Trang 1 trong 3 123 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 50

Ðề tài: Gửi người tu Mật.

  1. #1
    Đai Đen Avatar của laduykhanh
    Gia nhập
    Feb 2008
    Nơi cư ngụ
    Tu viện Drikung Kagyupa
    Bài gởi
    540

    Smile Gửi người tu Mật.

    Là một người tu hành theo Mật Tông Tây Tạng, tôi đã luôn tìm tòi học hỏi để thực hành các pháp môn Kim Cương Thừa . Tôi viết ra đây chỉ muốn bày tỏ cho những ai có tâm muốn tìm hiểu giáo pháp của Kim Cương Thừa – một đề tài rất hay bị nhiều sự hiểu lầm của người ngoài và thậm chí ngay với giới Phật tử. Những thành kiến không hay đó là vì những người không hiểu biết hay chỉ nhìn bề ngoài của pháp môn này một cách phù phiếm. Họ nói rằng Mật giáo toàn là bùa chú, phù phép dị thường và không đem lại sự giải thoát chân chính thậm chí còn mang tính tà giáo dục lạc …

    Vâng, khi tôi còn tu Tịnh Độ, nhìn vào những cuốn sách kinh Mật giáo của Việt Nam trong đó đa phần hàm chứa toàn những câu kinh chú với tác dụng cầu đảo ếm trớ, hầu như không có một sự giải thích cặn kẽ nào về những Kinh sách đó. Chính vì cái danh từ “MẬT” nên nó cũng trở thành Bí Mật Tông luôn. Mật giáo chỉ còn là những bài chú trong kinh tụng hàng ngày cầu an, cầu siêu. Sau đó với thuận duyên không ngờ, tôi xuất gia tu học theo truyền thống Mật Giáo Tây Tạng. Chúng ta biết rằng Tây Tạng là một quốc gia tiêu biểu của Mật giáo và đức Đạt Lai Lạt Ma là vị đứng đầu cả thế quyền lẫn tâm linh và được coi như một vị thánh tăng của Phật Giáo đồ. Và tôi đã được dạy theo truyền thống đó.

    Mặc dù với tâm trí hạn hẹp và những khả năng kém của mình. Tôi vẫn mạo muội viết lên đây với ý nghĩ rằng dẫu sao tôi cũng đã cố gắng hết mình để có thể nói về Mật Tông Tây Tạng một cách rõ ràng từ khía cạnh của một học giả và là một người tu hành. Tôi mong muốn rằng mình có thể - một chừng mực nào đó – làm cho quý vị có thể làm quen và hiểu thêm về Mật Tông một cách rõ ràng.

    Hiển nhiên các giáo lý Mật tông vố dĩ là bí truyền cho nên người viết ở đây cũng cố gắng diễn giải trong khuôn khổ hạn hẹp mà mình tu trì và được chỉ dạy.
    Danh từ Mật Tông là một từ có nguồn gốc từ tiếng Phạn Sanskrit- Ngôn ngữ cổ cùa miền bắc Ấn Độ là Tantra nguyên nghĩa của nó có nghĩa là : nối tiếp, tương tục . Đây là một từ khó dịch với hầu hết các ngôn ngữ khác vì nó có nhiều nghĩa. Trong ngôn ngữ của các nước Tây phương họ để nguyên từ Tantra. Ở đây tôi xin gọi đơn thuần như người Việt “Mật Tông” – Tông phái tu trì thần chú.

    Theo quan niệm của Mật tông, chúng tôi cho rằng Giáo Pháp – Dharma của đức Phật được chia làm ba phần : Tiểu thừa, Đại thừa, Kim Cương Thừa.
    Thừa – Yana có nghĩa là cỗ xe. Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ được chỉ chung cho các hệ phái Nam truyền và các lời dạy của đức Phật trong kinh điển Pali – Ngôn ngữ nam Ấn. Các pháp tu của tiểu thừa tập trung vào việc quán chiếu bản tâm của hành giả bằng cách thiền định và giảm thiểu tối đa những ý nghĩ vọng tưởng hỗn tạp đó. Theo Tây Tạng, chúng tôi được học rằng tiểu thừa là con đường trực tiếp mà qua nó có thể hiểu các sự vật trên thế gian này trực tiếp và “như thật” một cách trần trụi vốn có của nó.
    Một điều được chú trọng rất nhiều trong Tiểu Thừa đó là giới luật – Vinaya. Nó được xem như những quy tắc hành xử nhất định, nên hay không nên được dùng để điều phục tâm tánh của chúng ta. Trong Tiểu Thừa mọi thứ đều được chi phối và được lấy giới luật làm khuôn mẫu cho ba nghiệp thân, khẩu, ý. Và những vọng tưởng hỗn tạp cũng theo đó lần hồi mà đoạn dứt sạch để rồi đạt đến trạng thái cuối cùng – Sự chấm dứt mọi phiền não của tự thân và hoàn cảnh bên ngoài. Qua đó có thể dẫn tới sự giải thoát và cho ta sự an định trong tự thân là Niết bàn – Nirvana...
    Last edited by laduykhanh; 14-01-2009 at 04:06 AM.
    Lama Drikung Konchog Tinley
    :yb663:Namo Gurube:yb663:

    Thiền quán mà chẳng học Pháp thì như leo núi mà chẳng có chân.
    Học Pháp mà chẳng thực hành thì là bơ bị chua đáng bỏ.

    Y!: laduykhanh

  2. #2
    Đai Đen Avatar của laduykhanh
    Gia nhập
    Feb 2008
    Nơi cư ngụ
    Tu viện Drikung Kagyupa
    Bài gởi
    540

    Mặc định

    Giáo lý căn bản mà chứa đựng mọi pháp của Tiểu Thừa nằm gọn trong Tứ diệu đế - Cavary Aryasatyani. Nó còn được gọi là Bốn chân lý Mầu nhiệm.
    Gồm có:
    1- Khổ đế - Dukkha: Là thực trạng đau khổ của con người rằng khổ đau là một thực trạng mà con người phải chịu từ khi sinh ra cho đến tận khi già chết.
    2- Tập đế - Samudaya: Là nguyên nhân dẫn đến sự đau khổ do sự vô minh và tích tập các phiền não. Từ đó chúng tạo thành cái dẫn đến sự đau khổ, chỉ khi nhận thức đựơc nó một cách rõ ràng chúng ta sẽ tiến đến con đường của sự diệt trừ và chấm dứt khổ đau( Đạo đế ).
    3- Diệt đế - Nirodha : Là sự chấm dứt khổ đau – Giáo lý nhà Phật chấp nhận có sự khổ trên cuộc đời này và ở khía cạnh khác cũng chỉ ra con đường đối lập của nó – sự an lạc, hạnh phúc.
    4- Đạo đế - Magga : Là con đường, phương pháp thực hành dẫn đến chấm dứt khổ đau để đạt tới sự an lạc hạnh phúc – Niết bàn.

    Qua đây ta thấy được rằng giáo lý đạo Phật không phải là một học thuyết, giáo điều mà là sự tu tập, thực hành và trải nghiệm để rồi biến nó thành chất liệu sống trong mỗi con người. Giáo lý Tiểu Thừa cho ta có được một cuộc sống an lạc đúng nghĩa.
    Đây chính là giáo lý mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng dạy hơn 2500 năm trước tại vườn Lộc uyển, phía bắc của sông Hằng gần Varanassi của Ấn độ. Được gọi là lần chuyển Pháp Luân thứ Nhất .

    Đại Thừa – Mahayana được coi như một cỗ xe lớn rộng rãi so với con đường nhỏ hẹp của Tiểu Thừa. Những giáo lý của Đại Thừa vượt lên hẳn giáo lý chủ trương “giải thoát cá nhân” của Tiểu Thừa. Con đường của Đại Thừa chính là lý tưởng Bồ Tát vượt lên trên sự ích kỷ . Những phiền não tự chúng được coi là một phần của Đại Thừa. Những pháp của đại thừa luôn được đặt trên nền tảng cứu độ mọi loài chúng sinh và đặt quyền lợi của người khác lên trên những quyền lợi của chính bản thân mình và tìm đường giải thoát cho mình cũng như người. Đó chính là Bồ Đề Tâm – lòng từ bi và lý tưởng cứu giúp mọi chúng hữu tình.
    Một điểm khác nữa là Đại Thừa nhấn mạnh về Trí Tuệ Toàn Hảo – Pajna paramita và không chủ trương từ bỏ bản thể cá nhân.
    Con đường Đại Thừa đưa đến sự hoàn hảo về Trí Tuệ và Từ Bi - Lý tưởng của Bồ Tát.

    Lama Drikung Konchog Tinley
    :yb663:Namo Gurube:yb663:

    Thiền quán mà chẳng học Pháp thì như leo núi mà chẳng có chân.
    Học Pháp mà chẳng thực hành thì là bơ bị chua đáng bỏ.

    Y!: laduykhanh

  3. #3

    Mặc định

    còn nữa không thầy LDK? Thầy viết tiếp về Mật tông mà Thầy đang tu học đi
    Thanks Thầy

  4. #4

    Mặc định

    Thay La Duy Khanh co quyen Quan am kinh tan khong co the bo thi cho toi dc khong vay thay co the cho so may de toi lien lac dc khong.
    Rat mong thay hoan hy giup do

  5. #5

    Mặc định

    Kính thầy LaDuyKhanh

    LH đã được đọc những bài của thầy viết về Mật Tông thất rất hay và bổ ích vậy.

    Đọc bài này của thầy xong LH có một thắc mắc nhỏ xin thỉnh giáo thầy chút xíu:

    Theo thiển ý của LH thấy tu theo MT rất khó vì có nhiều nghi thức và quán đảnh. Thầy đã từng tu theo Tịnh Độ vậy vì nhân duyên gì mà thầy theo đường tu Mật vậy ạ. LH thấy Tinh Độ thì dễ dàng tu hơn là MT và thời mạt pháp Tịnh Độ là quan trọng nhất.

    Vàl lời lạm bàn nếu có gì không phải LH xin thầy và đạo hữu bổ qua cho. Chúc thầy ngày càng tinh tấn trên đường đạo

    Nam Mô A Di Đà Phật
    Nhất thiết chúng sanh vô sát nghệp
    Thập phương hà xứ động binh đao
    Gia gia , hộ hộ thường tu thiện
    Thiên hạ hà sầu bất thái bình

    -----------------------------------------------------

    GIA ĐÌNH VÔ HÌNH

  6. #6

    Mặc định

    Có nhân duyên gì bạn lại tu theo Tịnh Độ vậy Liên Hoa ?

  7. #7

    Mặc định Tu Tập

    Tu Tập là một nghệ Thuật Tuyệt vời không thễ nghĩ bàn do cố gắng Tu Tập

    các đạo hữu sẽ có những cái gì nhĩ làm cho các đạo hữu không tưỡng tượng

    nỗi được .Do vậy tự mỗi cá nhân tự nỗ lực .Việc học Tứ Diệu Đế rất hay rất

    tuyệt vời và trong đây hàm chứa nhiều chiêu độc đáo .

  8. #8
    Đai Trắng Avatar của Konchogtinley
    Gia nhập
    Mar 2009
    Nơi cư ngụ
    tu viện DRIKUNG KAGYU
    Bài gởi
    29

    Mặc định

    Theo thiển ý của LH thấy tu theo MT rất khó vì có nhiều nghi thức và quán đảnh. Thầy đã từng tu theo Tịnh Độ vậy vì nhân duyên gì mà thầy theo đường tu Mật vậy ạ. LH thấy Tinh Độ thì dễ dàng tu hơn là MT và thời mạt pháp Tịnh Độ là quan trọng nhất.
    Đạo hữu LH mến, thầy tu theo Mật tông là bởi vì ở chỗ thầy không có truyền thống tịnh độ, thứ đến là có 1 nhân duyên đặc biệt, thầy gặp vị thầy kiếp trước của thầy rồi ngài bắt vào tu viện tu.

    Trong thời mạt pháp này pháp môn nào cũng quan trọng cả, tuy nhiên tịnh độ dễ tu Khó Chứng, nên được nhiều người chọn. Thầy nói khó chứng là vì nhất tâm bất loạn được rất khó, thứ nữa là người thời nay niệm không đạt được nhất tâm thì khi chết khó vãng sinh lắm.
    Lama Drikung Konchog Tinley


    Namo Gurube


    Thiền quán mà chẳng học Pháp thì như leo núi mà chẳng có chân.
    Học Pháp mà chẳng thực hành thì là bơ bị chua đáng bỏ.


    Chat Y!: laduykhanh

  9. #9
    Đai Trắng Avatar của Konchogtinley
    Gia nhập
    Mar 2009
    Nơi cư ngụ
    tu viện DRIKUNG KAGYU
    Bài gởi
    29

    Mặc định

    Người sống với lý tưởng Bồ Tát tu tập 6 hạnh Toàn Hảo – Paramita
    1- Bố thí. Làm việc từ thiện, tặng của cải vật chất và tinh thần. Bố thí còn bao hàm lòng từ bi và bao dung, sẵn sàng chuyển nhường hết công đức của mình để cứu độ người khác.
    2- Trì giới. Sống với động thái đứng đắn, tiết chế. Có hành vi tốt để chế ngự những đam mê, tự mình bảo đảm cho mình một kiếp tái sinh thuận lợi để có thể tiếp tục hoạt động cứu rỗi chúng sinh.
    3- Nhẫn nhục. Khó khăn phiền não nào của người nào cũng có nguyên nhân cá biệt của nó, người ngoài khó có thể hiểu thấu. Nắm vững quan điểm đó ta sẽ có lòng bao dung, biết thông cảm và kiên nhẫn khi tiếp nhân xử thế.
    4- Tinh tấn. Bền bỉ, quyết tâm trong mọi nỗ lực. Giữ ý chí kiên định để tinh tiến đạo đức và tâm linh, không để cho tâm tư mình bị xao lãng vì bất cứ cái gì.
    5- Thiền định. Theo phương pháp quán tưởng như một phương tiện làm tan biến ảo giác về cái tôi – bản ngã. Trong thiền định, hành giả nhận ra mối liên kết giữa bản thân và tha nhân, cảm thụ được mọi hân hoan sầu khổ của chúng sinh.
    6- Trí tuệ. Cũng là trí huệ, tuỳ người đọc. Hiểu được trí năng cao nhất thấu hiểu rằng vạn pháp chỉ do tâm tạo thành và do nhân duyên hoà hiệp mà có nhưng bản thể cũng vẫn là không.
    Tóm lại, sự khác biệt sâu sắc nhất của Đại Thừa chính là sự vị tha – trên con đường đi tới Phật quả không chỉ vì lợi ích của bản thân mà còn phải vì lợi ích của mọi loài. Đó là một phần chính của giáo lý Đại Thừa mà đức Phật đã chuyển bánh xe pháp lần thứ hai tại núi Linh Thứu .
    Lama Drikung Konchog Tinley


    Namo Gurube


    Thiền quán mà chẳng học Pháp thì như leo núi mà chẳng có chân.
    Học Pháp mà chẳng thực hành thì là bơ bị chua đáng bỏ.


    Chat Y!: laduykhanh

  10. #10
    Đai Trắng Avatar của Konchogtinley
    Gia nhập
    Mar 2009
    Nơi cư ngụ
    tu viện DRIKUNG KAGYU
    Bài gởi
    29

    Mặc định

    Cuối cùng là Kim Cương Thừa - Vajrayana, còn có nghĩa là con đường Bất Hoại – Giáo lý tư tưởng của Kim Cương Thừa chính là sự trở về với bản chất của chính mình – sự an lạc vốn có và thường hằng kiên cố bất hoại. Được coi là lần chuyển Pháp Luân thứ ba của đức Phật tại nước Xá Vệ vườn Kỳ Thọ, đức Phật giảng về Phật Tánh nội tại vốn có trong tất cả chúng sinh, có nghĩa rằng mọi loài đều có Phật tánh. Đây là thừa tiếp nối của hai thừa trên và không thể nào đi thẳng vào Kim Cương Thừa mà không hiểu về giáo lý căn bản của Tiểu Thừa và Đại Thừa Phật giáo. Thực hành Kim Cương Thừa hàm chứa một sự nguy hiểm lớn lao mà ngay cả những vị đại sư cũng phải e dè và cho rẵng những ai không thông suốt những giáo lý căn bản của đức Phật mà thực hành Kim Cương Thừa sẽ là một việc làm tai hại nhất .
    Kim Cương Thừa chính là phần phát triển của hai thừa trước và đặt sự các pháp phương tiện làm đầu – Phương Tiện Thiện Xảo. Kim Cang Thừu dùng mọi năng lực mà con người có như năng lượng, các luân xa, sự ham muốn …
    Kim Cương Thừa chính là cái mà cuốn sách nhỏ này muốn trình bày với quý vị. Nó vô cùng quý báu và được các vị Lạt Ma hết sức tôn trọng và coi như gia tài của chính chúng tôi – cho nên các giáo lý đó chắc chẵn sẽ không được truyền lại một cách bất cẩn, sơ sài. Nhưng đễ thuận duyên cho những ai có cơ may tu tập Kim Cương Thừa tôi đã viễt và vẫn mong rằng nó là một viên gạch nào đó để có thế giúp người Việt Nam chúng ta kết duyên lành với Mật Thừa. Quý vị sẽ không thể thực hành những giáo lý ở đây bởi chúng chỉ như một tấm bản đồ được vẽ ra cho rõ ràng hơn. Hãy nhờ một người hướng dẫn viên giỏi và đi theo đó một cách tinh tấn hết lòng.
    Và điểm cuối cùng tôi mong rằng quý vị luôn có trong tâm điểu chính yếu của Phật giáo đó là lòng thiết tha mong cầu lợi ích cho chúng sinh.


    Lama Drikung Konchog Tinley - La Duy Khánh cẩn bút.
    Lama Drikung Konchog Tinley


    Namo Gurube


    Thiền quán mà chẳng học Pháp thì như leo núi mà chẳng có chân.
    Học Pháp mà chẳng thực hành thì là bơ bị chua đáng bỏ.


    Chat Y!: laduykhanh

  11. #11

    Mặc định Tu bền bĩ lâu dài là bình thãn

    Trong việc Tu Học nhẹ nhàn Tu không căng lắm lo lắm mà nhẹ nhàn rót như

    rót mật nhè nhẹ thưỡng thức hương hoa tu tập .Đến ngày kia quay về được

    cái sẵn có cũa chúng ta .Tu không phãi khám phá cái mới lạ mà tìm lại cái mà

    chúng ta đánh mất lúc nào không hay?.

    Do vậy Đức Phật nhắc nhỡ cái mà chúng ta quên bẫn đi .Còn cái tịch tịnh

    không có gì ghê gớm mà thưỡng thức quán quan sát xem em ta hay anh ta

    đi chơi như thế nào ?đễ từ đó nhè nhẹ kéo em hay anh ta về .Không có gì

    phẫn nộ do cái đáng yêu tự nó bộc lộ cái dễ thương đáng yêu cũa nó .Do

    vậy Tu là bãn nhạc tột đĩnh cũa sự yêu thương .

  12. #12

    Mặc định chữ “Nhẫn” gồm chữ “Đao” (con dao) ở trên, chữ “Tâm” (con tim) ở dưới. "Con dao" ở ng

    Theo cách viết của người Hán, chữ “Nhẫn” gồm chữ “Đao” (con dao) ở trên, chữ “Tâm” (con tim) ở dưới. "Con dao" ở ngay trên "con tim", nếu như gặp chuyện mà không biết nhẫn nhịn thì tránh sao khỏi đau đớn? Có nhẫn nhịn mới chuyển nguy thành yên, bại thành thắng…
    Chữ "Nhẫn" - giống như vàng
    “Luận về chữ Nhẫn” của Mạnh Chiêu Quân có viết: “Bạn chớ nên cáu gắt, cáu gắt sẽ làm tổn thương hòa khí. Bạn chớ nên tức giận, tức giận sẽ làm hủy hoại nguyên khí. Bạn chớ nên đùa giỡn, đùa giỡn sẽ làm hỏng tài khí. Bạn phải nhẫn nhịn, nhẫn nhịn sẽ được thần khí"...
    Hay chữ "Nhẫn" ẩn chứa những phương kế sống ở đời như thế này: “Có khi nhẫn để xoay vần/ Thiên thời, địa lợi, nhân tâm hiệp hòa/ Có khi nhẫn để vị tha/ Có khi nhẫn để thêm ta, bớt thù/ Có khi nhẫn: tỉnh giả ngu/ Hơn hơn, thiệt thiệt đường tu khó lường/ Có khi nhẫn để vô thường/ Không không, sắc sắc đoạn trường trần ai/ Có khi nhẫn để lắng tai/ Khôn khôn, dại dại nào ai tránh vòng/ Có khi nhẫn để bao dung/ Ta vui người cũng vui cùng có khi/ Có khi nhẫn để tăng uy/ Có khi nhẫn để kiên trì bền gan...”.
    Việc lấy đức nhẫn làm sức mạnh (dĩ nhẫn vi lực) cho thấy lợi ích cũng như quyền năng biến hóa, nội lực mạnh mẽ của chữ "Nhẫn". Calisto là một thầy "phù thủy" và ông đã chứng minh cho hàng triệu người yêu bóng đá Việt Nam giá trị của chữ "Nhẫn như vàng" ấy.
    "Biết nhẫn nhịn chính là người mạnh nhất"
    Kinh điển của văn hóa phương Đông nói với ông Tô như vậy có thể ông không rõ, do sự khác biệt hai phương. Nhưng hẳn ông biết thánh Gandhi từng nói rằng: Nhẫn nhịn ví như không khí, chẳng biết chống trả, nhưng có khả năng vô hiệu hóa những quả đấm của kẻ bạo tàn.

  13. #13
    Đai Trắng Avatar của Konchogtinley
    Gia nhập
    Mar 2009
    Nơi cư ngụ
    tu viện DRIKUNG KAGYU
    Bài gởi
    29

    Mặc định


    Tìm sự thanh tịnh vốn có của Tâm.

    Theo Phật giáo, tâm thức của chúng ta tràn đầy sự vô minh bất tịnh của ba thứ tham lam, sân hận, và vô minh. Nhưng ngược lại, cho dùng chúng có tối tăm thế nào đi chăng nữa thì bản tánh của nó vốn là thanh tịnh. Ta có thể ví dụ nó như mặt nước, bản tánh của nó thì tịch tĩnh nhưng mặt biển có gió nên luôn luôn nổi sóng. Vì vậy các pháp môn của Phật Giáo mà tiêu biểu là Mật Tông đều là làm cho chúng ta nhận thấy cái bản tánh ấy trong con người chúng ta và đạt đến cái bản lai thanh tịnh ấy.
    Giáo lý của Kim Cương Thừa đã có mặt cách nay hàng ngàn năm và luôn nằm trong vòng bí mật. Những người cầu pháp của Mật tông ngày xưa đã trả giá rất đắt cho cái giáo lý mà họ nhận được bằng những cố gắng khó có thể tưởng tượng nổi. Đọc những câu chuyện của ngài Milarepa hay Naropa, việc tìm gặp được vị thầy và cầu sự trao truyền pháp là vô cùng gian khổ. Ngày này, như tôi được học so với các ngài xem ra có lẽ vẫn còn quá dễ dàng và sung sướng, phải chăng vì không có sự nỗ lực tu tập và khát khao giáo lý như các ngài nên tôi chỉ tu chứng được đến vậy thôi?
    Giáo lý của Kim Cương Thừa thì vô cùng quý báu, việc gặp gỡ một câu thần chú Om Mani Padme Hum thì đáng quý ngoài sức tưởng tượng của bạn rồi. Và thậm chí nếu bạn gặp và thực hành giáo lý này nó là sự may mắn phi thường – khó hơn cả việc có một tái sinh vào cõi tịnh độ
    Khoảng 800 năm trước có một người hỏi đức Ban Thiền Lạt Ma – Panchen Lama rằng xin ngài hãy chú nguyện mong sao cho kiếp sau con được làm người. Ngài đáp : “Ta làm được”. Xin cho kiếp sau con được sinh trong gia đình giàu có . Ngài trả lời : “Ta làm được”.
    Đến lần thứ ba, anh ta hỏi xin ngài cho con có thể gặp được giáo pháp Kim Cương Thừa và thực hành nó. Ngài liền trả lời : “Cái này thì ta không thể làm được vì chỉ có chính anh với sự tích tập công đứng lớn lao mới có thể có duyên ấy”.
    Vâng, đó là điều vô cùng may mắn khi được gặp giáo lý quý bau hơn hết thảy mọi thứ trên đời này. Hiện tại Kim Cương Thừa được truyền rộng ra các nước trên thế giới nhưng không vì thế mà chúng được coi như những món hàng – những điều thực tế ở Phương Tây.

    Theo truyền thống Kim Cương Thừa, giáo pháp này đã được các vị tổ trong tông phái giữ gìn và truyền miệng cho nhau tù những thế hệ này đến thế hệ khác, do đó mà giáo lý Mật Tông được gọi là giáo lý Nói Nhỏ Vào Tai ( nhĩ truyền ) hay Mật Truyền. Nó không phải như một loại Mật Mã mà chỉ có chư tổ mới hiểu mà nói nhỏ với nhau, mà là vì để giúp cho nó được bảo vệ một các an toàn không bị nhữg kẻ thiếu phẩm chất có được. Giáo lý Kim Cương Thừa rất đặc sắc và dản dị tơi mức không ngờ.
    Kim Cương Thừa tiếp nối các giáo lý nền tảng là Đại Thừa và Tiểu Thừa và chuyển tải nó theo một khía cạnh khác. Bình thường vói nhãn quan của chúng ta thấy rằng mọi việc đều khởi điểm ở một điểm nhưng với giáo lý đạo phật thì nó là sự tương tục – Tantra không có sự khởi đầu mà cũng không có sự kết thúc. Cho nên trên con đường tìm về bản tâm thanh tịnh của mình, hành giả phải lùi lại và trải qua những sự chứng nghiệm về tiểu thừa, đó là phần căn bản nhất.
    Một trong những kinh nghiệm của Tiểu Thừa về giáo lý vô ngã và trực nhận được thế giới quan này không hiện hữu năng lực siêu nhiên của các đấng thần linh. Khi chúng ta nhận thức rõ ràng được điều này thì cũng như việc ngoài Phật tánh trong chính mỗi người chúng ta thì không còn gì khác.
    Chúng ta luôn luôn dán nhãn mác cho mình để rồi tự biến mình thành lọ Cola, Pepsi, hay một hãng thời trang nổi tiếng nào đó chẳng hạn ? Để rồi khẳng định rằng cái Ta thật có và cứ mãi bám chấp vào một cái Ngã ảo tưởng, rối bời tâm trí theo nó, lo lắng chăm sóc cho nó hàng ngày những tưởng rằng có thể đem lại sự an lạc cho nó. Tuy nhiên những sự mong cầu này luôn luôn là vô vọng vì nếu chúng ta chỉ cố gắng làm tăng trưởng cái ngã bám víu này thì đau khổ lập tức đi theo sau như cái xe đi theo con vật đang kéo nó. Giáo lý của Tiểu Thừa giúp chúng ta nhận ra ta là ai, ai là ta và có một cái ta thường hằng bất biến hay không – để chỉ cho ta thấy rằng không có một cái bản ngã bất biến thường hằng.
    Chúng ta luôn luôn tự hỏi rằng tại sao có thể vô ngã – khi chúng ta có một cái thân vật lý này, chúng ta ăn, chúng ta ngủ v.v… và mang một cái tên – sự dán nhãn đặt thương hiệu.
    Nhưng chúng ta bị lầm ngay tức thì vì nó bởi vì chúng ta bám chấp vào một cái tâm không thật. Được dựa trên lý do ai ăn, ai ngủ, ai cười chúng ta cho rằng nó thật sự hiện hữu và đang làm những việc như trên. Sự sai lầm này có từ xa xưa – những kiếp trước là nó chính là lý do tạo nên sự đau khổ bây giờ. Vì vậy việc gạt bỏ được nó là cả một quá trình dài và cần hết sức nỗ lực.
    Bạn sẽ không thể đi vào con đường Kim Cương Thừa khi chưa biết tự nhủ rằng ta – cái ta thực sự nó không hiện hữu . Đôi khi có ai đó nghĩ rằng có thể tìm ra sự Vô Ngã này bằng cách lý luận khúc triết về nó – tuy nhiên đó chỉ là lý thuyết và trực nhận vô ngã không phải chỉ là một lý thuyết suông – nó đòi hỏi sự thực chứng của chính bản thân hành giả.
    Nói về điều này đã có một câu chuyện – Một chú tiểu tu trì về giáo lý này và cho rằng tất cả mọi thứ đều không, ta vô ngã – không hết, không ta, không thầy, không có khổ đau…
    Anh ta đến bên vị thầy và nói rằng mình đã nhận thấy mọi vật là như thế. Vị thầy liền đó cầm chiếc dép đập túi bụi vào mặt anh ta và anh ta la lên kêu đau một cách tức tối.
    -Vậy ai đang kêu đau?

    Và như vậy, sự trải nghiệm về vô ngã là một điều hết sức cần thiết, không thể máy móc. Theo Kim Cương Thừa thì luôn luôn hiện hữu một con đường thoát ra khỏi trạng thái tâm thức vô minh và chấp ngã này. Ai ai cũng nỗ lực hết mình để dán nhãn cho cái Ta trên cuộc đời vô thường này để rồi nhận ra rằng nó không bao giờ thường hằng. Chúng ta có thể no hôm nay và lại đói vào ngày mai cũng như sinh ra rồi cũng sẽ có ngày chết đi – điều can hệ ở đây chính là sự vô thường. Tâm chúng ta vô thường – các suy nghĩ của chúng tat hay đổi liên tục.
    Quý vị có thể thấy điều này thông qua một cửa hàng thời trang – mỗi ngày họ cho ra một kiểu mẫu mới và những gì hôm qua được cho là Mod đó được ném lại vào trong thùng . Cho nên chúng ta nên thấu hiểu sự vô thường của tâm và hoàn cảnh, những gì chúng ta cho là tốt đẹp và hạnh phúc hôm nay nó sẽ biến đổi hết tốt đẹp hạnh phúc vào thời gian nào đó . Theo tôi thì nhanh thôi.
    Hãy là người nhận rõ ràng cái KHÔNG HIỆN HỮU để hiểu và sống thật với nó. Điều mà chúng ta phải hiểu rằng các hinh tướng , âm thanh, màu sắc, hương vị có và không đều là những thứ không thực và vô ngã . Tất cả chỉ là do tâm thức này của chúng ta nhận thức một các mù mờ và dán nhãn cho nó mà thôi. Chúng ta nhìn mọi vật theo cách của chúng ta yêu – ghét – đẹp – xấu … Những phân biệt như vậy sẽ đem tới sự bất an – vì luôn muốn theo ý mình. Và càng phải hiểu rằng kinh nghiệm của bản thân về tánh không không thuộc về các quá trình phân tích và triết giải – mặc dù có thể phần đầu cần đến nó – nhưng phải cho mình sự thực chứng về VÔ NGÃ. Nếu quý vị bước vào Kim Cương Thừa với cái bản NGÃ và không có chút hiểu biết gì về Tính Không thì tất cả cái mà bạn có được chỉ là một cái vỏ lá gói bánh chưng rỗng tuếch mà thôi - thật chẳng hay ho gì khi bề ngoài là hay nhưng bên trong chẳng có gì cả và vô ích.
    Quay trở lại vấn đề bản lai thanh tịnh, rõ ràng khi chúng ta xác định tu tập Kim Cương Thừa thì mục đích chúng ta phải là thành Phật , giải thoát giác ngộ – mục đích khác thì tốt nhất quý vị nên chọn cái khác. Nhiều người về bản chất của họ vốn không thể thực hành Kim Cang Thừa – đừng tưởng rằng ai cũng có thể tu tập được Kim Cang Thừa.

    MỘT KHUYẾN CÁO CỦA TÔI LÀ NẾU BẠN KHÔNG MUỐN GIẢI THOÁT GIÁC NGỘ BẰNG CÁCH NHANH CHÓNG VÀ HIỆU QUẢ - XIN ĐỪNG TU TẬP MẬT THỪA.
    Bởi vì nhiều người đã đùa giỡn với chính những thần lực Mật Tông, những pháp tu lấy con đường tham dục, si mê, hận thù làm con đường giẫm lên chúng mà đi tới Phật Quả. Và họ đã phải trả giá đắt cho việc không hiểu tường tận con đường mà họ đặt chân lên với sự do dự - không khôn ngoan. Có thể ai đó nói thực hành Kim Cang Thừa giống như trồng một cái cây mà hàng ngày bạn cần chăm sóc nó đến nơi đến chốn – từ khi bạn cho hạt giống vào lòng đất cho đến lúc nó trở thành một cái cây khoẻ mạnh. Nhưng trong thực hành Mật Tông thì không thể chỉ đơn thuần như thế mà chúng ta cần phải coi nó như chính bản thân ta – sống hoàn toàn với những tư tưởng này.

    Nếu chúng ta có khả năng sống với nó và bao trùm nó lên toàn thể những gì ta làm – đó chính là một nguồn phúc lạc vô tận mà Mật Giáo đem lại. Về bản chất của chúng ta vốn là một tâm “Không Hiện Hữu” và nhận chân ra nó là bạn hoàn toàn đủ điều kiện để đi vào cánh cửa Mật Thừa.
    Hãy học cách khéo léo làm sao cho những kinh nghiệm của “Vô Ngã” “Vô Thường” và “Tánh Không” thực sự có trong bạn, điểu này không dễ nhưng cũng không phải là quá khó. Vì vậy nếu quý vị không thể hiểu những căn bản này thì việc tìm đến cái Bản Tánh Kim Cang Bất Hoại mà Mật Tông cho ta là điều hoàn toàn mơ tưởng.

    Kim Cang Thừa đem đến sự giải thoát dễ dàng nhưng đồng thời người tu tập cũng phải có những cố gắng và nỗ lực tương ưng và thực sự dũng mãnh trong ý chí. Sự giải thoát sẽ đến rất mau nếu chúng ta – theo Giáo lý Kim Cang Thừa – biết vận dụng các năng lượng vốn tiềm tàng trong mỗi con người, cái này rất khó hiểu nhưng có thể ví dụ nó với năng lượng Tính Dục của bạn – nó vô cùng lớn và chúng ta sẽ chuyển hoá nó thành năng lực giác ngộ.
    Tất cả mọi điều mà tôi muốn trình bày ở chương này là : Hãy biết rằng trong bạn và tất cả mọi người đều có Phật tánh thanh tịnh không bị nhiễm ô bởi những tư tưởng nhị nguyên. Khi bước và Kim Cang Thừa hãy có một trải nghiệm và nhận rõ về tánh không vô ngã – Để làm được việc này hãy cố gắng quán về sự vô thường của mọi sự vật và vô ngã của cái ta.

    Hãy dũng mãnh tiến vào con đường của Mật Thừa – Tâm Kim Cang Bất Hoại
    Lama Drikung Konchog Tinley


    Namo Gurube


    Thiền quán mà chẳng học Pháp thì như leo núi mà chẳng có chân.
    Học Pháp mà chẳng thực hành thì là bơ bị chua đáng bỏ.


    Chat Y!: laduykhanh

  14. #14

    Mặc định Đường bay của Đại bàng


    Krischnamurtie
    Sự phân chia,



    Chết là gì? Sự liên hệ giữa tình yêu và chết là gì? Tôi nghĩ chúng ta sẽ tìm ra sự liên hệ giữa tình yêu và chết khi chúng ta hiểu rõ ý nghĩa của chết. Muốn hiểu rõ điều đó chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ sống là gì. Thực ra sống của chúng ta là gì – sống hàng ngày, không phải cái gì đó thuộc học thuyết, thuộc trí năng, mà chúng ta nghĩ nên là, nhưng rất là giả dối? Thực ra sống hàng ngày của xung đột, thất vọng, cô độc, cô lập của chúng ta là gì? Sống của chúng ta là một trận chiến, cả khi ngủ lẫn khi thức. Chúng ta cố gắng tẩu thoát khỏi việc này trong vô vàn cách: qua âm nhạc, nghệ thuật, những viện bảo tàng, giải trí thuộc tôn giáo và triết lý, thêu dệt nhiều lý thuyết, bị trói buộc trong hiểu biết, bất kỳ việc gì ngoại trừ kết thúc xung đột này, trận chiến này mà chúng ta gọi là sống, cùng đau khổ liên tục của nó.

    Liệu đau khổ trong sống hàng ngày có thể kết thúc? Nếu cái trí không thay đổi từ cơ bản, sống của chúng ta chẳng có ý nghĩa bao nhiêu – đi làm việc mỗi ngày, kiếm sống, đọc vài quyển sách, có thể trích dẫn khôn ngoan, thấm nhuần – một cuộc sống rỗng tuếch, một cuộc sống vật chất thực sự. Rồi sau đó khi người ta nhận thức được trạng thái của những việc này, người ta bắt đầu sáng chế một ý nghĩa cho sống, tìm ra ý nghĩa nào đó cho nó. Người ta tìm đến những người thông thái mà sẽ cho họ ý nghĩa, mục đích, của sống – nhưng lại là một tẩu thoát khỏi sống khác. Loại sống này phải trải qua một thay đổi cơ bản.

