Phẩm Chất không thể thiếu một người làm phép lạ (thần thông) cần phải đạt được
Những phẩm chất này vạch ra những yêu cầu không thể bác bỏ được sau đây được trích từ những lời dạy của Đức Phật ở nhiều nơi khác nhau, trong đó việc áp dụng khả năng ý muốn hướng về định hướng có liên quan. Chính vì thế mà ngài cho biết (như trích trong kinh phật Sāmaññaphala như sau).
“Một vị tỳ khưu với tuệ tâm ổn định, được thanh tịnh đầy đủ, toả sáng, trừ tuyệt khỏi mọi tham dục đang rình rập, không can dự vào những phiền não, do đó đã trở nên dễ dạy, và linh hoạt, cơ đông, tiện dụng, tồn tại một cách vững vàng hướng tới thực hiện những phép lạ (thần thông), thế rôì ngài có thể đạt được những thành công liên quan đến việc bầy tỏ phép thần thông như tạo ra nhiều người từ một người...”
Ta cũng cần lưu ý ở đây là, ngay cả khi ta có thể thực hiện được nhớ lại tiền kiếp, có khả năng thiên nhãn, khả năng tạo Ý Sinh Thân, và biến đổi thân, thì các đoạn trên cũng được sử dụng. Điều này có nghĩa là đầu tiên phải đáp ứng được những đòi hỏi không thể thiếu đó là đạt đến Thiền Bậc bốn, được bổ sung với năng khiếu thuần thục hay và Vasi. Với một nền tảng thiền định như vậy, thì hướng tâm về thực hiện bất kỳ phép lạ (thần thông) nào đều hy vọng có thể đạt được với nhiều kết quả khả quan. Các đoạn Pali trích chính những lời Đức Phật dạy được nói đến ở trên, dành cho những ai muốn đào sâu một cách cặn kẽ hơn như sau:
“So evaṃ samahitacitte parisuddhe pariyodāte anañgane vigatūpakilese mudubhūte kammaniyethite aneñjappatte iddhividhāya cittaṃ abhinīharati abhininnāmeti. So anekavihitaṃ paccanubhoti; ekopi hutvā hoti v.v…
Các đoạn Pali li trên được trích từ Kinh Pali 9/13; cũng trích trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) 2/204, trong đó ta thấy có lời giải thích như sau:
‘So’ có nghĩa là “Vị tỳ khưu đó” ám chỉ vị tỳ khưu đã đạt đến thiền Jhana bậc bốn (Soti so adhigatacatutthajjhāno yogī)
Samahite citte: Tâm được nhập thiền Jhana bậc bốn nghiêm túc (Samāhite citte iminā catutthajjhāna samādhinā samāhite). Từ ‘citta’ có nghĩa là tâm trong cõi thanh tịnh thuộc thiền Jhana cùng với Sắc (Citteti rūpāvacaracitte)
Parisuddhe có nghĩa là niệm được thanh tịnh thông qua xả (Upekkhā)(Parisudddhetupekkhāsatiparisuddhibhave na parisuddhe)
“Pariyodāte” có nghĩa là toả sáng hay sáng chói thông qua tính tinh khiết của tâm (Parisuddhatāyea pariodāte pabhassati vuttaṃ hoti)
“Anañgane”, nghĩa đen là không bị tham dục giống như một mô đất’; điều này ám chỉ đến điều kiện không bị vướng mắc phải những đam mê như tham dục (raga). Điều này là vì những ảnh hưởng dẫn đến tham dục như Sukha (có thể do hạnh phúc là một mức độ hạnh phúc đem lại.) đã được chế ngự (trong các bậc thiền Jhana bước một, hai và ba.) (Sukhādīnam paccayānaṃ ghātena vihatarāgādiañgaṇattā anañgane)
Liên quan đến điểm này cũng đã được giải thích xa hơn trong tập chú giải Paramatthamañjusā cho là lạc về thân (sukha) lạc dẫn đến hỷ (somanassa) mà hỷ dẫn đến tham (Rāga). Rồi khổ thân (dukkha) dẫn đến ưu (domanassa) mà ưu dẫn đến sân hận (dosa).
Từ những phần giải thích thêm như trên, ta có thể đi đến kết luận rằng: từ “những ảnh hưởng xúi bẩy hay những đam mê không chỉ ám chỉ tới loại tham dục (raga) có nghĩa là những đam mê tham dục mà thôi, nhưng còn dẫn đến loại đau khổ nữa có nghĩa là những loại đau khổ do sân hận mà ra.
Vigatūpakilese: không có những phiền não. Đây là một thực tế mà kết quả tất yếu là thiếu vắng những ảnh hưởng súi bảy như đã được đề cập đến ở trên. Thường thì tâm bị nhơ bẩn do sự xuất hiện những ảnh hưởng sui bảy (Anañganattayeva vigatūpa-kilese…añgañena hi cittaṃ upakilissati)
Mudhbhute: có nghĩa là dễ sai khiến hay tuân thủ theo như ý muốn. Điều này có được là nhờ tình trạng tâm được huấn luyện tốt. Chính vì thế tâm không tỏ ra bướng bỉnh nhưng rất dễ dạy (subhavitattā mudubhūte vasīhāvappateti vuttaṃ hoti… vase vattamanaṃ hi cittaṃ mudutanti vuccati)
Kammanīye: nghĩa đen là “Thích hợp để làm việc’ hàm chứa điều kiện trở nên cơ động, linh động, tiện dụng có nghĩa là tuân thủ theo ý muốn và quyết tâm của đương sự. Đây là kết quả chúng sanh đó đã trở nên ngoan ngoãn, dễ dạy. Điều này được so sánh với “vàng được thổi tốt từ phía dưới (có nghĩa là được chất trong lò luyện và được thổi bằng những ống bễ để tăng thêm độ nóng và tách được các cứt sắt ra khỏi vàng ròng). (Muduttāyeva kammaīiye kammakkhame kammayoggeti vuttaṃ hoti. Muduṃ hi cittaṃ kammanīyaṃ, hoti subhantamiva suvaññaṃ). Chính vì vậy Đức Phật đã phán, “ Đây là điều ta đã nghiên cứu, nhưng không bao giờ ta thấy bất cứ điều gì đang phát triển và được tăng cường. Được linh động và dạy như tâm này.” Nānaṃ Bhikkhave aññaṃ ekadhammampi samanupassāmi yaṃ evaṃ bhāvitaṃ bahulīkataṃ muduñca hoti kammaūiyañca yathayidaṃ bhikkhavae cittanti. – trích trong Ekanipāta thuộc Tăng chi Bộ Kinh (Añguttaranikaya 20/21.)
Ṭhiṭhe, nghĩa đen là tồn tại. Ám chỉ tâm tồn tại hay cư ngụ một cách an toàn trong điều kiện như vậy như tâm hồn được thanh tịnh và sáng chói (Etesu parisuddhabhavadisuthitatta ṭhiṭe) nói cách khác, điều này ám chỉ một thực tế là tâm được thiết lập trong chính khả năng của nó. Vì hiện nay đã trở nên dễ dạy và linh động (Mudukammaññabhāvena vā attano vase ṭhitattā ṭhite)
Āneñjappatte: đã đạt đến được điều kiện không lay chuyển. Điều này tiếp theo là một kết quả thuộc những đặc tính đã kể ra ở trên (ṭhitattāyeva āneñjappatte acale niriñjaneti vuttaṃ hoti) nói cách khác, có thể được giải thích như sau:
a. Tâm ổn định trong niềm tin sẽ không bị xáo trộn bằng cách làm cho lung lay vì thiếu niềm tin.
b. Một khi tâm ổn định trong nỗ lực không bị xáo trộn do tình trạng bơ phờ vì lười biếng mà ra (Viriyapariggahitaṃ kasajjjena na iñjati)
c. Một khi tâm ổn định trong niệm (mindfulness) sẽ không bị xáo trộn do bởi quá cả tin (Satipariggahitaṃ pamādena na iñjati)
d. Một khi tâm ổn định trong hành thiền sẽ không còn bị xáo trộn do phải phân tâm (samādhipariggahitaṃ uddhaccena na iñjati)
e. Một khi tâm ổn định trong tuệ không bị xáo trộn do vô minh ngu dốt (Paññapariggahitaṃ avijjāya na iñjati)
f. Một tâm toả sáng sẽ không bị xáo trộn do bóng tối những vẩn đục đem lại (Obhāsagataṃ kilesandhākārena na iñjati)
Chính vì tâm được ổn định với sáu đặc tính nêu trên mà đã đạt được điều kiện không thể lay chuyển nổi (Imehi chahi dhammehi pariggahitaṃ āneñjappattaṃ hoti)
Tóm Lại. tâm đạt được tám phẩm chất được đề cập đến ở trên là tâm được hướng tới thực hiện, thông qua trí. Trí Phật Pháp có thể thực hiện được qua trí thần thông, nghĩa là Phép Thần thông vậy (Abhiññā) evaṃ atthañga-samannāgataṃ cittaṃ abhinīhārakkhamaṃ hoti abhiññāsacchikarrānīyānaṃ dhammānaṃ abhiññāsaccha-kirriyāya. -- Trích trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) 2/ 205).
Tám phẩm chất đề cập đến ở trên là:
1. Samāhite: được thiết lập nhập thiền Jhana bậc bốn;
2. Parisuddhe: được thanh tịnh;
3. Pariyodate: được toả sáng;
4. Añangaṇe: không bị vướng mắc do những ảnh hưởng xúi bảy;
5. Vigatūpakilese: đoạn diệt những phiền não;
6. Mudubhūte: tuân thục và dễ dạy;
7. Kammanīye: Linh hoạt, cơ đồng và tiện dụng
8. Ṭhite āneñjappatte: tồn tại mà không bị rung động hay không bối rối – thông qua cách đạt đến được bảy phẩm chất đã bàn đến ở trên.
Trong khi tám phẩm chất kể trên là những phẩm chất cần thiết cho những ai có thể thực hiện được các phép thần thông, chúng chỉ là kết quả phải được đạt đến vào giai đoạn chót. Hệ thống để luyện tập tâm hầu đạt đến thành tích đó được giải thích trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) 2/200 như sau:
“Một hành gi? Yogi mới tập sự hay một thiền sinh muốn bắt tay vào nhiệm vụ to lớn này trước tiên phải đạt đến tám thiền chứng (samāpatti), thuộc tám loại căn bản (Kasiṇa). Rồi ngài cũng còn phải yêu cầu theo đuổi một qui trình gồm mười bốn bước cho đến khi được thuần thục hoàn toàn trong qui trình mười bốn điểm này. mười bốn bước đó gồm:”
1. Kasinānulomato: trú nhập thiền Jhana với mười điều cơ bản (Kasiṇa)thuận từng điều một.
2. Kasināpaṭilomato: trú nhập thiền Jhana thuộc mười điều cơ bản (Kasiṇa) trong qui trình ngược lại.
3. Kasinānulomatopaṇilomato:Trú nhập thiền Jhana thuộc mười điều cơ bản (Kasiṇa) đó trong cả qui trình thuận lẫn ngược lại
4. Jhānānulomato: Trú nhập các mức thiền Jhana thuận từng loại một.
5. Jhānapaṭilomato: Trú nhập nghịch các mức thiền Jhana
6. Jhānānulomapaṭilomato: Trú nhập thiền Jhana thuộc nhiều loại khác nhau trong cả qui trình thuận lẫn qui trình ngược lại.
7. Jhānukkantakato: rút vào một số mức thiền Jhana đa dạng thuộc một điều cơ bản (Kasina) bằng cách bỏ qua phương pháp, bỏ qua mỗi thiền khác trong qui trình đó.
8. Kasiṇukkantakato: Trú nhập một số bậc thiền Jhana bằng cách bỏ qua phương pháp, lần này thì bỏ luôn tất cả mọi điều cơ bản(Kasiṇa) trong qui trình này.
9. Jhānakasiṇukkantakato: Trú nhập thiền bằng cách bỏ qua một số phương pháp, bỏ qua cả các bậc thiền Jhana và các lọai Kasiṇa.
10. Añgasañkantito: bỏ qua (có nghĩa là rút lại) những chi thiền Jhana.
11. Ārammaṇasañkanito: Bỏ qua đề mục của một số loại thiền Jhana.
12. Añagārammaṇasañkantito: Bỏ qua cả những chi thiền Jhana lẫn các đề mục của chúng.
13. Añgavavaṭṭhāpanato: Xác định các chi thiền Jhana.
14. Ārammaṇavavaṭṭhāpanato: Xác định các đề mục Jhana/.
Tám Thiền Chứng (samāpatti) và Tám Đề Mục (Kasiṇa)
Tám thiền chứng (samāpatti) gồm bốn Thiền chỉ Jhana sắc giới (Rūpajhāna) và bốn Thiền chỉ Jhāna vô sắc giới (Arūpajhāna). Tám điều cơ bản (Kasiṇa) hay là các thiền chỉ cần chiêm ngưỡng chăm chú đó là: Paṭhavīkasiṇā: nhìn chăm chú vào đất. Āpokasiṇa: Nhìn chăm chú vào nước. Tejakassiṇa, Nhìn chăm chú vào lửa. Vāyokasiṇa Nhìn chăm vào gió. Nīlakasiṇa: Nhìn chăm chú vào màu xanh. Pītakasiṇa: nhìn chăm chú vào màu vàng; Lohitakasiṇa: nhìn chăm chú vào màu đỏ; Odātakasiṇa: Nhìn chăm chú vào màu trắng.
Theo Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) một thiền sinh có khả năng tạo ra các phép thần thông được yêu cầu phải đạt đến tám thiền chứng (samāpatti). Bao gồm cả Kasiṇa. Tuy nhiên có hai loại Kasiṇa khác bị bỏ qua đó là Alokakasina: nhìn chăm vào ánh sáng và Ākasakasiṇa: nhìn chăm vào không khí. Việc loại bỏ này được giải thích trong Paramatthamañjusā cho là Ākasakasiṇahay là nhìn chăm vo hư khơng dẫn đến thiền chứng (samāpatti) Vô Sắc (Arūpasamāpatti) trong khi đó Ālokakasiṇa: nhìn chăm vào ánh sáng lại được coi như là nhìn vào Odātakasiṇa:tức là nhìn vào màu trắng vậy.
Giải thích mười bốn bước
1. Trú nhập thiền Jhana thuộc mười Kasiṇa tương ứng. Điều này nghĩa là: Người thiền sinh (Aspirant) phải trú nhập thiền Jhana bằng cách nhìn chăm vào đất, rồi xuất khỏi thiền đó. Sau khi đã xuất khỏi thiền lại trú nhập thiền Jhana một lần nữa bằng cách nhìn chăm vào nước, trước khi xuất ra để rồi lại rút vào nhập thiền Jhana thông qua nhìn chăm vào lửa. Qui trình này được tiến hành cho đến khi hết cả mười Kasiṇa được bao trùm hết. Qui trình này có thể được nhắc lại cả trăm lần thậm chí cả ngàn lần trước khi có thể đạt được thuần thục đáng tin cậy. Và bằng cách rút nhập thiền Jhana có nghĩa là toàn bộ các Jhana tuần tự bậc một đến bậc bốn đều được thông qua một cách tuần tự.
Những giải thích thêm cũng được đưa ra để mang lại hậu quả rằng, đang khi trú nhập thiền Jhana, thiền chỉ, thí dụ như, trái đất sẽ xuất hiện sinh động trước con mắt tâm, được mở ra cho Āpokasiṇa, tức nhìn chăm vào nước, nước tức khắc lại xuất hiện một cách sinh động. Nói tóm lại, trong bất kỳ thiền chỉ nào thì tâm cũng được dừng lại, đối tượng của thiền chỉ đó lập tức xuất hiện trong tâm nhãn. Trong những giây phút như vậy, tâm đã được dừng lại trong mức thiền Jhana đó. Có thể là ở bất kỳ bậc thiền nào trong bốn bậc thiền đó, điều này tùy thuộc vào ý chí của thiền sinh.
Cũng nên hiểu một điều là theo Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) thiền sinh với cùng một mục tiêu như vậy cũng phải đạt đến thành tích bốn bậc thiền Jhana cao hơn. Bậc thiền Jhana vô sắc gíới chẳng hạn, bậc đầu tiên đặt cơ sở trên hư không (Ākāsānañcāyatanā) bậc hai dựa trên thức (Viññā-ṇañcayatana) bậc ba dựa trên vô sở hữu (ākiñ-cảngññāyatana) và bậc bốn dựa trên phi tưởng phi phi tưởng xứ (Nevasanna- Nasannayatana). Chính vì thế, trước khi trú nhập thiền Jhana vô sắc giới, Yogi (thiền sinh) phải rút vào các thiền Kasiṇa và thực hiện quyết tâm để có thể làm cho Thiền chỉ tan biến đi hay là có thể đặt trọng tâm chú ý vào thiền chỉ đó và cả tâm nữa cũng nằm trong đó thay vì lông bông bên ngoài không gian. Trước tiên, thiền sinh phải niệm “Ananto Akaso”: hư không bao la và vô tận, cho đến khi nhập vào được thiền Jhana vô sắc giới của thiền chỉ đó có nghĩa là Ākāsānañcāyatana. Sau khi đã chắc chắn đạt đến năm phép thuần thục, khi chú ý đã quay trở về với không gian thì không gian sẽ cùng lúc xuất hiện trong tâm thay vào chỗ thiền chỉ Kasiṇa hay bất kỳ hình ảnh nào khác,o chính sự thay thế này có nghĩa là từ “to drop the Kasiṇa ” cũng phải được thực hiện với toàn bộ các loại Kasiṇa khác. Như vậy bốn bước thiền Jhana sắc giới hay vô sắc giới có thể đạt đến được bằng cách nhìn chăm chú vào tám thiền chỉ Kasiṇa.
2. Trú nhập thiền Jhana mười Kasiṇa ngược lại từ dưới lên trên. Điều này ám chỉ khả năng hay thuần thục của thiền sinh có thể trú nhập thiền Jhana dựa trên mười Kasiṇa bằng cách theo một quy trình ngược lại từ dưới lên trên. Bắt đầu với loại cuối cùng của tám loại Kasiṇa kể đến ở trên từ Odāta: nhìn chăm vào màu trắng, rồi Lohita: màu đỏ, và rồi tiếp tục cho đến khi đạt đến Kasiṇa đầu tiên có nghĩa là Paṭhavī, tức là đất.
3. Trú nhập thiền Jhana trong mười Kasiṇa cả theo cách bình thường và theo cách ngược lại từ dưới lên trên. Điều này chính là kết hợp cả hai phương pháp từ một đến mười và rồi quay trở lại từ mười đến một. Có thể nhắc lại điều này như trước đó, một trăm lần hay ngay cả một ngàn lần để có thể đạt được năm thuần thục từ đó mà ra.
4. Trú các bậc thiền liên tiếp một cách tuần tự. Theo phương pháp này thiền sinh rút vào nhập thiền Jhana bậc thứ nhất và rồi xuất khỏi bậc đó và lại nhập vào giai đoạn hai. Rồi lại xuất ra để nhập vào giai đoạn thiền Jhana thứ ba. Qui trình này tiếp tục cho đến khi đạt đến bậc cuối cùng có nghĩa là phi tưởng, phi phi tưởng xứ (Nevasanna-Nasan-nayatana): tình trạng phi tưởng cũng như phi phi tưởng xứ.
5. Trú nhập vào các bậc thiền Jhana ngược lại từ dưới lên trên. Như trên ám chỉ, thiền sinh trú nhập thiền Jhana bậc cuối cùng có nghĩa là bậc phi tưởng phi phi tưởng xứ đầu tiên. Rồi thầy lại xuất ra để nhập vào các bậc trước các giai đoạn đó. Qui trình này tiếp tục ngược lại cho đến khi đạt đến được thiền Jhana bậc đầu tiên.
6. Rút nhập vào các bậc thiền Jhana cả các bậc bình thường và các bậc ngược lại từ dưới lên trên. Giống như bậc thứ ba ở trên, đây là qui trình thứ bốn và thứ năm kết hợp với nhau. Điều này có thể được nhắc lại, như bình thường một trăm lần hay cả một ngàn lần để có thể từ đó đạt đến năm điều thuần thục.
7. Trú nhập thiền Jhana bằng cách bỏ qua hay dùng phương pháp xen kẻ. Loại bỏ tất cả mọi thiền chỉ khác. Bằng phương pháp này thiền sinh trú thiền Jhana bậc một thông qua nhìn chăm vào đất. Rồi xuất ra khỏi và lại rút nhập vào bậc thiền Jhana thứ ba dựa trên cùng một loại thiền chỉ. Ngài thực hiện bậc này cho đến khi có thể “bỏ qua” Kasiṇa đất và nhập thiền Jhana Vô Sắc Giới bậc một trước khi nhập lại vào thiền Jhana vô sắc giới bậc ba. Điều này có nghĩa là chỉ có bậc thiền Jhana bị lướt qua hay bỏ qua. Nhưng đề mục Kasiṇa vẫn không thay đổi.
8. Trú thiền Jhana bằng cách bỏ qua hay xen kẽ, bỏ qua cả các bậc thiền Jhana và các loại thiền chỉ Kasiṇa. Qua phương pháp này ta có thể bắt đầu với bất kỳ loại đề mục Kasiṇa nào cũng được không nhất thiết phải bắt đầu với Kasiṇa đất. Chỉ bỏ qua phương pháp được duy trì ở đây mà thôi. Việc trú nhập thiền Jhana được thực hiện tuần tự, mà không vượt qua hay bỏ đi bất kỳ điều gì.
9. Để Trú bằng phương pháp bỏ qua, bỏ cả các bậc thiền Jhana và các loại đề mục Kasiṇa. Đối với những ai đã có thuần thục đáng tin cậy và có nhiều kinh nghiệm có thể khởi động với bất kỳ mức thiền Jhana nào tuỳ ý; cũng vậy có thể dùng bất kỳ đề mục Kasiṇa nào. Nhiều chi tiết được giải thích thêm trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) sau đây:
Thiền sinh trú nhập thiền Jhana bậc nhất dựa trên đề mục Kasiṇa đất. Rồi ngài tiếp tục nhập vào bậc thiền Jhana thứ ba (bỏ qua bậc thứ nhì) trong đề mục Kasiṇa Lửa (bỏ qua Kasina nước) bỏ qua tức là lướt qua đề mục Kasiṇa Nīla. Ngài nhập vào thiền Jhana Vô sắc giới rồi tiến xa hơn nữa đến bậc thiền Jhana vô sắc giới, Akiñcaññā - vô sở hữu dựa trên màu đỏ, có nghĩa là đề mục Kasiṇa Lohita. Phương pháp này được gọi là lướt qua hay bỏ qua cả thiền, lẫn thiền chỉ Kasina (Jhana kasi ṇukkantakaṃ).
Qui trình này chính vì thế được sắp xếp được với lợi khẩu cả về bậc thiền Jhana lẫn các đề mục Kasiṇa . Ở đây thuần thục là điều thiết yếu để thể hiện được các phép thần thông, có nghĩa là việc thực hiện các phép lạ (thần thông). Điều này ám chỉ việc trú và thoát ra khỏi bất kỳ bậc thiền Jhana nào hay bất kỳ đề mục Kasiṇa nào ngay lập tức theo ý muốn.
10. Để lướt qua những thành tố thiền Jhana. Như đã mô tả ở trên, có năm chi hay nhân tố làm thành thiền Jhana bậc một đó là. Tầm(Vitakka), tứ (Vicāra) hỷ (Pīti) lạc(Sukha) và nhất tâm (Ekaggatā). Thiền Jhana bậc hai gồm có ba chi đó là: hỷ , lạc và nhất tâm. Trong khi đó thiền Jhana bậc ba chỉ gồm có hai chi đó là lạc và nhất tâm và thiền bậc bốn cũng chỉ có hai chi nhưng lại khác một chút đó là xả (Upekkha) và nhất tâm.
Nhờ phương pháp này thiền sinh trú nhập thiền dựa trên đề mục đất. (earth Kasiṇa) rồi tiến dần lần lượt vào thiền Jhana bậc hai, bậc ba và bậc bốn. Không cần phải thay đổi đề mục (Kasiṇa) từ Pali chỉ tình trạng này gọi là Añgasañkantikaṃ. Ta cũng cần lưu ý là phương pháp này chỉ có thể được áp dụng trong loại thiền Jhana Sắc Giới (Rūpa Jhāna) mà thôi. Chứ không thể được áp dụng cho loại thiền Jhana vô sắc giới (Arūpa Jhāna). Đó chính là toàn bộ các loại Thiền vô Sắc Giới chỉ có khác nhau về đề mục mà thôi. Nhưng lại giống nhau ở chi thiền, có nghĩa là xả (Upekkhā) và nhất tâm (Ekaggatā)
11. Để lướt qua các đề mục thiền Jhana đa dạng. ‘Đề mục thuộc nhiều loại thiền khác nhau’ ở đây được hiểu là có tám loại đề mục (Kasiṇa) như đã nói ở trên, cùng với bốn đề mục thuộc Thiền Jhana Vô Sắc Giới như, Hư không, thức, vô sở hữu và phi phi tưởng. (Etam Santam) bằng phương pháp này thiền sinh phải trú mỗi loại thiền dựa trên cùng một đề mục (Kasiṇa) thí dụ như ngài rút vào nhập thiền Jhana bậc một dựa trên đề mục (Kasiṇa) đất, rồi cùng một bậc thiền Jhana dựa trên thiền chỉ (Kasiṇa) nước rồi cùng một bậc thiền Jhana dựa trên đề mục (Kasiṇa) gió v.v… cho đến khi ngài tới được đề mục (Kasiṇa) Odāta, là đề mục cuối cùng, từ Pali cho giai đoạn này gọi là Ārammaṇasaṇkantikaṃ
12. Để lướt qua cả các chi thiền Jhana và các đề mục. Đây chính là hai phương pháp đã đề cập đến ở trên (mục số 10 và 11) gộp chung lại. Thí dụ thiền sinh trú nhập thiền Jhana dựa trên đề mục (Kasiṇa) đất, rồi bậc thiền Jhana thứ nhì dựa trên đề mục (Kasiṇa) nước, rồi bậc thiền thứ ba dựa trên đề mục Kasiṇa lửa, rồi đến bậc thiền Jhana bậc bốn dựa trên thiền chỉ (Kasiṇa) gió. Bỏ qua đề mục (Kasiṇa) màu xanh, ngài rút vào nhập thiền Vô sắc giới với thiền chỉ không gian rồi nhập thiền Vô Sắc Giới với thiền chỉ tâm thức từ đề mục Kasiṇa màu vàng, thiền Vô Sắc Giới với đề mục vô sở hữu xứ từ đề mục Kasiṇa màu vàng và rồi thiền chỉ vô tưởng hoặc phi phi tưởng từ thiền chỉ Kasiṇa màu trắng. Từ Pali cho loại thiền này là Añgārammaṇassañkantikaṃ.
13. & 14. Để xác định những chi thiền và các đề mục. Nhờ phương pháp này thiền sinh phải nắm được các chi thiền là gì và có bao nhiêu chi trong mỗi bậc thiền Jhana. Thiền sinh có thể xác định được rõ ràng những chi này từ ngay tuệ giác của mình. Các chi thiền Jhana và các đề mục tức là có tám thiền chỉ Kasiṇa và bốn đề mục thuộc thiền Jhana Vô Sắc Giới như đã được mô tả trước đó. Từ Pali để xác định các chi Thiền Jhana là Añgavaṭṭhapanaṃ. Còn từ dùng để xác định các đề mục lại là Ānrammaṇavavaṭṭhāpana.
Khó Khăn Gay Gắt Để Phát Triển Thiền, Để Thực Hiện Các Thần Thông (Phép lạ)
Nếu chỉ nhằm tu luyện thiền Định hay hành thiền với mục tiêu đạt đến hiện trạng tâm thiền Jhana, với rất ít thiền sinh có thể làm được, thì hẳn để tu luyện thiền Jhana để thực hiện được các Thần Túc Thông hay là cái gọi là phép lạ (thần thông) là điều xem ra còn khó khăn hơn rất nhiều. Tuy nhiên cũng có những ngoại lệ vô cùng đáng khích lệ. Điều này ám chỉ những ai đã đạt đến được một phần hiện trạng thiền Jhana nơi một trong các kiếp trước của họ. Họ không cần phải trải qua một kỷ luật gay gắt như đòi hỏi các thầy Sa-di phải thực hiện trên đời này. Họ cũng không cần phải tiến hành mười bốn bước như đã được đề cập đến ở trên. Trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) có các đoạn sau đây đã đề cập đến vấn đề này:
Một thiền sinh thực sự là thầy Sa-di chưa có đắc được bất kỳ kinh nghiệm nào về bất kỳ loại tiền kiếp nào, sẽ không thể thực hiện được bất kỳ Thần Túc Thông (Iddhividhi) nào hay phép lạ (thần thông) nào mà không phải tiến hành qua bảy bước như đã được nhắc đến ở trên. Điều này là vì:
1. Trong số cả trăm hay cả ngàn thiền sinh tu luyện các đề mục Kasiṇa hay cố gắng thể hiện các đối tượng Kasina với chính con mắt tâm của họ một cách sống động để có thể nhìn thấy được bản sao chép thân xác của mình, chỉ có khoảng một vài người có thể thực hiện được điều này mà thôi.
2. Trong số cả trăm hay cả ngàn thiền sinh đã đạt đến Uggahanimitta trí tưởng như đã nói đến ở trên. Chỉ có một vài người có thể đạt đến được bước thứ hai gọi là Paṭibhāganimitta quang tướng. Khả năng kiểm tra kích thước của Hình Tượng (Nimitta) hay và cảnh tượng (vision) theo ý muốn.
3. Trong số cả trăm hay cả ngàn thiền sinh đã đạt đến Paṭibhāganimitta , chỉ có khoảng một vài người có thể phát triển được khả năng nhập thiền tiếp xa hơn cho đến khi họ có thể đạt đến các hiện trạng thiền Jhana.
4. Trong số cả trăm hay cả ngàn thiền sinh đã đạt đến những hiện trạng thiền Jhana chỉ có khoảng một vài người có khả năng tuy luyện được tâm để có thể đi qua trót lọt được mười bốn bước kể trên.
5. Trong số cả trăm hay cả ngàn thiền sinh đã đi qua trót lọt mười bốn bước đó. Chỉ có khoảng duy nhất một người có thể thực hiện được phép lạ (thần thông) mà thôi.
6. Và trong số cả trăm hay cả ngàn thiền sinh đã có thể thực hiện được phép lạ (thần thông) thì chỉ có một vài người có khả năng trú nhập bất kỳ hiện trạng thiền Jhana nào một cách dễ dàng và theo y như ý muốn của mình.
Chúng ta phải lưu ý một điều là mục tiêu thực sự lời nói của trưởng lão, tác giả đưa ra những con số trên chỉ là để chứng tỏ thật khó khăn biết bao để một thiền sinh có thể chuyên tu luyện thiền cho đến khi có thể thực hiện được các Thần Túc Thông (Psychic powers) cùng với năm pháp thuần thục có nghĩa là ở bất kỳ nơi nào và bất kỳ thời điểm nào, một cách dễ dàng và tuỳ theo ý muốn. Không nên hiểu một cách cứng nhắc theo thứ tự được đề cập đến ở trên. Bằng không ngay cả toàn bộ dân số của thế giới ngày nay vượt xa hơn nhiều với dân số thời Đức Phật mà cũng chẳng có bất kỳ ai có thể thực hiện được những điều đó.
Nhưng cũng có một số người có thể thực hiện được phép lạ (thần thông) mà không cần phải trải qua bất kỳ tu luyện gay gắt nào
Tuy nhiên, cũng phải nói một điều như sau:
Đối với những ai đã có được “Pubbayoga.” có nghĩa là đã tích lũy được nhiều việc công đức. Lại thường cố gắng hết sức trong các cuộc sống ở các kiếp trước của mình, như Đức Phật là Đấng Toàn Giác. Phật độc giác và một số vị thánh thính văn đã đạt đến mức thiền như trên và đạt được sức mạnh cơ bản để thực hiện các phép là và Vô Ngại Giải Đạo (paṭisambhidā), tức là pháp thuần thục có thể xuất hiện nơi họ một cách tự nhiên ngay cả khi họ không phải trải qua bất kỳ một bước nào trong mười bốn bước (trong cuộc sống hiện tại này)
Đoạn văn tiếng Pali viết về điểm này như sau:
Balavapubbayogānaṃ pana buddhapaccekabuddha-aggasāvakadīnaṃ vinapi iminā vuttāppakārena bhāvanānukkamena arahattapaṭilābhavaseneva idañca iddhivikubbanaṃ aññe ca paṭisambhidādibhedā guṇa ijjhantī.
(Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) 2/204)
Chính vì thế, điều này được làm rõ tại sao một số vị A-la-hán, cho dù không tu luyện bất kỳ cuộc hành thiền nào trước đó, lại có thể chỉ ngay sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp và đạt đến bậc A-la-hán, có một số trường hợp đã đạt đến tới sáu phép thần thông (Abhiññā) và một số trường hợp khác lại thực hiện được Tứ Vô ngại giải đạo (paṭisambhidā) như trường hợp Trưởng Lão Sārīputta Moggallāna, Kappina và vị thừa tướng Santati.
Mười Phép Thần Thông (inddividhi)
Để soi sáng hiểu biết về thần thông (iddhi) hay là các phép màu. Chúng ta nên tham khảo các đoạn văn sau đây trong Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) (Khu. Pa. 31689) như sau:
1. Phép quyết định Thần Thông (Addhiṭṭhāna Iddhi): Những khả năng đạt được thông qua quyết tâm (Adhiṭṭhāna) như: từ một người biến thành nhiều người.
2. Phép thần thông Vikubanā (iddhi)): những khả năng biến đổi thân.
3. Phép Ý Sinh Thân hay hóa tâm thông (Manomayā iddhi): khả năng thông qua tâm có nghĩa là tạo ra hay phát ra một thân xác cõi trời xuất phát từ bản sao chép sắc thân.
4. Ñāṇavipphārā Iddhi: nghĩa đen, khả năng thông qua khuyếch tán ánh sáng hay tỏa khắp về phía tuệ quán (Ñāṇa) mà đạt được.
5. Samādhivipphārā Iddhi: nghĩa đen, sức mạnh đạt được thông qua khuyếch tán hay toả khắp về phía thiền.
6. Ariyā Iddhi: sức mạnh đặc biệt của các vị thánh nhân.
7. Kammavipākajā Iddhi: sức mạnh do kết quả các hành vi nghiệp chướng đem lại.
8. Puññavato Iddhi: khả năng của những ai tích tụ được nhiều việc công đức.
9. Vijāmayā Iddhi: sức mạnh do tụng kinh hay cầu các câu thần chú (mantras)
10. Tattha tattha sammāpayogapaccayā Vijjhamaṭṭhena iddhi: sức mạnh thông qua thành công trong việc thực hiện hiệu quả hay bổn phận của chúng ta.
Những giải thích được tìm thấy trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) (2/270) như sau:
1. Phép Thần Thông quyết định (Addhiṭṭhāna Iddhi): Khả năng quyết tâm. Ví dụ như biến một người thành nhiều người. Người này và thành nhiều người khác cùng một chủng loại giống nhau như đã được giải thích.
2. Phép biến đổi thân (Vikubanā Iddhi): khả năng qua biến đổi thân xác điều này cũng đã được giải thích.
3. Phép Ý Sinh Thân (Manomayā iddhi): khă năng thông qua tâm, cũng đã được giải thích. Điều này cũng được gọi là Manomayiddhi
4. Ñāṇāvipphara thần thông (iddhi): nghĩa đen, khả năng đạt được thông qua khuyéch tán ánh sáng hay toả sáng về phía Ñāṇā (tuệ quán) trong Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) cũng có lời giải thích sau đây:
Một thiền sinh thường xuyên hay liên tục chiêm ngưỡng bất kỳ những khia cạnh phật pháp sau đây cho đến khi thể hiện được chân lý từ đó mà ra được cho là đã đạt đến thành công trong khả năng này thông qua tuệ quán (Ñāṇā) có nghĩa là Tuệ giác như sau:
a) Kẻ nào thường xuyên suy tưởng đến pháp khổ cho đến lúc người đó có thể từ bỏ được Sukkha-saññā, có nghĩa là lạc tưởng .
b) Kẻ nào suy tưởng đến pháp vô ngã hay là vô thực chất cho đến khi người đó có thể loại bỏ được Attasaññā, có nghĩa là ngã tưởng.
c) Kẻ nào thường xuyên suy tưởng đến pháp dẫn đến chán nãn ảo giác cho đến khi người đó loại bỏ được hoan hỷ, có nghĩa là những đam mê dục lạc.
d) Kẻ nào thường xuyên suy tư đến diệt đế (nirodha) hay tận diệt cho đến khi người đó có thể loại bỏ được nhân duyên khổ.
e) Kẻ nào thường xuyên suy tư đến Paṭinisagga, có nghĩa là bỏ qua hay buông thả cho đến khi người đó có thể loại bỏ được Chấp trì (Ādāna) có nghĩa là chấp thủ.
Loại thần thông (iddhi) hay sức mạnh này được phát sinh từ tuệ giác tràn ngập tâm của người đó và bảo vệ họ khỏi những ảnh hưởng phá hoại ngầm. Chính vì thế chúng được gọi như vậy. Theo nghĩa đen, chúng là tuệ giác lan toả khắp nơi, đang khi thực sự chúng mang tính chất bảo vệ cho tuệ giác. Trong Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) có đưa ra một số ví dụ liên quan đến Trưởng Lão Bākula, Sañkicca và Bhūtapāla, dưới đây là những tường thuật ngắn về các vị như sau:
Trưởng Lão Bākula.
Khi còn là một đứa nhỏ, vào một ngày rất thuận tiện Trưởng Lão Bākula được đưa đi tắm sông. Vì bất cẩn nên đứa nữ tỳ đã tuột tay đánh rơi cậu bé xuống sông và dòng nước đã cuốn cậu bé đi mất. Nhưng ngay sau đó có một con cá to đã nuốt cậu bé vào bụng và con cá bơi tới tận thành phố Barāṇasī (ngài được sinh ra tại thành phố Kosambi), tại đây có người đánh cá bắt được con cá này và đem bán cho vợ người triệu phú trong vùng. Bà này trong thấy con cá thì đem lòng thích thú, nói rằng: “Tôi sẽ tự tay đem luộc con cá,” Bà tiến hành mổ con cá ra, và vô cùng kinh ngạc do một sự ngạc nhiên lý thú. Khi nàng nhìn thấy trong bụng con cá có một đứa bé trai có nước da giống như vàng vậy. Nhìn thấy đứa bé vẫn còn sống, nàng vô cùng sung sướng vì có được một cậu con trai cho chính mình. Như vậy người vợ của nhà triệu phú đã nuôi dạy cậu nhỏ Bākula lớn lên rất kỹ càng và đầy tình thương cho đến khi cậu bé lớn lên và sau đó được nhận thọ giới thành tỳ khưu, và cuối cùng đã đạt đến bậc A-la-hán.
Theo ngài Trưởng Lão Tác giả Buddhaghosa cho là cậu bé vẫn còn sống an toàn trong bụng cá, đó là do Sức Mạnh Che Chở của chính trí Ñāṇa hay tuệ giác của cậu có nghĩa là sức mạnh tuệ giác tiềm tàng nhờ đó mà ngài có thể đạt đến bậc A-la-hán ngay trong cuộc sống của mình.
Qua lời giải thích này, chúng ta thấy điều đáng lưu ý là một thiền sinh đến thời điểm thích hợp để đạt đến bậc A-la-hán ngay trong cuộc sống của mình phải tích luỹ được rất nhiều công đức từ nhiều kiếp trước. Toàn bộ những công đức này được gọi gộp lại thành Đáo bỉ ngạn (pāramī) tiếng Việt gọi là Ba-la-mật (pāramī) gồm mười loại công đức khác nhau, gồm có Tuệ (Paññā) hay khôn ngoan. Toàn bộ những công đức này đều phát triển đến độ trưởng thành khiến cho ngài có thể đạt đến thành tích cuối cùng trong cuộc sống. Trong cuộc sống đó, không có gì có thể hãm hại hay không có mối hiểm nguy nào có thể tách ngài khỏi cuộc sống trước khi ngài đạt đến Bậc A-la-hán. Điều này nhằm khẳng định một câu nói trong Pháp Cú Kinh (Dhammapada) cho là người thiền sinh nhằm đạt đến bậc A-la-hán vào đúng thời điểm thuận tiện trong cuộc sống này không thể chết trước khi đạt đến thành tựu đó. Ngay cả ngọn núi Sineru cũng chẳng đè bẹp được người. Đoạn văn được viết bằng tiếng Pali như sau: Pacchimabhavikasatasssa hi sininerunā otthaivamānassāpi arahattaṃ appatvā jīvitakkhayo nāma natthi – (Trích trong Pháp Cú Kinh (Dhammapada) đoạn bốn trang 118.) chính vì thế từ “Ñāṇavipphara Iddhi” Được mô tả là một phẩm chất vượt trội hơn hẳn do Tuệ giác tiềm tàng phát sinh từ các tiền kiếp. Chính vì thế “Khả năng tiềm tàng tột độ qua Tuệ giác đó trước, đang và sau khi xảy ra tuệ giác thực sự vậy.
Các chi tiết viết về Trưởng Lão Bakula cũng được tìm thấy trong Kinh Bākula(Bākulatthae-raccharriyabbhūta Sutta) và bài chú giải về kinh này (xin đọc Ma. Upari. 14/255 số. 380) Papañcasūdanī 3/ 597. và Manorathapūraṇī 1/ 330.) Theo tập chú giải, Trưởng Lão Bākula, hay đôi khi có người gọi ngài là Bakkula được nhận thọ đại giới ở tuổi 80 và ngài đã đạt đến bậc A-la-hán chỉ bảy ngày sau lễ xuất gia và qua đời ở tuổi 160. Cách này cách khác ta có thể nói ngài thuộc một số trong 80 vị A-la-hán được xếp hạng cao nhất. Vì ngài được ca ngợi là có sức khoẻ tốt nhất, nghĩa là ngài ít khi bị bệnh. (xin đọc Añga, Eka 20/32 số . 144)
Trưởng lão Sañkicca
Mẹ của ngài qua đời khi ngài vẫn còn nằm trong bụng mẹ. Cứ sự thường thì người ta hiểu rằng ngài cũng phải chết theo mẹ. Chính vì thế người ta đã đặt xác chết của mẹ lên dàn thiêu và sửa soạn cho việc hoả táng. Vào lúc người phụ trách công việc hoả táng lấy chiếc giáo rực đỏ chọc vào bụng xác chết. Thình lình ngọn giáo đâm trúng vào mắt đứa bé khiến cho nó la lối đau đớn. Nghe thấy tiếng kêu của đứa bé, người thực hiện hoả táng mới biết đứa bé vẫn còn sống. Ông liền lấy xác người mẹ ra khỏi dàn thiêu và mổ lấy đứa bé ra khỏi bụng mẹ rồi giao cho bà nội chăm sóc. Cậu bé được bà nuôi dạy khôn lớn cho đến bảy tuổi, bà liền xếp đặt cho cậu nhỏ lãnh thọ giới thành thầy Sa-di. Sau này cậu nhỏ đã đạt đến bậc A-la-hán cùng với Tứ Vô ngại giải đạo (paṭisambhidā). Đó chính là bài tường thuật ngắn ngủi về cuộc đời Trưởng Lão Sañkicca được kể lại trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga), trong đó có giải thích do hiệu quả các công đức trước kia và ngay trong cuộc sống, ngài không bị hãm hại cho dù bị thiêu trên dàn hỏa táng hay bị đâm bằng ngọn giáo, đó chính là vì ngài có được Sức Mạnh Bảo Vệ do tuệ giác A-la-hán đem lại.
Một số đề tài liệu dài hơn viết về Trưởng Lão Sañkicca được tìm thấy trong đoạn bốn Pháp Cú Kinh (Dhammapada) với một số khác biệt như sau:
Mẹ của Trưởng Lão là con gái một nhà triệu phú tại thành phố Sāvatthī. Bà chết khi cậu bé còn nằm trong bụng mẹ. Đang khi người ta hoả táng bà, toàn bộ thịt các phần thân thể khác đều cháy hết, chỉ trừ vùng bụng thì không hề hấn gì, (Tassā Jhāpiyamānāya ṭhapetvā gabbhamaṃsaṃ sesamaṃsaṃ jhāyi) Thấy vậy người phụ trách nhiệm vụ hoả táng liền lấy xác khỏi dàn thiêu và lấy ngọn giáo đâm vào phần không cháy hai ba nhát, và sự việc xảy ra là chiếc giáo đâm trúng mắt đứa bé, ngay tức khắc người đó lấy đứa bé ra khỏi bụng mẹ rồi lại vùi vào trong đống than đỏ rực và bỏ đi. Kết quả là toàn bộ những gì còn lại của người mẹ đều cháy hết, nhưng đứa bé thì không hề hấn gì. Giống như vàng trên đống than, như nụ hoa nằm trong cánh bông sen. Điều lạ lùng này xảy ra là vì con người nào được tiền định sống từ thời tiền kiếp, không thể bị hại bằng bất kỳ cách nào, ngay cả khi núi Sineru có sụp đổ trên đầu người đó, trước khi ngài đạt đến Bậc A-la-hán.
Athassā gabbhamaṃsaṃ citakā otāretvā dvīsu tīsu ṭhānesu sūlehi vijjhiṃsu. Sūlakoṭi dārakassa akkhikotiṃ pahari. Evaṃ gabbhamaṃsaṃ vijjhitvā angārārasimbi. Khipitvā añgāreheva paṭicchādetvā pakkamiṃsu. Gabbhamaṃsaṃ jhāyi Añgāramatthake pana suṣaṇṇbimbasadiso dārako padumagabbhanipanno viya ahosi. Pacchimabhavikasattassa hi sinerunā tthariyamānassāpi arahattaṃ appatvā jūvitakkhayo nāma natthi.)
Người phụ trách hoả táng trở lại vào ngày hôm sau để dẹp đống lửa đi. Ông quá đỗi ngạc nhiên khi thấy đứa bé nằm đó không hề hấn gì “Trời ơi điều gì thế này?” Họ nghĩ toàn bộ những gì của bà mẹ đều cháy hết, nhưng đứa bé tại sao lại không hề hấn gì, đâu là nhân duyên của điều này vậy?” Họ mang đứa bé về nhà và hỏi “Pháp sư” về điều này. Cậu trả lời họ nhận được là, “Nếu đứa bé này trở thành một chủ gia thì bảy họ gia đình của đứa bé sẽ không bao giờ nghèo khổ; nếu kẻ nào nhận nuôi đứa trẻ vô gia cư này, người đó sau này sẽ có một đoàn tùy tùng lên tới năm trăm vị Sa môn hỗ trợ trên khắp mọi nẻo đường cuộc sống” Sau này ngài được đặt tên cho là ‘Sañkicca’ nghĩa là xuất phát từ chừ ‘Sanku” có nghĩa là cây chấn song sắt có đầu nhọn hay là một ngọn giáo hoặc một cái mác.
Thế là nhiều gia đình đã nhận nuôi cậu bé, họ bảo nhau, “Bất kể cậu bé sau này có như thế nào đi chăng nữa, khi cậu bé lớn lên chúng ta sẽ xin cho cậu nhận đại thọ giới trong tăng già của Trưởng Lão Xá-lợi Phất (Sārīputta.)” Vào tuổi lên bảy, cậu đã nghe những đứa trẻ khác kể lại, là khi còn ở trong bụng mẹ cậu, lúc mẹ đã chết và khi người ta thiêu xác mẹ trên dàn hỏa táng, nhưng cậu chẳng hề hấn gì. Điều này đã làm tăng thêm tiềm năng cho cậu và cậu đã quyết khi lớn lên cậu sẽ theo đuổi cuộc sống vô gia cư. Những người nhận nuôi cậu đồng ý và họ liền đem cậu đến trình với Xá-lợi Phất (Sārīputta) Ngài dạy cho cậu năm Kammaṭṭhāna (có nghĩa là chiêm ngưỡng sự ghê tởm của tóc trên đầu, lông trên người, móng tay, răng và da thịt) và cậu đã đạt đến bậc A-la-hán cùng với tứ Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidā) ngay khi cậu đang làm lễ xuống tóc.
Còn nhiều chi tiết về tiểu sử của Ngài Sañkicca được viết trong cuốn Pháp Cú Kinh (Dhammapada) chương bốn. Cũng cần lưu ý một điều là những bài tường thuật trong Pháp Cú Kinh (Dhammapada) còn ghê gớm hơn trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga). Nhưng có một điều chung là: Đây là lời tuyên bố rõ ràng về một sự kiện là: Chẳng có hề hấn gì có thể gây nguy hại cho Sañkicca cho dù những mối nguy hiểm đó trong trường hợp bình thường có thể giết chết những người khác, nhờ sức mạnh bảo trợ sau này ngài sẽ đạt đến Bậc A-la-hán. Ngay trên cõi đời này, những gì ngài phải chịu chỉ là một vết thương nhẹ do cái lao của người phụ trách hoả táng gây ra vào góc con mắt của ngài mà thôi.
Cậu Bé Tên Là Bhūtapāla.
Cậu bé sinh ra trong một gia đình nghèo khổ tại thành phố Rājagaha. Một ngày kia cha cậu bé mang cậu đi theo trên chiếc xe bò vào rừng kiếm củi về bán. Sau khi đã chất củi đầy xe, hai cha con lên đường về nhà cho tới khi họ vừa tới cổng thành vào lúc nhá nhem tối. Ngay lúc đó mấy con bò kéo xe tuột khỏi ách và biến mất vào trong thành phố trước khi ông bố có thể khống chế nổi chúng. Người cha liền nói với con trai ngồi chờ trên chiếc xe chất đầy củi, để ông chạy vào thành đuổi bắt lại mấy con bò, tuy nhiên cổng thành đã đóng truớc khi người cha có thể trở lại. Trong tình huống đó ông buộc phải bỏ lại cậu bé một mình bên ngoài cổng thành. Người ta kể lại rằng cậu bé chẳng hề hấn gì kể cả đau ốm và bầy quỉ ma thường rong ruổi khắp nơi trong vùng đó, do cậu bé có sức mạnh thần thông Ñāṇa vippharā, tức là Sức Mạnh Bảo Trợ Ñāṇa hay là tiềm năng tuệ giác.
Đây là bản tường trình ngắn gọn kể về cậu bé. Cũng còn có nhiều chi tiết cần được nghiên cứu thêm nữa. Nhưng rất tiếc Trưởng Lão tác giả không cho chúng ta biết tìm thấy ở đâu những chi tiết này. Theo ý kiến của tôi, bài tường thuật ngắn ngủi trên không liên can gì tới Sức Mạnh Bảo Vệ của cậu bé và sức mạnh tuệ giác cũng chẳng mấy thuyết phục và gây linh cảm là bao nhiêu. Tuy nhiên trong đoạn thứ bảy Pháp Cú Kinh (Dhammapada) có một câu chuyện viết về một cậu bé có tên là Dārusākatika – Rất có thể câu chuyện ám chỉ cậu bé Bhūtapāla kể lại ở trên. Câu chuyện như sau:
Tại thành phố Rājagaha, có hai cậu bé, một đứa là con trai của ông bố Sammādiṭṭhi (nghĩa là Chính Kiến) trong khi đó cậu bé kia lại là con trại của người cha theo Micchaditthi (nghĩa la Tà Kiến). Cả hai đứa trẻ đều thích chơi trò thảy súc xắc với nhau. Trong hai đứa bé, thì cậu nhỏ con trai của người cha theo chánh kiến, trước khi thảy lục lạp, thường đặt cho mình một qui luật là nghĩ đến Đức Phật, nói rằng “Nam mô Phật” có nghĩa là “lạy Đức Phật kính yêu” cậu nhỏ thứ hai là con của người cha theo tà kiến lúc nào cũng nghĩ đến Titthiya, có nghĩa là những tên theo tà đạo. và trước khi thảy lục lạp cậu lại kêu lên “Na-mô A-la-hán.” có nghĩa là “Lạy các vị A-la-hán.((Từ “A-la-hán” được sử dụng từ trước thời Đức Phật ám chỉ một thiền sư rất được dân chúng trọng vọng) Kết quả là cậu bé con của người cha theo chánh kiến thường thắng cuộc chơi. Lúc này cậu nhỏ thua cuộc nhận ra điều này và sau này liền theo gương người bạn của mình. Chính vì thế mà cả hai đã tích lũy được nhiều niệm tưởng về Đức Phật.
Một ngày kia, cậu nhỏ có cha theo chánh kiến đã đi theo cha trên chiếc xe bò vào rừng kiếm củi. Sau khi đã chất củi đầy xe, người cha liền đánh xe về nhà. Trên đường về hai cha con đã tới bên ngoài cổng thành gần một nghĩa địa, người cha liền thả cặp bò ra cho đi ăn cỏ trong vùng đó. Trong lúc người cha bận bịu sửa soạn bữa ăn cho cả hai cha con, ông không để ý đến mấy con bò.
Lúc này mấy con bò được thả rong liền nhập vào đàn bò đang trên đường về chuồng vào buổi chiều. Lúc đó ông Dārusākatīka- tên người cha theo chánh kiến. – sau khi đã dùng bữa xong và muốn lên đường về nhà trong thành phố, ông đi tìm mấy con bò nhưng không thể tìm thấy. Lần theo dấu chân vào trong thành phố, cuối cùng thì ông cũng tìm thấy cặp bò và cố gắng dẫn chúng trở lại chỗ xe củi bỏ lại bên ngoài thành phố. Nhưng cổng thành đã đóng lại trước khi ông tới nơi. Như vậy ông phải bỏ lại cậu nhỏ một mình bên ngoài cổng thành suốt đêm.
Người ta kể lại rằng tại thành phố Rājagaha cố đầy ma quái, nghĩa là những kẻ vô hình, đặc biệt là trong vùng gần nghĩa trang, nơi cậu bé đã bị bỏ lại một mình. Lúc đó có một ma quái đang theo đuổi tà kiến nhìn thấy cậu bé liền nói. “Thật là tuyệt, đứa bé này là bữa ăn quá ngon cho chúng ta đây. Hãy thưởng thức bữa ăn tuyệt với thịt cậu bé.” Nhưng cũng có cả những chư thiên theo đuổi chánh kiến có mặt. Họ cố ngăn cản tên kia, bảo hắn không được làm thế, nhưng tên ma quái xấu xa nhất định không nghe. Hắn thình lình giật chân đứa bé và lôi cậu bé đi theo.
Lúc đó cậu bé đang ngủ ngon giấc, cảm thấy bị kéo chân lôi đi, tự nhiên cậu kêu lên như vẫn thường làm, nói rằng, “Nam-mô Phật.” Nghe thấy vậy, ma quái xấu xa hoảng sợ và biến mất.
Thế là những chư thiên tốt nói với ma quái xấu xa, “Nhà ngươi đã làm điều không nên chút nào, nhà ngươi sẽ phải bị phạt về hành vi này.” Rồi chư thiên tốt đứng trân nhìn cậu bé, ma quái xấu xa nhìn thấy như vậy, liền đi vào thành phố và mang lại cho cậu bé một mâm đầy thức ăn chọn lọc dành cho nhà vua. Cả hai chư thiên đều hành động như thể họ là cha mẹ của cậu bé. Họ đã đánh thức cậu bé dậy và cho cậu dùng bữa. Sau đó họ còn ghi một câu trên chiếc khay đựng đồ ăn, kể lại bằng cách nào và tại sao họ lại lấy cắp chiếc khay của nhà vua khỏi hoàng cung. Rồi họ quyết tâm muốn cho nhà vua nhìn thấy đoạn ghi trên đó. Sau khi cậu bé đã ăn bữa xong và lăn ra ngủ, thế là cả hai liền biến mất.
Có một cuộc bạo loạn xảy ra vào buổi sáng ngày hôm sau, khi sự việc được khám phá ra là chiếc khay đựng đồ ăn cho nhà vua đã bị kẻ trộm đánh cắp. Toàn bộ cổng thành được lệnh đóng lại, trong khi đó quân lính đi sục sạo tất cả các nhà trong thành phố. Sự việc không đem lại kết quả gì, họ tiếp tục đi lục soát bên ngoài thành phố và cuối cùng họ đã tìm thấy chiếc khay vàng trên chiếc xe củi của hai cha con Dārusākaṭika . Đứa bé bị bắt và bị kết án đánh cắp chiếc khay của nhà vua và bị điệu tới nhà vua, nhìn thấy dòng chữ ghi trên chiếc khay nói rằng,” có điều gì thế con trai của ta.”
“Tâu bệ hạ, thần chẳng hay biết gì hết. thần chỉ biết có một điều là đêm hôm qua cha mẹ thần đem lại cho thần một chút đồ ăn và đứng canh cho thần ăn. Chính vì thế mà thần không chút sợ hãi gì cả, rồi sau đó thần lại ngủ thiếp đi, đây là tòan bộ những gì thần biết, thưa hoàng thượng.”
Cha mẹ của cậu bé lúc này cũng được điệu vào hoàng cung. Sau khi nghe thấy sự việc xảy ra, Nhà vua liền dẫn cậu bé cùng với cha mẹ đến đến gặp Đức Phật. Cậu bé kể lại toàn bộ sự việc cho Đức Phật nghe nói rằng. “Có phải chỉ có một điều duy nhất, là niệm tưởng tới Đức Phật có thể đem lại sức bảo vệ cho ta không? hay niệm tưởng đến Giáo pháp và tăng già cũng có thể đem lại sức bảo vệ cho trẫm?” Để trả lời câu hỏi của nhà vua, Đức Phật liền đáp lại, nói rằng:
“Không chỉ có thế, tâu bệ hạ. Một thiền sinh có được tâm luyện tập đến nơi đến chốn, dựa trên sáu điều căn bản sẽ không cần đến sức mạnh bảo vệ nào khác nữa cho chính mình, người đó chẳng cần đến bất kỳ kinh kệ nào, hay thuốc men làm chi.” (Mahārājja na kevalaṃ Buddhānussatiyeva rakkhā, yesaṃ pana chabbihena cittaṃ subhavitaṃ, tesaṃ aññena rakkhāvaraṇeva vā mantosadhehi vā kiccaṃ natthi) sáu điều cơ bản đó là:
“Suppabuddhaṃ pabujjhanti
Sadā gotamasāvakā
Yesaṃ divā ca ratto ca
Niccaṃ Buddhagatā Sati.
Suppabuddhaṃ pabujjhanti
Sadā gotamasavaka
Yeaṃdivā ca ratto ca
Niccaṃ Dhammagatā Sati.
Suppabuddhaṃ pabujjhanti
Sadā gotamasāvakā
Yesaṃ divā ca ratto ca
Niccaṃ Sañghagatā Sati.
Suppabuddhā pabujjhanti
Sadā gotamasāvakā
Yesaṃ divā ca ratto ca
Niccaṃ kāyagatā sati
Suppabuddhaṃ pabujjhanti
Sadā gotamasāvakā
Yesaṃ divā ca ratto ca
Ahiṃsāya rato mana
Suppabuddhaṃ pabujjhanti
Sadā gotamasāvakā
Yesaṃ divā ca ratto ca
Bhāvanāya rato mano.”
Các đồ đệ của Đức Cồ Đàm (Gotama) được giác ngộ toàn diện, với tâm lúc nào cũng chăm chú đêm ngày vào:
1. Niệm tưởng về Đức Phật
2. Niệm tưởng về Giáo Pháp
3. Niệm tưởng về Tăng già
4. Niệm tưởng về Thân xác
5. Không làm hại đến chúng sanh và
6. Tu luyện thiền chỉ và tâm .
Giải thích: Theo các tập chú giải. Từ “Suppabuddham pabujjhanti: có nghĩa là được giác ngộ kỹ càng.’ Ám chỉ sự kiện cho là một thiền sinh niệm tưởng đến các việc ân đức của Đức Phật trước khi đi ngủ sẽ tỉnh dậy khoẻ mạnh (có nghĩa là được bồi bổ tươi tỉnh) (Buddhagataṃ satiṃ gahetvā supantāyeva pabujjhantā suppabuddhaṃ pabujjhanṭi nāma) Đoạn này có ý nghĩa tương tự như những lời Đức Phật dạy liên quan đến những lợi ích của việc tu luyện Mettā , có nghĩa là lòng từ tâm. Từ đó phát sinh ra mười một điều như là Sukham supati: ngủ ngon. Sukham patbujjhati:thức dạy khỏe khoắn và Na pāpakṃ supinam passati: không bị ác mộng.v.v.
Một điều cần chú ý là những lời giảng dạy của Đức Phật được đề cập đến ở trên không công bố rõ ràng về niệm tưởng đến những đề mục như vậy như về Đức Phật có đem lại sự hỗ trợ chống lại những nguy hiểm cho thiền sinh. Những điều được nói đến trong đó chỉ là hiện thực là những suy tưởng như vậy có thể đem lại những điều kiện để được “Giác Ngộ Toàn Diện” điều đó ám chỉ những việc như ngủ ngon và tỉnh tảo khoẻ khoắn có nghĩa là được tỉnh táo và sung sướng.
Điều Trưởng Lão tác giả cuốn Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) kể về cậu bé Bhūtapāla như là một ví dụ điển hình cho những ai được bảo vệ do tuệ giác tiềm năng hiện tại ở sự kiện được nhắc đến trong Pháp Cú Kinh (Dhammapada) so với hiệu quả sau khi cậu nhỏ và cha mẹ của cậu đã nghe bài thuyết pháp của Đức Phật thì tất cả họ đã đạt đến Quả Nhập Lưu. Sau này họ đã được ban thọ đại giới và đạt đến bậc A-la-hán. Điều này xảy ra là do tiềm năng đạt đến bậc A-la-hán của họ. Chính vì thế mà họ đã vượt qua mọi khó khăn và nguy hiểm một cách an toàn. Chính vì thế đây là một ví dụ về điều được gọi là Ñāṇavipphārā Iddhi: có nghĩa là phép lạ (thần thông) đạt được thông qua sức mạnh bảo vệ nhờ tuệ giác tiềm năng.
Samādhivipphārā Iddhi: (Phép lạ (thần thông) nhờ sức mạnh bảo vệ do thiền định đem lại). Theo Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) điều này là kết quả tuyệt vời nhất là kết quả Samatha (thiền chỉ) đem lại, nghĩa là an bình nội tâm có được trước, đang khi và ngay cả sau thời gian rút vào nhập thiền.
Từ lời giải thích nêu trên, thiền sinh đã đạt được thiền ở mức độ cao nhất với năm pháp thuần thục luôn được bảo vệ do sức mạnh thiền định mà ra. Điều này có nghĩa l không những trong giai đoạn thiền sinh đó trú nhập ở hiện trạng cao nhất, nhưng còn trước và sau giai đoạn đó nữa. Điều này có thể thấy nơi trường hợp thầy Sa-di Sañkicca là người đã được bảo vệ bằng chính sức mạnh này ngay từ thời ngài vẫn còn ở trong bụng mẹ. Trưởng Lão Bākula cũng được bảo vệ đang khi ngài bị con cá to nuốt trọng và nằm ở trong bụng cá trong một khoảng thời gian tương đối lâu. Cả hai đã được bảo vệ giống như thế là nhờ vào tiềm năng đạt đến bậc A-la-hán của hai người, cho dù họ chưa đạt đến bậc A-la-hán vào thời điểm đó. Sức mạnh bảo vệ đó cũng giống hệt như vậy trong trường hợp hành thiền. Đối với những ai đã đạt đến tình trạng thiền ở mức độ đó, luôn có một cây dù bảo vệ che chở cho họ trong suốt thời gian dài, cả trước và sau giai đoạn họ rút vào tình trạng sảng khoái tâm cao độ đó. Đoạn văn viết bằng tiếng Pali duới đây được trích trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga):”Samādhito pubbe vā pacchā vā tañkhaṇe va satthānubhāvanibbatto viseso samādhivippharā Idḍhi (2/209) và nơi cả hiện trạng kể trên có nghĩa là:Ñāṇa ppavatiti pana pubbe vā pacchā vā tañkhaṇe va ñāṇanubhavanibbatto viseso ñāṇavippha-ra Iddhi nāma (2/208).
Nhờ Trưởng Lão tác giả Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) còn nhiều trích đoạn được liệt kê ra từ Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) như sau: từ ‘Iddhi’ có nghĩa là thành công (từ này có ý nghĩa tương đương với từ Jhana). Như vậy một thiền sinh đã loại bỏ được hết năm triền cái nhờ đạt đến được thiền Jhana bậc nhất cũng có thể được cho là đã đạt đến Samādhivipphārā Iddhi (Paṭhamajjhānena nīvaraṇānaṃ pahānattho ijjhatīti samādhivipphārā Iddhi) không kể đến việc đạt đến những thứ bậc cao hơn từ hành thiền Jhana bậc hai đến bậc bốn có nghĩa là đạt đến hiện trạng phi tưởng phi phi tưởng (Nether-Perception-Nor.Non.Perception) như trong trường hợp của Trưởng lão Sārīputta) Trưởng lão Khāṇukondañña, cận sự nữ (upasikas) Uttarā và cận sự nữ (upasikas) Samāvatī (Khu. Pa. 31/598)
Những đoạn trên trích từ Vô Ngại Giải Đạo (Paṭisambhidāmagga) cho thấy từ ‘Iddhi’ không nhất thiết phải có nghĩa là thực hiện những phép lạ (thần thông) như ta thường hiểu. Những ví dụ điển hình nơi các thiền sinh hay các vị thánh đệ tử đã đề cập đến ở trên, cho ta thấy như sau:
Trưởng Lão Xá-lợi Phất (Sārīputta.):
Vào thời Trưởng Lão Sārīputta đang lưu lại tại Kapotakandara (hẻm núi bồ câu) cùng với Trưởng Lão Moggallāna chỉ ngay sau khi ngài xuống tóc, ngài đã ngồi thiền dưới ánh trăng tại một nơi trống trải. Lúc đó có Dạ-xoa (yakkha) hay quỉ dữ che dù đã bị người bạn ngăn cản, và hắn đã đánh một đòn chí tử lên đầu vị Trưởng Lão. Cú đánh đó tạo ra một tiếng động vang như tiếng sấm. Nhưng lúc đó vị Trưởng Lão đang nhập thiền diệt ở mức độ thiền chứng(samāpatti) và chính vì thế ngài đã quên mất sự va đập và tiếng động đó. Đây chính là sức mạnh bảo vệ do thiền Định đem lại có nghĩa là do phép lạ thiền định Samādhivipphārā Iddhi của Trưỏng Lão mà ra.
Đây là một bài tường trình ngắn ngủi kể lại trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga). Nhiều chi tiết hơn có thể được thấy trong Phật Tự Thuyết (Udāna) (Khu. U. 25/131 số 93) như sau:
Đã có thời Đức Thế Tôn đang lưu lại tại Kalandakanivāpa trong Khu Rừng Trúc, gần thành phố Rājagaha. Chính trong thời gian này ngay sau khi xuống tóc đi tu, ngài Trưởng Lão Xá-Lợi Phất (Sārīputta) đã rút vào hành thiền giữa một khoảng không gian mát mẻ vào giữa đêm trăng.
Ngay lúc đó có hai Dạ-xoa (yakkha), có nghĩa là ma quái đang di chuyển từ Bắc sang Đông làm công chuyện. Nhìn thấy Vị Trưởng Lão ngồi thiền giữa khoảng không như thế, một trong hai Dạ-xoa (yakkha) nói cùng bạn của mình, “Nhìn kìa, ông bạn, ta sẽ giáng cho tên Sa môn kia một cú táng vào đầu” tên bạn Dạ xoa kia hết mực ngăn cản không nên làm thế, nói rằng, “đừng có làm điều đó làm chi, ông bạn ơi, vị Sa môn đó hết sức nhân đức, rất hùng mạnh và vô cùng phi thường đó.” Đã ba lần tên Dạ xoa thứ hai này thuyết phục bạn mình không được làm thế, nhưng tên đó nhất định không nghe và đã giáng một đòn sấm sét lên đầu ngài Trưởng Lão. Cú đánh mạnh đến nỗi có thể hạ một con voi mạnh mẽ cao bốn thước hay có thể nghiền nát cả một ngọn núi thành mảnh vụn. Sau khi làm điều đó, tên Dạ xoa tự nhiên cảm thấy nóng như thiêu như đốt trong người, và sức nóng đó dã dẫn hắn xuống cõi khổ ngay từ giây phút đó.
Trưởng Lão Moggallāna qua Thiên Nhãn vượt hơn hẳn con mắt chúng sanh bình thường, đã quan sát thấy điều gì đã xảy ra. liền tiến lại gần Trưởng Lão Xá-Lợi Phất (Sārīputta) và hỏi ngài, nói rằng, “Hỡi Bạn thân Xá-Lợi Phất (Sārīputta), ngài không thể chịu nổi cú táng đó có phải không? Liệu ngài còn thể giữ cho thân xác đó tiếp tục sống được không? có đau đớn gì xẩy đến cho ngài không? Trưởng Lão trả lời, “Tôi có thể chịu đựng nổi mà, hỡi bạn hiền Moggallāna , tôi vẫn giữ thân xác tiếp tục sống được; chỉ có vài cọng tóc của tôi đau đớn chút đỉnh mà thôi.”
Trưởng Lão Moggallāna lên tiếng, “Thật là tuyệt vời, chưa bao giờ xảy ra những điều như vậy từ xưa đến giờ. Ôi ngài Xá-Lợi Phất (Sārīputta) quá khoẻ mạnh và mãnh liệt. Một Dạ xoa đã giáng một cú táng mạnh mẽ đến như vậy lên đầu ngài. Thực vậy cú táng đó có thể nhận chìm cả một con voi cao bốn mét lọt sâu xuống lòng đất hay có thể nghiền nát cả một ngọn núi cao. Tuy nhiên, người bạn Xá-Lợi Phất (Sārīputta) đ nĩi l vẫn có thể chịu đựng nổi, là vẫn còn sống được và chỉ có một vài cọng tóc trên đầu là đau đôi chút mà thôi.
Chính vì thế Trưởng Lão Sārīputta liền nói, “Ôi thật tuyệt vời điều đó chưa bao giờ xảy ra xưa nay. Ôi bạn Moggallāna thật quá khoẻ và mãnh liệt đến cỡ nào, chính ngài đã chứng kiến tận mắt ma vương. Còn tôi, tôi không thể nhìn thấy (ngay cả loại ma quái hạng thấp đến như vậy) một loại quỉ quái chơi giỡn với cát bụi như vậy ngay lúc này.
Đức Thế Tôn, sau khi nghe cả hai vị Trưởng Lão đàm đạo với qua phép thiên nhĩ thông cảm vượt khỏi mọi khả năng của tai người thường có thể nghe được, liền thốt lên những lời kinh ngạc sau đây:
“Yassa selupamaṃ cittaṃ
Ṭhitaṃ nūnupakampati
Virattaṃ rajantesu kopaneyye na kuppati.
Yassevaṃ bhāvitaṃ cittaṃ
Kuto taṃ dukkhamessati
“Do đâu mà khổ lại xuất hiện nơi một người có tâm được bình thản, được an toàn giống như ngọn núi vững chắc không lay chuyển trước sân hận do những ảnh hưởng sân hận nổi lên và không lay động trước lòng tham dục do những ảnh hưởng tham dục tạo ra.”
Rất có thể sẽ có một vài điểm hoài nghi trong bài tường thuật nêu trên, đặc biệt là những đoạn khẳng định Trưởng Lão Xá-Lợi Phất (Sārīputta) không thể thấy ma quỉ đã đánh lên đầu ngài hay yêu quái đầy nhan nhản trong khu vực đó đang đùa giỡn với bụi bậm. Cho dù sự kiện ngài có được sức mạnh thiên nhãn này là điều hết sức quen thuộc. Tập Chú Giải Phật Tự Thuyết (Udāna) còn đưa ra lời giải thích như sau, cho là dù có xảy ra điều đó là vì ngài đang trú nhập thiền Jhana rất sâu đậm, nên không muốn nhìn xem hay biết bất kỳ điều gì đang xảy ra chung quanh. Nhưng Trưởng Lão Moggallāna , lại không say đắm nơi hiện trạng sung sướng cao ngất đến như vậy, chính vì thế ngài đã có thể biết và nhìn thấy những gì đang diễn ra xung quanh vào thời điểm đó. (Tesu Mahāmoggallāno tuṇhī nisīdi. Āyasmā pana Sarīputto āyasmā samāpajji – tập chú giải Phật Tự Thuyết (Udāna) trang 308). Ta còn thấy nhắc đến nhiều hơn trong tập Chú Giải cho là hiện trạng Trưởng Lão Xá-Lợi Phất (Sārīputta) đã rút vào nhập thiền Jhana chính là thiền chứng (samāpatti) gọi là Upekkha-Brahmavihāra xã phạm trú. Tuy nhiên, có một số soạn giả cho là hiện tượng đó chính là Saññāvadayuitanirodha, có nghĩa là biệt thọ và tưởng. Nhưng cũng có một số soạn giả đưa ra ý kiến chúng ta gọi điều đó là Phalasamāpatti (thiền Quả) dựa trên Thiền Jhana Vô Sắc Giới (formless Absortion) trên cơ sở điều này chỉ căn cứ trên ba vô sắc giới này mà thân xác có thể hoàn toàn được bảo bệ khỏi mọi điều hãm hại và hiểm nguy.
Trưởng Lão Sañjiva.
Đang khi ngài Trưởng Lão còn ngồi nhập thiền diệt thọ tưởng (Nirodhasamāpatti). Một số người chăn bò cứ tưởng người đã chết, liền chất đống cỏ khô và củi cùng với phân bò lên người và rồi nổi lửa đốt để có thể hoả táng xác của người. Nhưng hóa ra ngay cả một sợi vải y cà sa của ngài cũng không bị ngọn lửa thiêu rụi (đừng nói gì đến thân xác của ngài) đây lại là một trường hợp khác nữa về Samādhivipphāra Iddhi tức là Sức Mạnh Bảo Vệ Do Thiền Định đem lại như là kết quả của thiền chỉ (Samatha) đem lại thông qua sức mạnh thiền chứng liên tục (samāpatti) hay miệt mài thiền sâu rộng.
Đây là một bài tường thuật ngắn về Trưởng Lão Sañjīva trích trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) để minh hoạ một sự kiện làm thế nào một sức mạnh như vậy có thể tạo ra áo giáp bảo vệ cho ngài. Chi tiết này cũng được nhắc đến với nhiều chi tiết hơn được tìm thấy trong Kinh Māratajjanīya trong tác phẩm Mūlapaṇṇāsaka thuộc Trung bộ Kinh (16/602 số 559. chuyện kể được ghi lại như sau:
Đã có thời Trưởng Lão Sañjīva đang rút vào nhập thiền Saññāvedayitanirodha (Diệt thọ tưởng) dưới bóng cây cổ thụ, có một đám người chăn bò, chăn chiên, chăn cừu, những dân cày ruộng và những người du hành, nhìn thấy người ngồi ở đó cứ tưởng là người đã chết. Họ kháo nhau. “Ôi các bạn ơi, thật kỳ lạ, vị sa môn này đã chết. chúng ta hãy hỏa táng ngài đi.” Rồi họ gom một ít rác, củi khô và cả phân bò chất đống lên người vị Trưởng Lão và nổi lửa đốt. Vào buổi sáng, vị trưởng lão xuất thiền (samāpatti, hay là thiền chứng) rũ bụi y cà sa, mặc lại và cầm bát khất thực rồi đi vào ngôi làng kế bên để xin khất thực.
Lúc này những người dân đã hoả táng người, nhìn thấy liền lên tiếng nói với nhau. “Thật là tuyệt vời, các bạn ơi, vị sa môn này đã chết đang khi hành thiền ở đó, lại sống lại, hiện đang sống động trước mắt chúng ta.(nghĩa đen, nhưng lúc này, ngài nhập tâm) “Chính do lời kinh ngạc này mà ngài được đặt tên là Sañjīva (có nghĩa là người trở lại từ cõi chết)
Chuyện kể trên do ngài Trưởng Lão Moggallāna kể lại, nhưng lại không diễn ra dưới thời Đức Phật còn sống. Người ta kể lại rằng sự kiện này đã diễn ra trong quá khứ, dưới thời Đức phật tên là Kakusandha. Câu chuyện được kể lại trong Kinh Pali như sau:
Có một lần kia Đức Thế Tôn đang lưu lại tại Khu Rừng Migadāya. Trong vùng Bhesa-kalavana, thuộc thị trấn Suṃsumārragṅra, bang Bhagga. Trưởng Lão Moggallāna lúc đó đang bận bịu hành thiền bách bộ nơi một cánh đồng rộng. Ngay lúc đó Ma-vương (Māra) kẻ độc ác lén thâm nhập vào bụng ngài. Vị Trưởng Lão cảm thấy có điều gì đó quá nặng, giống như một hòn đá hay một cái chảo chứa đầy đỗ trong đó lại nằm ngay trong bụng ngài. Ngài liền đi vào thiền viện và ngồi xuống suy tưởng nhập tuệ giác về điều đang xảy ra nơi ngài. Rồi ngài nhìn thấy Ma-vương (Māra) kẻ xấu bên trong đó. Ngài liền ra lệnh cho Ma-vương (Māra) xuất ra khỏi ngài không được làm hại cho Đức Phật và các vị đồ đệ của ngài. Vì làm vậy sẽ chẳng đem lại lợi ích gì cả, nhưng lại có thể đem lại một thời gian dài đau khổ cho chính Ma-vương (Māra).
Nhưng Ma-vương (Māra) kẻ xấu, nghĩ vị Trưởng Lo không thể nhìn thấy nó, liền suy nghĩ thêm rằng chính vì sa môn đã là đạo sư lâu năm mà không nhìn thấy nó, huống hồ chi người đồ đệ này dứt khoát sẽ không thể nhìn thấy được (Yopissa so satthā sopi maṃ neva khippaṃ janeyya kuto ca pana ayaṃ sāvako jānissati).
Vị Trưởng Lão tiếp tục nói hậu quả sẽ vô cùng tai hại nếu như ma-vương (Māra) cứ tiếp tục ẩn mình như thế, rất có thể ngài sẽ biết được điều đó. Lúc này ma-vương (Māra) biết được nó không thể lừa gạt vị Trưởng Lão được nữa liền xuất ra khỏi miệng Trưởng Lão và đứng kế gần ngay cửa ra vào.
Trưởng lão Moggallāna nhìn thấy điều đó đã cảnh cáo nó đừng có nghĩ là người đã không nhìn thấy. Rồi ngài nói với kẻ xấu câu chuyện trong quá khứ như dưới đây:
Vào thời xa xưa tôi thường là một kẻ xấu có tên là Dūsī. Cùng với người em gái tên là Kālī. Nhà ngươi là con trai em gái ta, và chính vì thế nhà ngươi là cháu của ta. Điều đó diễn ra vào thời có một Đức phật tên là Kakusandha, có hai người đồ đệ rất tốt lành tên là Vidhura và Sañjīva, người thứ nhất có tài thuyết pháp rất giỏi. Thế nên được gọi là Vidhura [5] còn người kia luôn luôn chỉ thích rút vào nhập thiền Jhana đạt đến độ gọi là Saññāvedayitanirodha (Diệt thọ tưởng) bất kỳ khi nào ngài đến cánh rừng hay đến bóng cây, hay một ngôi nhà bỏ hoang nào đó, ngài đều có thể thực hiện được điều đó một cách dễ dàng và như ý muốn. Chính vì thế một lần kia đang khi ngài ngồi trú hiện trạng thiền Jhana sung sướng cao độ dưới bóng cây. Có một số người thấy ngài cứ tưởng ngài đã chết. Chính vì thế họ đã gom rác, củi và cả phân bò và chất đống lại trên người rồi nổi lửa đốt để thiêu xác ngài. Nhưng ngài chẳng hề hấn gì cả. Ngay cả y cà sa của ngài cũng không hề bị cháy sém.
Đó chính là chuyện kể trích từ Kinh Pali liên quan đến Trưởng Lão Sañjīva . Mục tiêu là tỏ cho thấy câu chuyện không diễn ra dưới thời Đức Phật. Nhưng tuy nhiên lại diễn ra vào một thời xa xưa. Sự kiện cho thấy điều này là có thật cho dù đến cả thời đại ngày nay nữa.
Sức Mạnh Bảo Vệ Thiền Định Về Phía Trưởng Lão Khāṇukoṇḍañña
Trưởng Lão Khāṇukoṇḍañña
Thường có thói quen rút vào nhập thiền định gọi là Thiền Chứng (samāpatti). Thế rồi một đêm nọ đã xảy ra một sự kiện, khi Trưởng Lão đang mải mê nhập Thiền Chứng (samāpatti) như thường lệ, có một bọn cướp (thực tế gồm tới 500 tên) [6] đội trên đầu rất nhiều của cải cướp được, đi đến một địa điểm đã ấn định. Nhận thấy đã đi khá xa địa điểm gây án, bọn cướp suy nghĩ có lẽ đã được an toàn và muốn nghỉ ngơi đôi chút. Nhìn thấy vị Trưởng Lão trong bóng tối, chúng tưởng lầm ngài là một gốc cây, vì vậy cả bọn chất đống toàn bộ chiến lợi phẩm cướp được lên đầu Trưởng Lão, một khối lượng xem ra rất nặng. Sau khi đã nghỉ ngơi một thời gian khá lâu, bọn chúng đồng ý lên đường và cả bọn đã lấy toàn bộ số đồ cướp được khỏi vị Trưởng Lão, mà họ cứ tưởng là một vật vô tri vô giác gì đó. Đến lúc này, khi bọn chúng vừa định lấy đi của cướp được cuối cùng chúng vứt bỏ lên đầu ngài trước đó, thì chính xác lúc đó trưởng lão quyết định xuất khỏi Thiền Chứng (samāpatti). Nhìn thấy “gốc cây” động đậy. Bọn chúng vô cùng khiếp sợ, cứ tưởng là ma hiện hình. Và thốt lên những lời hết sức hoảng hốt. Nghe thấy vậy, Trưởng Lão liền nói với bọn chúng., “Đừng sợ, những người anh em, tôi là một vị tỳ khưu” với những lời đầy an ủi đó, bọn cướp mới bớt sợ và hoàn hồn, nhưng lại hết sức kinh ngạc do sức mạnh che chở của ngài. Bọn cướp hết sức ấn tượng và xin được nhận thọ Đại Giới, sau đó cả bọn đều đạt đến Bậc A-la-hán cùng với Tứ Vô Ngại Giải (paṭisambhidā)
Điều trên đây cho thấy Sức Mạnh Bảo Vệ Thiền Chứng (samāpatti) đã giữ cho ngài khỏi bị hại cho dù biết bao nhiêu vật nặng chất đống lên đầu ngài. Đây là bài tường thuật ngắn tìm thấy trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) (2/210). Nhiều chi tiết khác có thể tham khảo trong đoạn bốn tác phẩm Pháp Cú Kinh (Dhammapada) trang 128.
Bà Uttarā Và Sức Mạnh Bảo Vệ Thiền Định Bà
Những nữ thinh văn thường gọi Uttara là con gái của nhà triệu phú tên là Puṇṇa, Bà là vợ của một người triệu phú con trai của Sumana sống tại thành phố Rājagaha. Bà mong muốn sống trong riêng tư để nàng có thể cống hiến nhiều thời gian hơn vào việc thực hiện nhiều việc công đức, nàng đã thuê một người gái điếm tên là Sirimā để thay mình phục vụ cho chồng bà. Điều này được thực hiện trong một thời gian cho đến khi Sirimā người gái điếm được thuê trở nên ghen tuông với bà Uttarā và muốn trở thành bà chủ trong gia đình. Một ngày kia nàng đã đổ nguyên một bình nước nóng đang sôi lên đầu Uttarā , lúc bà vừa mới rút vào nhập thiền định và tỏ lòng từ tâm với Sirimā . Nhờ sức mạnh bảo vệ của thiền định, bình nước nóng đang sôi đã trở thành nước lạnh và làm mát giống như những giọt nước rơi từ trên chiếc lá sen khi đụng phải đầu Uttarā. Chính vì thế, đây là một ví dụ điển hình khác nữa minh chứng cho sức mạnh Thiền Định trong lãnh vực này. Đây chính là phép Thiền định Vipphāra dành cho bà Uttarā
Chi tiết của câu chuyện trên có thể tìm thấy trong đoạn thứ sáu trong Pháp Cú Kinh (Dhammapada) trang 165
Chuyện kể về cuộc đời của bà Uttarā
Trong thành phố Rājagaha có một nhà triệu phú tên là Sumana. Cha của bà Uttarā tên là Puṇṇa, là một người rất nghèo chỉ là một trong số những người đầy tớ của Sumana. Trong nhà của người triệu phú có ba người đầy tớ tên là Punna, vợ của ông và con gái của hai người là Uttarā .
Một ngày kia nhà vua xuống chỉ yêu cầu toàn dân phải ngừng sản xuất để tham dự lễ hội kéo dài bảy ngày. Nghe chiếu chỉ của nhà vua, Sumana nói với Puṇṇa, nàng hỏi ông xem hai người có thể tham gia lễ hội với những người khác hay không hay ông chỉ muốn đi làm thuê. Puṇṇa trả lời theo Lễ hội chỉ đem hiệu quả tốt cho những người giàu có, trong khi đó chính ông phải lo chạy ăn từng bữa, chính vì thế ông muốn có vài con bò để đi cầy còn hơn là đi tham gia lễ hội. Nghe thấy vậy Sumana liền cho Puṇṇa một cặp bò khoẻ mạnh để ông đi cầy ruộng, trước khi ra đồng đi cấy Puṇṇa đã nói với vợ sửa soạn đồ ăn cho ông gấp hai lần bình thường và rồi đem ra đồng cho ông. Nói đoạn ông đi đồng cấy ruộng
Trưởng Lão Xá-Lợi Phất đến trợ giúp Puṇṇa
Vào thời điểm đó sau khi đã rút vào nhập thiền Diệt Thiền Chứng (Nirodha samāpatti) trong bảy ngày, Trưởng Lão Xá-Lợi Phất (Sārīputta) đã xuất thiền và dùng phép Nhãn Thông nhìn thấy Puñña thông qua thiên nhãn, ngài suy nghĩ thêm một chút và nhìn thấy Puñña đã được đầy đủ đức tin và đã được ban cho khá nhiều của cải qua thực hiện bố thí cho ngài (tức là cho vị Trưởng Lão)
Biết vậy Trưởng Lão liền mặc y cà sa và lấy bát khất thực rồi tiến ra nơi Puṇṇa đang đến để cầy ruộng. Ngài đứng đợi người nghèo khổ đó gần một bụi cây sát ngay bên một chiếc hồ. Nhìn thầy trưởng lão đứng đó, Puṇṇa liền tiến lại gần, bỏ cầy xuống và thụp lạy trước mặt ngài và nhìn thấy Trưởng Lão đưa mắt về phía bụi cây, như thể Trưởng Lão muốn có được một ít cành cây để xỉa răng. Chính vì thế ông đã cắt một ít cành và dâng cho Trưởng Lão (vì ông biết một tỳ khưu không được phép chặt cây ngay chỉ một cành cây hoặc một nhánh cây con.)
Rồi sau đó Trưởng Lão lấy ra trong bát khất thực một miếng vải dùng để lọc nước và đưa cho ông. Puịịa hiểu ngay Trưởng Lão muốn có ít nước để uống. Chính vì thế Trưởng Lão đã ra hiệu cho ông hiểu như thế.
Rồi Trưởng Lão suy nghĩ, nếu ngài có thể đi đến nhà người nghèo ngài có thể nhờ bà vợ của người đó để bà không thể tránh không gặp được ngài. Khi qua phép nhãn thông Trưởng Lão nhìn thấy vợ của người nghèo đã đi ra ngoài, ngài liền chờ bà ta trên đường đi.
Vợ của Puṇṇa dâng của Bố Thí cho Trưởng Lão Sārīputta
Trên đường mang đồ ăn cho chồng, bà đã nhìn thấy Trưởng Lão, Vợ của Puṇṇa suy nghĩ trong lòng, trước kia đôi khi nàng đã có dịp làm việc thiện nhưng lại không gặp được Trưởng Lão; rồi lúc nàng gặp được các Trưởng Lão, nhưng lại chẳng có gì để dâng cho ngài. Nhưng lần này tình cờ gặp Trưởng Lão và có chút đồ để dâng cho ngài, nàng bắt đầu suy tính: “Có lẽ Trưởng Lão muốn nhận đồ dâng cúng hèn mọn của mình chăng.” Nàng đến quì trước Trưởng Lão và nói, “Mong rằng ngài Trưởng Lão không coi đây là của bố thí thô thiển hay hoàn thiện, mong rằng ngài chấp nhận của bố thí này từ tay kẻ nô lệ của ngài”
Trưởng Lão Xá-Lợi Phất (Sārīputta) giơ bát khất thực ra, nhưng khi nàng đã dâng cho ngài một nửa số đồ ăn, ngài liền lấy tay che tô khất thực lại như ra dấu nói với nàng là đủ rồi, vợ của Puṇṇa thấy thế liền nói với ngài Trưởng Lão, “Kính ngài Trưởng Lão, tôi không muốn lượng đồ ăn này được chia làm hai đâu, ngài có thể không chúc lành cho kẻ nô lệ này trên đời này. Nhưng xin ngài hãy chúc lành cho nó nơi cuộc sống mai hậu” Nói đoạn, nàng thấy bát khất thực lại mở ra một lần nữa, rồi nàng đã đổ hết số đồ ăn nàng đã sửa soạn cho chồng nàng vào bát khất thực của ngài trưởng lão, đồng thời thực hiện lời ước, nói rằng, “Mong rằng tôi được thông phần vào Phật pháp của ngài đã thể hiện được.”
Trưởng Lão lên tiếng “Mong rằng được như vậy” và khi còn đứng đó ngài đã nói lên lời khen ngợi của bố thí của nàng, sau đó ngài đi đến chỗ có nước và dùng bữa.
Vợ của Puṇṇa trở về nhà và lại sửa soạn bữa ăn cho chồng lần thứ hai, lúc này chồng nàng đã cảm thấy cơn đói giằn vặt. Nghĩ rằng chàng không thể chịu đựng được hơn nữa. chàng tháo bò ra khỏi cày và nằm nghỉ dưới bóng cây gần đó. Nhìn về phía mà chàng biết là nàng sẽ đến gặp chàng.
Vào lúc đó vợ của Puṇṇa, với số đồ ăn đã sửa soạn, nhìn thấy chàng đang ngồi chờ, liền nghĩ, “Chàng đang ngồi chờ ta với cơn đói giằn vặt dữ dội. Điều gì sẽ xảy ra nếu chàng la rầy vì sự chậm trễ của ta? chàng sẽ đánh ta với cây gậy thúc bò thì sao? Rồi lúc đó ta có phân bua điều gì cũng chỉ vô ích. Tốt hơn hết ta nói thật với chàng thì hơn” Nghĩ thế, nàng liền nói cho chàng biết: nàng rất vui mừng vì đã bố thí cho ngài Trưởng Lão và mong rằng điều nàng làm sẽ không trở thành vô ích. Rồi nàng tiếp tục nói, “Thực tế nàng đã sửa soạn đồ ăn cho chàng ngay từ buổi sáng, nhưng khi gặp Trưởng Lão Xá-Lợi Phật (Sārīputta) trên đường đưa cơm cho chàng, nàng đã quyết định dâng cho Trưởng Lão toàn bộ số đồ ăn đó và quay trở về nhà nấu đồ ăn khác cho chàng đây. Đó chính là lý do nàng đã chậm trễ. Nàng muốn chàng hãy vui mừng vì hành vi chậm trễ của nàng”.
Nghe thấy vậy, người chồng không tin nổi vào tai của mình và yêu cầu nàng nhắc lại một lần nữa. Sau khi đã kể câu chuyện bố thí cho vị Trưởng Lão một lần nữa, chàng nói với vợ, nàng đã làm một điều thật là tuyệt vời đến nhường nào; còn đối với chàng, chàng cũng đã dâng cho ngài một vài nhánh cây nhỏ để làm tăm sỉa răng cùng với một ít nước. Chuyện kể của vợ đã khiến cho chàng vô cùng sung sướng, nhưng vì phải nhịn đói trong một thời gian dài nên chàng mệt lả và nằm ngả vào lòng vợ và ngủ thiếp đi.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)

Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks