TRĂNG SAO CỬA ĐỘNG ĐÁ ĐẦU NON
Truyện Tây du dựng nên một nhân vật nổi bật là Tề Thiên, một con khỉ. Diễn giải lý lịch của Tề Thiên, truyện kể: Tại Đông Thắng Thần Châu, có nước Ngạo Lai, núi Hoa Quả, trên đỉnh núi có tảng đá tiên. “Một hôm tảng đá nứt đôi, sinh ra một quả trứng đá tròn, to bằng quả cầu, gặp gió hóa thành một con khỉ đá, đủ cả mặt mũi chân tay.” [TDK I 1982: 28]. Lý lịch xuất thân của Tề Thiên đơn giản như thế, nhưng lại là cả một hàm dụ thâm trầm!
Tâm viên ý mã
Đỉnh đá đơn côi
Khỉ, hay tương cận với nó là vượn, theo Phật và Lão, tượng trưng cho tâm con người. Loài vượn, khỉ vốn hay lăng xăng, nhảy nhót, chuyền leo, không chịu ngồi yên. Cái tâm con người cũng lao xao, ưa tơ tưởng chuyện này, hay nhớ nhung việc nọ. Phật ví tâm người như loài khỉ, vượn nên gọi là tâm viên (con vượn lòng). “Bạn” của tâm viên là ý mã (ngựa ý). Tâm ý theo nhau, tâm chạy rong, ý cũng chạy rong. Giữ chặt cho tâm ý ở yên, tập trung tư tưởng vào một chỗ, là chuyện không dễ. Sách chú quyển Tham đồng khế của Ngụy Bá Dương có câu: “Tâm viên bất định, ý mã nan truy.” (Vượn lòng nhảy nhót không yên, ngựa ý rong ruổi theo liền khó thay.)
Người tu thiền, dù là hành giả theo pháp môn của Phật, Lão, hay Cao Đài, tối kỵ bị “phóng tâm”, cho nên chỗ đầu tiên thực hành là phải cột lại tâm ý, không được để tâm ý nghĩ ngợi lung tung. Do sự liên quan ẩn dụ khỉ và ngựa nên mới bày ra chuyện Hầu Vương (vua khỉ) lên trời giữ chức Bật Mã Ôn, trông coi, quản lý đàn ngựa. Đoạn tả cách Hầu Vương săn sóc ngựa quả rất lạ đời: “Bật Mã ngày đêm không ngủ, trông nom ngựa trại. Ban ngày còn chơi đùa, ban đêm chăm chỉ giữ gìn. Ngựa ngủ, đánh thức cho ăn cỏ; ngựa lồng, nhốt lại trong chuồng.” [TDK I 1982: 104]
Cái tâm cái ý lúc con người thức hay chạy rong, lúc con người ngủ vẫn chạy rong. Những ức chế, dồn nén ban ngày chưa biến hình thành hành động, thì đợi đến đêm về, sẽ biến thành cơn mơ giấc mộng dẫn dắt người đi... hoang! Có những hành giả, ban ngày còn tỉnh táo, ý thức đè nén được sắc tình trước ngoại cảnh diễm kiều; nhưng khi canh khuya mơ màng giấc bướm hồn hoa, thì chỉ còn là chiếc xe lao dốc tuột thắng, bao nhiêu “vốn liếng” cỏn con tích trữ được cũng đành trút bỏ một lèo trong vô thức! Cho nên một số thiền đường phải luôn dè chừng chuyện ngủ nghê mê mệt, có nơi chỉ dám nằm nghiêng, hay như một thiền phái Cao Đài (Chiếu Minh) chỉ dám ngủ... ngồi. Đó là lý do mà, theo Tây du, muốn chăn ngựa thì phải “ngày đêm không ngủ”, và “ban đêm chăm chỉ giữ gìn”.
Các hành giả tập thiền, dù theo Phật, Lão, hay Cao Đài, đều tối kỵ tâm trí mê muội, ngủ quên. Chứng bệnh đó chính là hôn trầm. Trong một số thiền đường, lúc cùng nhau tịnh tọa, có một người giám thị cầm gậy đứng canh, ai lỡ quên ngủ gà ngủ gật, lập tức quật gậy vào lưng cho tỉnh. Còn khi tỉnh, mà phóng tâm, đầu cứ lăng xăng hết chuyện nọ chuyện kia, phải rán diệt tan niệm lự, tập trung tư tưởng lại. Cho nên “ngựa ngủ, đánh thức cho ăn cỏ; ngựa lồng, nhốt lại trong chuồng.”
Tâm ý con người phát sinh từ đâu? Thông thường đều vẫn cho rằng từ cái đầu. Cái đầu là “quả trứng đá tròn”. Cái đầu sinh ra tư tưởng; tư tưởng không hình, không ảnh, không màu, không tiếng. Cho nên con khỉ (tư tưởng) sinh ra chỉ là nhờ “gặp gió hóa thành”.
Tư tưởng có tốc độ cực nhanh, vì vậy truyện Tây du mới bảo con khỉ học được phép cân đẩu vân, nhảy một cái xa tới một trăm lẻ tám ngàn dặm [xem bài Đường Tăng! Anh là ai?].
Một ánh trăng khuya
Ba sao hiu hắt
Hầu Vương vào một ngày đẹp trời bỗng giác ngộ lẽ sinh tử cõi đời là vô thường, lập tức hạ quyết tâm từ bỏ ngôi vua ở động Thủy Liêm, lặn lội chiếc thân tầm sư học đạo. Câu chuyện rõ ràng mang dấu ấn của Thái tử Cồ Đàm lìa bỏ hoàng cung của dòng họ Thích Ca, đơn độc dấn mình tìm cầu giải thoát.
Trên đường gió bụi, Hầu Vương gặp người kiếm củi chỉ đường, bảo hãy đến núi Linh Đài Phương Thốn, trong núi ấy có động Tà Nguyệt Tam Tinh, và hãy cầu học đạo với Bồ Đề Tổ Sư. Chốn ấy tìm đâu ? Hà xứ tại ?
Phương Thốn theo đạo Lão là hạ đơn điền, nằm cách dưới rún ba đốt ngón tay. Theo phép luyện khí công, yoga, thiền, đấy là một trong những điểm quan trọng trong thân thể mà phép tu nội dược (luyện nội đan, interior alchemy) của đạo Lão và Cao Đài đặc biệt nhấn mạnh.
Linh đài theo đạo Lão là tâm. Con người phàm phu thì tâm phàm phu, con người thánh thiện thì có thánh tâm. Tâm Phật không phải tự nhiên mà có, tâm Phật cũng trong chỗ tâm phàm đã khơi trong gạn đục trở thành; như đóa sen tinh khiết ngát hương đã nẩy mầm vươn lên từ tận đáy sình bùn ô trược. Truyện thơ Phật Bà chùa Hương của bình dân Việt Nam diễn ý này rất tuyệt vời:
Thần thông nghìn mắt nghìn tay,
Cũng trong một điểm Linh đài hóa ra.
Tà nguyệt là trăng khuyết (lưỡi liềm). Tam tinh là ba ngôi sao. Kiều (?) có câu: “Một vầng trăng khuyết ba sao giữa trời.” Chính thực đây là cách chiết tự chữ Tâm . Do tâm mà thành phật, đắc đạo, cho nên đạo Lão có bài thơ cổ rằng:
Tam điểm như tinh tượng,
Hoành câu tựa nguyệt tà.
Phi mao tùng thử đắc,
Tố phật giả do tha.
Nghĩa là:
Ba điểm tượng hình sao,
Móc câu như trăng khuyết.
Thú cầm theo đây đắc,
Phật do đó mà ra.
Hóa ra con đường cầu đạo của Hầu vương là con đường hướng nội, trở vào tâm, tu thiền. Đạo Lão và Cao đài gọi là con đường phản tỉnh nội cầu, phản bổn hoàn nguyên.

Tà Nguyệt Tam Tinh Động (chử Tâm)
Hành giả tìm tâm [tranh Giới Tử Viên]
LÊ ANH DŨNG
(27-8-1991-02-01-1995)
(Còn tiếp)
Bookmarks