    Tại sao chúng ta sợ hãi chết, giống như mọi người? Sợ hãi cái gì? Làm ơn hãy quan sát những sợ hãi riêng của bạn về điều gì chúng ta đã gọi là chết, sợ hãi kết thúc trận chiến mà chúng ta gọi là sống. Chúng ta sợ hãi cái không biết được, điều gì có lẽ xảy ra; chúng ta sợ hãi bỏ lại những thứ của cái đã được biết, gia đình, những quyển sách, sự quyến luyến đến ngôi nhà và đồ đạc của chúng ta, đến những con người gần gũi chúng ta. Chúng ta sợ hãi buông bỏ những sự việc đã được biết; và cái đã được biết là sống trong đau khổ, phiền muộn và tuyệt vọng này, cùng những lóe sáng ngẫu nhiên của vui sướng. Không có kết thúc cho sự đấu tranh liên tục này; đó là điều gì chúng ta gọi là sống; chúng ta sợ hãi phải buông bỏ sống. Cái “tôi” – mà là kết quả của tất cả tích lũy này – mà sợ hãi nó sẽ đến một kết thúc; và vì vậy nó đòi hỏi một hy vọng trong tương lai; thế là phải có đầu thai? Ý tưởng đầu thai – mà toàn thế giới phương Đông tin tưởng – là bạn sẽ được sanh lại trong đời sau ở vị trí tốt hơn một tí trên những bậc của cái thang. Bạn đã là người rửa chén đĩa đời này; đời sau bạn sẽ là một hoàng tử, hay là gì chăng nữa – người nào đó sẽ đến nhà và rửa chén đĩa cho bạn. Với những người tin tưởng đầu thai, điều gì bạn là trong đời này có tầm quan trọng nhiều lắm, bởi vì bạn là gì, bạn cư xử thế nào, những suy nghĩ của bạn là gì, những hoạt động của bạn ra sao, đời sau sẽ phụ thuộc vào việc này: hoặc bạn nhận một phần thưởng hoặc bạn bị trừng phạt. Nhưng họ chẳng thèm bận tâm đến việc họ cư xử như thế nào; đối với họ nó chỉ là một hình thức khác của niềm tin, giống như niềm tin có thiên đàng, Thượng đế, hay bạn muốn bất kỳ niềm tin nào. Thực ra, quan trọng nhất là bạn là gì lúc này, hôm nay, bạn cư xử thực sự như thế nào, không chỉ bên ngoài nhưng còn cả bên trong. Phương Tây có hình thức an ủi riêng của nó về chết; nó lý luận chết; nó có tình trạng bị quy định riêng của nó về chết.

    Thực ra chết, kết thúc là gì? Các cơ quan thân thể sẽ kết thúc, bởi vì nó già đi, hay bởi vì bệnh tật và tai nạn. Chẳng có mấy người trong chúng ta già đi nhưng vẫn còn đẹp đẽ, bởi vì chúng ta là những thực thể bị hành hạ; bộ mặt của chúng ta thể hiện nó khi chúng ta lớn lên – và có sự buồn bã của tuổi già, đang nhớ lại những sự việc của quá khứ.

    Liệu người ta có thể chết đi mọi thứ được biết theo tâm lý, từ ngày này sang ngày khác? Nếu không có tự do khỏi cái đã được biết đó, cái có thể được không bao giờ có thể được bắt gặp. Như hiện nay nó là, cái có thể được của chúng ta luôn luôn ở trong lãnh vực của cái đã được biết; nhưng khi có tự do, vậy là cái có thể được là bao la. Liệu người ta có thể, theo tâm lý, chết đi tất cả quá khứ của người ta, chết đi tất cả những quyến luyến, những sợ hãi, chết đi lo âu, hãnh tiến, và kiêu ngạo, một cách trọn vẹn đến độ ngày mai chúng ta thức dậy là một con người trong sáng? Bạn sẽ hỏi, “Việc này sẽ được thực hiện như thế nào; phương pháp nào?” Không có phương pháp, bởi vì một phương pháp hàm ý ngày mai. Nó hàm ý rằng bạn sẽ luyện tập và đạt được cái gì đó sau tất cả, ngày mai, sau nhiều ngày mai. Nhưng liệu bạn có thể thấy tức khắc sự thật của nó – thấy nó thực sự, không lý thuyết – rằng cái trí không thể là trong sáng, hồn nhiên, tươi trẻ, sinh lực, đam mê, nếu không có một kết thúc, theo tâm lý, mọi thứ của quá khứ? Nhưng chúng ta không muốn buông bỏ quá khứ bởi vì chúng ta là quá khứ; tất cả những suy nghĩ của chúng ta được đặt nền tảng trên quá khứ; tất cả hiểu biết là quá khứ; vì vậy cái trí không thể buông bỏ; bất kỳ nỗ lực nào nó thực hiện vẫn còn là thành phần của quá khứ; quá khứ đang hy vọng đạt được một trạng thái khác.

    Cái trí phải trở nên lắng xuống, yên lặng lạ thường. Và nó có trở nên yên lặng lạ thường mà không có bất kỳ kháng cự, không có bất kỳ hệ thống, khi nó thấy toàn chủ đề này. Con người đã luôn luôn tìm kiếm sự bất tử. Anh ấy vẽ một bức tranh, viết tên anh ấy trên nó. Đó là một hình thức của bất tử, để một cái tên lại đằng sau. Anh ấy phải cho cái gì – ngoại trừ hiểu biết công nghệ – anh ấy phải cho cái gì của chính anh ấy? Anh ấy là gì? Bạn và tôi, chúng ta là gì, theo tâm lý? Bạn có lẽ có một tài khoản ngân hàng lớn hơn, khôn ngoan hơn tôi, hay điều này và điều kia, nhưng theo tâm lý, chúng ta là gì? – nhiều từ ngữ, những kỷ niệm, những trải nghiệm, và những thứ này chúng ta muốn truyền lại cho một người con trai, bỏ nó trong một quyển sách, hay vẽ trong một bức tranh. “Tôi”. Cái “tôi” trở thành quan trọng cực kỳ: cái “tôi” đối nghịch cộng đồng, cái “tôi” muốn nhận dạng chính nó, muốn thành tựu chính nó, muốn trở thành cái gì đó vĩ đại – bạn biết rồi, tất cả mọi chuyện như thế. Khi bạn quan sát cái “tôi” đó, bạn thấy rằng nó là một mớ những trải nghiệm, những từ ngữ rỗng tuếch. Đó là cái gì chúng ta bám vào; đó là chính bản chất của sự tách rời giữa “bạn” và “tôi,” “chúng nó” và “chúng tôi.”

    Khi bạn hiểu rõ tất cả điều này – quan sát nó, không qua một người khác nhưng qua chính bạn, nhìn ngắm nó rất cẩn thận mà không có bất kỳ chỉ trích, đánh giá, đè nén, chỉ quan sát – sau đó bạn sẽ thấy rằng tình yêu có thể hiện diện chỉ khi nào có chết. Tình yêu không là ký ức. Tình yêu không là vui thú. Người ta nói rằng tình yêu có liên quan đến tình dục – lại quay trở về sự phân chia giữa tình yêu trần tục và tình yêu thánh thiện, hàm ý sự chấp nhận của cái này và chê bai cái còn lại. Chắc chắn tình yêu không là những thứ này. Người ta không thể bất chợt bắt gặp nó, trọn vẹn, tổng thể, nếu không có một chết đi quá khứ, một chết đi tất cả lao dịch, xung đột, và đau khổ. Sau đó có tình yêu. Sau đó người ta có thể làm cái gì người ta muốn.
    Vì lêu lổng mười năm trời mờ mộng
    Ôm tình già quên bẳng tuổi hoàng hôn .(TS)

  15. #15

    Mặc định Đường bay của Đại bàng 2


    Krischnamurtie.



    Bạn có phiền khi tìm hiểu toàn nghi vấn của chết là gì này hay không? Nhiều người ở đây là những người trẻ tuổi, và các bạn có lẽ sống rất lâu, và cũng có nhiều người già ở đây, kể cả tôi; chúng tôi là những người đang rời đi và các bạn là những người đang đến, nhưng các bạn, những người đang đến, đang rời đi, và các bạn cũng phải đối diện chết. Vậy là chúng ta sẽ tìm hiểu nó; đó là chúng ta sẽ có một thấu triệt nó. Bạn sẽ không thể có một thấu triệt nó nếu có bất kỳ loại sợ hãi nào, và sợ hãi xảy ra chỉ khi nào bạn bị quyến luyến đến những sự việc đã được biết. Những sự việc đã được biết là những hình ảnh của bạn, hiểu biết của bạn, những quyến luyến của bạn, đồ đạc của bạn, những quan điểm, những nhận xét, văn hóa của bạn, nhút nhát, lễ phép của bạn – bạn theo kịp chứ – tất cả việc đó là lãnh vực của cái đã được biết. Nếu bạn sợ hãi, bạn sẽ không bao giờ có một thấu triệt toàn nghi vấn của chết này.

    Tôi muốn tìm ra, giống như bạn phải tìm ra, chết là gì. Tại sao tôi sợ hãi chết? Tại sao tôi sợ hãi tuổi già và bỗng nhiên đến một kết thúc? Nó là một công việc rất phức tạp, hiểu rõ tổng thể của chết là gì, rất phức tạp. Chính sự phức tạp của nó làm cho người ta sợ hãi bởi vì nó giống như bộ máy rất phức tạp; bạn không dám tiếp cận nó, bởi vì bạn không biết gì về nó. Nhưng nếu bạn tiếp cận nó rất đơn giản, mà có nghĩa thực sự bạn đang cố gắng học hỏi về nó, vậy là bạn đang tận hưởng nó – không phải ý tưởng về chết nhưng đang tận hưởng sự suy xét, sự tiếp cận, sự tìm hiểu. Lúc đó bạn đang học hỏi, và bạn không thể học hỏi nếu bạn không hạnh phúc; vì vậy bạn không thể nào có sợ hãi. Đó là bước cơ bản.

    Vì vậy nếu bạn thực sự muốn tìm hiểu điều này, bạn phải rất rõ ràng rằng cái trí của bạn, mà có nghĩa tư tưởng của bạn, không tạo ra sợ hãi, sợ hãi của nó suy nghĩ đến một kết thúc là gì, của nó suy nghĩ thâm nhập vào cái gì đó mà nó không biết là gì.

    Bây giờ trước hết tôi phải tìm ra – bởi vì tôi không sợ hãi, bạn hiểu chứ, tôi không thích bị sợ hãi chút nào cả – liệu có bất kỳ cái gì bất tử như cái “tôi.” “Bất tử” là cái có một tiếp tục. Tôi có thể để lại đồ đạc của tôi cho người anh, cậu con trai của tôi, hay bất kỳ thứ gì, và vì vậy nó có thể ở lại trong gia đình, hay được bán trong một cửa hàng đồ cổ và người nào đó mua nó. Tôi muốn tìm ra liệu có bất kỳ cái gì đó cốt lõi, tiếp tục, bất tử như cái “tôi” mà sợ hãi chết.

    Liệu có bất kỳ cái gì bất tử trong tôi, trong bạn? – bất tử trong ý nghĩa của sự tiếp tục trong thời gian, một khoảng dài trong không gian như cái “tôi”? Cái “tôi” là cái tên – đúng chứ? Cái tên đó có bất tử không? Hay tư tưởng cho sự bất tử đến cái tên? Trong chính nó nó không có bất tử, nhưng tư tưởng, bởi vì tự nhận dạng chính nó với thân thể, với hình ảnh, với hiểu biết, với tất cả những trải nghiệm, những đau khổ, nhũng vui thú, những phiền muộn, bởi vì tự nhận dạng chính nó với những điều đó, nhận dạng đó cho nó một chất lượng của bất tử. Trái lại liệu có bất kỳ cái gì bất tử, một cái gì đó có một tiếp tục bất kể sự không tồn tại của cái tôi? Bạn quan tâm tất cả điều này chứ? Bạn sẽ đối diện chết, dù bạn thích nó hay không. Hoặc bạn sẽ đối diện nó bất ngờ, hoặc qua bệnh tật, hoặc qua sự suy nhược tự nhiên của các cơ quan thân thể. Chết là điều không tránh khỏi. Bạn có thể lẩn tránh nó bằng cách sống lâu hơn, khỏe mạnh hơn, uống nhiều thuốc men hơn, và vân vân. Nhưng ở khúc cuối có sự kiện này – nếu tôi không tự tìm ra cho chính tôi liệu có cái gì đó bất tử vượt khỏi chết, mà có nghĩa không thời gian, mà không thể bị làm sai lạc bởi văn minh, văn hóa, cái gì đó mà bất kể mọi trải nghiệm, hiểu biết, những kích thích, những phản ứng vẫn có sự tồn tại riêng của nó và tiếp tục như là cái “tôi”. Thế là con người đã nói, “Không có cái ‘tôi’ nhưng có Thượng đế.” Ở Châu á họ giải thích nó cách khác, nhưng nó vẫn còn là hành động của tư tưởng mà nói rằng, “Có linh hồn.” Nó là một hành động của tư tưởng mà nói rằng, “Có cái Tối linh,” như họ nói ở Ấn độ. Nó vẫn còn là hành động của tư tưởng, tư tưởng mà sợ hãi cái không biết được. Tư tưởng là cái đã được biết, tư tưởng là thời gian, tư tưởng là cũ kỹ, tư tưởng không bao giờ được tự do. Bởi vì tư tưởng là phản ứng của ký ức, trải nghiệm, hiểu biết, vì vậy nó luôn luôn cũ kỹ, không bao giờ được tự do, và bởi vì phụ thuộc thời gian nó không chắc chắn về cái không biết được, đó là, vượt khỏi thời gian. Thế là nó nói, “Tôi không quan trọng; cái ‘tôi’ là thoáng qua, đang được xếp đặt vào chung bởi văn hóa, bởi thời gian, bởi ngẫu nhiên, bởi gia đình, bởi truyền thống; nó đã phát triển những khuynh hướng, những đặc điểm nào đó; nó có tình trạng bị quy định riêng của nó, nhưng vượt khỏi tất cả điều đó còn có linh hồn, còn có cái gì đó vô hạn trong tôi mà là bất tử.” Tất cả điều đó là qui trình của tư tưởng. Và tư tưởng, bị đối diện với cái không thể tránh khỏi, mà là chết, kết thúc, nói rằng, “Tôi không thể chịu đựng nó;” vì vậy nó nói tiếp, “Phải có một đời sống tương lai,” hay nó nói, “Tôi tin tưởng có một đời sống tương lai,” hay, “Có thiên đàng, và tôi sẽ ngự bên cạnh Thượng đế” – nó muốn được thanh thản khi bị đối diện với cái gì đó hoàn toàn không biết được. Và có hàng ngàn người sẽ cho bạn sự thanh thản. Tất cả nhà thờ có tổ chức trao tặng việc đó; bạn muốn việc đó, và thế là chúng tồn tại.

    Bây giờ nếu bạn thấy cái cách nó vẫn còn là hành động của tư tưởng và vì vậy được đặt nền tảng trên sợ hãi, trên tưởng tượng, trên quá khứ, mà là lãnh vực của cái đã được biết. Đó là, tôi bị quyến luyến đến lãnh vực của cái đã được biết, với tất cả những khác biệt của nó, những thay đổi của nó, những hoạt động của nó, và điều gì tôi đòi hỏi là sự thanh thản. Bởi vì tôi đã tìm được sự thanh thản trong quá khứ, tôi đã sống trong lãnh vực của cái đã được biết; đó là lãnh thổ của tôi, tôi đã biết những biên giới, những giới hạn của nó. Những biên giới là ý thức của tôi, mà là nội dung của nó, tôi hoàn toàn thân thuộc với tất cả việc đó, và chết là cái gì đó tôi không biết; tôi không muốn nó.

    Vì vậy tôi tự hỏi chính tôi: cuộc sống của tôi đã là quá khứ; tôi sống trong quá khứ; tôi hành động trong quá khứ; đó là cuộc sống của tôi. Hãy lắng nghe điều này! Cuộc sống của tôi, đang sống trong quá khứ, là một cuộc sống chết rồi. Bạn hiểu chứ? Cái trí của tôi, mà sống trong quá khứ, là một cái trí chết rồi. Và tư tưởng nói, “Đó không là chết; tương lai là chết.” Vậy là tôi thấy điều này như một sự kiện. Bạn theo kịp chứ? Tôi thấy điều này như cái gì đó đúng thực lạ thường. Vì vậy cái trí, nhận ra điều đó, thực sự chết đi quá khứ; nó sẽ sử dụng quá khứ, nhưng nó đã không còn bị kềm kẹp bởi quá khứ; quá khứ đã mất đi những giá trị của nó, sự lôi cuốn của nó, sức sống của nó. Thế là cái trí có năng lượng riêng của nó, mà không bị bắt nguồn từ quá khứ. Do đó sống là chết – bạn hiểu chứ? Do đó sống là tình yêu, mà là chết. Bởi vì nếu không có quyến luyến, lúc đó có tình yêu. Nếu không có quyến luyến đến quá khứ – quá khứ có giá trị của nó, mà có thể được sử dụng, mà phải được sử dụng như là hiểu biết – vậy là sống của tôi là một mới mẻ lại liên tục, là một chuyển động liên tục trong lãnh vực của cái không biết được mà trong đó có học hỏi, chuyển động. Vì vậy chết là trạng thái cô đơn kết thúc. Vì vậy có một loại sống hoàn toàn khác hẳn.
    Vì lêu lổng mười năm trời mờ mộng
    Ôm tình già quên bẳng tuổi hoàng hôn .(TS)

  16. #16

    Mặc định Đường bay của Đại bàng 3

    "

    Tôi muốn nói về một chủ đề quan trọng, đó là chủ đề chết, chết không chỉ của cá thể, nhưng chết như một ý tưởng mà khắp thế giới đều nói đến và đã được tiếp tục như một nghi vấn trong hàng thế kỷ nhưng chưa từng được giải quyết. Không những có sợ hãi chết của cá thể đặc biệt nhưng cũng còn có một thái độ tập thể, to lớn đối với chết, ở Châu á cũng như ở các quốc gia phương Tây, mà phải được hiểu rõ. Vì vậy chúng ta sẽ cùng nhau suy xét toàn chủ đề này.

    Trong khi suy xét một chủ đề quan trọng và rộng lớn như thế, những từ ngữ được dự tính chỉ giúp chúng ta chuyển tải, hiệp thông cùng nhau. Nhưng chính từ ngữ có thể dễ dàng trở thành một cản trở khi chúng ta đang cố gắng hiểu rõ nghi vấn sâu sắc của chết này nếu chúng ta không trao chú ý tổng thể của chúng ta cho nó, chứ không phải cố gắng dùng từ ngữ, thiếu nghiêm túc, hoặc trí năng để tìm ra một lý do cho sự tồn tại của chết.

    Trước hết, hay có lẽ trong tiến hành của hiểu rõ sự việc lạ thường được gọi là chết này, chúng ta cũng sẽ phải hiểu rõ ý nghĩa của thời gian, mà là một yếu tố quan trọng khác trong cuộc sống của chúng ta. Tư tưởng tạo ra thời gian, rồi thời gian kiểm soát và định hình tư tưởng của chúng ta. Tôi đang sử dụng từ ngữ thời gian không chỉ trong ý nghĩa tuần tự của hôm qua, hôm nay và ngày mai mà còn trong ý nghĩa tâm lý – thời gian mà tư tưởng đã sáng chế như một phương tiện để đến được, đạt được, trì hoãn. Cả hai là những yếu tố trong cuộc sống của chúng ta, đúng chứ? Người ta phải ý thức được thời gian tuần tự; ngược lại bạn và tôi không thể gặp gỡ nơi nào đó. Thời gian tuần tự rõ ràng là cần thiết trong những biến cố của cuộc sống chúng ta; đó là một vấn đề đơn giản, rõ ràng không cần tìm hiểu kỹ lắm. Vì vậy điều gì chúng ta phải cân nhắc, bàn luận, và hiểu rõ là toàn tiến hành thuộc tâm lý mà chúng ta gọi là thời gian.

    Làm ơn, nếu bạn chỉ nghe những từ ngữ và không thấy những hàm ý đằng sau những từ ngữ, tôi sợ rằng chúng ta không thể tiến xa lắm. Hầu hết chúng ta đều bị nô lệ bởi những từ ngữ và những khái niệm hoặc công thức mà những từ ngữ đã sắp xếp vào chung. Đừng vội vã gạt đi điều này, bởi vì mỗi người chúng ta đều có một công thức, một khái niệm, một ý tưởng, một lý tưởng – hợp lý, không hợp lý, hay loạn thần kinh – mà chúng ta đang sống theo nó. Cái trí đang tự hướng dẫn chính nó bởi khuôn mẫu nào đó, bởi một loạt những từ ngữ đặc biệt mà đã được biến thành một khái niệm, một công thức. Điều này đúng thực với mỗi người chúng ta, và làm ơn hãy rõ ràng về nó – có một ý tưởng, một khuôn mẫu mà chúng ta đang định hình cuộc sống của chúng ta theo nó. Nhưng nếu chúng ta muốn hiểu rõ nghi vấn của sống và chết này, tất cả những công thức, những khuôn mẫu và những hình thành ý tưởng – mà hiện diện bởi vì chúng ta không hiểu rõ sống – phải hoàn toàn không còn. Một con người đang sống tổng thể, trọn vẹn, không sợ hãi không có ý tưởng về sống. Hành động của anh ta là tư tưởng, và tư tưởng của anh ta là hành động; chúng không là hai sự việc tách lìa. Nhưng bởi vì chúng ta sợ hãi cái sự việc được gọi là chết, chúng ta đã tách rời nó khỏi sống; chúng ta đã đặt sống và chết trong hai cái ngăn riêng kín mít với một khoảng không gian thật xa giữa chúng, và chúng ta sống theo từ ngữ, theo công thức của quá khứ, truyền thống của cái gì đã là. Một cái trí bị trói buộc trong qui trình này không bao giờ có thể thấy tất cả những hàm ý của chết và của sống hay hiểu rõ sự thật là gì.

    Vì vậy khi bạn tìm hiểu cùng tôi toàn nghi vấn này, nếu bạn tìm hiểu như một người Thiên chúa giáo, một người Phật giáo, một người Ấn độ giáo, hay tôn giáo nào bạn muốn, bạn sẽ hoàn toàn bị mất hút. Và nếu bạn mang đến sự tìm hiểu này cặn bã của những trải nghiệm khác nhau của bạn, của hiểu biết mà bạn đã lượm lặt từ những quyển sách, từ những người khác, lại nữa bạn sẽ không những bị thất vọng mà còn bị rối ren nữa. Con người thực sự muốn tìm hiểu đầu tiên phải được tự do khỏi tất cả những việc này, mà cấu thành nền tảng của anh ấy – và đó là khó khăn lớn nhất của chúng ta. Người ta phải được tự do khỏi quá khứ, nhưng không phải như một phản ứng, bởi vì nếu không có tự do này người ta không thể khám phá bất kỳ điều gì mới mẻ. Hiểu rõ là tự do, nhưng rất ít người chúng ta muốn được tự do. Chúng ta thích sống trong một cái khung an toàn thuộc tạo tác riêng của chúng ta hay trong một cái khung được sắp xếp vào chung bởi xã hội. Bất kỳ nhiễu loạn nào trong khuôn mẫu đó đều gây xáo trộn. Và thay vì bị xáo trộn chúng ta sống một cuộc sống của cẩu thả, chết rồi, và suy sụp.

    Muốn tìm hiểu nghi vấn quan trọng của chết này, chúng ta phải tỉnh thức không chọn lựa không chỉ cả sự nô lệ đến những công thức và những khái niệm mà còn cả những sợ hãi của chúng ta, sự ham muốn được tiếp tục của chúng ta, và vân vân. Muốn tìm hiểu chúng ta phải tiếp cận nghi vấn mới mẻ lại. Làm ơn, điều này thực sự rất quan trọng. Cái trí phải rõ ràng và không bị trói buộc trong một khái niệm hay một ý tưởng nếu người ta muốn tìm hiểu điều gì đó lạ thường – giống như chết phải là như vậy. Chết phải là cái gì đó lạ thường, không phải cái sự việc mà chúng ta cố gắng lừa bịp và sợ hãi.

    Thuộc tâm lý chúng ta là những nô lệ cho thời gian, thời gian là ký ức của hôm qua, của quá khứ, cùng tất cả những trải nghiệm được tích lũy của nó; nó không chỉ là ký ức của bạn như một người riêng biệt mà còn cả ký ức của tập thể, của chủng tộc, của con người qua những thời đại. Quá khứ được cấu thành bởi những vui mừng, những đau khổ, những phiền muộn tập thể và cá thể của con người, sự đấu tranh kỳ cục của anh ấy với sống, với chết, với sự thật, với xã hội. Tất cả việc đó là quá khứ, ngày hôm qua được nhân lên hàng ngàn; và với hầu hết chúng ta hiện tại là chuyển động của quá khứ hướng đến tương lai. Không có những phân chia thật chính xác như là quá khứ, hiện tại và tương lai. Cái gì đã là, được bổ sung bởi hiện tại, là cái gì sẽ là. Đó là tất cả mà chúng ta biết. Tương lai là quá khứ được bổ sung bởi những biến cố của hiện tại; ngày mai là ngày hôm qua được định hình lại bởi những trải nghiệm, những phản ứng, và hiểu biết của ngày hôm nay. Đây là điều gì chúng ta gọi là thời gian.

    Thời gian là một sự việc đã được sắp xếp vào chung bởi bộ não, và luân phiên bộ não là kết quả của thời gian, kết quả của một ngàn ngày hôm qua. Mỗi tư tưởng là kết quả của thời gian; nó là đáp trả của ký ức, phản ứng của những nguy hiểm đang đe dọa, những thất bại, những tuyệt vọng, những ao ước của ngày hôm qua; và với nền tảng đó, chúng ta nhìn vào cuộc sống chúng ta suy xét mọi việc. Liệu có Thượng đế, hay không có Thượng đế, vận hành của chính thể là gì, bản chất của liên hệ, làm thế nào để tự vượt qua hay điều chỉnh với ghen tuông, lo âu, tội lỗi, thất vọng, đau khổ – chúng ta nhìn vào tất cả những vấn đề này bằng nền tảng thời gian đó.

    Bây giờ với nền tảng đó bất kỳ việc gì chúng ta nhìn đều bị biến dạng, và khi sự khủng hoảng đòi hỏi chú ý cao độ, nếu chúng ta nhìn nó bằng đôi mắt của quá khứ, chúng ta hoặc hành động loạn thần kinh, mà là việc gì tất cả chúng ta đều làm, hoặc chúng ta tự dựng lên cho mình một bức tường kháng cự lại nó. Đó là toàn tiến hành của cuộc sống chúng ta.

    Làm ơn, tôi đang phơi bày bằng lời nói những điều này, nhưng nếu bạn chỉ nhìn vào những từ ngữ và không theo dõi qui trình suy nghĩ riêng của bạn, mà là thấy chính bạn như bạn là, vậy thì bạn sẽ không có một hiểu rõ tổng thể về chết; và phải có hiểu rõ đó nếu bạn muốn được tự do khỏi sợ hãi và thâm nhập cái gì đó hoàn toàn khác hẳn.

    Chúng ta luôn luôn đang diễn giải hiện tại theo quy định của quá khứ và vì vậy cho một tiếp tục đến cái gì đã là. Với hầu hết chúng ta hiện tại là sự tiếp tục của quá khứ. Chúng ta gặp gỡ những vấn đề đang xảy ra hàng ngày của cuộc sống chúng ta – mà luôn luôn có mới mẻ riêng của nó, quan trọng riêng của nó – bằng trọng tải chết rồi của quá khứ, qua đó tạo ra cái chúng ta gọi là tương lai. Nếu bạn đã quan sát cái trí riêng của bạn, không chỉ tầng ý thức bên ngoài mà còn cả tầng ý thức bên trong, bạn sẽ biết rằng nó là quá khứ, rằng không có gì mới mẻ trong nó, không có gì không bị sai lạc bởi quá khứ, thời gian. Và có cái gì chúng ta gọi là hiện tại. Liệu có một hiện tại không bị tiếp xúc bởi quá khứ được không? Liệu có một hiện tại không quy định tương lai được không?

    Có thể bạn đã không suy nghĩ về điều này trước kia, và chúng ta sẽ phải tìm hiểu nó một chút xíu. Hầu hết chúng ta chỉ muốn sống trong hiện tại bởi vì quá khứ quá chán ngán, quá phiền toái, quá khó hiểu, và tương lai lại quá mơ hồ. Cái trí hiện đại nói, “Hãy sống trọn vẹn trong hiện tại. Đừng bận tâm đến việc gì sẽ xảy ra ngày mai, nhưng hãy sống cho ngày hôm nay. Dù sao chăng nữa sống thật là khốn khổ, và tội lỗi một ngày đã đủ rồi; vì vậy hãy sống mỗi ngày trọn vẹn và buông bỏ mọi thứ khác đi. Rõ ràng đó là một triết lý của tuyệt vọng.

    Liệu có thể sống trong hiện tại mà không mang thời gian vào nó, mà là quá khứ? Chắc chắn bạn có thể sống trong tổng thể của hiện tại đó chỉ khi nào bạn hiểu rõ tổng thể của quá khứ. Chết đi thời gian là sống trong hiện tại, và bạn có thể chết đi thời gian chỉ khi nào bạn đã hiểu rõ quá khứ, đó là hiểu rõ cái trí riêng của bạn – không chỉ cái trí tầng ý thức bên ngoài mà đi làm việc mỗi ngày, thâu lượm hiểu biết và trải nghiệm, có những phản ứng hời hợt, và đại loại như thế, mà còn cả cái trí tầng ý thức bên trong, trong đó được chôn giấu những truyền thống đã tích lũy của gia đình, của nhóm người, của chủng tộc. Cũng được chôn giấu trong tầng ý thức bên trong là sự đau khổ vô tận của con người và sự sợ hãi chết. Tất cả việc đó là quá khứ, mà là chính bạn, và bạn phải hiểu rõ nó. Nếu bạn không hiểu rõ cái đó, nếu bạn đã không tìm hiểu những phương cách của cái trí và tâm hồn riêng của bạn, không tìm hiểu tham lam và đau khổ của bạn, nếu bạn không tự biết chính bạn trọn vẹn, bạn không thể sống trong hiện tại. Sống trong hiện tại là chết đi quá khứ. Trong tiến hành của hiểu rõ về chính bạn, bạn đã làm tự do khỏi quá khứ, mà là tình trạng bị quy định của bạn – bị quy định của bạn như một người Cộng sản, một người Thiên chúa giáo, một người Tin lành, một người Ấn độ giáo, một người Phật giáo, tình trạng bị quy định đã áp đặt vào bạn bởi xã hội, và bởi những tham lam, những ganh tị, những lo âu, những thất vọng, nhũng đau khổ, và những tuyệt vọng riêng của bạn. Chính tình trạng bị quy định của bạn cho sự tiếp tục đến cái “tôi”, cái ngã.

    Nếu bạn không biết về chính bạn, tình trạng tầng ý thức bên trong cũng như tầng ý thức bên ngoài của bạn, tất cả tìm hiểu của bạn sẽ bị bóp méo, được cho một thành kiến. Bạn sẽ không có nền tảng cho sự suy nghĩ hợp lý, rõ ràng, có lý luận, thông minh. Suy nghĩ của bạn sẽ phụ thuộc một khuôn mẫu, công thức, hay một bộ từ ngữ nào đó, nhưng đó thực sự không là suy nghĩ. Muốn suy nghĩ rõ ràng, hợp lý, mà không trở nên loạn thần kinh, mà không bị trói buộc trong bất kỳ hình thức ảo tưởng nào, bạn phải biết toàn qui trình của tình trạng ý thức riêng của bạn, mà được xếp đặt vào chung bởi thời gian, bởi quá khứ. Và liệu có thể sống không còn quá khứ? Chắc chắn đó là chết. Bạn hiểu chứ? Chúng ta sẽ quay lại vấn đề của hiện tại khi chúng ta đã tự thấy cho chính mình chết là gì.

    Chết là gì? Đây là một nghi vấn cho những người trẻ và những người già, vì vậy làm ơn hãy tự ấp ủ nó cho chính bạn. Chết chỉ là sự kết thúc của các cơ quan thân thể? Đó là điều gì chúng ta sợ hãi? Chúng ta muốn tiếp tục cái thân thể? Hay chúng ta khao khát hình thức tiếp tục nào đó? Tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng thân thể, thực thể vật chất, bị cạn kiệt qua sử dụng, qua vô vàn những áp lực, những ảnh hưởng, những xung đột, những thôi thúc, những đòi hỏi, những đau khổ. Một số người có thể thích nó nếu thân thể có thể kéo dài được 150 năm hay nhiều hơn, và có lẽ những bác sĩ và những người khoa học cùng nhau cuối cùng sẽ tìm ra phương pháp nào đó để kéo dài sự đau khổ mà hầu hết chúng ta đều đang sống. Nhưng không sớm thì muộn thân thể sẽ chết đi; các cơ quan vật chất đến một kết thúc. Giống như bất kỳ cái máy nào, cuối cùng nó bị cạn kiệt.

    Với hầu hết chúng ta, chết là cái gì đó còn sâu thẳm hơn sự kết thúc của thân thể và mọi tôn giáo hứa hẹn một loại sống nào đó sau khi chết. Chúng ta khao khát một tiếp tục; chúng ta muốn được bảo đảm rằng cái gì đó tiếp tục khi thân thể chết đi. Chúng ta hy vọng rằng cái tinh thần, cái “tôi” – cái “tôi” mà đã trải nghiệm, đã đấu tranh, đã thâu lượm, đã học hỏi, đã đau khổ, đã hưởng thụ; cái “tôi,” mà được gọi là linh hồn ở phương Tây và một cái tên khác ở phương Đông – sẽ tiếp tục. Vì vậy điều gì chúng ta quan tâm là sự tiếp tục, không phải chết. Chúng ta không muốn biết chết là gì; chúng ta không muốn biết điều kỳ diệu lạ thường, vẻ đẹp, chiều sâu, bao la của chết. Chúng ta không muốn tìm hiểu cái gì đó mà chúng ta không biết. Tất cả mọi việc mà chúng ta muốn là được tiếp tục. Chúng ta nói, “Tôi, người đã sống được bốn mươi, sáu mươi, tám mươi năm; tôi, người có một ngôi nhà, một gia đình, con cái, cháu chắt; tôi, người đã đi làm việc ngày này qua ngày khác trong quá nhiều năm; tôi, người đã có những cãi cọ, những ham muốn tình dục; tôi muốn tiếp tục sống.” Đó là tất cả mọi việc mà chúng ta quan tâm. Chúng ta biết rằng có chết, rằng sự kết thúc của thân thể vật chất là điều không thể tránh khỏi, vì vậy chúng ta nói, “Tôi phải cảm thấy được bảo đảm về sự tiếp tục của chính tôi sau khi chết.” Vì vậy chúng ta có những niềm tin, những tín điều, sanh lại, đầu thai – một ngàn cách tẩu thoát khỏi sự thật của chết. Và khi chúng ta có một cuộc chiến tranh, chúng ta cắm những cây thánh giá cho những con người tội nghiệp mà đã bị giết chết. Loại sự việc này đã xảy ra hàng thiên niên kỷ.

    Chúng ta thực sự chưa bao giờ đã trao toàn thân tâm của chúng ta để tìm ra chết là gì. Chúng ta luôn luôn tiếp cận chết với điều kiện chúng ta phải được bảo đảm có một tiếp tục sau đó. Chúng ta nói, “Tôi muốn cái đã được biết tiếp tục,” cái đã được biết là những phẩm chất của chúng ta, những khả năng của chúng ta, ký ức của những trải nghiệm của chúng ta, những đấu tranh, những thành tựu, những thất vọng, những tham vọng của chúng ta; và nó cũng là danh tánh của chúng ta và tài sản của chúng ta. Tất cả điều đó là cái đã được biết, và chúng ta muốn tất cả nó được tiếp tục. Khi nào chúng ta được trao tặng sự chắc chắn của tiếp tục đó, vậy thì có lẽ chúng ta sẽ tìm hiểu chết là gì và liệu có một sự việc như là cái đã được biết – mà phải là cái gì đó lạ thường để tìm ra.

    Vậy là bạn thấy sự khó khăn. Điều gì chúng ta muốn là sự tiếp tục, và chúng ta không bao giờ tự hỏi chính mình nó là gì mà tạo ra sự tiếp tục, mà cho động cơ đến xâu chuỗi này, chuyển động của sự tiếp tục này. Nếu bạn quan sát, bạn sẽ thấy rằng chính là tư tưởng, một mình nó, tạo ra một ý thức của tiếp tục – không còn cái gì khác. Qua tư tưởng bạn tự nhận dạng chính mình với gia đình của bạn, với ngôi nhà của bạn, với những bài thơ hay những bức tranh của bạn, với nhân cách của bạn, với những thất vọng của bạn, với những vui vẻ của bạn. Bạn càng suy nghĩ về một vấn đề nhiều bao nhiêu, bạn càng cho gốc rễ và sự tiếp tục đến vấn đề đó nhiều bấy nhiêu. Nếu bạn thích người nào đó, bạn suy nghĩ về người đó, và chính suy nghĩ này cho một ý thức của tiếp tục trong thời gian. Chắc chắn, bạn phải suy nghĩ, nhưng liệu bạn có thể suy nghĩ trong chốc lát, ngay khoảnh khắc – rồi sau đó buông bỏ suy nghĩ? Nếu bạn đã không nói, “Tôi thích cái này, nó là của tôi – nó là bức tranh của tôi, tự diễn tả của tôi, Thượng đế của tôi, người vợ của tôi, đức hạnh của tôi – và tôi sẽ giữ nó,” bạn sẽ không có ý thức của liên tục trong thời gian. Nhưng bạn không suy nghĩ rõ ràng, thấu suốt mọi vấn đề. Luôn luôn có vui thú mà bạn muốn giữ và đau khổ mà bạn muốn loại bỏ, mà có nghĩa rằng bạn suy nghĩ về cả hai, và tư tưởng cho sự tiếp tục đến cả hai. Điều gì chúng ta gọi là tư tưởng là sự đáp trả của ký ức, của liên tưởng, mà theo căn bản giống hệt như một máy tính. Bạn phải đến điểm mấu chốt nơi bạn tự thấy cho chính bạn sự thật của điều này.

    Hầu hết chúng ta thực sự không muốn tìm ra cho chính mình chết là gì; trái lại chúng ta muốn tiếp tục trong cái đã được biết. Nếu người em của tôi, người con trai của tôi, người vợ của tôi, hay người chồng của tôi chết, tôi bị buồn bực, cô độc, thương xót mình, mà là điều gì tôi gọi là đau khổ, và tôi tiếp tục sống trong trạng thái buồn bực, hoang mang, hỗn loạn đó. Tôi tách lìa sống khỏi chết, sống của những cãi cọ, cay nghiệt, khổ sở, thất vọng, tuyệt vọng, những hổ thẹn, những sỉ nhục, bởi vì sống này tôi biết, và chết tôi không biết. Niềm tin và giáo điều thỏa mãn cho tôi cho đến lúc tôi chết. Đó là điều gì xảy ra cho hầu hết chúng ta.

    Ý thức của tiếp tục này mà tư tưởng trao cho trạng thái ý thức là hoàn toàn nông cạn, như bạn có thể thấy. Không có gì huyền bí và cao cả về nó, và khi bạn hiểu rõ toàn ý nghĩa của nó, bạn suy nghĩ – nơi nào suy nghĩ là cần thiết – rõ ràng, hợp lý, thông minh, không cảm tính, không có sự thôi thúc liên tục này để thành tựu, để là hay để trở thành người nào đó. Sau đó bạn sẽ biết làm thế nào để sống trong hiện tại, và sống trong hiện tại là đang chết từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Vậy là bạn có thể tìm hiểu, bởi vì cái trí của bạn, không sợ hãi, nên không còn bất kỳ ảo tưởng nào. Không còn bất kỳ ảo tưởng nào là tuyệt đối cần thiết, và ảo tưởng hiện diện chỉ khi nào có sợ hãi. Khi không có sợ hãi, không có ảo tưởng. Ảo tưởng nảy sinh khi sợ hãi bám rễ trong an toàn, dù nó ở trong hình thức của một liên hệ đặc biệt, một ngôi nhà, một niềm tin, hay vị trí và thanh danh. Sợ hãi tạo ra ảo tưởng. Chừng nào sợ hãi còn tiếp tục, cái trí sẽ bị trói buộc trong vô vàn hình thức của ảo tưởng, và một cái trí như thế không thể hiểu rõ chết là gì.

    Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu chết là gì – ít ra, tôi sẽ tìm hiểu nó, phơi bày nó. Nhưng bạn có thể hiểu rõ chết, sống cùng nó trọn vẹn, biết ý nghĩa đầy đủ, sâu thẳm của nó, chỉ khi nào không có sợ hãi và do đó không có ảo tưởng. Được tự do khỏi sợ hãi là sống trọn vẹn trong hiện tại, mà có nghĩa rằng bạn không đang vận hành theo máy móc trong thói quen của ký ức. Hầu hết chúng ta quan tâm đến đầu thai, hay chúng ta muốn biết liệu chúng ta có thể tiếp tục sau khi thân thể chết đi, tất cả đều quá tầm thường. Chúng ta đã hiểu rõ sự tầm thường của ham muốn cho tiếp tục này chưa? Chúng ta có thấy rằng nó chỉ là qui trình của suy nghĩ, bộ máy của tư tưởng mà đòi hỏi sự tiếp tục hay không? Ngay khi bạn thấy sự kiện đó, bạn nhận ra sự nông cạn hoàn toàn, sự ngu xuẩn của một đòi hỏi như thế. Cái “tôi” tiếp tục sau khi chết? Ai cần đến? Và cái tôi mà bạn muốn tiếp tục này là gì? Những vui thú và những mộng mơ của bạn, những hy vọng, những thất vọng, và những vui vẻ của bạn, tài sản của bạn và cái danh tính bạn mang, nhân cách nhỏ nhen tầm thường của bạn, và hiểu biết bạn đã thâu lượm trong cuộc sống chật hẹp, bị kềm kẹp của bạn, mà đã được tạo thêm sự mỹ miều bởi những giáo sư, bởi những nhà văn, bởi những họa sĩ. Đó là điều gì bạn muốn tiếp tục, và đó là tất cả.

    Bây giờ, dù bạn già hay trẻ, bạn phải kết thúc tất cả việc đó. Bạn phải kết thúc nó hoàn toàn, từng mảnh, như một bác sĩ giải phẫu bằng một con dao. Vậy là cái trí không có ảo tưởng và không có sợ hãi; do đó nó có thể quan sát và hiểu rõ chết là gì. Sợ hãi tồn tại bởi vì sự ham muốn bám chặt vào cái gì đã được biết. Cái đã được biết là quá khứ đang sống trong hiện tại và đang bổ sung tương lai. Đó là sống của chúng ta ngày sang ngày, năm sang năm, đến khi chúng ta chết. Làm thế nào cái trí như thế có thể hiểu rõ cái gì đó không thời gian, không động cơ, cái gì đó hoàn toàn không biết được?

    Bạn hiểu chứ? Chết là cái không biết được, và bạn có những ý tưởng về nó. Bạn lẩn tránh nhìn vào chết, hay bạn lý luận nó, nói rằng nó là điều không tránh khỏi, hoặc bạn có một niềm tin mà cho bạn sự thanh thản, hy vọng. Nhưng chỉ một cái trí chín chắn, một cái trí không sợ hãi, không ảo tưởng, không có sự tìm kiếm ngu xuẩn này để có được tiếp tục và tự biểu lộ – chỉ một cái trí như thế có thể quan sát và tìm ra chết là gì, bởi vì nó biết làm thế nào để sống trong hiện tại.

    Làm ơn hãy theo sát điều này. Sống trong hiện tại là sống không tuyệt vọng, bởi vì không có thèm khát quá khứ, và không có hy vọng trong tương lai. Thế là cái trí nói, “Hôm nay là đủ cho tôi rồi.” Nó không lẩn tránh quá khứ hay mù quáng tương lai, nhưng nó đã hiểu rõ tổng thể của ý thức, mà không là tổng thể của cá thể hay tổng thể của tập thể; và vì vậy không có cái “tôi” tách khỏi “nhiều”. Trong hiểu rõ tổng thể của chính nó, cái trí đã hiểu rõ cái riêng biệt cũng như cái vũ trụ. Vì vậy nó đã gạt đi tham vọng, kênh kiệu, thanh danh thuộc xã hội; tất cả việc đó hoàn toàn biến khỏi một cái trí mà đang sống trọn vẹn trong hiện tại và vì vậy đang chết đi mọi thứ nó đã biết, mỗi giây phút trong ngày. Sau đó bạn sẽ tìm ra, nếu bạn đã tiến xa như thế rồi, rằng chết và sống là một. Bạn đang sống trọn vẹn trong hiện tại, chú ý tổng thể, không chọn lựa, không nỗ lực; cái trí luôn luôn trống không, và từ trống không đó bạn nhìn ngắm, bạn quan sát, bạn hiểu rõ, và do đó sống là chết. Cái gì có sự tiếp tục không bao giờ có thể sáng tạo. Chỉ cái kết thúc có thể biết sáng tạo là gì. Khi sống cũng là chết, có tình yêu, có sự thật, có sáng tạo; bởi vì chết là cái không biết được, giống như sự thật và tình yêu và sáng tạo.


    Krischnamurtie.
    Vì lêu lổng mười năm trời mờ mộng
    Ôm tình già quên bẳng tuổi hoàng hôn .(TS)

  17. #17

    Mặc định

    Thưa Thầy,
    Vậy Tịnh Độ nằm ở đâu giữa Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa?
    Kính.

  18. #18

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Ma_Dieu Xem Bài Gởi
    Thưa Thầy,
    Vậy Tịnh Độ nằm ở đâu giữa Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa?
    Kính.
    theo tôi nghĩ tịnh độ kim cả 3 (tùy theo trình độ tu). khi đi kinh hành cũng như khất sĩ . ngồi thiền và quán thế giới cực lạc . nhập thất tịnh thân, khẩu,ý và trì danh liên tục .
    đây tôi nói kim cả 3 chứ không phải pháp môn này là hay nhất cao nhất . phật tức phật đồng 1 thể cũng như nước suối và sông chảy ra biển vậy.
    mỗi vị có 1 pháp tu riêng và cuối cùng là thành chánh quả

  19. #19

    Mặc định

    Cảm ơn Huynh đã giảng giải!
    Ý Tiểu đệ vẫn thắc mắc là: Tịnh Độ vẫn được coi như một trong các Tông phái của Phật Giáo (Mật Tông, Thiền Tông) nhưng sao không thấy Thầy nhắc tới khi nói về Tiểu Thừa, Đại Thừa và Kim Cang Thừa?
    Hay là sự phân định này ở một tiêu chí khác chăng?
    Kính!

  20. #20

    Mặc định Tam Pháp Ấn

    TAM PHÁP ẤN:

    VÔ THƯỜNG, KHỔ VÀ VÔ NGÃ

    Ban Hoằng pháp GHPGVN


    Tam pháp ấn:

    vô thường, khổ và vô ngã:

    Chính là ba dấu ấn mang tính pháp định, dùng để ấn chứng, chứng nhận tính xác thực của Chánh pháp.

    Mọi giáo lý của đạo Phật, tất yếu đều phải mang các pháp ấn, nếu thiếu một trong những pháp ấn đó thì giáo lý ấy chắc chắn không phải Chánh pháp, lời Phật dạy. Chính vì tính chất quan trọng này mà Tam pháp ấn luôn được nhắc đến trong hầu hết kinh điển, từ Kinh tạng Nam truyền đến Bắc truyền.
    Đức Phật từng dạy Tôn giả La Hầu La:

    Này Ràhula, mắt, tai…; sắc, thanh…; sắc, thọ… và thức là thường hay vô thường?

    Là vô thường, bạch Thế Tôn (Vô thường).

    Cái gì là vô thường là khổ hay vui?

    Là khổ, bạch Thế Tôn (Khổ).

    Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu xem cái ấy:

    Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi?

    Thưa không, bạch Thế Tôn (Vô ngã).

    (Kinh Tương Ưng II,

    Tương Ưng Ràhula, phẩm 1)

    Ba dấu ấn vô thường, khổ và vô ngã :

    Giáo lý đạo Phật luôn là khuôn mẫu, thước đo nhằm đảm bảo mọi tư duy, ngôn thuyết, diễn giải, thực hành của người Phật tử đúng Chánh pháp.

    Ngoài ra, Đức Phật cũng còn dạy về Tứ pháp ấn là vô thường, khổ, vô ngã và Niết bàn hay vô thường, khổ, vô ngã và Không (Kinh Tăng Nhất A Hàm).

    Tuy nhiên, đấy chỉ là sự triển khai, mở rộng yếu tố vô ngã của Tam pháp ấn. Bởi lẽ, Niết bàn chỉ là tên gọi khác của vô ngã và Không cũng là một cách nhìn khác về duyên khởi. Các pháp đều do điều kiện, nhân duyên tạo thành, vì thế chúng vô ngã. Do vậy, có thể xem vô thường, khổ và vô ngã là một định thức chuẩn mực, tổng quát của Tam pháp ấn và cả Tứ pháp ấn.

    Pháp ấn thứ nhất: vÔ THƯỜNG

    Pháp ấn đầu tiên là vô thường. Vô thường, tiếng Phạn là Anitya, hàm nghĩa sự biến chuyển, thay đổi, không cố định. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng trên thế gian đều vô thường. Nói cách khác, sự vật không bao giờ đứng yên hoặc mang tính đồng nhất bất biến mà luôn vận động, lưu chuyển. Từ sơn hà, đại địa cho đến cỏ cây, hạt bụi và cả thân tâm con người luôn biến đổi, không bao giờ cố định và phải chịu sự tác động của vô thường. Không chỉ trong thế giới vật chất mà ngay cả trong thế giới tâm thức, vô thường vẫn luôn hiện hữu.

    Con người, theo Phật giáo, là hợp thể của năm uẩn. Trong đó, phần thân thể vật chất tứ đại (sắc uẩn) thuộc về Sắc và phần tinh thần gồm cảm thọ, tri giác, tư duy và nhận thức thuộc về Danh. Năm uẩn hay danh-sắc này luôn ở trong trạng thái biến đổi như một dòng sông chảy mãi không ngừng trong đời sống con người.

    Thân thể con người nếu nhìn thật sâu vào bản chất, nó chỉ là một trạm trung chuyển của các yếu tố tứ đại. Đất nước gió lửa từ bên ngoài đi vào thân, sau đó lại đi ra và vòng tròn đó luân chuyển bất tận. Nhờ sự vận hành ấy, thân này được nuôi dưỡng, lớn lên, già đi rồi hoàn trả về cho tứ đại. Vì thế, khi các yếu tố tứ đại bị mất quân bình, bệnh tật xảy ra và khi dòng chảy tứ đại ngừng luân chuyển, cái chết ập đến. Quá trình này, con người chỉ điều khiển được một phần, còn đa phần là mất tự chủ. Vì thế, chuyện sống chết, còn mất, có không của thân này như gió thoảng, mây bay.

    Về tâm lý của con người cũng vậy, các trạng thái tâm lý luôn thay đổi, chuyển biến trong từng sát na. Tâm thức con người với muôn ngàn ý niệm tuôn trào, trôi chảy như thác lũ. Tất cả vui buồn, thương ghét, tha thứ hay hận thù v.v..., luôn hiện khởi và vận hành trong tâm thức.

    Tuy vậy, chúng ta cần phải cám ơn vô thường. Bởi thực tế, nếu không có vô thường thì sẽ không có sự sống và phát triển. Nếu hạt lúa thường tại thì nó không bao giờ nảy mầm để trở thành cây lúa cho ra những hạt gạo trắng được. Nếu sự vật không vô thường thì lịch sử tiến hóa của nhân loại sẽ không phát triển. Nếu thân thể không vô thường thì con người sinh ra không thể lớn lên. Và nếu không có sự tác động của vô thường thì chúng ta sẽ không bao giờ có hy vọng chuyển hóa, đoạn tận các tập khí tham ái phiền não đang tiềm ẩn sâu kín trong nội tâm chúng ta. Giáo lý vô thường đem lại tuệ giác, nhận thức đúng về bản chất của các pháp đồng thời mang lại niềm tin cho mọi nỗ lực chuyển hóa, sáng tạo và phát triển của con người. Vì thế, vô thường là một khuôn dấu của Chánh pháp; những giáo lý nào không mang đặc tính của ấn pháp này thì không phải là Phật pháp.

    Pháp ấn thứ hai: KHỔ

    Khổ, theo Hán tự, có nghĩa là đắng, tức mọi sự đau khổ trong đời chứa đựng nhiều đắng cay… Tiếng Pàli, khổ là Dukkha, ngoài ý nghĩa là cảm giác khổ đau, bức bách, khó chịu, nóng bức còn mang ý nghĩa sự bất toàn; thế gian vốn trống rỗng, đáng khinh miệt, không đáng để bám víu (Narada, Đức Phật và Phật pháp, tr.88).

    Khổ đau trong đời sống con người rất phổ biến, thường được trình bày qua tám phương diện là: Sanh là khổ. Già là khổ. Bệnh là khổ. Chết là khổ. Phải sống chung với người mình không thích là khổ. Phải xa lìa những người thân yêu là khổ. Cầu mong mà không được là khổ. Chính thân ngũ uẩn là khổ. Sự thật về khổ đau này được Đức Phật nói cho năm vị đệ tử ngay trong pháp thoại đầu tiên (Kinh Chuyển Pháp Luân) tại vườn Nai.

    Khổ còn được phân biệt thành ba loại là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Khổ khổ có nghĩa là các cảm thọ khó chịu, thuộc khổ thọ. Những cảm giác thống khổ, đau đớn trong thân thể và các trạng thái tâm - sinh lý bất an đều là khổ thọ, loại khổ thứ nhất. Hoại khổ có nghĩa là sự thay đổi, biến chuyển, tiêu hoại tạo ra khổ. Nói cách khác, sự biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác, sự biến hoại theo khuynh hướng xấu trong cơ chế tâm-sinh-vật lý của con người đem lại sự bất an, khổ đau là hoại khổ. Hành khổ nghĩa là các pháp do nhân duyên tạo thành đều vô thường, sinh diệt trong từng sát na nên tạo ra khổ. Thân thể, thế giới, hoàn cảnh sống, các trạng thái tâm lý của con người như đã nói đều do nhân duyên sinh nên phải chịu sự tác động của vô thường. Vô thường, thay đổi thì đưa đến khổ. Cho nên trong các hành, các hiện tượng đều chứa sẵn mầm mống của khổ, gọi là hành khổ.

    Tuy nhiên, mọi khổ đau đều xuất phát từ nội tâm bất an và có cội rễ từ vô minh, ái dục. Mặc dù vô thường là căn nguyên của mọi đau khổ trong cuộc sống nhưng nguyên nhân chính của khổ nằm trong nhận thức và thái độ sống tích cực hay tiêu cực của con người. Sự vật luôn luôn biến đổi vô thường mà chúng ta cứ tưởng và mong ước chúng sẽ thường còn, tồn tại mãi mãi. Chính nhận thức sai lạc, cho những gì vô thường là thường tại cho nên phát sinh mọi khổ đau.

    Cần phải nhận diện khổ đau để chấp nhận đồng thời tìm ra nguyên nhân và phương pháp diệt khổ. Như vậy, khổ đau là chân lý đầu tiên của Tứ diệu đế. Chỉ cần nhận thức toàn triệt về khổ thì các chân lý khác sẽ hiển bày. Do vậy, cần được quán sát, nhận thức thường trực về khổ đau trong thực tại cuộc sống và cả trong ý thức. Chúng ta chỉ có thể trị được bệnh khi ý thức là chúng ta đang bệnh. Cũng vậy, con người muốn giải thoát khổ đau trong cuộc sống trước hết phải thừa nhận chúng ta đang bị khổ đau chi phối, bức bách thường trực. Chính sự ảo tưởng về cuộc đời là hạnh phúc, bị buộc ràng trong cuộc sống vật chất dễ dãi, con người không thể nào vượt lên để hướng đến giải thoát và an tịnh. Cần phải can đảm nhìn thẳng vào khổ đau để giải quyết, đó là nhận thức căn bản, phương châm tu tập xuyên suốt toàn bộ hệ tư tưởng của Phật giáo. Căn bản của kinh điển Phật giáo vẫn không ngoài khổ và con đường diệt khổ. Chính vì vậy, khổ là một khuôn dấu của Chánh pháp.

    Pháp ấn thứ ba: VÔ NGÃ

    Vô ngã (Anatma) là giáo lý đặc thù của Phật giáo. Giáo lý này là hệ quả của quá trình quán sát một cách sâu sắc nguyên lý duyên khởi. Với pháp ấn Vô thường, chúng ta thấy được sự vận động trong tự thân của sự vật và toàn thể. Nếu nhìn sâu hơn qua lăng kính duyên khởi, ngoài sự vận động thì bản chất của sự vật luôn mang tính không đồng nhất. Mỗi sự vật, hiện tượng đều do các điều kiện, nhân duyên kết hợp, tương tác lẫn nhau mà tạo thành, do vậy tuyệt nhiên không có tính chủ thể, đồng nhất, bất biến trong nó. Vì thế, Phật dạy: “Các pháp vô ngã”.

    Khi thấy một chiếc lá vàng rơi, bình thường ta chỉ biết đó là chiếc lá vàng nhưng nếu nhìn sâu thì trong chiếc lá kia có những khoáng chất của đất, có ánh sáng mặt trời, có nước từ những đám mây, có gió của bầu trời… và có cả một chút bâng khuâng của lòng người. Như thế, chiếc lá kia được tạo thành từ những yếu tố không phải là chiếc lá, trong nó có đầy đủ cả vũ trụ. Từ chiếc lá xanh, theo thời gian chuyển qua lá vàng, đó là sự vận động vô thường, nhưng dù là lá xanh hay vàng thì trong bản chất của chúng cũng do những yếu tố không phải lá tạo thành (duyên khởi), chiếc lá vốn Vô ngã.

    Con người cũng vậy, là hợp thể ngũ uẩn sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Ngay trong bài pháp thứ hai tại Lộc Uyển, Đức Phật đã dạy tính vô ngã của thân năm uẩn: “Này các Tỷ kheo, sắc (thân thể) này là vô ngã. Này các Tỷ kheo, nếu trong sắc có ngã như vậy, sắc không phải chịu đau khổ và ta có thể ra lệnh “sắc phải như thế này hay sắc phải như thế kia”. Nhưng vì sắc không có ngã (vô ngã), nên sắc này còn phải chịu khổ đau và không thể có trường hợp (ra lệnh) “sắc này phải như thế này hay sắc này phải như thế kia”. Thọ, tưởng, hành và thức cũng giống như vậy (Kinh Vô Ngã Tướng). Trong kinh điển Bắc truyền, thiền quán về năm uẩn đều Không cũng là một trong những giáo lý trọng yếu “sắc chính là Không, Không chính là sắc; thọ, tưởng, hành và thức cũng đều như vậy” (Bát Nhã Tâm kinh).

    Bản chất của năm uẩn là Không, không chủ thể, Vô ngã. Tuy nhiên, vì nghiệp lực con người luôn lầm chấp thân năm uẩn này là một hữu thể đồng nhất, có một “linh hồn” trường cửu, bất biến, không thay đổi. Từ mê mờ về một cái “ngã, tôi” giả tạo ấy nên con người dễ dàng sanh ra tâm lý tham đắm, say mê, ôm ấp, bảo thủ và chấp chặt vào những gì thuộc về năm uẩn (cái của tôi). Thế nhưng, mọi sự vật hiện tượng luôn sinh diệt, chuyển biến trong từng sát na. Sự sinh thành và hoại diệt của năm uẩn là kết quả của các điều kiện nhân duyên và quá trình sanh già bệnh chết, hay hình thành, tồn tại-thay đổi, hoại diệt, tiêu hủy luôn là một sự thật cho mọi con người, mọi loài và mọi vật.

    Vì không nhận thức được tính vô ngã của vạn sự, vạn vật (vô minh) nên chấp thủ, tham ái phát sanh và đó cũng chính là cội nguồn của mọi tà kiến, khổ đau. Pháp ấn vô ngã không những xác quyết tính pháp định của Chánh pháp mà còn mang tính đặc thù của giáo lý đạo Phật. Chính vì lẽ ấy, Vô ngã là pháp ấn thứ ba trong Tam pháp ấn.

    Ứng dụng Tam pháp ấn trong tu tập

    Vô thường, Khổ và Vô ngã là ba đặc tính trọng yếu của giáo pháp. Mỗi pháp ấn có vai trò và chức năng khác nhau để nhận diện Chánh pháp. Tuy nhiên, dưới tuệ giác duyên khởi thì ba pháp ấn có quan hệ tương tức, hỗ tương gắn bó chặt chẽ với nhau. Trong dấu ấn vô thường vốn hàm chứa dấu ấn của khổ và vô ngã, trong hai dấu ấn còn lại cũng tương tự.

    Giáo lý Tam pháp ấn ngoài chức năng thẩm định Chánh pháp còn cung cấp tuệ giác để soi chiếu thực tại nhằm phá tan mê mờ, tham ái, tà kiến để vượt thoát mọi chấp thủ khổ đau, đạt đến bình an, giải thoát. Một khi tâm tư của con người bị nhuốm màu chấp thủ, khi đó khổ đau có mặt. Hai ý niệm mà con người thường bị trói buộc là “cái tôi” và “cái của tôi”. Quan niệm sai lầm cho rằng mọi sinh thể đều có một bản chất đồng nhất hay một “ linh hồn” tồn tại mãi mãi và sự bảo thủ trong quan niệm, ý kiến và cho rằng ta luôn luôn đúng trong mọi trường hợp là căn để của khổ đau và làm chướng ngại sự thăng hoa tinh thần. Ý niệm “có một thực thể vô hình thường tại trong mỗi cá thể” đã hiện diện trong hầu hết các tôn giáo trước và đương thời Thế Tôn, đồng thời vẫn còn ảnh hưởng đậm nét trong đời sống tinh thần của nhân loại ngày nay. Do vậy, chừng nào con người liễu tri thế giới hiện tượng và chúng sanh vốn dĩ vô thường và vô ngã thì khi ấy khổ đau, tăm tối thật sự được diệt trừ.

    Tóm lại, ba khuôn dấu Vô thường, Khổ và Vô ngã là những nguyên lý cơ bản nhằm xác định Chánh pháp, tái thẩm định các lý thuyết, quan điểm và cả pháp môn tu tập của Phật giáo. Mặc dầu kinh điển Phật giáo cực kỳ đa dạng song tư tưởng hàm chứa trong các kinh điển ấy vẫn không ngoài quỹ đạo của ba pháp ấn. Hiện tại, vẫn còn rải rác đây đó những “kinh” sách lưu truyền trong chùa viện và giới Phật tử với danh nghĩa kinh Phật nhưng thiếu vắng ba dấu ấn Chánh pháp, đơn cử như Địa mẫu chơn kinh, Táo quân chơn kinh… Do vậy, cần nhận thức đúng về ba pháp ấn để thẩm định kinh điển và nhất là ứng dụng trong tu tập quán chiếu về năm uẩn. Mọi khổ đau của chúng sanh đều bắt nguồn từ những ràng buộc, chấp thủ do quan niệm sai lầm về một cái ngã thường tại, bất biến, vĩnh cửu. “Cái tôi” và “cái của tôi” là nguyên nhân của xung đột toàn diện trong mọi lĩnh vực của đời sống con người. Vì thế, giáo lý ba pháp ấn là chìa khóa để mở cửa giải thoát, làm nền tảng cho sự chuyển hóa phiền não, thành tựu tuệ giác và thăng hoa tâm linh.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •