉnh giang hà,

    Mực đen giấy trắng gọi là nhân duyên
    .●



    DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG

    (26.8.1991 – 01.01.1995)


    Chú thích :

    [1] Ở đây, khi nói Tây du ký là truyện xuất thế gian, và câu chuyện xuất gia thỉnh kinh hàm ngụ ý ngoại thế gian pháp, thì nên hiểu hai chữ xuất thế theo nghĩa là một phương diện trên con đường tu học để hành đạo độ đời. Xuất thế để mà có đủ bản lĩnh nhập thế, biết vượt lên cuộc đời dù vẫn lăn lóc giữa cuộc đời trần cấu.

    Pháp bảo đàn kinh chép lời Lục tổ Huệ Năng dạy rằng: «Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác. Ly thế mịch bồ đề, cáp như cầu thố giác.» Nghĩa là, phương pháp tu của Phật nhằm tìm sự giác ngộ ngay trong cõi đời; nếu như rời bỏ cuộc đời mà tìm cầu giác ngộ, việc ấy là ảo tưởng, ví như đi tìm sừng thỏ vốn là thứ không có thực trong đời.

    Đạo Lão và Cao Đài cùng bảo: «Dục tu thiên đạo, tiên tu nhân đạo. Nhân đạo bất tu, thiên đạo viễn hỹ.» (Muốn tu đạo giải thoát trước tiên hãy lo tròn đạo làm người. Không tròn đạo người thì đạo trời hãy còn xa xôi lắm.)

    [2] Xem Phụ lục 5: Nói chuyện Trư Bát Giới.

    [3] Xem bài Ngọn gió trong lò.

    [4] Theo [TDK VII 1988: 98-139], đặc biệt có một con yêu rất lạ đời, nguyên là tên tiểu đồng lông mày vàng giữ chiếc khánh vàng của Phật Di Lặc. Thích chơi trội hơn lũ yêu ma khác, y lẻn xuống trần mạo xưng là Hoàng Mi Lão Phật, lập chùa Lôi Âm giả, cũng chiêu tập quỷ quái lớn nhỏ về giả làm la hán, kim cang, yết đế, bồ tát... để lừa Đường Tăng vô chùa bái lạy thì bắt giữ.

    Đối với hành giả tu thiền, tình tiết này rất lý thú; nó cảnh giới người tu chân chính đừng nên vọng cầu phật ở ngoài thân. Trong lúc đang công phu hành thiền mà lỡ có thấy chư phật xuất hiện thì hãy coi chừng đó là ma cảnh ám chướng phá hoại chánh giác chánh định. Đó là lý do vì sao xưa kia có thiền sư đã nêu một phương châm thoạt nghe mà rởn mình: Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ (Phùng phật sát phật, phùng tổ sát tổ).

    [5] Xem bài Bốn biển không yên cơn lửa trẻ.

    (CÒN TIẾP)
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  3. #3
    Lục Đẳng Avatar của Dieudiem
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    Đơn sơ nhà gỗ !
    Bài gởi
    13,103

    Mặc định

    Huynh xóa hình trong photobucket làm mất hình hết rùi huynh ui !

  4. #4
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Dieudiem Xem Bài Gởi
    Huynh xóa hình trong photobucket làm mất hình hết rùi huynh ui !

    Im sory. Sẽ khôi phục ngay.
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  5. #5
    Lục Đẳng Avatar của vothuong1978
    Gia nhập
    Dec 2011
    Nơi cư ngụ
    Thánh Địa Tâm Linh
    Bài gởi
    16,168

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi kinhvotu Xem Bài Gởi
    Im sory. Sẽ khôi phục ngay.
    cần help ko..:whistling::whistling::whistling:
    Thị Trấn Về Đêm...

  6. #6
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Tác phẩm này Kinhvotu đã đọc rất nhiều lần nhưng vẩn thấy hay nên hôm nay poste lên để chia sẽ cùng các bạn. Mong rằng sau khi đọc cuốn sách này mỗi người chúng ta sẽ có một cái nhìn mới về một tác phẩm đã quá quen thuộc : TÂY DU KÝ của NGÔ THỪA ÂN.

    I. ĐƯỜNG TĂNG ! ANH LÀ AI ?


    NĂM MÀ MỘT

    Tây du ký là câu chuyện trường thiên về hành trình qua phương Tây thỉnh kinh của năm thầy trò: Tam Tạng, Tề Thiên, Bát Giới, Sa Tăng, và con Long Mã.

    Thông thường, người ta sơ ý, chỉ kể có bốn, quên đi con ngựa, nguyên là con rồng ngọc (ngọc long), thái tử thứ ba, con của Tây Hải Long Vương Ngao Nhuận. Quên kể đến ngựa rồng, phải chăng vì vai trò đỡ chân cho Đường Tăng của Ngọc Long Tam thái tử hình như có vẻ lu mờ? Hay quên kể, vì không thấy ở Tây du ký tản mác ẩn ngữ nơi này, rải rác ẩn dụ nơi kia, mà ngòi bút của Ngô Thừa Ân đã ung dung viết như giỡn chơi, như bông đùa, mà ý hàm tàng thì rất thực. Và nên hiểu chỗ thực trong cái hư của Tây du ký, nét nghiêm trang trong vẻ bỡn cợt của Ngô Thừa Ân như thế nào?

    Tây du ký là truyện xuất thế gian, do đó không có dấu ấn của Nho giáo, vì Nho giáo về cơ bản là đạo nhập thế, thuộc phạm vi hình nhi hạ học mà ngày nay Cao Đài gọi là ngoại giáo công truyền (exoterism).

    Đọc Tây du mà bảo Ngô Thừa Ân có cái gọi là tư tưởng chống Trời, chống thiên tử, tức là đã quên đi ngay từ ban đầu câu chuyện xuất gia, thỉnh kinh vốn đã hàm ngụ ý ngoại thế gian pháp.[1]

    Tây du nào có chống ai đâu, vì Tây du là câu chuyện ngụ ngôn, đem chuyện thỉnh kinh để diễn bày tư tưởng thiền học giải thoát trong đạo Lão, đạo Phật, thuộc phạm vi hình nhi thượng học mà ngày nay Cao Đài gọi là nội giáo tâm truyền (esoterism).

    Muốn đọc Tây du, hiểu Ngô Thừa Ân, cần thiết biết đọc giữa hai hàng chữ, nắm lấy bốn chữ ý tại ngôn ngoại (ý ở ngoài lời).

    Như chép ở kinh Viên giác, Phật bảo lấy ngón tay chỉ trăng, nếu đã thấy mặt trăng thì có thể biết rằng phương tiện để chỉ trăng rốt cuộc chẳng phải là mặt trăng. Trang Tử khuyên: «Có nơm vì cá, đặng cá hãy quên nơm. Có dò vì thỏ, đặng thỏ hãy quên dò. Có lời vì ý, đặng ý hãy quên lời.»

    Thế thì, vượt lên trên mọi hư cấu văn chương của Tây du ký với tài hí lộng chữ nghĩa của Ngô Thừa Ân, cuộc thỉnh kinh của Đường Tăng thực chất là chi? Đường Tăng là ai đó? Nước Thiên Trúc với chùa Lôi Âm ở đâu?

    Sẽ là sửng sốt nếu nói rằng Đường Tăng vẫn còn đang thỉnh kinh dù đã thỉnh kinh xong rồi từ vạn cổ. Tề Thiên đã hàng phục xong thiên ma vạn quỷ, đã cởi được kim cô niệt đầu, đã được Phật Tổ tán thán là Đấu Chiến Thắng Phật ở giữa bửu điện trang nghiêm của chùa Lôi Âm, nhưng Tề Thiên vẫn còn đang và vẫn sẽ còn tiếp tục vất vả đánh nhau với yêu tinh ma quái. Mãi mãi cuộc chiến đấu vẫn chưa xong. Tề Thiên nào đã thành Phật? Tề Thiên nào chưa thành Phật? Yêu ma nào đã quy hàng? Yêu ma nào còn chưa ngừng dấy động phong ba? Nước Thiên Trúc với chùa Lôi Âm không ở về phương Tây, và cũng không phải là một địa danh trên bản đồ kim cổ. Vậy, cuộc thỉnh kinh đi về phương trời nào viễn xứ?

    Nên ta thử hỏi lớn tiếng rằng: Đường Tăng! Anh là ai? Câu hỏi ấy phải chăng xấc xược? Sao lại dám xưng hô với Đường Tăng là... Anh? Ta cứ hỏi nữa: Đường Tăng! Anh là ai?

    Cũng là ta hỏi chính ta đó thôi. Mỗi một người trong chúng ta đều là Đường Tăng. Mỗi thời đại của quá khứ, hiện tại và vị lai đều có Đường Tăng, đều vẫn đã, đang và sẽ còn tiếp tục thỉnh kinh. Cuộc thỉnh kinh chính là hành trình đầy trắc trở của mỗi người trong chúng ta truy tầm Chân lý - tìm cái mà Lão Tử gượng cho là Đạo, gọi tên là Xích tử chi tâm, Phật mệnh danh là Bổn lai diện mục, và Cao Đài ngày nay bảo là Nhân bản hay Thượng Đế tính - vốn dĩ đã sẵn tàng ẩn trong mỗi con người.

    Đi về đâu để có được Chân lý đó? Thiên Trúc ư? Hà xứ tại? Thưa rằng nước Thiên Trúc ấy nào có đâu xa và con đường thỉnh kinh cũng chẳng phải là hành trình từ phương Đông qua phương Tây diệu vợi. Vương Dương Minh bảo: Vũ trụ là tâm ta, tâm ta là vũ trụ. Ngô Thừa Ân ám chỉ: Thiên Trúc là thân ta, thân ta là Thiên Trúc. Kinh báu chùa Lôi Âm là hình ảnh tượng trưng cho Chân lý, nó nằm trong tự thân nội thể con người. Cuộc thỉnh kinh vì vậy là con đường quy hướng về nội tâm của mỗi người, là hành trình phản tỉnh nội cầu, quay lại nhìn vào chính nội thân của mình, tìm thấy trong chính ta cái chân lý: Người là một thiêng liêng tại thế, cùng với Trời đồng thể linh quang (ánh sáng thiêng liêng).

    Do đó phải nói rằng bộ phim Tây du ký hai mươi lăm tập của nữ đạo diễn Trung Quốc Dương Khiết đã rất tài tình khi nhạc mở đầu cho phim là bài hát «Con đường nào ta đi...» Con đường thỉnh kinh là đường trở về nội tâm. Trên con đường cô đơn đó, ta là Đường Tăng, và ta cũng là Tề Thiên, Sa Tăng, Bát Giới, Long Mã. Như vậy cuộc thỉnh kinh phải bắt buộc đủ bộ năm thầy trò. Thiếu một là không được! Nhưng năm mà một: là một con người với năm phương diện.

    Long Mã

    Con ngựa mà vua Đường cấp cho Đường Tăng bắt buộc phải chết đi, để đem thay bằng ngựa thần, ngựa rồng. Ngựa là xác thân. Ngựa thần là xác thân cương kiện. Một tinh thần minh mẫn trong một xác thân tráng kiện. Con người đi tìm Chân lý, tìm Đạo, cần có xác thân vững vàng, khoẻ mạnh. Không có ngựa tốt thì Đường Tăng không tới được Lôi Âm. Người mà thể xác bịnh hoạn, tinh thần ươn hèn thì làm sao có thể quyết tâm chiến đấu để đạt tới Chân lý, đạt Đạo?

    Sa Tăng

    Sa Tăng là tánh cần cù, nhẫn nại. Ngô Thừa Ân bắt Sa Tăng phải nhọc nhằn gánh hành lý là lẽ ấy. Tề Thiên mấy bận giận Thầy, mấy phen đào nhiệm, từng quay về Thủy Liêm động quê xưa; Bát Giới nào có thua, đã trăm lần ngàn lượt cứ lẻo nhẻo đòi chia của, rồi mạnh ai đường nấy, chàng về cố thổ lấy vợ cho xong. Chỉ riêng có Sa Tăng suốt cuộc hành trình thiên ma bách chiết, vào yêu ra quỷ, một lòng một dạ quảy hành trang tiến tới. Không một lời thối lui. Không một lòng biến đổi. Sa Tăng là hình ảnh của tinh tấn, trì thủ, tâm bất thối chuyển. Dù khó khăn đến đâu, đã quyết rồi, thì cứ đi tới. Khí giới của Sa Tăng vì thế là bảo trượng có đầu dẹp và bén nhọn, để mà dễ dàng găm chặt vào, ghim chặt vào. Chí đã định rồi thì không biến đổi, lòng đã quyết rồi thì chẳng chuyển lay. Pháp danh của Sa Tăng vì thế là Ngộ Tịnh: tịnh để mà khắc chế cái động, cái chưa thanh tịnh; tịnh để mà kham nhẫn, chịu đựng.


    Sa Tăng


    Bát Giới

    Bát Giới

    Bát Giới là tánh tham. Tham ăn, tham ngủ, tham của, tham sắc và tham nịnh nọt cho được lợi về mình. Khí giới của họ Trư vì thế phải bắt buộc là đinh ba, là cào cỏ, để mà vơ vào cho nhiều, cho vừa lòng tham dục. Bát giới là sự tập hợp những bản năng rất vật dục và tầm thường nơi con người. Có lẽ vì thế mà pháp danh của chàng là Ngộ Năng.[2]

    Tề Thiên

    Tề Thiên là trí, lý trí. Bộ phim Tây du của nữ đạo diễn Trung Quốc Dương Khiết cho thấy đạo diễn dường như đã hiểu được vai trò quan trọng của Tề Thiên. Lý trí phải dẫn dắt, phải soi đường cho hành động. Thế nên, trong phim, luôn luôn vai Tề Thiên đều đi trước, để dẫn đầu mấy thầy trò.

    Lý trí ưa nổi loạn, ngang tàng phách lối, chẳng chịu thua kém nhường nhịn ai. Cho nên Tề Thiên coi mình to ngang với Trời (Tề Thiên: bằng Trời), và muốn lên trời xuống biển, quậy phá đều làm được tất, không chút đắn đo, chẳng hề ngần ngại. Đối với Trời vẫn tự xưng «Lão Tôn» là tánh kiêu căng. Trước mặt Trời vẫn nghinh ngang, đứng xổng lưng không chịu quỳ, ăn nói lôi thôi bất kể tôn ti trật tự, đó là tượng trưng cho đầu óc duy lý của những người muốn phủ nhận Thượng Đế.

    Lý trí ưa phân biện, cho nên TềYthiên mới có con mắt lửa tròng vàng, nhìn một cái là thấy rõ bản chất và hiện tượng, biết ngay ai đúng là căn tiên cốt phật, ai đậy che dáng quỷ hình ma. Lý trí cũng thích đả phá, ưa đả kích, cho nên khí giới của Tề Thiên phải là thiết bổng (gậy sắt), để mà đập phá. Pháp danh của Tề Thiên vì thế là Ngộ Không: Không (sunyata) để mà siêu vượt lên mọi đối đãi của thế giới sắc tướng và thế giới phi sắc tướng.

    Lý trí, tư tưởng đã suy xét, đã vận động thì ôi thôi, thiên biến vạn hóa. Cho nên thiết bổng của Tề Thiên khi nặng thì nặng vô cùng, mà lúc nhẹ thì nhẹ hơn mảy lông, muốn to nhỏ ngắn dài tùy ý, nhét gọn lỗ tai cũng xong, thế nào cũng được. Đó cũng là tư duy, ngôn ngữ, lý lẽ của con người. Hay cũng nó. Dở cũng nó. Bóp méo, vo tròn đều được cả. Đó vốn là nghề của chàng.

    Lý trí vì những «thuộc tính» như thế nên cần thiết phải được uốn nắn luôn luôn cho hợp với kỷ cương, khuôn phép. Tề Thiên bởi vậy mà phải đội kim cô. Tuy nhiên, khi về tới chùa Lôi Âm, thành Phật rồi, không cần cởi, vòng kim cô tự lúc nào đã biến mất. Cái trí con người khi đã thuần dưỡng thì không cần kỷ luật nó vẫn vận động đúng. Giống như trẻ con mới đi học, tập viết phải có giấy kẻ hàng đôi, đến chừng lớn lên viết giỏi rồi, giấy chẳng vạch hàng kẻ ô vẫn dễ dàng viết ngay ngắn.

    Cái trí của con người còn có một đặc điểm là xẹt rất lẹ, phóng rất nhanh, cực nhanh. Ngồi ở Sài Gòn mà có thể lan man nghĩ ngợi tới tận đâu đâu, như chu du năm châu dạo cùng bốn biển; chuyện mấy chục năm quá khứ, chớp mắt một cái là cả cuốn phim dĩ vãng trường thiên vùn vụt hiện về. Diễn tả ý này, truyện Tây du bảo Tề Thiên có được phép cân đẩu vân, «mỗi cân đẩu vân đi được mười vạn tám nghìn dặm» [TDK I 1982: 63]. Con số 108.000 dặm ngoài ý nghĩa tượng số học [3] còn nhằm ám chỉ tốc độ khủng khiếp của tư tưởng con người.


    DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG
    (Còn Tiếp)
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  7. #7
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU


    Tôn Ngộ Không


    Đường Tăng

    Đường Tăng

    Đường Tăng là con người có lòng từ bi, nhân hậu, bao dung, có quyết tâm tu hành vượt qua muôn vàn cám dỗ. Truyện Tây du chưa lột được cái đấu tranh ghê gớm của Đường Tăng ở Tây Lương Nữ Quốc và khi chàng rơi vào tay yêu nữ động Tỳ bà [TDK VI 1988: 88-92, 108-109], thì bộ phim Tây du của Trung Quốc đã dàn dựng rất đạt những thử thách này. Đường tăng trong hai đoạn phim ấy hoàn toàn là một con người bằng xương bằng thịt, có giới hạn mà bản thân Đường Tăng không thể vượt qua, nếu không được Tề Thiên giải cứu kịp thời.

    Đường Tăng còn có tánh phàm, u mê, nhu nhược, ba phải. Đọc truyện hay xem phim Tây du ai cũng dễ thấy ghét... chàng. Một trăm lần Tề Thiên cản: Yêu ma đấy, Thầy chớ có cứu. Và đủ một trăm lần Đường Tăng cãi, cứ cứu, để rồi mắc nạn vương tai. Đó là nhận giặc làm con vì sự nhận thức của cảm tính không biết nghe theo tiếng gọi sáng suốt của lý trí.

    Đường Tăng cứ lặp đi lặp lại những sai lầm của mình, và không có sai lầm nào giống sai lầm nào. Con người cũng thế, cứ đi từ sai lầm này đến sai lầm khác mà thôi, nếu không nghe theo lý trí, lương tâm mà chỉ biết chìu theo vọng tâm, tình cảm nhất thời.

    Trong các đệ tử, Đường Tăng thường «cưng» ai nhứt? Chàng vốn tỏ ra cưng Bát Giới hơn cả. Bát Giới tượng trưng cho các bản năng dục vọng tiềm tàng trong tâm mỗi người; vậy, phải chăng chính ta, ta vốn vẫn thường có xu hướng nhắm mắt đưa chân, phớt lờ cái lẽ đúng mà nuông chìu theo thói hư tật xấu của mình?

    Trong Tây du, luôn luôn xảy ra những mâu thuẫn có khi gay gắt giữa Tề Thiên và Đường Tăng, khiến cho thầy trò phải mấy phen chia lìa, thậm chí ngay khi Tề Thiên mới bái Đường tăng làm sư phụ xong mà đã vội giận dữ bỏ đi [TDK II 1982: 84]. Đó cũng là cách biểu tượng hóa những đối nghịch giữa lý trí với tình cảm, cảm tính.

    Cà sa và tích trượng

    Đường Tăng rõ ra là lương tri, nhưng tiếng nói của lương tri nhiều khi quá yếu mềm trước những sức mạnh đối kháng. Ngoài cái lý trí (là Tề Thiên) chống đỡ, bảo vệ, Đường Tăng còn cần phải được trang bị thêm hai phương tiện hữu hiệu để hộ thân, tự vệ. Đó là cà sa và tích trượng.

    Cà sa là áo giáp chở che, tích trượng để thêm sức cho đôi chân vững vàng trụ lập. Cà sa và tích trượng ấy chính là đạo đức chân chánh của con người. Có đạo đức, con người đủ khả năng tự phòng thủ, tự bảo vệ mình khỏi sa chân vào tội lỗi lạc lầm, tránh xa được sự trừng phạt của ngục hình đày đọa. Cho nên, khi Phật Tổ Như Lai sai A Nan và Ca Diếp mang áo cà sa gấm và tích trượng chín vòng trao cho Quan Âm Bồ Tát, đã dặn dò rằng: «Tấm áo cà sa và cây gậy này đưa cho người lấy kinh dùng. Nếu người ấy (...) mặc tấm áo cà sa của ta, thì thoát khỏi luân hồi; cầm gậy tích trượng của ta thì không bị hãm hại.» [TDK I 1982: 190]. Và khi ở kinh thành Trường An, giải thích chỗ quý báu của cà sa, Quan Âm Bồ Tát cũng bảo: «Mặc tấm áo cà sa của ta thì không bị đắm chìm, không sa địa ngục, không gặp tai ương ác độc, không bị hoạn nạn sói lang.» [TDK II 1982: 36]

    Trong bộ phim Tây du hai mươi lăm tập của Trung Quốc, nữ đạo diễn Dương Khiết có lẽ đã hiểu tường tận ý nghĩa cà sa là áo giáp đạo đức hộ thân, cho nên rất tài tình khi dàn dựng cảnh yêu nữ động Tỳ bà quyến rũ Đường Tăng sa vào sắc dục. Lúc ấy Đường Tăng như trong cơn mộng du, lảo đảo bước gần tới vòng tay yêu nữ đón mời, và mảnh cà sa đỏ rực bỗng nhẹ tênh, vuột bay khỏi thân Đường tăng. Còn tấm áo, Đường tăng còn an ổn; áo vuột rơi rồi, tội lỗi mở cửa chực chờ. Đạo đức mất đi, cái xấu chen vào.

    Yêu tinh

    Yêu tinh quỷ quái hằng hà sa số cản đường ngăn lối cuộc thỉnh kinh cũng là những thói hư tật xấu của chính ta. Yêu tinh có hai loại. Có thứ là giống chồn cáo, rắn rít, cọp beo... biến thành. Hình ảnh này là ẩn dụ con người luôn luôn đương đầu với cái xấu, cái ác, các nghịch cảnh từ bên ngoài tác động vào bản thân. Loại yêu quái này luôn luôn bị Tề Thiên đập chết, không ai cứu chúng. Trên nẻo đường truy cầu Chân lý, tìm Đạo, con người phải dũng mãnh, nghị lực, quyết tâm san bằng mọi trở lực, chướng ngại ngoại lai để đạt cho kỳ được cứu cánh chân lý của mình. Dứt khoát không khoan nhượng.

    Nhưng... lại kỳ quặc hơn, có thứ quỷ quái mà Tề Thiên vừa vung thiết bổng định đập chết, thì liền có tiên này phật kia hiện ra cản lại, xin tha mạng chúng để rồi mang về thượng giới quản lý. Loại yêu này xét lý lịch đã rõ, vốn là các con thú con vật mà các vị ở cõi trời nuôi giữ, chẳng may để sổng, nên chúng lẻn xuống trần làm tinh ma quái quỷ.[4] Có người xem phim hay đọc truyện Tây du, gặp những chỗ như vậy, liên hệ gần xa rồi nhếch miệng cười: Tưởng sao, cũng là một kiểu «xử lý nội bộ»!

    Loại yêu có «ô dù» cỡ bự như vừa nói, chính là cái xấu, cái ác, cái chướng ngại cản ngăn nội tại. Chúng nằm trong chính ta, và là một phần của ta. Giết chúng đi là giết ta ư?

    Một hình ảnh hai cuộc đời

    Phật bảo: Hồi đầu thị ngạn. Quay đầu nhìn lại sẽ thấy ngay bến bờ giác ngộ. Buông dao đẫm máu xuống, mười tám ông ăn cướp lập tức hóa ra thập bát la hán. Con người là một hình ảnh hai cuộc đời. Trong ta là sự tồn tại của hai mặt đối lập lẫn nhau. Ta là Jesus mà ta cũng là Lucifer chúa quỷ. Ta là Thích Ca, Lão Tử mà ta cũng thừa sức bày trò ngạ quỷ, giở thói súc sanh. Trong ta vừa có thiên đàng, niết bàn cực lạc, vừa có cả hỏa ngục, a tỳ.

    Trong cuộc chiến đấu để đạt tới Chân lý, con người có thể chuyển hóa cái ác thành cái thiện. Hôm trước còn là Hồng Hài Nhi hung tợn, khoái ăn thịt người thì hôm sau đã là Thiện Tài Đồng Tử trang nghiêm, cung kính hầu cận một bên Quan Âm Bồ Tát .[5] Bữa nọ còn làm yêu quái tụm bầy chận đường bắt người cướp của, ăn tươi nuốt sống, thì bữa nay đã thành voi thần, sư tử thánh đỡ chân cho Phổ Hiền và Văn Thù Bồ Tát nơi cõi phật [TDK VIII 1988: 173-174].


    Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát


    Phổ Hiền Bồ Tát

    Tánh tham là xấu, nhưng thay vì tham cái vị kỷ đê hèn, biết tham làm cái vị tha ích quốc lợi dân, thì tham ấy Chúa, Phật cũng tham. Tánh sân giận đáng chê, nhưng thay vì cái giận khí huyết của lòng ty tiểu, biết giận cho cái bất bằng chính nghĩa, thì giận ấy Lão Đam, Khổng Tử cũng xá dài bái phục.

    Phân biệt hai hạng yêu tinh nội tại và ngoại lai như thế, người đọc truyện Tây du thử gẫm lại vì sao luôn luôn khi Tề Thiên gặp yêu quỷ đều tróc Sơn thần, Thổ địa để truy tầm ngọn nguồn, gốc tích con yêu ở đâu. Cho dù đang thua sức lũ yêu, mà một khi đã nắm chắc lý lịch của chúng rồi thì trăm lần đánh là trăm lần thắng. Chuyển bại thành thắng là sau khi đã điều tra, xác minh lý lịch xong xuôi. Sao lạ vậy? Cái xấu, cái ác vốn muôn đường nghìn lối, thiên hình vạn trạng. Con người phải biết nó từ đâu tới, do đâu mà ra. Như thầy thuốc giỏi, trị bịnh phải biết trị tận gốc chứ không trị ngọn.


    Bìa sách in năm 1995


    Bìa sách tái bản năm 2000

    Đi tìm nghịch lý

    Tây du thoạt xem, tưởng đâu rặt chuyện nghịch lý, vô lý. Tại sao Tề Thiên náo loạn thiên cung, cõi trời nghiêng ngửa, vậy mà lắm phen cam đành thất điên bát đảo với lũ yêu ma? Tề Thiên không ngán Lão Tử, thế sao chẳng trị nổi con trâu xanh của Lão Tử sổng chuồng ở núi Kim Đâu? [TDK V 1988: 227-247; TDK VI 1988: 5-51]

    Tề Thiên tuy có con mắt lửa tròng vàng, nhìn một cái biết ngay chân tướng yêu ma nhưng không phải luôn luôn đều dễ dàng chế ngự được yêu ma. Phải lắm phen cất công đi tìm Phật, Tiên, Bồ Tát cứu nạn. Bồ Tát và Phật Tiên trong Tây du tượng trưng cho đạo đức chơn chánh. Vậy, phải chăng lý trí tuy có khả năng xét suy phân biện phải trái rạch ròi, nhưng chưa đủ mạnh mẽ? Đối với tha nhân, sửa chữa cái xấu, cải tạo cái ác có khi không bằng lý lẽ, hay sức mạnh, mà phải cảm hóa bằng đạo đức nghĩa nhân. Còn với chính bản thân, có những cái xấu, cái ác mà lương tri, lương tâm đã tự biết là xấu, là ác, là không nên nhúng tay vào, nhưng con người lại quá yếu đuối, thường không đủ sức cưỡng lại nổi những ham muốn mãnh liệt, đành buông xuôi. Khi đó, chỉ còn có nhân nghĩa đạo đức là chiếc phao cuối cùng cho khách hồng trần bấu víu để khỏi đắm chìm trước cơn phong ba bão táp của hải hà dục vọng.

    Phật Tiên hay Thượng Đế cõi trời còn là hình ảnh biểu tượng của chính đại quang minh, của đại nhân quân tử. Yêu ma quỷ quái là phản diện, tiêu biểu cho tiểu nhân, giả trá, lọc lừa. Tề Thiên vốn không từng lép vế với cõi trời mà lại nhiều phen chịu ngậm hờn cùng lũ quỷ. Trong cuộc đấu tranh của con người với con người, từ nghìn xưa đến nay, soi gương kim cổ, phải chăng ai cũng thấy rằng ta không sợ đấu lý, đấu tranh với người biết điều, đại độ, chính trực, mà ta lại đều phải sợ giáp mặt cùng kẻ hẹp hòi, ngu dốt, chấp nê. Hai mặt trận với hai đối thủ rõ ràng khác biệt!

    Đọc Tây du hóa ra không phải đọc Tây du, mà là đọc lại chính ta. Ngô Thừa Ân hóa ra không phải Ngô Thừa Ân mà là mật ngữ siêu thoát của Lão, Phật. Ngô là họ Ngô; Thừa là thừa hưởng, thọ nhận; Ân là ân sâu đức cả. Ai xưa kia đã thọ hưởng được cái học của thánh hiền mà giác ngộ, không nỡ đem giấu làm của báu tư riêng, nên lấy cuộc văn chương, mượn trò chữ nghĩa bày truyện Tây du? Thọ nhận ân Ai mà Ngô Thừa Ân muốn đáp tạ ân Ai?


    Kiếp tằm đem trả nợ dâu,

    Đem lời huyễn tưởng diễn câu diệu huyền.

    Ngỡ rằng ma quái thần tiên,

    Nào hay rốt lại nhãn tiền chính ta.

    Cuộc chơi sực tỉnh giang hà,

    Mực đen giấy trắng gọi là nhân duyên




    DỦ LAN - LÊ ANH DŨNG

    (26.8.1991 – 01.01.1995)


    Chú thích :

    [1] Ở đây, khi nói Tây du ký là truyện xuất thế gian, và câu chuyện xuất gia thỉnh kinh hàm ngụ ý ngoại thế gian pháp, thì nên hiểu hai chữ xuất thế theo nghĩa là một phương diện trên con đường tu học để hành đạo độ đời. Xuất thế để mà có đủ bản lĩnh nhập thế, biết vượt lên cuộc đời dù vẫn lăn lóc giữa cuộc đời trần cấu.

    Pháp bảo đàn kinh chép lời Lục tổ Huệ Năng dạy rằng: «Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác. Ly thế mịch bồ đề, cáp như cầu thố giác.» Nghĩa là, phương pháp tu của Phật nhằm tìm sự giác ngộ ngay trong cõi đời; nếu như rời bỏ cuộc đời mà tìm cầu giác ngộ, việc ấy là ảo tưởng, ví như đi tìm sừng thỏ vốn là thứ không có thực trong đời.

    Đạo Lão và Cao Đài cùng bảo: «Dục tu thiên đạo, tiên tu nhân đạo. Nhân đạo bất tu, thiên đạo viễn hỹ.» (Muốn tu đạo giải thoát trước tiên hãy lo tròn đạo làm người. Không tròn đạo người thì đạo trời hãy còn xa xôi lắm.)

    [2] Xem Phụ lục 5: Nói chuyện Trư Bát Giới.

    [3] Xem bài Ngọn gió trong lò.

    [4] Theo [TDK VII 1988: 98-139], đặc biệt có một con yêu rất lạ đời, nguyên là tên tiểu đồng lông mày vàng giữ chiếc khánh vàng của Phật Di Lặc. Thích chơi trội hơn lũ yêu ma khác, y lẻn xuống trần mạo xưng là Hoàng Mi Lão Phật, lập chùa Lôi Âm giả, cũng chiêu tập quỷ quái lớn nhỏ về giả làm la hán, kim cang, yết đế, bồ tát... để lừa Đường Tăng vô chùa bái lạy thì bắt giữ.

    Đối với hành giả tu thiền, tình tiết này rất lý thú; nó cảnh giới người tu chân chính đừng nên vọng cầu phật ở ngoài thân. Trong lúc đang công phu hành thiền mà lỡ có thấy chư phật xuất hiện thì hãy coi chừng đó là ma cảnh ám chướng phá hoại chánh giác chánh định. Đó là lý do vì sao xưa kia có thiền sư đã nêu một phương châm thoạt nghe mà rởn mình: Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ (Phùng phật sát phật, phùng tổ sát tổ).

    [5] Xem bài Bốn biển không yên cơn lửa trẻ.


    (CÒN TIẾP)
    Last edited by kinhvotu; 27-08-2012 at 11:17 AM.
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  8. #8
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    TRĂNG SAO CỬA ĐỘNG ĐÁ ĐẦU NON


    Truyện Tây du dựng nên một nhân vật nổi bật là Tề Thiên, một con khỉ. Diễn giải lý lịch của Tề Thiên, truyện kể: Tại Đông Thắng Thần Châu, có nước Ngạo Lai, núi Hoa Quả, trên đỉnh núi có tảng đá tiên. “Một hôm tảng đá nứt đôi, sinh ra một quả trứng đá tròn, to bằng quả cầu, gặp gió hóa thành một con khỉ đá, đủ cả mặt mũi chân tay.” [TDK I 1982: 28]. Lý lịch xuất thân của Tề Thiên đơn giản như thế, nhưng lại là cả một hàm dụ thâm trầm!

    Tâm viên ý mã

    Đỉnh đá đơn côi


    Khỉ, hay tương cận với nó là vượn, theo Phật và Lão, tượng trưng cho tâm con người. Loài vượn, khỉ vốn hay lăng xăng, nhảy nhót, chuyền leo, không chịu ngồi yên. Cái tâm con người cũng lao xao, ưa tơ tưởng chuyện này, hay nhớ nhung việc nọ. Phật ví tâm người như loài khỉ, vượn nên gọi là tâm viên (con vượn lòng). “Bạn” của tâm viên là ý mã (ngựa ý). Tâm ý theo nhau, tâm chạy rong, ý cũng chạy rong. Giữ chặt cho tâm ý ở yên, tập trung tư tưởng vào một chỗ, là chuyện không dễ. Sách chú quyển Tham đồng khế của Ngụy Bá Dương có câu: “Tâm viên bất định, ý mã nan truy.” (Vượn lòng nhảy nhót không yên, ngựa ý rong ruổi theo liền khó thay.)

    Người tu thiền, dù là hành giả theo pháp môn của Phật, Lão, hay Cao Đài, tối kỵ bị “phóng tâm”, cho nên chỗ đầu tiên thực hành là phải cột lại tâm ý, không được để tâm ý nghĩ ngợi lung tung. Do sự liên quan ẩn dụ khỉ và ngựa nên mới bày ra chuyện Hầu Vương (vua khỉ) lên trời giữ chức Bật Mã Ôn, trông coi, quản lý đàn ngựa. Đoạn tả cách Hầu Vương săn sóc ngựa quả rất lạ đời: “Bật Mã ngày đêm không ngủ, trông nom ngựa trại. Ban ngày còn chơi đùa, ban đêm chăm chỉ giữ gìn. Ngựa ngủ, đánh thức cho ăn cỏ; ngựa lồng, nhốt lại trong chuồng.” [TDK I 1982: 104]

    Cái tâm cái ý lúc con người thức hay chạy rong, lúc con người ngủ vẫn chạy rong. Những ức chế, dồn nén ban ngày chưa biến hình thành hành động, thì đợi đến đêm về, sẽ biến thành cơn mơ giấc mộng dẫn dắt người đi... hoang! Có những hành giả, ban ngày còn tỉnh táo, ý thức đè nén được sắc tình trước ngoại cảnh diễm kiều; nhưng khi canh khuya mơ màng giấc bướm hồn hoa, thì chỉ còn là chiếc xe lao dốc tuột thắng, bao nhiêu “vốn liếng” cỏn con tích trữ được cũng đành trút bỏ một lèo trong vô thức! Cho nên một số thiền đường phải luôn dè chừng chuyện ngủ nghê mê mệt, có nơi chỉ dám nằm nghiêng, hay như một thiền phái Cao Đài (Chiếu Minh) chỉ dám ngủ... ngồi. Đó là lý do mà, theo Tây du, muốn chăn ngựa thì phải “ngày đêm không ngủ”, và “ban đêm chăm chỉ giữ gìn”.

    Các hành giả tập thiền, dù theo Phật, Lão, hay Cao Đài, đều tối kỵ tâm trí mê muội, ngủ quên. Chứng bệnh đó chính là hôn trầm. Trong một số thiền đường, lúc cùng nhau tịnh tọa, có một người giám thị cầm gậy đứng canh, ai lỡ quên ngủ gà ngủ gật, lập tức quật gậy vào lưng cho tỉnh. Còn khi tỉnh, mà phóng tâm, đầu cứ lăng xăng hết chuyện nọ chuyện kia, phải rán diệt tan niệm lự, tập trung tư tưởng lại. Cho nên “ngựa ngủ, đánh thức cho ăn cỏ; ngựa lồng, nhốt lại trong chuồng.”

    Tâm ý con người phát sinh từ đâu? Thông thường đều vẫn cho rằng từ cái đầu. Cái đầu là “quả trứng đá tròn”. Cái đầu sinh ra tư tưởng; tư tưởng không hình, không ảnh, không màu, không tiếng. Cho nên con khỉ (tư tưởng) sinh ra chỉ là nhờ “gặp gió hóa thành”.

    Tư tưởng có tốc độ cực nhanh, vì vậy truyện Tây du mới bảo con khỉ học được phép cân đẩu vân, nhảy một cái xa tới một trăm lẻ tám ngàn dặm [xem bài Đường Tăng! Anh là ai?].

    Một ánh trăng khuya

    Ba sao hiu hắt


    Hầu Vương vào một ngày đẹp trời bỗng giác ngộ lẽ sinh tử cõi đời là vô thường, lập tức hạ quyết tâm từ bỏ ngôi vua ở động Thủy Liêm, lặn lội chiếc thân tầm sư học đạo. Câu chuyện rõ ràng mang dấu ấn của Thái tử Cồ Đàm lìa bỏ hoàng cung của dòng họ Thích Ca, đơn độc dấn mình tìm cầu giải thoát.

    Trên đường gió bụi, Hầu Vương gặp người kiếm củi chỉ đường, bảo hãy đến núi Linh Đài Phương Thốn, trong núi ấy có động Tà Nguyệt Tam Tinh, và hãy cầu học đạo với Bồ Đề Tổ Sư. Chốn ấy tìm đâu ? Hà xứ tại ?

    Phương Thốn theo đạo Lão là hạ đơn điền, nằm cách dưới rún ba đốt ngón tay. Theo phép luyện khí công, yoga, thiền, đấy là một trong những điểm quan trọng trong thân thể mà phép tu nội dược (luyện nội đan, interior alchemy) của đạo Lão và Cao Đài đặc biệt nhấn mạnh.

    Linh đài theo đạo Lão là tâm. Con người phàm phu thì tâm phàm phu, con người thánh thiện thì có thánh tâm. Tâm Phật không phải tự nhiên mà có, tâm Phật cũng trong chỗ tâm phàm đã khơi trong gạn đục trở thành; như đóa sen tinh khiết ngát hương đã nẩy mầm vươn lên từ tận đáy sình bùn ô trược. Truyện thơ Phật Bà chùa Hương của bình dân Việt Nam diễn ý này rất tuyệt vời:

    Thần thông nghìn mắt nghìn tay,

    Cũng trong một điểm Linh đài hóa ra.


    Tà nguyệt là trăng khuyết (lưỡi liềm). Tam tinh là ba ngôi sao. Kiều (?) có câu: “Một vầng trăng khuyết ba sao giữa trời.” Chính thực đây là cách chiết tự chữ Tâm . Do tâm mà thành phật, đắc đạo, cho nên đạo Lão có bài thơ cổ rằng:

    Tam điểm như tinh tượng,

    Hoành câu tựa nguyệt tà.

    Phi mao tùng thử đắc,

    Tố phật giả do tha.


    Nghĩa là:

    Ba điểm tượng hình sao,

    Móc câu như trăng khuyết.

    Thú cầm theo đây đắc,

    Phật do đó mà ra.


    Hóa ra con đường cầu đạo của Hầu vương là con đường hướng nội, trở vào tâm, tu thiền. Đạo Lão và Cao đài gọi là con đường phản tỉnh nội cầu, phản bổn hoàn nguyên.



    Tà Nguyệt Tam Tinh Động (chử Tâm)
    Hành giả tìm tâm [tranh Giới Tử Viên]

    LÊ ANH DŨNG

    (27-8-1991-02-01-1995)


    (Còn tiếp)
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  9. #9
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    TRĂNG SAO CỬA ĐỘNG ĐÁ ĐẦU NON



    Ơn thầy như núi Thái

    Sao gởi gió ngàn bay?


    Không thầy đố mày làm nên. Hầu Vương còn phải bái sư, tôn Bồ Đề Tổ Sư làm thầy. Bồ Đề hay bodhi (tiếng Sanskrit) là trí giác ngộ. Chỉ có người giác ngộ (sáng suốt) mới đáng mặt làm thầy dạy kẻ mê muội (u tối). Theo Phật, thầy chỉ là người giúp đỡ. Một khi trò đã giác ngộ rồi, cái giác đó do chính bản thân trò tự mình kiến lập, tạo dựng, nào phải đâu của cải ông thầy ban trao tặng dữ.

    Lúc Hầu Vương học đạo xong rồi, chưa kịp... lãnh bằng tốt nghiệp, liền bị thầy lập tức đuổi về. Đã đuổi lại còn răn đe, cấm ngặt không được hở răng nói cho thiên hạ biết mình là đệ tử ruột của Tổ Sư! Hầu Vương lấy lễ học trò, thành khẩn tạ ơn biển trời dạy dỗ, thì cũng bị thầy quyết liệt phủ nhận: “Ân nghĩa gì đâu...” [TDK I 1982: 66]

    Rõ ra là ẩn ngữ thiền tông. Khi đã giác ngộ, đạt tới trí bát nhã (prajna) thì con người đạt tới vô sư trí. Không có ai làm thầy ta, và ta cũng chẳng dám làm thầy ai. Đã thế, trổi hơn một bậc, cũng chẳng còn dám khinh khi rẻ rúng một ai, như Thường bất khinh Bồ Tát tâm tâm niệm niệm: Ai ai cũng sẽ thành phật đó mà.

    Lặng lẽ một phương trời lữ thứ

    Mình riêng mình soi bóng cô liêu


    Trở lại với chuyện hỏi thăm đường của Hầu Vương. Truyện kể:

    “Hầu Vương nắm tay người kiếm củi, nói:

    - Thưa lão huynh, làm ơn đưa tôi đến. Nếu tốt lành, tôi không bao giờ quên ơn chỉ dẫn.

    Người kiếm củi nói:

    - Bác là người hảo hán mà không biết thông biến. Tôi chẳng vừa nói với bác là gì, bác không hiểu ư? (...) Tôi còn bận kiếm củi, bác cứ đi đi!” [TDK I 1982: 43]

    Đạo thần tiên phải tự thân mình thực hành, không nhờ ai giúp. Hầu vương phải đích thân tìm đến Tà Nguyệt Tam Tinh Động. Con đường về nội tâm của hành giả là con đường cô đơn, lữ khách không thể trông cậy, lệ thuộc bất kỳ ai khác. Và cũng không còn bận bịu mưu sinh, áo cơm ràng buộc.

    Cát bụi chân ai

    Còn đây lòng trẻ


    Những đoạn Tây du như dẫn trên, thoạt xem có vẻ dông dài, rườm rà, thừa thãi, nhưng thực ra mang đầy dấu ấn của thiền tông. Chẳng hạn, một đoạn khác cũng tưởng đâu rất lòng vòng, khi kể chuyện Bồ Đề Tổ Sư đặt họ tên cho Hầu Vương.

    Thoạt đầu, Tổ Sư hỏi Hầu Vương có tánh (họ) gì, Hầu Vương đáp rằng không có tánh. Thế thì:

    “Tổ Sư cười nói: Ngươi tuy thân thể thô lậu, nhưng giống loài khỉ ăn quả tùng. Ta và ngươi trên thân đều lãnh họ tên, ý ta muốn đặt ngươi họ Hồ [chiết tự: khuyển (con chó) + cổ (xưa) + nguyệt (trăng)]. Chữ Hồ bỏ con thú [bỏ chữ khuyển] bên cạnh thì còn là cổ nguyệt. Cổ là già, nguyệt là âm, lão âm không thể sinh hóa dưỡng dục được. Nên ta đặt họ ngươi là Tôn [chiết tự: khuyển + tử + hệ] mới tốt. Chữ Tôn bỏ con thú [bỏ chữ khuyển] bên cạnh thì còn là tử hệ. Tử là con trai, hệ là trẻ sơ sinh, quả là hợp với bản chất trẻ thơ. Vậy ta đặt cho ngươi là họ Tôn nghe.” [1]

    Một trò chơi chữ lý thú! Chữ hán, tánh (tính) [bộ nữ] nghĩa là họ; nhưng theo Phật, tánh (tính) [bộ tâm] còn có nghĩa là bản thể, là phần trường tồn bất biến nơi con người. Nhờ đó mà con người dù xấu xa vẫn có thể tương lai tu thành Phật được. Và tu Phật là cốt đạt tới chỗ minh tâm kiến tánh, theo Nho là tồn tâm dưỡng tánh, theo Lão là tu tâm luyện tánh.

    Đặt cho tánh là Tôn, rồi giải chi li ra thành trẻ nhỏ, Tây du ký đã đưa ra một vấn đề trọng tâm của đạo Lão. Muốn tu hành đạt đạo, con người phải có được cái tâm hồn nhiên của trẻ mới đẻ (xích tử chi tâm). Cũng vậy, Tân ước chép lời Chúa Jesus khuyên môn đệ hãy giữ tâm hồn như con trẻ thì mới vào được thiên đàng nước Chúa.[“Quả thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không biến cải, và trở nên như con trẻ, thì hẳn chẳng được vào nước trời đâu.(Verily, I say unto you, except ye be converted and become as little as children, ye shall not enter into the kingdom of heaven.” Matthew, 18:3. The Gideons, 1967.]

    Hầu vương có tên là Tôn Hành Giả. Hành giả là người thực hành thiền. Lại có pháp danh là Ngộ Không, ngụ ý muốn ngộ nhập được cái Không (sunyata), hành giả phải dọn sạch lòng như tâm con trẻ.

    Một hành giả thiền môn ngày xưa, dọc bước phong trần đi tìm cửa động trăng sao, như Tôn Ngộ Không Hành Giả, dấu chân cô đơn của khách lữ còn in lại lời thơ trầm trầm vọng vào u uẩn cõi phù vân:

    Nhất bát thiên gia phạn,

    Cô thân vạn lý du,

    Thanh mục đổ nhân thiểu,

    Vấn lộ bạch vân đầu.

    [Tương truyền tác giả bài thơ này là hòa thượng Bố đại.]

    Nghĩa là:

    Một bát cơm ngàn nhà,

    Thân đơn muôn dặm xa,

    Mắt xanh nào ai có,

    Hỏi đường mây trắng qua.


    Phải! Mây trắng ơi, con đường nào ta đi? Câu hỏi của Tôn ngộ không hành giả sẽ vẫn còn được hỏi mãi giữa từng cuộc đời ai kia muốn xin được một lần trở về quê xưa để làm trẻ nhỏ ngồi bên thềm cũ hồn nhiên nhìn thế sự dần qua.

    LÊ ANH DŨNG

    (27-8-1991-02-01-1995)



    CHÚ THÍCH

    [1] Bản dịch của Lê Anh Minh, căn cứ theo [TDK 1987: 8]. Nguyên văn chữ Hán: “Tổ sư tiếu đạo: Nễ thân khu tuy thị bỉ lậu, khước tượng cá thực tùng quả đích hồ tôn. Ngã dữ nễ tựu thân thượng thủ cá tính thị, ý tư giáo nễ tính Hồ. Hồ tự khử liễu cá thú bàng, nãi thị cá cổ nguyệt. Cổ giả lão dã, nguyệt giả âm dã, lão âm bất năng hóa dục. Giáo nễ tính Tôn đảo hảo. Tôn tự khử liễu thú bàng, nãi thị cá tử hệ. Tử giả nhi nam dã, hệ giả anh tế dã, chính hợp anh nhi chi bổn luận. Giáo nễ tính Tôn bãi.”

    So với bản dịch [TDK I 1982: 48], những người dịch đã cắt bỏ sáu mươi bốn chữ trong nguyên tác (từ “Nễ thân khu tuy thị bỉ lậu” đến “Giáo nễ tính Tôn đảo hảo”). Thật đáng tiếc, vì đó là một đoạn rất hay liên quan đến quan niệm âm dương và Dịch lý trong thuật luyện nội đan, tức thiền, của đạo Lão.

    (Còn tiếp)
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  10. #10
    Lục Đẳng Avatar của Dieudiem
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    Đơn sơ nhà gỗ !
    Bài gởi
    13,103

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi vothuong1978 Xem Bài Gởi
    cần help ko..:whistling::whistling::whistling:
    1 người được rùi huynh ui kkk

  11. #11
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi vothuong1978 Xem Bài Gởi
    cần help ko..:whistling::whistling::whistling:
    Cần lắm chứ, cần bác thanks nhiều nhiều là OK rồi. Verymuch thanksyou, Vothuong1978.!
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  12. #12
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    tôn ngộ không chính là người rừng trong truyền thuyết,và những bức ảnh

    haiz...........................

  13. #13
    Lục Đẳng Avatar của Dieudiem
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    Đơn sơ nhà gỗ !
    Bài gởi
    13,103

    Mặc định

    Cái ông này lạnh wa',nên ổng chơi nguyên bộ đồ hallowen con khỉ vô nè !
    Mà công nhân giống kml ghê lun a' !!

  14. #14
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Dieudiem Xem Bài Gởi
    Cái ông này lạnh wa',nên ổng chơi nguyên bộ đồ hallowen con khỉ vô nè !
    Mà công nhân giống kml ghê lun a' !!
    sinh vật trong hình cao trên 2 mét lận đấy,đối với con người bình thường,sở hữu chiều cao ấy thường là ốm,cao lều khều,trông rất dị thường nhưng sinh vật trong hình trất là cân đối.
    haiz...........................

  15. #15
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Dieudiem Xem Bài Gởi
    Huynh xóa hình trong photobucket làm mất hình hết rùi huynh ui !
    Đã poste hình lại rồi đó Dieudiem
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  16. #16
    Lục Đẳng Avatar của Dieudiem
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    Đơn sơ nhà gỗ !
    Bài gởi
    13,103

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi kinhvotu Xem Bài Gởi
    Đã poste hình lại rồi đó Dieudiem
    ok huynh,trong bài này mụi đề nghị huynh post thêm hình ảnh thêm cho lung linh như bạch cốt tinh, nữ vương lưỡng quốc,hồ ly tinh ...jj đó hehe !

  17. #17
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Dieudiem Xem Bài Gởi
    ok huynh,trong bài này mụi đề nghị huynh post thêm hình ảnh thêm cho lung linh như bạch cốt tinh, nữ vương lưỡng quốc,hồ ly tinh ...jj đó hehe !
    Kinhvotu chỉ poste nguyên văn tác phẩm Giải mã truyện Tây Du Ký của Lê anh Dũng, kể cả phần hình ảnh chứ đâu dám tự ý thêm thắt chổ nào. Muội xem tiếp nhé !
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  18. #18
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Ngọn gió trong lò



    Tề Thiên sau khi thua trận, thiên binh áp giải về trời trị tội. Trị cách gì cũng không giết được. Thái Thượng Lão Quân tâu cùng Ngọc Hoàng Thượng đế: “Hay là để thần mang nó về bỏ vào lò bát quái, đốt nó bằng thứ lửa văn vũ mà thần thường dùng để luyện linh đơn...” [TDK I 1982: 165, 166]

    Lão Quân mang Tề Thiên về cung Đâu suất, ném vào lò bát quái. “Nguyên lò này gồm tám cung của các quẻ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Đại Thánh chui ngay vào nằm dưới cung Tốn. Tốn là gió, có gió thì không có lửa.” (...) “Thời gian thấm thoát, chẳng mấy chốc đã được bốn mươi chín ngày, đủ số ngày luyện.” [TDK I 1982: 165, 166]

    Câu chuyện được kể tỉ mỉ với những chi tiết rườm rà. Đây là cả một vấn đề sinh tử đối với những người muốn học đạo trường sinh, tu theo đạo Lão. Đoạn văn diễn tả một giai đoạn cơ bản của thực hành thiền hay luyện nội đan. Có ba chi tiết phải chú ý: (1) bốn mươi chín ngày; (2) lò bát quái; (3) cung Tốn.

    Thất thất và cửu cửu

    Tại sao Tây du bảo phải đợi đến bốn mươi chín ngày mới gọi là “đủ số ngày luyện”? Bốn mươi chín tức là thất thất (7x7). Nó ám chỉ trong quá trình tu tập thiền định (đạo Lão và Cao Đài gọi là tịnh luyện), có một giai đoạn người hành giả phải giam mình trong chốn tư phòng, hoặc thiền thất, thiền đường (Cao Đài còn gọi là tịnh thất, tịnh trường), hoặc vào chốn vắng vẻ núi non, như mấy ông đạo ở Thất sơn dựng cốc.

    Theo đạo Phật, bốn mươi chín ngày cũng rất quan trọng cho linh hồn người chết. Vì sau khi hồn lìa khỏi xác, linh hồn chưa ra trước Diêm đình để các phán quan xét xử. Thời gian “tại ngoại hậu tra” (bail) dài bốn mươi chín ngày, và linh hồn được phép tạm trú ở một khu vực (cảnh giới) mà Phật giáo gọi là antarabhava, dịch là trung hữu hay trung âm, trung ấm [Soothill 1962: 10]. Đây là lúc để thân nhân cõi thế lo cầu siêu cho người quá cố, để linh hồn ấy tiêu tai giải nghiệp, ngõ hầu khi ra tòa án âm phủ sẽ dễ dàng được cứu rỗi, được cho về cõi trên, hoặc luân hồi vào đường tốt. Lễ cầu siêu bảy lần bảy ngày, kể từ ngày chết.

    Ở đạo Lão và Cao Đài giai đoạn này kéo dài, và gọi là cửu cửu (9x9) tức tám mươi mốt ngày. Cho nên khi Đường Tăng về tới chùa Lôi Âm, Quan Âm Bồ Tát cộng sổ, thấy mới có tám mươi nạn, phải... “lập kế” để Đường Tăng chịu thêm một nạn chót, cho đủ... chỉ tiêu. Tây du kể: “Bồ Tát xem qua quyển sổ một lượt, bèn truyền bảo: Trong đạo Phật ‘chín chín tám mươi mốt mới về nguồn’, thánh tăng đã chịu tám mươi nạn, còn thiếu một nạn nữa mới đủ số.” [TDK X 1988: 181]

    Đi từ kinh đô Tràng An nước Đại Đường (đất phàm, con người luân hồi) đến chùa Lôi Âm nước Thiên Trúc (đất phật, chân nhân giải thoát), Đường Tăng phải trải qua tám mươi mốt nạn và vượt qua mười vạn tám ngàn dặm (108.000 = 9x12.000). Ý nói rằng, quá trình tu luyện để siêu hoá từ phàm nên thánh phải gồm những “công đoạn” bắt buộc.

    Một trăm lẻ tám ngàn dặm là bội số của 9. Cây tích trượng của Đường Tăng có chín vòng. Cây đinh ba Bát Giới dùng làm vũ khí có chín răng. Xâu sọ người Sa Tăng đeo ở cổ cũng gồm chín cái. Xâu chuỗi lớn của nhà sư thông thường cũng gồm một trăm lẻ tám hột [1]; hoặc có khi ngắn hơn là năm mươi bốn hột (9x6), hoặc hai mươi bảy hột (9x3) là bội số của chín, hoặc mười bốn hột (7x2) là bội số của bảy.[2]

    Giới đạo sĩ dù theo trường phái nội đơn (thiền) hay ngoại đơn, đều theo quá trình chín lần khổ luyện này mà thuật ngữ đạo Lão gọi là cửu chuyển công thành, hay cửu chuyển đan thành. Cao Đài cũng vậy, cửu cửu là giai đoạn thiền (hay tịnh luyện) rất cơ bản, hành giả bước vào bực sơ thiền phải qua đó mới có thể chuyển lên những bực cao hơn, cho nên kệ sơ thiền Cao Đài có câu rằng:

    Cửu cửu công phu chẳng chí bền,

    Con đường tu luyện khó lòng nên...

    Cũng như đạo Phật, ở Cao Đài hành giả không quan trọng hóa việc cầu siêu (thất thất vong: lễ bốn mươi chín ngày) vì hành giả phải tự giải thoát cho mình bằng chứng ngộ. Cầu siêu vì thế là để cho ai còn trong ràng buộc luân hồi. Lễ cầu siêu của đạo Phật là thất thất, thì ở Cao Đài là cửu cửu, cứ chín ngày cầu siêu cho người chết một lần, tính từ ngày chết. Cũng với quan niệm về chín từng trời, tín đồ Cao Đài tin rằng, cứ qua một lần cúng cửu, linh hồn nhẹ nghiệp hơn và thăng lên được một từng trời tương ứng.

    Con số 9 còn là một tượng số khá phổ biến trong thiền nhà Phật.[3]

    Tại sao Phật, Lão, và Cao Đài chú trọng con số 9? Và ở Tây du, tại sao Đường Tăng muốn thành tựu công viên quả mãn phải trải qua chín lần chín tai nạn (ám chỉ là sự khổ luyện đớn đau của hành giả), phải vượt qua chín lần mười hai ngàn dặm?

    Số 9 là số thành và là số dương lớn nhất (lão dương). Tu luyện là chuyển âm trược (phàm phu) thành dương thanh (tiên phật), mà số 9 là số thuần dương cho nên số 9 gắn liền với thiền đạo và thiền gia, đạo sĩ. Nhưng... nói như vậy thì hơi lẹ quá, nên cũng cần thử lướt sơ qua một chút về Dịch học, để hiểu thêm cái lò bát quái của Lão quân nó tròn vuông lớn bé cỡ nào, và lò bát quái ấy đặt ở cung Đâu suất hay là ở một nơi nào khác nữa.

    Số 5, số 9 và cung Tốn trong Dịch

    Dịch là âm dương. Âm là chẵn; dương là lẻ. Lẻ loi nên gọi cơ; chẵn đôi nên gọi ngẫu.[4] Dịch chia mười con số từ 1 đến 10 làm hai loại, gồm: [a] năm số dương (1, 3, 5, 7, 9); và [b] năm số âm (2, 4, 6, 8, 10).

    Số 5 theo ngũ hành có vị trí nằm ở trung ương như sau:

    2
    3 5 4
    1

    Số 5 được gọi là số sinh, vì nó sinh ra các số khác. Trong bát quái, số 5 ứng với quẻ Tốn. Tề Thiên bị hầm, bị ninh trong lò bát quái mà vẫn cứ sống nhăn, đó là nhờ ẩn mình trốn tại cung Tốn. Tốn là cửa sinh. Đọc truyện Phong thần, hay Phong kiếm xuân thu (chuyện Tôn Tẫn, Bàng Quyên), ai cũng nhớ người xưa đánh giặc thường lập trận đồ, bày cửa tử và cửa sinh. Đối phương kéo quân vô cửa tử thì chỉ còn có nước đại bại, mất mạng.

    Tại sao số 5 là số thành? Trong năm số 1, 2, 3, 4, 5 bày theo ngũ hành nói trên, thử làm bốn bài toán cộng như sau:

    5 + 1 = 6 ; 5 + 2 = 7 ; 5 + 3 = 8 ; 5 + 4 = 9

    Bốn kết quả 6, 7, 8, 9 là số thành, và 9 là số thành lớn nhất (ngụ ý viên mãn, hoàn hảo). Số 9 lại là tổng số của ba số dương: 1+3+5 = 9. Cho nên chín được gọi là số lão dương hay thuần dương. Mà dương là quân tử, chính nhân (âm là tiểu nhân, tiện nhân). Do đó ngôi vua được gọi là cửu trùng (chín tầng, chín bệ), và Bà Huyện Thanh Quan (Trấn Bắc hành cung hoài cổ) ngậm ngùi:

    Chín tầng sen rớt rơi hương ngự,

    Năm lớp mây phong sắc áo chầu.

    Ở Trung Quốc, đời Tấn, cha con Vương Hi Chi (321-379) và Vương Hiến Chi đều là danh gia về thư pháp, được tôn là Thảo Thánh Nhị Vương. Thuở nhỏ, để mài mực luyện chữ, Hiến Chi đã gánh nước đổ đầy 18 chum (2x9) lớn.[5]

    Ở Hy Lạp, nhà triết học kiêm toán học Pythagore cũng khám phá ra số 9 là huyền diệu, nên bảo rằng: Chín là số hoàn hảo, và bình phương của ba (3x3 = 9), một tam hợp hòa hài trọn vẹn, rất mực đề huề (Neuf est le nombre parfait en tant que carré de trois qu’est la trinité de l’harmonie complète).

    Lò bát quái

    Trở lại với cái lò bát quái trên cung Đâu suất của Lão Quân. Ở Á Đông có tới ba loại bát quái. Bát quái dùng để ninh, hầm Tề thiên thuộc mô-đen nào?

    Trong dân gian, trước cửa nhà thường có treo tấm bùa bát quái để trừ tà ma, xua yêu quỷ. Thầy bói cũng có khi xài loại bát quái này. Nó gồm tám quẻ xếp đặt như sau (kể theo chiều kim đồng hồ): Càn, Cấn, Khảm, Chấn, Khôn, Đoài, Ly, Tốn. Bát quái này không phải loại dùng để hầm Tề Thiên.

    Theo Dịch, vua Phục Hy thời thượng cổ đã nghĩ ra sơ đồ Tiên thiên bát quái hay Tiên thiên cơ ngẫu. Tiên thiên tức là lúc vừa có trời đất, vũ trụ mới hình thành. Sơ đồ của Phục Hy gồm vị trí tám quẻ như sau:

    - đi ngược chiều kim đồng hồ (tức là theo chiều dương) Càn, Đoài, Ly, Chấn;

    - đi xuôi chiều kim đồng hồ (tức là chiều âm) Tốn, Khảm, Cấn, Khôn.

    Theo sơ đồ Tiên thiên bát quái, con người nguyên thủy còn thuần lương, tâm người tâm phật như nhau. Phục Hy biểu tượng bằng quẻ Càn (dương) ở trên, quẻ Khôn (âm) ở dưới. Âm dương chính vị, hòa hài.

    Lò bát quái của Lão Quân không đúc theo mô-đen của Phục Hy. Ngô Thừa Ân kể rằng: “Nguyên lò này gồm tám cung của các quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.” [TDK I 1982: 165]

    Té ra lò bát quái của Lão Quân đúc theo Hậu thiên bát quái hay Hậu thiên cơ ngẫu, là mô-đen của Văn vương. Hậu thiên là lúc trời đất, con người, vũ trụ đã không còn đúng tiêu chuẩn chất lượng của thời nguyên sơ khởi thủy. Con người gần quỷ ma, xa tiên phật. Tâm người tâm phật đôi nẻo đôi nơi, hai phương trời cách biệt! Theo sơ đồ của Văn Vương, các quẻ xếp theo chiều âm (xuôi chiều kim đồng hồ), con người có xu hướng biến chất hơn là thăng hoa.


    Sơ đồ này cho thấy hai quẻ Càn (dương) và Khôn (âm) nằm lệch một bên, không chính vị. Bên dưới là quẻ Khảm (nước, thủy, âm) và trên là quẻ Ly (lửa, hỏa, dương). Kinh Dịch, quẻ chót (quẻ 64) lấy Ly trên hiệp Khảm dưới thành ra quẻ Hỏa thủy Vị tế. Vị tế là chưa xong. Kết thúc kinh Dịch, làm thành quẻ chót, tại sao lại bày ra chuyện dở dang?

    Cuối bộ Tây du, Đường Tăng đem kinh về Trường An, kinh bị rớt xuống sông Thông Thiên; lúc phơi kinh ai dè lại bị mất hết mấy trang chót [TDK X 1988: 189], thì lại vẫn là chuyện dở dang!

    Mà con người cũng là một dang dở đó thôi. Đã đành làm kiếp người thì cao trổi hơn vật thú, nhưng người chưa bằng phật tiên. Trên nấc thang Chân-thiện-mỹ, giá trị con người mới ở nửa vời. Nếu tiến hóa thêm, con người sẽ hoàn thiện là hiền thánh, là tiên phật, là chân nhân. Còn nếu thoái hóa, người tuy bề ngoài mang hình hài thân xác con người xinh đẹp, sang trọng, nhưng bên trong thì tâm hồn đã rữa nát, ngang loài cầm thú. Ông Darwin chắc cũng đành lắc đầu than thở: Cốt khỉ hoàn cốt khỉ!

    Phép tu đạo Lão khi xưa và Cao Đài ngày nay chính là biến Hậu thiên bát quái trở lại nguyên vị Tiên thiên bát quái, đưa con người hư hao trở lại con người Nhân bản mà cuộc đời tôn xưng là Phật, Chúa, Tiên, Thánh, Thần. Biến cải Hậu thiên ra Tiên thiên, trong đạo Lão và Cao Đài gọi là chiết Khảm điền Ly; tức là tách hào hai dương ở quẻ Khảm bên dưới sơ đồ Hậu thiên mà đưa vào quẻ Ly ở bên trên, đưa hào hai âm ở quẻ Ly xuống cho quẻ Khảm, thì Khảm-Ly (Hậu thiên) đổi lại Khôn-Càn (Tiên thiên), âm dương trở lại chính vị. Cao Đài gọi đây là con đường phản bổn hoàn nguyên. Lão giáo gọi là phục kỳ bản, phản kỳ chân

    LÊ ANH DŨNG
    (30-9-1991-03-01-1995
    (cÒN TIẾP)
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  19. #19
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Ngọn gió trong lò



    Lò bát quái đặt ở đâu?

    Lò bát quái trong Tây du như vậy là một ẩn ngữ, nói lên sự tu luyện của con người. Lò đặt ở đâu? Tại cung Đâu suất chăng? Không phải thế! Lò bát quái ấy nằm trong thân xác con người, đặt ở chỗ mà đạo gia gọi là Đơn điền, là Phương thốn [xem bài Trăng sao cửa động đá đầu non]. Bức hình Tẩy tâm thối tàng đồ của đạo Lão kèm theo đây cho thấy vị trí lò bát quái trong thân hành giả luyện nội đan


    Tẩy tâm thối tàng đồ

    Lửa nào đốt lò bát quái?

    Lửa để đốt lò bát quái, theo Tây du ký, là “thứ lửa văn lửa vũ”. Văn là chi, vũ (võ) là chi? Thuật ngữ này có thể hiểu theo hai nghĩa.

    Hiểu cạn, văn ám chỉ kinh điển; phải học kinh, trì chú để trợ lực; vũ (võ) ám chỉ phép hành công tọa thiền, và kèm một số môn ngoại công phu (physical exercises) để hộ trợ như Bát đoạn cẩm (tám bài luyện tập), Thập nhị cẩm đoạn (mười hai bài luyện tập), v.v... Cho nên người tu thiền cũng cần văn ôn võ luyện, phải văn võ song toàn.

    Hiểu sâu xa hơn, lửa văn lửa vũ ám chỉ việc thực hành công phu thiền định của hành giả, gọi đích danh là luyện hỏa hầu. Thiền Lão và thiền Cao Đài có bốn giờ công phu là thời Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, trong đó hai thời Tý Ngọ là để luyện hỏa hầu. Tổ sư Hi Di Trần Đoàn bảo: “Hỏa hầu là công phu giờ Tý và giờ Ngọ, hai thời ấy luyện tập và trì thủ không kể đêm ngày.” [Tý Ngọ công phu thị hỏa hầu, lưỡng thời hoạt thủ vô hôn trú.]

    Nếu hiểu lửa ở đây là lửa trong nội thân, để luyện “hỏa hầu” thì hành giả có lúc vận công nhu nhuyễn, giống như đốt lửa riu riu, đó là dùng lửa văn; hoặc có lúc vận công tích cực hơn, giống như đốt lửa cho ngọn hừng lên, đó là dùng lửa vũ (võ). Giống như bà nội trợ giỏi khéo nấu cơm, hành giả cũng phải tùy lúc mà nổi lửa cho đúng cách.

    Theo [Đái Nguyên Trường 1970: 68], mục từ “văn vũ hỏa hầu” viết: “Hỏa hầu như nấu cơm, lúc mới đốt thì nước nguội, gạo sống, vậy ắt phải dùng lửa vũ mãnh liệt cho cơm mau chín. Nếu lửa khi chậm khi mau không đều đặn, khi đốt khi ngưng thì cơm ấy sống sượng không đều, vị lại không ngon. Nếu đã dùng lửa lớn (vũ) nấu qua thì hãy dùng lửa văn nấu chậm. Khi cơm chín tức thì tắt lửa. Nếu như vẫn dùng lửa lớn như cũ ắt phải lo sợ rằng thừa hơi nóng, bốc thẳng lên nắp nồi và cháy khét sinh vị đắng. Luyện đan thì vận dụng lửa văn lửa vũ cũng y như vậy. Như khi luyện tinh một trăm ngày tiểu chu thiên thì nên dùng lửa vũ; khi luyện khí mười tháng đại chu thiên thì nên dùng lửa văn. Nhưng nấu cơm là chất liệu hữu hình cho nên thời gian ít và dễ dàng, còn tu luyện kim đơn là thứ vô hình vô chất, nếu hỏa hầu không phù hợp thì khó thành công. Cho nên phải cầu minh sư dạy bảo, không để một chút xíu sai biệt nào cả. Kinh dạy luyện đơn không bao giờ nói sai vậy.” [6]

    Tốn là gió

    Bị nấu liên tục bốn mươi chín ngày trong lò bát quái, nhờ Tề Thiên núp vào cung Tốn nên an toàn tánh mạng. Tốn là gió. Điều này ám chỉ hành giả khởi công phu phải dựa vào hơi thở. Điều thân (tư thế thích hợp khi ngồi thiền), điều tức (hô hấp để hơi thở một vô một ra cho đúng cách), điều tâm (giữ cho tâm an định, không bị phóng tán như ngựa khỉ lăng xăng), đấy chính là ba “công đoạn” cơ bản của thiền gia hay hành giả.

    Đạo Lão và Cao Đài cho rằng Tam bảo gồm có Tinh, Khí, Thần. Khí theo nghĩa hẹp có thể hiểu tạm là hơi thở. Ở sinh mạng, khí là sự sống; hơi thở dứt đi, mạng sống đoạn lìa. Ở tu thiền (tịnh luyện), người ngồi thiền (hành giả) phải để tâm, ý vào hơi thở luân lưu nhằm cột lại cái tâm viên ý mã [xem bài Trăng sao cửa động đá đầu non].

    Vì Khí với người tu quan trọng như thế, nên cũng đừng lấy làm lạNnhãn là bàn thờ Hộ Pháp, thấy nơi ấy chỉ tượng trưng bằng một chữ Khí (chữ Nho viết thảo).

    Tóm gọn lại, câu chuyện nấu Tề Thiên trong lò bát quái là ẩn ý gì?

    1. Tề Thiên là cái lý trí phàm phu phân biện (nhị nguyên). Lão Quân đòi “giết” Tề Thiên trong lò bát quái tức là dùng công phu thiền pháp để diệt cái tâm điên đảo (phàm tâm tử, đạo tâm sanh); lấy hơi thở (điều tức) để kềm lại, cột lại cái tâm viên ý mã ưa lăng xăng xạo xự.

    2. Tề Thiên nhờ núp ở cung Tốn bốn mươi chín ngày nên không chết, vì ở cung Tốn “có gió mà không có lửa”. Bốn mươi chín ngày chưa phải là trọn vẹn quy trình hành pháp của thiền gia (Đường tăng còn phải lặn lội cho tới một trăm lẻ tám ngàn dặm mà!). “Có gió” tức là mới ở khởi đầu, dùng hơi thở (điều tức) để kềm tâm định ý... nhưng tâm ý vẫn còn có thể bay nhảy nếu quên chú ý vào một hơi thở vô, một hơi thở ra. “Không có lửa” tức là chưa đến giai đoạn cực kỳ quan trọng hiểm nghèo: luyện hỏa hầu. [Yoga gọi là luồng hỏa xà (kundalini), tượng hình con rắn lửa. Luyện thành công thì thông suốt hai mạch Nhâm, Đốc; còn luyện hỏng thì... “tiêu”, mà truyện chưởng Kim Dung và phim chưởng Hong Kong gọi tên là “tẩu hỏa nhập ma” (lửa chạy đường tà).]

    3. Lò bát quái nấu kim đơn của Lão Quân chính là lò lửa luyện nên vàng mười; thân phàm phu huyết nhục qua trui luyện thành công sẽ trở nên kim thân bất hoại. Mỗi con người đều sẵn có trong cơ thể một lò bát quái. Đường Tăng là người đã chụm lửa đốt lò bát quái, mang lò ấy để đi ngược dòng đời thế tục, tìm về cõi Phật, thành Phật thành Tiên.

    Vậy thì tất cả những gì linh thiêng, mầu nhiệm đều không ở đâu xa. Máy tạo hóa huyền vi đã tàng ẩn trong chính mảnh thân nhỏ bé của mỗi con người. Quả thực, truyện Tây du được kể bằng lối nói úp úp mở mở, nhưng lắng lòng thật kỹ thì nghe như đâu đó có Ngô Thừa Ân cất lên lời tha thiết rằng: Con người ơi, anh chính là một huyền nhiệm!



    CHÚ THÍCH

    [1] [Soothill 1962: 438] giải thích hai chữ “sổ châu” như sau: “A rosary; to tell beads, which consists of various numbers, generally 108.”

    [2] [Từ hải 1948: 607] viết: “sổ châu giả, yếu đương tu mãn nhất bách bát khỏa, như kỳ nan đắc, hoặc ngũ thập tứ khỏa, hoặc nhị thập thất, hoặc thập tứ khỏa, diệc giai đắc dụng.” (Chuỗi hạt nên đủ một trăm lẻ tám hột, nếu khó được như thế, thì hoặc năm mươi bốn hột, hoặc hai mươi bảy hột, hoặc mười bốn hột, đều có thể dùng được.) Lê Anh Minh dịch.

    [3] Theo [Đoàn Trung Còn 1963: 357-365], từ thuật ngữ cửu bộ kinh cho đến cửu trụ tâm, tổng cộng là hai mươi hai mục từ về số 9; trong đó liên quan đến thiền thì có: cửu thiền, cửu thứ đệ định, cửu trụ tâm.

    Theo [Soothill 1962: 15-20], từ thuật ngữ cửu, rồi cửu thượng duyên hoặc, cho tới cửu trai nhật, tổng cộng có đến sáu mươi bảy mục từ về số 9; trong đó liên quan đến thiền thì có: cửu trụ tâm, cửu tâm luân, cửu tưởng quán, cửu thứ đệ định, cửu chủng đại thiền.

    [4] Vì ngẫu là cặp, nên trai gái cưới nhau, được chúc lành nên duyên giai ngẫu. Giai ngẫu là tốt đôi. Trước kia, danh từ luật pháp Việt Nam gọi chồng hoặc vợ là phối ngẫu (spouse), tức là một người kết cặp với người khác (phối hợp, phối kết) cho đủ một đôi (ngẫu).

    [5] Lê Anh Minh, “Tản mạn về thư pháp”, tuần san ... thứ Bảy, số 421, ngày 06-3-1999, tr. 30.

    [6] Nguyên văn: “Hỏa hầu như chử phạn, sơ khởi hỏa thời thủy lãnh, mễ sinh, tất dụng mãnh liệt chi vũ hỏa, sử kỳ tốc thục. Nhược hoãn cấp bất điều, thời thiêu thời hiết, tắc sở chử chi phạn, sinh ngạnh bất quân, vị diệc bất mỹ. Nhược dĩ dụng mãnh hỏa chử qua, tắc nghi dụng văn hỏa hoãn chử, thục tức chỉ hỏa. Như nhưng dụng mãnh hỏa, tắc hữu đĩnh cái phún dật chi ngu, cập thiêu tiêu vị khổ chi hoạn. Luyện đan văn vũ hỏa hầu chi vận dụng diệc nhiên. Như bách nhật tiểu chu thiên luyện tinh thời nghi dụng vũ hỏa; thập nguyệt đại chu thiên luyện khí thời nghi dụng văn hỏa. Đản phạn thị phanh chử kỳ hữu hình chi chất, cố thời đoản nhi dị, nãi vô hình vô chất chi vật, nhược hỏa hầu bất đắc kỳ nghi, hãn hữu thành công giả. Cố tất cầu minh sư chỉ điểm, bất dung hào phát chi sai thù, đơn kinh phi hư ngôn giả.” (Lê Anh Minh phiên âm và dịch nghĩa)

    LÊ ANH DŨNG
    (30-9-1991-03-01-1995
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

  20. #20
    Tam Đẳng Avatar của kinhvotu
    Gia nhập
    Mar 2012
    Nơi cư ngụ
    Cai quản cỏi A Tỳ
    Bài gởi
    3,182

    Mặc định GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    GIẢI MÃ TRUYỆN TÂY DU

    Núi cao chi mấy núi ơi



    Tề Thiên sau khi nhảy ra khỏi lò bát quái của Lão Quân, như mãnh hổ thoát cũi sổ chuồng, mặc sức vận dụng hết phép thần thông tài nghệ đánh phá cung Trời đến nỗi:

    Thiên cung đại náo phen này,

    Thiên binh thần tướng bó tay chịu lùi.

    “Thượng Đế bèn sai ngay Du Dịch Linh Quang và Dực Thánh Chân Quân sang phương Tây mời Phật Tổ tới bắt yêu quái.” Gặp Phật, Tề Thiên hỏi, thì “Như lai cười, nói: Ta là Phật A Di Đà Thích Ca Mâu Ni...” [TDK I 1982: 169]

    Để ý cách xưng hô ở đây rất thâm thúy. Tại sao phải dùng đến bốn danh xưng: Phật Tổ, Như Lai, A Di Đà, Thích Ca?

    Di Đà và Thích Ca

    - Phật (Buddha) theo tiếng Sanskrit là Đấng giác ngộ, không còn mê muội, sai lầm nữa, là Đấng có thể cứu vớt người khác, và đã tự cứu được mình. Nên, khi cõi trời cần được cứu, thì chỉ có Phật mới cứu được. Đúng người đúng việc.

    - Như Lai (Tathâgatha) nghĩa là thường trụ, bất biến. Kinh Kim Cang chép rằng Phật vốn không do đâu mà tới; tới cũng chẳng đi về đâu. Chính vì vậy, người tu thành Phật mà thật ra thì không có chỗ thành Phật, vì Phật vốn đã ở sẵn nơi tự thân con người. Phật không có ở ngoài người, không phải từ bên ngoài đi tới người. Như Lai là thật tướng. Cái gì nói ra từ Như Lai, đó là Chân lý.

    - A Di Đà là Phật quá khứ so với Thích Ca Mâu Ni. Đã có Di Đà thuyết pháp trước khi Thích Ca thuyết pháp. Vậy tại sao ở cửa miệng Chân lý (Như Lai) lại nói điều tưởng như là sai chân lý: Đã là Di Đà thì Di đà, chứ lẽ đâu vừa là Di Đà vừa là Thích Ca?

    Di Đà và Thích Ca là một. Chúng sanh với Phật là một. Phật đã thành từ thiên cổ và Phật sẽ thành từ trong nhân loại, từ trong chúng sanh mai hậu là một. Đây là triết lý thượng thừa của đạo lý phương Đông. Mặc dù nói qua tưởng như hàm hồ, ngụy biện.

    Trời và người

    Cuộc đấu lý giữa Tề Thiên và Phật Tổ cũng rất thú vị. Phật nói Thượng Đế đã tu 1750 kiếp, mỗi kiếp 129.600 năm, còn con khỉ “mới từ súc sinh lên làm người” tại sao lại dám đòi ngang bằng Trời (Tề Thiên)! [TDK I 1982: 172]

    Trước tiên, phải nói người viết truyện có sơ sót ở con số này. Theo Phật giáo, một kiếp (kalpa) mà gọi là tiểu kiếp dài 168.000.000 năm, trung kiếp 336.000.000 năm, đại kiếp 1.344.000.000 năm!

    Trở lại với việc Tề Thiên tranh cãi với Phật Tổ. Khi bị Phật... mắng vì dám đòi làm Trời, Tề Thiên nói tỉnh bơ: “Thượng Đế tuy tu luyện lâu lắm, nhưng cũng không nên ngồi mãi ngôi ấy.” [TDK I 1982: 172]. Lời lẽ rất phạm thượng! Phạm thượng mà không hề hủy báng Trời, lại rất đúng đạo lý nữa chứ! Đúng đến mức có lẽ Ngọc Hoàng cũng không giận.

    Ở đời, ông thầy giỏi là người dạy ra học trò còn giỏi hơn thầy. Con hơn cha, nhà có phúc. Thích Ca thành Phật rồi đâu có thèm giữ độc quyền làm Phật cho riêng Thích Ca. Thích Ca khuyến khích rằng mọi người đều có khả năng để làm ông Phật như Thích Ca.

    Ngày nay trong Cao Đài vẫn cho rằng con người tiến hóa từ con thú đi lên, nhưng chưa đủ, người lại phải còn tiến hóa thêm để hoàn thiện là Tiên là Phật, thậm chí là Trời. Cho nên Cao Đài chủ trương con người đến thế gian từ Trời và còn phải rán học hỏi không ngừng để sẽ tiến hóa lên làm Trời:

    Tu hành là học làm Trời,

    Phải đâu muôn kiếp làm người thế gian.

    Vì vậy, phải dám nói rằng, khi Tề Thiên đòi... đảo chánh, soán ngôi Ngọc Hoàng, thì Ngọc Hoàng lại vẫn yêu thương Tề Thiên hơn ai hết.

    Bàn tay trùm vạn dặm

    Cuộc tỉ thí giữa Tề Thiên và Phật Tổ là cuộc tỉ thí không cân sức. Phật Tổ thách thức: “Ta đánh cuộc với nhà ngươi, nếu nhà ngươi có tài nhảy một cân đẩu vân ra khỏi được lòng bàn tay phải của ta, thì nhà ngươi thắng.” [TDK I 1982: 173]

    Tề Thiên là trí, dù có thông minh sáng suốt đến đâu chăng nữa thì cũng vẫn còn trong chướng ngại của thế gian trí, trong hạn chế của phàm phu trí. Đó là lý do của nghịch lý Tây du: chỉ cần một cân đẩu vân là có thể vượt qua mười vạn tám ngàn dặm dễ dàng, thế mà Tề Thiên dù cố gắng đến đâu vẫn cứ phải quẩn quanh trong lòng bàn tay Phật Tổ!

    Phật là Pháp vương (Dharma Lord, Vua Pháp) nên bàn tay của Phật nắm trọn vạn pháp. Cân đẩu vân là cái trí phàm. Tề Thiên là một pháp trong vạn pháp thì làm sao lọt ra khỏi bàn tay của Phật! Trên nguyên tắc, Tề Thiên chưa đấu thì đã thua rồi, nào phải đợi đến lúc so tài.

    Ngũ hành năm ngọn

    Khi biết mình thua, toan... xù vụ đánh cuộc. Tề Thiên “vội vàng tung người nhảy vút đi, nhưng bị ngay Phật Tổ lật bàn tay túm chặt lấy, mang ngay ra ngoài cửa Tây Thiên, biến năm ngón tay thành năm quả núi: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, gọi là núi Ngũ Hành, nhẹ nhàng đè chặt Đại Thánh xuống dưới.” [TDK I 1982: 175]

    Bàn tay vốn có năm ngón dài ngắn không đều. Theo thuật đoán số mệnh qua bàn tay, người ta cho rằng trong bàn tay có đủ cả ngũ hành: ngón cái là kim; ngón trỏ, mộc; ngón út, thủy; ngón vô danh, hỏa; ngón giữa, thổ. [Thông thường, khi cưới vợ lấy chồng, người ta đeo nhẫn vàng ở ngón vô danh (ngón áp út), phải chăng ngụ ý muốn lấy lửa (hỏa) để thử “tuổi” vàng, để coi hôn nhân có bền được cùng năm tháng hay không?]

    Mượn hình tượng bàn tay năm ngón ứng với ngũ hành để từ đó chuyển sang hình tượng ngọn núi Ngũ Hành nhốt Tề Thiên, quả là cả một tài tình của Ngô Thừa Ân! Núi Ngũ Hành là chi? Tề Thiên là chi?

    Theo Phật giáo, thân con người vốn do năm yếu tố cấu tạo thành, gọi là ngũ đại, gồm có đất, nước, gió, lửa, và hư không. Mỗi người đều có ngũ căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân). Mỗi căn đều có một ý thích riêng, do đó con người có ngũ tình: mắt thích xem cái đẹp, hấp dẫn, khêu gợi; tai thích nghe cái êm dịu, du dương, thích nghe nịnh hơn là lời nói phải; mũi thích hít mùi thơm ngon; lưỡi thích nếm thích ăn những gì hợp khẩu vị; thân lại thích sự hưởng thụ sung sướng an nhàn, v.v... Do có ngũ căn mà con người có năm thứ ham muốn (ngũ dục); những thứ đó cứ đè chặt tâm linh, tinh thần con người, rất khó gỡ ra. Do đó, con người dễ xuôi theo cái xấu cái ác mà khó vươn lên cái đẹp cái thiện.

    Theo Nho giáo và Lão giáo, con người do sự phối hợp của âm dương, của năm yếu tố kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (ngũ hành) tạo nên. Sách Lễ ký miêu tả “thành phần cơ cấu” con người như sau: “Nhân giả, kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí.” (Người là cái đức của trời đất, nơi gặp gỡ của âm dương, nơi tụ hội của thần minh, là tinh hoa tốt đẹp của ngũ hành hiệp lại.) Chính vì vậy, luôn luôn có sự liên hệ giữa thân xác và ngũ hành, chẳng hạn như biểu sau đây:

    ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ
    ngũ tạng phổi gan thận tim dạ dày
    (phế) (can) (thận) (tâm) (tì)

    Đông y xây dựng lý thuyết cũng căn cứ trên ngũ hành âm dương. Thuật luyện nội đan (thiền) của Lão giáo và Cao đài cũng vận dụng sự tương quan âm dương, ngũ hành với thân xác.

    Núi Ngũ Hành là bàn tay hóa ra, bàn tay là một phần của thân xác, vậy núi Ngũ Hành chính là cách ám chỉ thân xác con người. Tề Thiên vốn dĩ thần thông mà chịu bị nhốt trong núi Ngũ Hành. Ngô Thừa Ân muốn nói xa nói gần rằng: khi còn mang xác phàm nặng nề trọng trược thì chưa thể khai phóng cho phần thần diệu linh thiêng trong tự thân nội thể con người hiển lộ. Do đó, Tề Thiên từ cõi người bay đi bay về cõi Phật như... đi chợ, nhưng không thể cõng Đường Tăng bay vù một lèo tới chùa Lôi Âm cho tiện, và Đường Tăng cứ phải lẽo đẽo đi qua muôn dặm hồng trần.

    Muốn đạt được thần thông, tự do khai phóng, muốn được ngang bằng Trời (Tề Thiên), bắt buộc phải cởi bỏ xong xác phàm. Cho nên trước khi vào đến Linh Sơn, tại bến Lăng Vân, lúc bước chân xuống thuyền bát nhã, Đường Tăng phải bỏ xác trôi sông, còn cái người đứng trên đò với Tiếp Dẫn Phật Tổ là một Đường Tăng khác, một bậc chơn nhơn đã siêu thoát [TDK X 1988: 162].

    LÊ ANH DŨNG
    (14-10-1991 - 14-01-1995)
    (cÒN TIẾP)
    Tâm vốn bất sinh bất diệt, chỉ tại chúng sinh vọng thức lại tưởng là Tâm nên hóa Tâm mê

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Để Bạn Hiểu Rõ Hơn Về Mễ Du !
    By vohinh69 in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 14-06-2012, 06:59 AM
  2. Tây Phương Cực Lạc Du Ký (Tế Công - Thái sinh)tt
    By lyquochoang in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 28-12-2011, 01:31 PM
  3. Giải mã 'giếng thần' chữa vô sinh ở làng sinh đôi
    By Bin571 in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 31-10-2011, 09:16 PM
  4. Tây Phương Du Kí
    By cloudstrife in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 01-10-2011, 11:28 AM
  5. Đạo gì?
    By phúc minh in forum Đạo Phật
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 20-04-2011, 10:42 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •