kết quả từ 1 tới 4 trên 4

Ðề tài: Nhà thơ bút tre

  1. #1

    Mặc định Nhà thơ bút tre

    Tôi sưu tầm bài viết về nhà thơ Bút Tre để cả nhà biết thêm một lối thơ vui:

    Nhà thơ Bút Tre

    Nhà thơ lấy bút danh Bút Tre tên thật là Đặng Văn Đăng, còn gọi là Đặng Văn Quang, quê xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ. Ông sinh năm 1911, mất năm 1987. Ông đỗ tú tài triết học dưới thời Pháp thuộc, viết báo dưới thời đó với bút danh Lục Y Lang.[1]
    Ông từng làm công tác ngoại giao với chức danh bí thư thứ hai sứ quán Việt Nam tại Rumani. Sau đó ông về làm Trưởng ty (bây giờ gọi là Giám đốc sở) Văn hoá Phú Thọ. Người ta nhớ Bút Tre, không phải vì những bài thơ trữ tình, cũng không vì thơ ông gần với những bài ca dao, mà vì cách làm thơ, gieo vần của ông thật bất ngờ, thường mang đến cho những người nghe sự sảng khoái sau những giờ lao động mệt nhọc căng thẳng. Câu lục bát nổi tiếng nhất mà có rất nhiều người thuộc khi nhắc đến ông là câu nói về Đại tướng Võ Nguyên Giáp:


    Hoan hô đại tướng Võ Nguyên
    Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về...


    Thơ của ông rất buồn cười:

    Làng ta có cái núi voi
    Đủ cả đầu đuôi, đủ cả vòi
    Voi cũng hăng say đua sản xuất
    Đầu thì trồng sắn đít trồng khoai.


    từ đó thơ Bút Tre dân gian sáng tác thêm theo lối Hoan hô:

    "Hoan hô đồng chí Hà Đăng
    Ẩn cho tàu chạy băng băng như rùa..."


    Nhiều người không gọi thơ Bút Tre là thơ. Chỉ gọi là vè. Nhưng dẫu sao, lối thơ (hay vè) của Bút Tre đã cùng tồn tại với rộng rãi người dân Việt Nam suốt nửa cuối thế kỷ 20 và có thể sẽ còn lâu hơn nữa trong cách sống lạc quan mang lại niềm vui ngày thường cho nhiều người Việt Nam. Một trong những câu sau cùng Bút Tre nhắn lại cho hậu thế là:

    Mai sau kẻ đoái, người hoài, mặc
    Hạnh phúc hôm nay mát dạ người.


    Thơ kiểu Bút Tre trong dân gian

    Người Việt thích cách nói có vần điệu, các câu tục ngữ, các lời hát đối từ xưa đã thế. Từ một số bài của Bút Tre, người ta cười, rồi bắt chước thành một phong trào quần chúng và gán cho Bút Tre nhiều câu theo lối của Bút Tre mà một số nhà nghiên cứu gọi là lối thơ Bút tre như:

    Anh đi công tác Pơ-lây-
    cu dài dằng dặc biết ngày nào ra?
    Còn em em vẫn ở nhà
    Cửa (nhà) mình em mở người ra kẻ vào.
    Chị em du kích tài thay
    Bắn tàu bay Mỹ rơi ngay cửa mình.
    Phụ nữ thường rất hay lười
    Riêng em anh thấy là người cần... (cù)
    Bắc Ninh có cậu Nguyễn-Trùng-
    Dương, vật khỏe quá cả vùng thất kinh.

    Và nhiều đoạn thơ mang trường phái Bút Tre:

    Liên Xô rất đỗi tự hào
    Anh Ga ga rịn bay vào vũ tru.
    Hoan hô đồng chí Phạm Tuân
    Bay vào vũ trụ một tuần về ngay
    Quê hương tôi đẹp tuyệt vời
    Ở dưới có nước trên trời có mây.
    Xin mời các bạn về đây
    Để thăm quê tớ mỗi ngày một sang.
    Con đò dịch đít sang ngang
    Xa xa có một cái làng thò ra.
    Đằng kia là một vườn na
    Đằng này thì có mấy bà chổng mông.
    Cây lúa cao sản ngoài đồng
    Đến mùa thu hoạch nhà nông vui cười.
    Quê tôi thế đấy bạn ơi
    Nhờ có đổi mới nên đời thêm xuân.
    Con gái giờ chẳng mặc quần…
    Mà mặc váy ngắn hở chân hở đùi
    Ngày hội mới thật là vui…
    Hoan hô đại tướng Vő Nguyên
    Giáp ta thắng trận [Điện Biên]] trở về
    Hoan hô anh Tạ Đình Đề
    Trước đi theo địch nay về với ta
    Hoan hô anh Lê Quảng Ba
    Trước đi theo phỉ nay ra hàng mình
    Hoan hô đồng chí Trường Chinh
    Trước thân Trung Quốc nay hình như thôi
    Hoan hô chị Nguyễn Thị Bình
    Được mời ngồi với bác Chinh bác Đồng
    Hoan hô bác Vő Chí Công
    Cho làm khoán hộ ruộng đồng tốt tươi
    Hoan hô bộ trưởng Đỗ Mười
    Tác phong chậm chễ mọi người vẫn khen.
    Hoan hô đồng chí Trần Hoàn
    Lên làm Bộ trưởng chiếu toàn phim hay.
    Hoan hô anh Nguyễn Chí Thanh
    Anh về phân bắc, phân xanh đầy đồng.
    Hoan hô cục trưởng Hà Đăng
    Ấn cho tàu chạy băng băng như rùa
    Hoan hô anh La Văn Cầu
    Cánh tay bị đứt nhưng đầu vẫn nguyên.
    Chị em nô nức đặt vòng
    hoa mộ liệt sĩ tỏ lòng biết ơn.
    Tiễn anh lên bến ô tô
    Đêm về em khóc ... tồ tồ cả đêm
    Chợ Đồng Xuân có tiếng đồn
    Có chị bán trứng vịt lộn rất to.
    Ba bà đi chợ cầu đông
    Vừa đi vừa nhổ lông....mày ra xem.
    Anh đi công tác Pờ Lây
    Cu dài dằng dặc biết ngày nào vê
    Họp xong anh ghé Buôn Mê
    Thuột xong một cái rồi về với em
    Anh đi công tác Cam Pu
    Chia chiến lợi phẩm ở tù ba năm
    Anh đi công tác bản Muờng
    Tè xong một cái lên đường về quê
    Trung thu là tết thiếu nhi
    Mà sao người lớn lại đi là nhiều
    Đi nhiều rồi lại làm liều
    làm liều rồi lại có nhiều thiếu nhi
    Bà con toàn thể xã ta
    Ðồng tâm phấn khởi giồng cà dái dê
    Dái dê to mập dài ghê
    Nãm sau ta cứ dái dê ta trồng
    Bướm đồng động đến thì bay
    Bướm nhà động đến lăn quay ra giường
    Chim đồng bóp cái chết ngay
    Chim nhà mà bóp càng ngày càng to
    Chưa đi chưa biết Ðồ Sơn
    Ði về mới biết chẳng hơn đồ nhà
    Ðồ nhà tuy xấu tuy già
    Nhưng là đồ thật hơn là Ðồ Sơn
    Chưa đi chưa biết Cà Mau
    Đi rồi mới thấy chẳng hơn gà nhà
    Gà nhà tuy có hơi già
    Nhưng mà cà chậm hơn là Cà Mau
    Không vô không biết bút tre
    Vô rồi mới biết muốn tè ra ngay
    Chưa ăn chưa biết cu đơ
    Ăn rùi mới biết nó đờ cu ra
    Chưa đi chưa biết Cửa Ông
    Đi rồi mới thấy toàn mông với giò
    Chưa đi chưa biết Cửa Lò
    Đi rồi mới thấy toàn giò với mông.
    Chưa đi chưa biết Sài gòn
    Đi rồi mới biết chẳng còn một xu
    Về nhà mới biết là ngu
    Mồm tiêu thì ít thằng cu tiêu nhiều
    Không đi không biết Tam Đao (Tam Đảo)
    Đi thì không biết chỗ nào mà ngu (ngủ)
    Một giường nó nhét hai cu (cụ)
    Thôi thì cố nhịn đến chu nhật về...
    Số tôi số chẳng ra gì
    Vợ thì đời cũ, ti vi đời đầu
    Đời đầu nên chẳng có râu
    Xoa mông vỗ đít mà mầu chẳng lên
    Ti vi hàng xóm nhà bên
    Chưa sờ đến núm đã rên ầm ầm
    Ước gì trời nổi cơn giông
    Để tôi sang đó ôm nhầm ti vi.
    Xưa kia gương vỡ lại lành
    Thi đi thi lại cũng thành kỹ sư
    Bần tăng chẳng xin cơm chay
    Chỉ xin thí chủ “ba ngày ba đêm”
    Chị em phụ nữ chơi cầu
    Lông bay vùn vụt lên đầu thanh niên.
    Chồng người du kích sông Lô
    Chồng em ngồi bếp nướng ngô cháy quần
    Ở trong hang đá đi ra
    Vươn vai một cái rồi ta đi vào
    Sông Cầu nước chảy lơ thơ
    Có đôi trai gái ngồi hơ quần đùi
    Tiễn anh lên bến ô tô
    Đêm về em khóc tồ tồ cả đêm
    Lâu rồi mình chẵng yêu ai
    Lâu rồi cũng chẳng có ai yêu mình
    Ta đi bầu cử tự do
    Chọn người xứng đáng mà cho vào hòm
    Hội trường yên ắng ngủ say
    Thuyết trình vừa dứt, vỗ tay ra về.
    Nhớ quê ra đứng đỉnh đèo
    Bỗng đâu thấy một chú mèo gâu gâu
    Dừng chân đứng lại trên cầu
    Bỗng đâu thấy một con trâu vàng vàng
    Anh em chuẩn bị ra đồng
    Chị em đã vội đi trồng dưa leo
    Hôm nay đài nói vui thay
    Người ở dưới đất, chó bay lên trời
    Hôm nay trên quốc lộ hai
    Thể nào cũng có một vài ô tô.
    Nào đâu có thích vần ồn
    Cơ mà yêu quá cái “hồn” chị em
    Nên thơ cứ mãi lem nhem
    Quanh đi quẩn lại toàn em với “hồn”.
    Nghệ An nổi tiếng gió Lào
    Trẻ già trai gái người nào cũng đen
    Thằng nhỏ mặc quần hở mông
    Vẫn hơn con nhỏ còn không mặc quần.
    Trẻ em thường thích ở trần,
    Nhưng mà người lớn có phần thích hơn.
    Rừng xanh núi đỏ um tùm
    Thương anh địa chất cưỡi hùm lên non
    Chiều về ngựa phóng bon bon
    Tay anh nắm chặt hai hòn thạch anh.
    Tình yêu đâu phải phân trâu,
    Mà anh lại sợ để lâu hóa bùn.
    Tình yêu đâu phải con lươn
    Mà anh lại sợ nó trườn khỏi tay.
    Em như một cái sập vàng
    Anh như manh chiếu nhà hàng bỏ quên
    Cầu trời cho gió nổi lên,
    Cho manh chiếu rách nằm trên sập vàng
    Cuộc đời như bát phở gà,
    Thiếu chanh, thiếu ớt chắc là mất ngon.
    Hôm qua anh đến chơi nhà
    Thấy mẹ chăn vịt, thấy cha chăn ngồng (ngỗng)
    Thấy em hát nhạc Trịnh Công
    Sơn xanh, sơn đỏ, anh không dám vào.
    Con gái ai cũng biết xinh
    Con trai tuy xấu, không xinh nhưng liều
    Anh đi giường chiếu lặng câm
    Anh về giường chiếu reo ầm cả lên
    Chọn mãi mới được một ngày
    Gặp em để quyết giãi bày yêu thương
    Hai đứa ngồi trên bờ mương
    Công nông thì chạy trên đường, bụi ghê!
    Cứ thế mà buôn dưa lê
    Mãi không đề cập vấn đề trọng tâm
    Anh liền nói chuyện lòng vòng
    Đợi em sơ ý là cầm tay luôn.
    Ngờ đâu anh chộp đã nhanh
    Em rút tay lại còn lành nghề hơn
    Mất đà anh lộn xuống mương
    Bò lên đã thấy em chuồn từ lâu.
    Vừa về anh vừa lầu bầu:
    “Biết thế bố bỏ từ lâu cho rồi!”
    Em đi phố Huế chiều mưa
    Anh về mài lại cái cưa đã mòn
    Đi đâu mà hổng lấy chồng
    Người ta lấy hết chổng mông kêu trời
    Thu đi để lại lá vàng
    Anh đi để lại cho nàng thằng con
    Ra đường sợ nhất xe ben
    Về nhà sợ nhất vợ rên “không tiền”
    Anh đi công tác Sông Đà
    Vướng phải tai nạn ở phà sông Gianh
    Tay chân thì vẫn nguyên lành
    “Cần tăng dân số” tan tành khói mây
    Tiến lên, ta quyết tiến lên
    Tiến lên, ta quyết tiến lên hàng đầu
    Hàng đầu không biết đi đâu
    Đi đâu không biết hàng đầu cứ đi
    Nhà máy sản xuất nhiều mu (mũ)
    Để đem đi bán các chu (chú) đội đầu
    An toàn ta nhắc nhở nhau
    Hễ đi xe máy hàng đầu là mu (mũ)


    Giai thoại

    Theo Ngô Quang Nam trong "Lối thơ Bút Tre", NXB Văn Hoá 2000, khi ông Đăng (Bút Tre) làm trưởng ty văn hóa, ông ký quyết định cho ông Nguyễn Lộc-ở HTX Phùng Nguyên đi học về bảo tàng, ông Lộc không muốn đi, Bút Tre đã gửi cho ông Lộc hai câu:

    Chú sang công tác bảo tàng
    Đó cũng là việc cách màng giao cho.


    Khi chủ tịch Hồ Chí Minh mất, Bút Tre cảm thán:

    Nghe tin mà bỗng bàng hoàng
    Bác Hồ đang sống, chuyển sang từ trần.


    Bút Tre tên thật là Đặng Văn Đăng, khi ký tên thường không đánh dấu các chữ tiếng Việt nên viết là Dang Van Dang, mọi người đọc không dấu là Giăng-Van-Giăng, đồng âm với tên nhân vật chính trong "Những người khốn khổ" của Victor Huygo. Từ đó những người cùng cơ quan gọi ông là Giăng Văn Giăng.
    Nhà Bút Tre nghèo, ông ngủ trên một cái chõng tre, nhà không cánh cửa, chỉ che bằng phên liếp lá cọ, nghe tin người bạn mất trộm, ông đùa:

    Cứ như tớ hoá lại hay
    Chẳng lo giữ của cả ngày lẫn đêm
    Cửa ngõ không phải cài then
    Ai thăm cứ việc đẩy phên mà vào.


    (theo tuoitre.com.vn)
    Last edited by trungnguyen0123; 15-05-2009 at 11:36 AM.

  2. #2

    Mặc định

    Hoan hô anh bạn Trung Nguyên
    Khi không lại post bài hay quá trời !

  3. #3

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi lotus74 Xem Bài Gởi
    Hoan hô anh bạn Trung Nguyên
    Khi không lại post bài hay quá trời !

    Cám ơn bạn! Mồi này nhậu bắt rượu lắm!

  4. #4

    Mặc định

    (tiếp theo) Rất tiếc tôi không biết cách nên không đưa một sơ hình ảnh và chân dung ông Dang van Dang được!Thầy QT bảo rằng dịch tiếng Hán dễ hơn-tôi thấy thật đúng!

    Vè sĩ Bút Tre
    TT - Nói đến thơ Bút Tre, trong dân gian hầu như ai cũng biết, cũng thuộc, thậm chí có người còn làm thơ hay hơn cả Bút Tre thật. Nhưng khi ông còn sống, đã có nhiều ý kiến, bài viết phê bình về những câu thơ “quái quỉ”, “tự nhiên chủ nghĩa”của ông và cũng từ đấy bao nhiêu câu thơ buồn cười người ta đều gán cho ông - vè sĩ Bút Tre.
    Chúng tôi về xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê (tỉnh Phú Thọ) - quê hương của vè sĩ Bút Tre. Hỏi thăm đường đến nhà ông Đặng Văn Đăng, người dân ở xã đều lắc đầu quầy quậy: “Ở đây không có ai tên Đặng Văn Đăng cả”. Hóa ra trên quê hương ông, ít ai biết tên thật của ông.


    “Tớ chỉ là vè sĩ”

    Theo anh Đặng Thành Phiến( con trai của vè sĩ Đặng Văn Đăng - tên thật của nhà thơ Bút Tre)trước Cách mạng Tháng Tám 1945, gia đình anh vốn là gia đình nho học. Thân sinh của ông Đặng Văn Đăng là người hay chữ trong làng, tuy nhà nghèo nhưng ông bà cố gắng tằn tiện nuôi ông Đăng ăn học đến bậc tú tài.
    Trước năm 1945, Đặng Văn Đăng làm nghề dạy học và viết báo, ông đã từng có truyện dài kỳ
    đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy, báo Đông Pháp ký bút danh Lục Y Lang. Ông rất giỏi Anh văn, Pháp văn, am hiểu triết học, chính trị, kinh tế học và văn thơ. Đặng Văn Đăng đã từng đỗ tú tài Pháp.
    Ở làng quê Đồng Lương hồi ấy có anh giáo biết nói tiếng Pháp là uy tín lắm. Thêm nữa, anh còn biết viết báo thì lại càng sang trọng. Thế nhưng, theo các cụ già trong làng còn sống kể lại, anh Đăng rất xuề xòa trong cách ăn mặc, nói năng. Khi trưởng thành, Đặng Văn Đăng lấy vợ là một cô gái kém nhan sắc nhất làng.
    Sau ngày giành chính quyền 19-8-1945, Đặng Văn Đăng thôi dạy học và chuyển sang làm thư ký UBND cách mạng lâm thời xã Đồng Lương. Tháng 9-1946, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản VN và thoát ly công tác, đi làm báo Khu giải phóng (khu 10) rồi là cán bộ ban tuyên huấn khu 10, sau đó chuyển về làm cán bộ ban tuyên huấn Tỉnh ủy Phú Thọ.
    Ông Trần Ngọc Liu - 85 tuổi, nguyên trưởng Ty Thông tin Phú Thọ, hiện cư trú tại số 2 Láng Thượng, quận Ba Đình (Hà Nội) - cho hay thoạt đầu khi ông Đăng hay ứng khẩu thành thơ biến âm, mọi người nghe ông nói rồi cũng quên chứ không ai nhớ được, nghĩ đến ông Đăng họ buồn cười vì duyên ăn nói mà thôi. Mãi đến năm 1962, về làm trưởng Ty Thông tin Phú Thọ, ông mới chính thức sáng tác những bài thơ kiểu ngồ ngộ và ký tên Bút Tre, và từ đấy thơ Bút Tre mới được nhiều người biết đến và nhân rộng.
    Ông Vũ Kim Biên - người biên soạn cuốn Địa chí xã Đồng Lương, có thời gian sống khá lâu bên vè sĩ Bút Tre để cùng sưu tầm tư liệu viết cuốn sách này - cho hay bút danh Bút Tre bắt đầu được nhiều người biết đến năm 1963 với các tác phẩm Phú Thọ quê ta, Rừng cọ đồi chè.
    Tuy nhiên, người ta biết nhiều về ông không phải qua những tập thơ ông được xuất bản mà qua những bài thơ ứng khẩu kiểu “tự nhiên chủ nghĩa”. Do ông hay nói thẳng nói thật nên ngôn ngữ ông dùng ít chất tinh tế, quên cả luật thơ, thậm chí cả về ngữ pháp, tự tiện chia đôi các từ phức. Người ta mến tặng và gọi ông là nhà thơ, những lúc như vậy ông bao giờ cũng khiêm tốn: “Tôi chỉ là vè sĩ mà thôi”


    Nhà xuất bản miệng

    Các văn nghệ sĩ Phú Thọ hôm nay như nhà văn Ngô Ngọc Bội, Nguyễn Hữu Nhàn, họa sĩ Ngô Quang Nam... đều thừa nhận Bút Tre - Đặng Văn Đăng là một trong những người đi tiên phong làm cho đời sống văn hóa văn nghệ Phú Thọ phong phú và nổi tiếng đến hôm nay.
    Mới năm đầu nhậm chức trưởng Ty Văn hóa, ông Đặng Văn Đăng đã cho “tinh giản” nhiều vị trong ban lãnh đạo các đơn vị văn hóa như chiếu bóng, phát hành sách của Ty Thông tin. Theo ông Nguyễn Kính Mời, nguyên phó giám đốc Sở VH-TT Phú Thọ thập niên 1980: “Ông Đăng rút lại còn rất ít cán bộ làm việc ở ty, đưa xuống hết cơ sở. Ông hô hào, động viên chúng tôi bám cơ sở mạnh vào, cứ viết thoải mái đi, phải thật gần dân mới viết được hay chứ cứ loanh quanh ở tỉnh thì làm hay sao được!”. Hầu hết các phòng ban của ty đều không có phó trưởng phòng. Ông bảo: “Cứ lấy công việc là trên hết, cứ gì phải là ông nọ bà kia mới làm nên chuyện!”.
    Nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, thường trực Hội Văn nghệ dân gian Phú Thọ, kể: “Các ấn phẩm của Ty Văn hóa hồi ấy như trăm hoa đua nở, các văn nghệ sĩ Phú Thọ, các cộng tác viên thỏa sức vung bút”. Anh em vung bút, trưởng ty cũng không kém, chỉ ba năm đầu sau khi nhậm chức ông Đặng Văn Đăng cho ra ba tập thơ Phú Thọ lớn lên, Rừng cọ đồi chè, Sông Lô, sông Chảy ký tên Bút Tre, đấy là chưa kể ông còn đi “xuất bản miệng” bao nhiêu lần những bài thơ ứng khẩu.
    Ông Nguyễn Kính Mời cho biết chính vì viết lách thoải mái như vậy nên các cộng tác viên khắp hai tỉnh trung du Vĩnh Phúc, Phú Thọ lúc bấy giờ đua nhau viết cho tờ Văn Nghệ Phú Thọ. Ông Đăng đưa ra tiêu chí “hay thì dùng” nên sự cạnh tranh giữa các tác giả, tác phẩm rất quyết liệt, các cộng tác viên như nhà thơ Vũ Đình Minh, nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi... lúc ấy làm giáo viên dạy học ở Vĩnh Phúc đã là cộng tác viên “ruột” cho tờ báo này. Tờ báo rất có uy tín vì ngoài việc biểu dương người tốt việc tốt, đăng những bài thơ, truyện ngắn, kịch... còn hăng say đả phá tiêu cực, chính vì điều này mà ông Đăng không được một số lãnh đạo tỉnh thiện cảm.
    Họa sĩ Ngô Quang Nam kể rằng ngày ấy có lần Đoàn ca múa nhạc Phú Thọ cần một cây đàn piano để biểu diễn. Trưởng ty Bút Tre làm công văn đề nghị UBND tỉnh cấp ngân sách mua đàn. Dạo ấy, tỉnh đang có phong trào đưa cây sắn lên đồi để phủ xanh đồi núi trọc, vị lãnh đạo tỉnh phụ trách văn xã lúc ấy xem công văn, có nói với ông Đăng: “Các anh vẽ chuyện, đất Phú Thọ này chỉ có sắn, cần tập trung vào sắn!”.
    Bẵng đi một thời gian sau, chuyện đề nghị mua đàn cũng đi vào lãng quên. Bỗng một hôm, có vị lãnh đạo trung ương lên thăm Phú Thọ, Văn phòng Tỉnh ủy yêu cầu Ty Văn hóa phải mang đàn piano sang nhà khách để phục vụ. Nhân viên Văn phòng Tỉnh ủy cầm công văn sang đưa cho ông Đăng, vè sĩ cười rồi bảo anh nhân viên cầm công văn về vì Ty Văn hóa “chỉ có sắn chứ không có piano”! Anh nhân viên nghiêm sắc mặt nói rằng đây là yêu cầu của Tỉnh ủy chứ không phải chuyện đùa. Vè sĩ cũng nghiêm sắc mặt nói lại: “Tôi cũng không đùa, anh về nói lại với các anh lãnh đạo bên ấy rằng “văn hóa chỉ có sắn thôi”!
    Họa sĩ Ngô Quang Nam kể có lần nhà báo Phan Lự (Phú Thọ), lúc ấy là bí thư chi đoàn thanh niên lao động của Ty Thông tin, đến gặp trưởng ty Bút Tre - Đặng Văn Đăng báo cáo công tác Đoàn. Trong khi anh báo cáo thì thấy trưởng ty cứ cắm cúi viết trên bàn. Thấy ông Đăng có vẻ bận rộn, Phan Lự xin phép rút lui thì thấy ông Đăng bảo: “Cậu đọc Tam Quốc chưa?”. “Dạ, Tam Quốc thì có liên quan gì đến công việc của em?”. “Cậu không thấy trong đó có nhân vật Phượng Sồ à, ông ta miệng xử kiện, tai nghe trình bày, tay phê đơn, mắt đọc sách, làm bốn việc một lúc, tớ lại không làm nổi hai việc một lúc sao. Để tớ nói lại cho cậu những điều mới nghe cậu báo cáo nhé!”. Ông Đăng nói vanh vách một hồi những điều Phan Lự vừa trình bày, làm Phan Lự phục lăn.
    Thêm nữa, những câu thơ ứng khẩu của vè sĩ sau khi bị dân gian “nhại đi” đã biến đổi không ngờ. Họa sĩ Ngô Quang Nam kể một dịp vè sĩ tập hợp tự vệ Ty Văn hóa để động viên tinh thần chiến đấu, ông có ứng khẩu
    : “Giặc Mỹ leo thang đến Phú Tho (Phú Thọ)/ Napan đốt cháy cả rừng co (cọ)/ Sẵn sàng chiến đấu chị em bắn/ Rớt trước ty mình một dù đo (dù đỏ)”. Nhưng khi truyền khẩu thì lại là “Chị em du kích tài thay/ Bắn tàu bay Mỹ rơi ngay cửa mình”![/I]

    Thế nên mới có chuyện một nhà thơ nổi tiếng ở Hà Nội lên chơi, sau khi làm việc với lãnh đạo tỉnh liền cho mời vè sĩ Bút Tre sang đàm đạo thơ phú. Sau khi nghe Bút Tre đọc thơ, nhà thơ Hà Nội gật gù: “Anh tập hợp những bài thơ của anh để tôi đem về Hà Nội nhờ anh Xuân Diệu sửa cho”. Vè sĩ trả lời: “Anh Xuân Diệu làm thơ bác học. Tôi làm vè dân gian, Xuân Diệu chữa thế nào được!”.
    Ông Nhàn hiện vẫn còn lưu giữ rất nhiều ấn phẩm của Bút Tre được xuất bản. Ông đưa cho tôi xem và thách đố: “Tôi đố cậu tìm được câu thơ nào của Bút Tre nói về sự tục tĩu. Thơ của ông chỉ có cười mà thôi”. Ông Nhàn còn lưu giữ một cuốn sổ tay ghi chép công tác của vè sĩ Bút Tre, trong đó xen kẽ những ghi chép các buổi họp hành được ghi bằng… tiếng Pháp, xen lẫn thơ được viết bằng tiếng Việt, chữ của vè sĩ rất xấu. Đó là những câu thơ mà vè sĩ một thời làm hai việc, ba việc trong cùng một lúc.



    Một Bút Tre thành vạn Bút Tre các làng

    Ông Nguyễn Kính Mời - nguyên cán bộ Ty Văn hóa Phú Thọ, sau làm phó giám đốc Sở VH-TT Phú Thọ, hiện đã nghỉ hưu ở phố Thái Hà (Hà Nội) - kể: “Thời gian ấy, Bút Tre hơi buồn nhưng trước mặt mọi người ông vẫn vui vẻ, lạc quan vì tính ông thế!”. Cuộc sống của ông vẫn không bị xáo trộn gì, trưa đến anh em trong cơ quan vẫn cùng ông đùa tếu táo tại nhà ăn của cơ quan.
    Bà Bùi Thị Ngà, nguyên thư ký đánh máy chữ cho Bút Tre suốt những năm vè sĩ làm trưởng ty, cho hay những ngày sóng gió ấy Bút Tre vẫn miệt mài chỉ đạo anh em khai quật các di chỉ khảo cổ trên địa bàn tỉnh để khẳng định các nền văn hóa Sơn Vi, Phùng Nguyên...
    Riêng về viết lách, ông chăm viết nhiều hơn, có bận chuyển sang viết nghiên cứu. Vè sĩ vẫn làm thơ như mọi ngày, có ngày đến ba bài thơ đưa cho bà Ngà đánh máy, có một bài thơ ở thời kỳ sóng gió ấy làm bà Ngà nhớ nhất, trong đó có những câu:


    Bút Tre văn nghệ không thừa nhận
    Thêm bao bịa đặt cá nhân xuyên (xuyên tạc)
    Nỗi oan trái đâu cần ai rửa
    Ánh trăng vằng vặc góc trời riêng.


    Bút Tre cũng có lần tâm sự với nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, họa sĩ Ngô Quang Nam là những người thân nhất hay cận kề bên ông: “Oan tớ hơn oan Thị Kính!”. Và cũng kể từ những ngày sóng gió ấy, vè sĩ không gửi thơ đi in nữa.Nhưng khi ấy trong dân gian, thơ kiểu Bút Tre đã được người ta ứng khẩu đọc tràn cung mây. Bữa ăn ở hội nghị nào của Phú Thọ hay bên mâm rượu vui bạn bè, tiễn bộ đội lên đường đánh Mỹ..., mọi người đều ứng khẩu đọc thơ kiểu Bút Tre. Chính vè sĩ cũng ngây người nhiều bận khi người ta gặp ông thường khoe là... thuộc thơ ông, nhưng khổ một nỗi đó không phải do ông ứng khẩu. Những câu như:
    “Anh đi công tác Pờ Lây/ Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra/ Còn em em vẫn ở nhà/ Cửa (nhà) mình em mở người ra kẻ vào”; “Thi đua ta quyết thi đua/ Thi đua ta quyết tiến lên hàng đầu/ Hàng đầu rồi tiến đi đâu/ Đi đâu không biết hàng đầu cứ đi”... Vè sĩ cười chảy nước mắt!Bị oan nhưng Bút Tre tự hào rằng những lối thơ của mình đã được dân gian thừa nhận. Ông cảm hứng viết lời khai từ của tập Tia lửa làng quê:

    Trăm năm ở một làng vè
    Nghìn câu lục bát mấy đề vè hôm
    Khi khuya sáng, lúc hoàng hôn
    Bà con kể lại, xóm thôn vọng lời
    Bút Tre nối bước những ai
    Một dòng thơ, mở đường quai kể vè
    Năm năm dân dã lắng nghe


    Năm 1968, thêm một bước ngoặt trong đời ông: tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc hợp nhất thành tỉnh Vĩnh Phú, ông được cấp trên phân công làm phó Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Phú và giữ cương vị này đến năm 1973 thì nghỉ hưu. Theo lời kể lại của anh em văn nghệ sĩ Phú Thọ, Bút Tre vẫn không ngừng viết nhưng không gửi in ở đâu. Ông làm việc một cách lặng lẽ cho đến khi qua đời tại quê nhà vào năm 1987 ở tuổi 76.

    Một đời thanh bạch

    TT - “Cả đời công tác của cha tôi đến khi về hưu vẫn ở trong gian nhà lá, đi lại bằng chiếc xe đạp không có chắn bùn. Trước khi mất, gia tài mà cụ để lại cho con cháu là một chiếc xe đạp và một chiếc radio cũ” - ngồi bên mộ người cha Bút Tre - Đặng Văn Đăng, anh Đặng Thành Phiến - con trai thứ hai của Bút Tre, kể lại chuyện gia đình.

    Gia tài của ông trưởng ty

    Anh Phiến kể rằng trước khi về hưu, ông Đăng cho chở một thuyền sách về nhà. Hôm có người làng về nhắn bảo mẹ anh chuẩn bị một xe cải tiến ra bến đò để chở đồ đạc của “quan” Đăng hồi hương mang từ tỉnh về, bà cùng các con tất tả đi mượn một chiếc xe cải tiến kéo ra bờ sông chờ đợi. Thuyền cập bến, ông Đăng hối hả gọi vợ con lên khuân vác. “Toàn sách là sách với chiếc xe đạp sắm được từ ngày đi công tác, cùng chiếc đài bán dẫn mà cha tôi hay đeo bên hông để nghe thời sự” - anh Phiến kể. Bà Thảo, vợ Bút Tre, ngơ ngác: “Có còn gì nữa không?”. Ông Đăng cười: “Ối, thế là nhiều lắm rồi, còn một ít sách nữa nhưng tôi cho mấy cậu ở cơ quan, sợ mang về nhiều nhà mình chật không có chỗ để!”. Nhưng những sách đó trong làng không ai đọc được vì toàn là sách tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga. Anh Phiến cho hay cha anh thích đọc sách bằng nguyên bản tiếng nước ngoài vì ông muốn tự dịch. Gian nhà lá của nguyên trưởng ty văn hóa vẫn như tự thuở nào ông xa nhà đi công tác: mái lá, tường đất, cửa ra vào là một tấm liếp. “Từ hôm cha tôi về nghỉ hưu, trong nhà vui hẳn lên vì có tiếng radio” - anh Phiến kể.
    Gian nhà lá của Bút Tre hầu như ngày nào cũng đông khách đến chơi, đàm luận về thơ ca hò vè cũng như mọi chuyện bức xúc của nông thôn thời ấy. Mỗi lần nghe những chuyện như vậy, ông Đăng lại cặm cụi suy nghĩ viết những lá thư đầy tâm huyết gửi lên các cấp lãnh đạo để giúp bà con đỡ vất vả.Cựu Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Lê Huy Ngọ, nguyên bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú, đã gửi cho họa sĩ Ngô Quang Nam đôi dòng cảm nhớ về Bút Tre nhân dịp ông Nam hoàn thành cuốn Bút Tre và giai thoại. Ông Ngọ nhớ lại: “Ngày tôi làm bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phú, tôi thường được Bút Tre gửi cho những bài thơ và những tập nghiên cứu của ông. Lúc đó ông đã nghỉ hưu nhưng đầu óc vẫn luôn quan tâm đến hoạt động của cấp ủy. Đọc những điều ông trăn trở, tôi cứ suy nghĩ về một đồng chí cán bộ lãnh đạo ngành văn hóa nhưng rất tâm huyết, quan tâm đến đời sống người dân. Sống ở vùng trung du, Bút Tre quan tâm tới vấn đề đất đồi, đất rừng, vườn. Ông khuyến khích việc trồng cây công nghiệp ở quê hương, phê phán chính sách thu mua, phàn nàn về tình trạng đất trống đồi trọc, chê việc đưa máy cày lên đồi... Đều đặn tháng nào cũng nhận được ý kiến của ông và có lần chúng tôi đã trao đổi những suy nghĩ ông nêu ra, trong đó có vấn đề văn hóa Hùng Vương”.Anh Phiến cho hay cha anh lúc nào cũng lo việc thiên hạ nhưng rất vụng việc nhà. Bà Thảo cũng có lúc sốt ruột vì ông không biết làm việc nhà, “cho đến khi hưu rồi vẫn đi lo chuyện thiên hạ”. Những lúc bà vợ cáu giận là Bút Tre lỉnh mất, ông đi xuống các thôn làng nghe chuyện nông dân. “Lúc nào mẹ tôi nguôi giận thì cha tôi mới về!”- anh Phiến nói. Bút Tre chỉ biết làm bếp duy nhất một món là “xúp sắn” theo kiểu Tây, sắn được nghiền ra rồi quấy thành hồ, cho gia vị tương hành vào rồi nấu chín là xong.


    [B]Bút Tre đã lan ra cả nước rồi [B]

    Theo nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, khi còn sống vè sĩ Bút Tre đã tiên đoán:
    Bản chất dân gian ham nghệ thuật/ Tự nhiên xã hội hẳn trường tồn/ Có ngôn ngữ hẳn ca vè có/ Sàng lọc truyền ngôn với nước non. Năm 1987, Bút Tre rời bỏ cuộc đời về với tổ tiên. Họa sĩ Ngô Quang Nam kể lại lúc ấy chưa có thông tin nhanh như bây giờ nhưng tin Bút Tre mất lan truyền nhanh lắm, bạn bè văn nghệ sĩ khắp nơi vượt sông Thao đến Đồng Lương để đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng. Bà con nông dân khắp vùng lân cận cũng kéo đến thắp nhang cho Bút Tre.
    Anh Phiến kể trước lúc cha anh ra đi, ông có gọi anh đến bảo rằng: “Cha sinh ra được ba người con, anh con đã hi sinh vì đất nước, chị gái con theo chồng làm ruộng. Nhà ta cha thấy không ai theo được nghiệp cha. Tất cả pho sách mà cha để lại, con đem thuyền chở đi hiến tặng thư viện tỉnh. Còn những bài thơ vè của cha, cứ để lại sau này ai đến xin thì cho, con đừng giữ làm gì. Vì thơ vè như cha làm, dân gian ai thích cũng làm được”. Nói xong, ông rút dưới gối đưa cho anh Phiến tờ di chúc viết bằng thơ.
    Hơn mười năm sau, họa sĩ Ngô Quang Nam, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn cùng nhiều văn nghệ sĩ khác trên đất Phú Thọ đã đi sưu tầm những giai thoại về Bút Tre tập hợp in thành sách. Nhưng khi đưa đi xuất bản lại gặp vấn đề. Tại Phú Thọ, nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn bị “đánh lên, đánh xuống” vì ký giấy phép xuất bản tập sách sưu tập thơ Bút Tre và Bút Tre dân gian", có thời ông Nhàn còn bị trưởng Ban tuyên giáo Tỉnh ủy Phú Thọ gọi lên kiểm điểm vì “tội nói xấu phụ nữ”. Ông Nhàn hỏi lại: “Nói xấu chỗ nào?”. Bà trưởng ban nói: “Cái câu “Bắn tàu bay Mỹ rơi ngay cửa mình” chả là nói xấu chị em à?”. “Cái câu ấy là dân gian nói đấy thôi”. “Dân gian là ai? Anh phải trả lời rõ, nếu không sẽ bị cấm viết báo”.
    Ông Nhàn sang gặp bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú Trần Văn Đăng trình bày. Ông Đăng cười xòa, rồi điện thoại sang Ban tuyên giáo Tỉnh ủy thôi “truy xét” buồn cười ấy, ông bảo: “Bút Tre đã lan ra cả nước rồi, đấy là thơ cười VN cũng như truyện cười tiếu lâm VN, có gì mà phải truy xét ai viết với ai nói!”.
    Nhà thơ Kim Dũng, biên tập viên báo Văn Nghệ Đất Tổ, cho biết trên đất Phú Thọ hôm nay có nhiều người tự nhận mình là hậu duệ của Bút Tre như ông Đặng Trần Luật - nguyên chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Phú Thọ, ông Phạm Ngọc Chân - nguyên giám đốc Sở Giao thông - vận tải, còn sáng tác hẳn tập thơ Hậu Bút Tre.
    Ông Dũng cũng cho biết những sách viết về Bút Tre được bán chạy nhất ở Phú Thọ. Tập Thơ và giai thoại về Bút Tre của họa sĩ Ngô Quang Nam được Hội Văn học - nghệ thuật Phú Thọ tái bản đến lần sáu đã hết veo trong dịp lễ hội đền Hùng năm ngoái và đang chuẩn bị tái bản lần bảy. Đó là chưa kể đến hằng ngày, hằng giờ trên khắp đất nước và những vùng có nói tiếng Việt, thơ kiểu Bút Tre ứng khẩu vẫn đều đặn được “xuất bản miệng” đem lại tiếng cười vui vẻ và trong trẻo.
    Cả đời thanh bạch, cả đời theo đuổi sáng tác thơ ca hò vè để đưa vào dân gian một trường phái mới, tạm gọi nôm na là “thơ cười” VN sánh cùng với truyện cười dân gian VN, cho thấy công lao vè sĩ Bút Tre không phải là nhỏ.


    Tác giả: ĐỖ HỮU LỰC

    Một số thơ,vè trong dân gian ảnh hưởng lối thơ Bút Tre:

    Chăn nuôi mấy cậu gầy nhom
    Làm cho lợn nái sòn sòn đẻ sai

    Con rể làm tận Hòn Gai
    Đem biếu bố vợ một chai rượu chành (chanh)
    Bố mừng, bố cảm ơn anh
    Bố đem nhắm với tiết canh lợn xề
    Mới nhấp cứ thấy tê tê
    Chua chua, chát chát no nề chân răng
    Nhăn nhăn bố mới bảo rằng
    Sao không thêm ớt để ăn với bùn (bún)

    Hôm qua học tập chính tri (chính trị)
    Cán bộ ngồi ỳ, chẳng chịu phát biêu (phát biểu)
    Cơm ăn chẳng được bao nhiêu
    Đảng uỷ lại bắt phát biêu cả b… (cả buổi)

    Hoan hô đồng chí Trần Hoàn
    Lên làm Bộ trưởng chiếu toàn phim hay
    'Tiếng chim trong bụi mận gai'
    lại thêm' Bạch tuộc' tuần hai tối liền

    Hoan hô anh Rađuxu
    Đầu tóc bù xù mà đá rất hay!
    Hoan hô đồng chí Haghi
    Cách ba mươi mét mà ghi được bàn!
    Hoan hô anh Mêôla
    Anh vào hợp lý anh ra hợp tình!

    Anh đi công tác bản Muờng
    Tè xong một cái lên đường về quê

    Quê Hương thi sĩ Phú Thò
    Chè xanh , cọ biếc , mập to trái chuồi ( chuối)
    Lòng còn nhớ mãi cái buôi ( buổi)
    Đầu làm phân bắc, chăn nuồi đàn bo
    Cu Ba lông mượt giống to
    Cách màng văn hoá đất tô lại càng...

    Hôm qua em đến đồi Lê
    Nin ngồi đợi mãi, đành về lại ky
    Túc xá buồn, em xem Nhi
    Cu-lin diễn để vơi đi nỗi buồn

    Hôm nay giải phóng Sài Gòn
    Bà con phấn khởi chạy bon ra đường
    Có cô Ã ngủ trên giường
    Vội vàng tỉnh dậy, bị thương vào tày
    Ô tô cấp kíu đến ngay
    Ã đưa vào bệnh viện ba ngày thì khoi...

    Hôm nay mồng Tám tháng Ba
    Chị em phụ nữ đi ra đi vào
    Anh em nam giới mời chào
    Chị em phụ nữ đi vào đi ra
    Hiện đại như ở nước Nga
    Chị em phụ nữ hết ra thì vào
    Lạc hậu như ở nước Lào
    Chị em phụ nữ hết vào lại ra
    Xa xa ở tận Cu Ba
    Chị em phụ nữ vừa ra lại vào
    Gần gần như ở Hàng Đào
    Chị em phụ nữ vừa “vào” đã... “ra”.
    Việc gì phải tận nước Nga
    Việc gì “tám” chuyện Cuba với Lào
    Hãy đến bất cứ nhà nào
    Chị em không việc cũng vào cũng ra
    Thật là ngứa mắt chúng ta
    Nhưng thôi cứ để họ ra họ vào
    Không thì “cửa sắt” họ rào
    Anh em đố có dám “vào” dám “ra”.

    Có 2 anh chị đi chơi
    Bỗng đâu hòn đá nó rơi vào đầu
    Gọi bác sĩ thì còn lâu
    Sẵn đây tôi có hộp dầu con hô
    Lại thêm 1 ít thuốc bô
    Tôi hoà 2 thứ tôi đô vào mồm

    Tình hình là rất tình hình
    Cho nên ta phải đi trình cấp trên
    Cấp trên có tính hay quên
    Cho nên ta phải nắm thêm tình hình

    Bác Hồ người ở nước ta
    Đánh “”đùng”! một cái người ra nước ngoài
    Bác Hồ người ở nước ngoài
    Đánh “đoàng”! một cái người nhoài về ta(nói về tài biến hóa của cụ Hồ)

    Trên cành con khỉ đánh đu
    Ở dưới thằng Mỹ mút c… cụ Hồ

    Hoan hô cụ giáo Hoang Xuân
    Nhị ta qua suối tụt quần cưỡi trâu.

    Nhớ nhung về thị xã Phan
    Thiết tha mơ tưởng cô hàng nước măm (mắm)
    “Trông xa cứ tưởng cô nàng.
    Đến khi giáp mặt lại càng cô ta”

    “Ruồi là một giống hiểm nguy,
    Bốn chân của nó rất vi trùng nhiều”

    Thơ tay anh viết thật bay
    Bướm em trông đợi cả ngày cả đêm.

    Con mèo đánh đổ cái bô
    Sau đây liên khúc đít-cô (disco) bắt đầu.
    Last edited by trungnguyen0123; 18-05-2009 at 12:30 AM.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •