Trang 1 trong 32 123456711 ... Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 637

Ðề tài: [CHIA SẺ] - NGƯỜI PHẬT TỬ TẠI GIA VỚI VẤN ĐỀ TU CHUYÊN NGHIỆP HAY KHÔNG CHUYÊN NGHIỆP

  1. #1

    Talking [CHIA SẺ] - NGƯỜI PHẬT TỬ TẠI GIA VỚI VẤN ĐỀ TU CHUYÊN NGHIỆP HAY KHÔNG CHUYÊN NGHIỆP

    NỘI DUNG:

    1- ĐỊNH HƯỚNG CON ĐƯỜNG TU TẬP THÔNG QUA GIỚI ĐỊNH TUỆ + SỰ AM HIỂU KẾT QUẢ CẦN HƯỚNG TỚI: TỨ DIỆU ĐẾ

    2- CÁC PHÁP MÔN THÔNG DỤNG (NIỆM PHẬT, TỤNG KINH, TRÌ CHÚ) & CÁC PHÁP MÔN CHUYÊN SÂU (TU THIỀN, TRÌ CHÚ + QUÁN TƯỞNG MANDALA, TU THIỀN CÔNG ÁN, NIỆM PHẬT CẦU VÃNG SANH)

    3- NHỮNG THÀNH TỰU + NGỘ NHẬN TRONG TU TẬP CỦA NGƯỜI TẠI GIA KHÔNG CÓ THẦY TRỰC TIẾP HƯỚNG DẪN & CÁC TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN + CÁCH KHẮC PHỤC CÁC VẤN ĐỀ ẤY TRONG TU TẬP THIỀN ĐỊNH VÀ TRÌ CHÚ KHÔNG CÓ THẦY HƯỚNG DẪN

    4- NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÔNG PHÙ HỢP GIỮA NGƯỜI TU TẠI GIA VỚI NHAU, KHI SO SÁNH VỚI GIỚI LUẬT CỦA BẬC XUẤT GIA

    5- NHỮNG ƯỚC NGUYỆN CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ: NÊN HAY KHÔNG NÊN CÓ?

    6- NHỮNG HIỂU BIẾT CHƯA ĐẦY ĐỦ CỦA NGƯỜI TẠI GIA VỀ VẤN ĐỀ: CÓ HAY KHÔNG SỰ TỒN TẠI CỦA MỘT THẾ LỰC VONG LINH HAY ĐEO BÁM NGƯỜI TU?

    7- TỔNG KẾT



    Hoa Sen Ngàn Cánh (HS) tu học Phật Pháp từ năm 11 tuổi không qua trường lớp hàn lâm nào của Giáo hội tổ chức, thời gian dài hơn 15 năm là thời gian để góp nhặt những kiến thức từ nhiều nguồn tham khảo của các tông phái, thông qua những cuốn sách kinh, truyện của Phật giáo mà đa phần là Phật giáo Bắc tông. Nhờ năng khiếu (có căn) và đức tin có từ trước nên HS dễ dàng tiếp thu và ghi nhớ lâu dài những gì đã đọc được và nghe được, sau này khi trưởng thành hơn thì HS gặp được nhiều duyên may tiếp xúc với những bậc thiện trí thức đã từ bi giảng dạy theo cách hiểu biết của các vị ấy, nhờ đó mà kiến thức Phật học của HS được dần mở mang thêm. HS cũng tập tành ăn chay, niệm Phật, tụng kinh, trì chú và tham gia các khoá lễ ở những ngôi chùa gần nhà và từ đó đã hiểu hơn các nghi thức lễ bái tụng kinh căn bản theo Phật giáo Bắc truyền, HS đã thực hành trì chú Đại Bi suốt thời gian hơn 15 năm và cũng thu nhặt những kinh nghiệm thú vị từ oai lực của Đại Bi chú, phải nói rằng HS có niềm tin và quý mến Quan Âm Bồ Tát rất lớn, nghe ở đâu có kinh sách, truyện tích về Ngài thì liền tìm đọc, tìm xem nhờ đó mà trong cuộc sống gặp rất nhiều thuận lợi và bình an. Sau này khi lớn hơn thì va chạm với cuộc sống thực tế nhất là thời kỳ thanh thiếu niên chuyển qua thanh niên là thời kỳ mà HS va vấp nhiều nhất, đó là quãng thời gian tồi tệ nhất mà HS đã nói và làm những điều cực kỳ tồi tệ với bạn bè, thân tộc của HS đó là giai đoạn 10 năm thất bại đầy cay đắng, thương đau mà điều tồi tệ nhất là trong suốt thời gian đó HS đã không hề ý thức ra được tình trạng bi đát của mình mà cứ vác cái mặt dương dương tự đắc lên trời, coi thường thiên hạ và hậu quả là duyên cho những nhân bất thiện trong quá khứ bộc phát và trổ quả thê thảm cho HS cho tới thời điểm này vẫn còn rỉ rả... Tuy vậy nhưng HS có sự may mắn là tuy đi sai đường nhưng lại không trở thành Ác Ma mà còn được nhiều bạn lành giúp HS tu hành nghiêm chỉnh, đó là những người vô tình hữu duyên HS gặp được họ là những người tại gia, những bậc xuất gia và những người khác niềm tin tôn giáo, điểm lý thú ở những người đó là đa phần họ đều lớn tuổi hơn HS rất nhiều, có những người tuổi tác ngang ngửa ba mẹ, ông bà của HS nhưng họ đối với HS như một người bạn đạo vong niên, nhiều khi ngẫm lại mà thấy cười cho sự ngô nghê của HS: HS gọi họ là anh, chị, tỷ, huynh, thậm chí gọi tên xem ngang hàng với HS nhưng khi biết ra là tuổi tác của mình cỡ con cháu người ta mà thôi ! thế mới kỳ lạ, HS thấy ngượng quá nên thay đổi cách xưng hô cho phù hợp thì những người bạn vong niên ấy từ chối và nói rằng trong tu tập tâm linh không nên chấp nhất địa vị, danh dự mà ngày nào HS còn có ông Phật trong lòng thì hãy xem họ là bạn, là huynh tỷ của HS... những cung cách đối xử đó của những vị ấy đã thức tỉnh HS rất nhiều, thú thật là HS ít được thân tộc đối xử tốt vỉ chuyện HS lầm lỗi (như đã nói trên) nhưng HS nhận được rất nhiều, nhiều lắm những món quà từ vật chất tiền bạc tới thức ăn, quần áo, kinh sách, và cả những phương tiện miễn phí từ A-Z chỉ với một yêu cầu duy nhất là HS hãy tu tập cho thật tích cực mà thôi ! HS từng hỏi một người anh bạn đạo là anh cho em miễn phí hoài sao em đền ơn anh nổi đây ? anh trả lời: HS cứ yên tâm nhận lấy và nếu muốn trả ơn thì hãy cho lại những người bạn hữu duyên với cùng một phương cách như HS đã được nhận. Chính vì vậy mà bây giờ những ai HS cảm thấy có thể giúp được cho họ trong tu tập thì HS hết lòng giúp đỡ mà không đòi hỏi một chi phí hay cái gì phản hồi trở lại cả, trừ những điều mà HS thấy cần thiết và ngỏ lời xin cho mà thôi, còn trong những lúc khác thì hoàn toàn cho không biếu không.


    1- ĐỊNH HƯỚNG CON ĐƯỜNG TU TẬP THÔNG QUA GIỚI ĐỊNH TUỆ + SỰ AM HIỂU KẾT QUẢ CẦN HƯỚNG TỚI: TỨ DIỆU ĐẾ

    Trong những pháp môn HS từng thực hành qua như Niệm Phật, Tụng kinh và Trì chú. Các kinh đã tụng qua như Phẩm Phổ Môn, Diệu Pháp Liên Hoa, Lăng Nghiêm, Hồng Danh Bửu Sám, Lương Hoàng Sám, Từ Bi Thuỷ Sám Pháp, Đại Bi Sám Pháp, A Di Đà, Địa Tạng, Dược Sư. Các chú đã tụng qua như: Bạch Y Thần Chú, Đại Bi Chú (15 năm), Lăng Nghiêm Chú, Thập Chú, Lục Tự Đại Minh Chú, Ngũ Bộ Chú. HS có những thành tựu nhất định trong thời gian tu tập ấy. Nhưng cho tới một ngày HS chứng kiến hiện tượng tá nhập xác xảy ra cho những người bạn trong một nhóm tu quen biết trên mạng, chỉ có mỗi mình HS là không bị nhập chỉ vì HS quá sợ hãi nên tập trung tụng chú Đại Bi liên tục nên suốt thời gian xảy ra hiện tượng tá xác đó HS bình yên vô sự, tuy vậy đã để lại cho HS một sự suy tư sâu xa về con đường HS đang đi liệu có đúng Chánh pháp của Đức Phật đã giáo truyền ? HS tự kiểm tra lại tại sao trong những lúc nguy hiểm nhất mà thân tâm mình có thể an toàn, thì sau này được học kỹ hơn về Phật pháp căn bản của hệ phái Phật giáo Nam truyền - vốn là truyền thống từ trước của ông bà ngoại, HS đã tự hiểu ra rằng do Hs thường thực hành giữ gìn Ngũ giới (Trì giới) trong sạch: Không sát sanh, Không lấy của không cho, Không tà dâm, Không nói dối, Không uống rượu và các chất say nên thân tâm của HS luôn được bình an và không bị hiện tượng tá nhập của những thế lực vô hình nào khác ngoài Phật giáo. Nhờ có Giới thanh tịnh, dẫn tới Định vững vàng nên khi tụng kinh, trì chú tâm của HS không bị nhảy lung tung ra ngoài, không bị vọng tưởng lôi kéo nên đã có sức mạnh Giới đức + Định lực nên nhờ vậy mà các thế lực vô hình không xâm nhập được, HS cũng được học rằng trong Phật giáo không có hiện tượng tá nhập như các tín ngưỡng dân gian hoặc các niềm tin tôn giáo khác. Sau sự kiện này, HS đã tìm hiểu sâu hơn lý thuyết Phật học của Phật giáo Nam truyền và học Abhidhamma (Vi Diệu Pháp, Vô Tỷ Pháp, Thắng Pháp) đó chính là Tạng Luận - một trong Tam Tạng Kinh điển của Phật giáo, nói cách khác ấy là bộ môn Tâm lý - Vật lý - Triết lý và Siêu hình học của Phật giáo, nói cách khác ấy là tinh hoa của Giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lưu truyền cho hậu thế tu học. Một vị chân tu được gọi là Thánh nhân trong Phật giáo mà không biết chút gì về Vi Diệu Pháp này thì không xứng đáng gọi là Thánh trong Giáo pháp này, tất cả chư Bồ tát đều phải am hiểu Vi Diệu Pháp vì đấy là một phần quan yếu trong quá trỉnh tu tập từ phàm phu lên thánh nhân, lý giải các quá trình chứng đắc các tầng thiền định, thiền quán, tâm dục giới, tâm sắc giới, tâm hiệp thế, tâm siêu thế, hiểu về niết bàn như thế nào là đúng đắn và có cơ sở, không mơ hồ, không lắp lững giữa cái Không và Có, rất rõ ràng, chi tiết, cụ thể tới từng sát na tâm. Nếu ai có duyên học và áp dụng vào quá trình tu thiền quán minh sát (Vipassana) thì sẽ hiểu được vì sao mà người Phật tử Nam truyền tin kính vào Đấng mà được cung kỉnh đảnh lễ là bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác vì trí tuệ sâu sắc của Ngài, hình dung ra thế nào là Phật trí Nhất Thiết Chủng Trí của Đức Phật thậm thâm vi diệu tới cỡ nào khi Ngài phân tích, chia chẽ các pháp thành những đơn vị nhỏ nhặt nhất mà không ai có thể chia nhỏ hơn nữa. Những khái niệm Thân xác Tứ đại, Ngũ Uẩn, Vô Thường, Vô Ngã, Khổ não, Ba la mật, Tuệ giác, Tầng thiền, Đạo quả, Tham, Sân, Si... tất cả đều được mô tả cụ thể trong Vi Diệu Pháp.


    2- CÁC PHÁP MÔN THÔNG DỤNG + CÁC PHÁP MÔN CHUYÊN SÂU:

    - CÁC PHÁP MÔN THÔNG DỤNG: NIỆM PHẬT, TỤNG KINH, TRÌ CHÚ: theo HS thì bên cạnh vấn đề người tại gia học tu theo quý Sư trong các thời khoá tụng kinh niệm Phật tại chùa thì phải tự thực hành các thời khoá kinh nhật tụng tại nhà theo từng thời gian phù hợp với lịch sinh hoạt của từng người, người tại gia cần phải chú ý tới chất lượng hiệu quả hơn là số lượng tụng đọc. Có nhiều bạn hỏi HS là mình tụng bao nhiêu biến (lần) bài chú này, bài kinh nọ, danh hiệu Phật này... thì có được những năng lực thù diệu nào hay không, HS trả lời là nếu với cái tâm mong cầu những thành tựu này nọ nhưng bạn không có nền tảng thành tâm nghiêm trang thân tâm, tức là không nghiêm chỉnh trong Trì 5 giới của người Phật tử và trong thời tụng kinh tu tập không hết lòng hết tâm thì chả được một chút gì cả, chưa nói tới là tụng nhiều niệm nhiều chỉ tội cho cái miệng mau mỏi, cái họng mau đau mà thôi. Ở một người có sự giữ gìn 5 giới nghiêm trang trong cuộc sống, ví dụ: như nói sao làm vậy làm sao nói vậy, không nói lời mâu thuẫn với việc làm thì thành tựu được việc giữ thành công Giới không nói dối tức là nói lời chân thật, thì lời chân thật sẽ là chân ngôn (chân= thật, ngôn = lời nói), do đó khi người đó tụng kinh trì chú là trùng tuyên lại Giáo pháp của Đức Phật cũng như lời nói chân ngôn của chư Bồ tát, chư Thánh nhân nên dĩ nhiên là mau thành tựu những linh ứng kỳ diệu dù chỉ cần 1 biến trì tụng thành tâm của người đó mà thôi, trong trường hợp này có 2 loại chân ngôn cùng một lúc hỗ trợ cho nhau mà tác thành những năng lực ấy là chân ngôn của chính người tụng và oai lực chân ngôn của Phật, Bồ tát, Thánh nhân mà người đó tụng. Do sức mạnh của Giới, Đức tin, Định tâm nên tạo thành sức mạnh không thể nghĩ bàn tác động tới những cung cõi vô hình, nên có nhiều vị nhà không thắp hương nhưng vẫn nghe hương thơm kỳ lạ, nhà bị bí gió nhưng vẫn có nhiều cơn gió mát dịu thổi vào trong suốt buổi tụng kinh trì chú...


    - CÁC PHÁP MÔN CHUYÊN SÂU: TU THIỀN, TRÌ CHÚ + QUÁN TƯỞNG MANDALA, TU THIỀN CÔNG ÁN, NIỆM PHẬT CẦU VÃNG SANH: Khi đã tu tập chuyên sâu một pháp nôn nào đó như là :

    + Tu thiền định, thiền tuệ là tu theo Phật giáo Nam truyền. Có 2 loại thiền định được dạy trong truyền thống Phật giáo Nam tông là Thiền định (Samadha) hay là thiền Chỉ tức là Thiền Vắng lặng, tập trung tâm tưởng vào 1 trong 40 đề mục do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy, có lưu trong kinh tạng Pali. Kết quả của tu tập thiền định sẽ là 1 trong 8 tầng thiền, còn gọi là Tứ thiền và Tứ không. Loại thiền này đỉnh cao là đạt tới Năm năng lực thần thông còn gọi là Ngũ thông: thiên nhãn (mắt thần hay như mắt của chư thiên), thiên nhĩ (tai thần hay như tai của chư thiên), tha tâm (khả năng hiểu được tâm tư người khác), túc mạng (khả năng thấy rõ các tiền kiếp của mình và người khác), thần túc (khả năng tự tại biến hoá, thăng thiên độn thổ...). Thiền định này cho quả tái sanh vào 16 cõi Sắc giới Phạm thiên (theo trình độ Tứ Thiền) và 4 cõi Vô Sắc Giới Phạm thiên (theo trình độ Tứ Không).

    Tứ Thiền là: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền Tứ Không là: Hư không vô biên xứ thiền, Thức vô biên xứ thiền, Vô sở hữu xứ thiền, Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ thiền.

    Loại thiền thứ hai là Thiền tuệ hay còn gọi là Thiền Quán Minh sát (Vipassana) trãi qua 16 tầng Tuệ giác dẫn tới chứng 4 đạo quả là :

    - Sơ quả Nhập Lưu Tu đà hoàn tiêu diệt 3 dây trói buộc vào luân hồi là Thân kiến, Hoài nghi ân đức Tam Bảo, Giới cấm thủ - tin tưởng vào các cách tu tập không thông qua Giới Định Tuệ để thấy rõ Tứ Diệu Đế mà cầu chứng quả Giải thoát Niết bàn. Bậc thánh này chỉ còn luân hồi trong tam giới 7 kiếp sẽ chứng quả Giải thoát Vô Dư Y, bậc này không bao giờ suy thoái xuống phàm nhân dù có tái sanh nhiều cõi nhưng chỉ là 2 thế giới Chư thiên và Nhân loại. 4 đường ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la) vĩnh viễn đóng lại với bậc thánh này.

    - Nhị quả Nhất Lai Tư đà hàm làm suy giảm sức trói buộc của 2 dây phiền não nữa là Sân hận và Ái dục (tình dục). bậc này còn quay lại tam giới 1 lần rồi sẽ chứng đắc quả Vô Dư Y.

    - Tam quả Bất Lai A na hàm cắt đứt trọn vẹn 5 dây trói buộc phiền não, còn gọi là 5 Hạ phần kiết sử: Thân kiến, Hoài nghi, Giới cấm thủ, Sân hận, Tình dục. Bậc thánh này không còn tái sinh vào 6 cõi trời Dục giới và 1 cõi Nhân loại chúng ta, bậc thánh này tái sanh vào 16 cõi Sắc giới Phạm thiên và 4 cõi Vô Sắc Phạm thiên rồi chứng quả Vô Dư Y ở kiếp cuối cùng.

    - Tứ quả Vô Sanh Bất Diệt A La Hán cắt đứt trọn vẹn 5 dây trói buộc tinh vi buộc chúng sanh vào luân hồi trong tam giới là 5 thượng phần kiết sử: Ngã mạn, Phóng dật, Vô minh (không thấu triệt Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo), tham muốn tái sanh vào cõi Sắc giới, tham muốn tái sanh vào cõi Vô sắc giới. Đây là bậc thánh chứng đắc quả vị Vô Dư Y, thấu suốt Niết Bàn trọn vẹn, không còn trở lại tam giới như lò lửa này nữa, vĩnh viễn an trú trong trạng thái Vô Sanh Bất Tử.

    Niết Bàn mà 3 bậc thánh Hữu học chứng ngộ gọi là Hữu Dư Niết Bàn, tức là tuy thấy Niết Bàn nhưng vẫn chưa thấu triệt Niết Bàn và còn phiền não vương vấn, dư sót trong tâm tư các bậc Thánh ấy. Hữu học là còn phải tu học lên thêm nữa. Niết Bàn mà bậc thánh Tứ quả chứng ngộ gọi là Vô Dư Niết Bàn tức là không còn dư sót chút nào ô nhiễm hay phiền não còn trong tâm vị thánh ấy nữa. Đây là bậc thánh mà Đức Phật gọi là Vô học, tức không còn gì để phải tu học hơn nữa, phận sự đã xong, phạm hạnh đã tròn, thành tựu tròn vẹn Ân Đức Tăng Bảo - còn gọi là bậc Ứng Cúng (Arahata).

    * Thiền định (Samadha) dẫn tới chứng đắc Tứ thiền, Tứ không và 5 phép thần thông nhưng không dẫn tới Giải thoát sinh tử luân hồi nên gọi là thiền Hiệp thế.

    * Thiền tuệ (Vipassana) dẫn tới chứng đắc Tứ thánh quả tức là thành tựu Lậu tận thông - trí tuệ thông suốt sự chấm dứt các phiền não ô nhiễm (lậu tận) nên gọi là thiền Siêu thế. Hiệp thế là còn theo thế gian, Siêu thế là siêu thoát ra khỏi thế gian. Nếu thiền nào dẫn tới ra khỏi thế gian thì gọi là Siêu thế, còn ngược lại là Hiệp thế. Ở thiền tuệ có 2 loại Hiệp thế và Siêu thế vì 11 tầng tuệ đầu từ Danh Sắc Phân tích tuệ tới Hành Xả tuệ là thiền Hiệp thế, từ tuệ Thuận thứ cho tới Phản khán tuệ là thiền Siêu thế.

    * Tam học giải thoát là Giới Định Tuệ thì Thiền định làm viên mãn Định học và Giới học, Thiền tuệ làm viên mãn Tuệ học, nói cách khác Giới hỗ trợ cho Định, Định hỗ trợ cho Tuệ, Giới Định Tuệ hổ trợ cho nhau tác thành Tứ thánh quả cùng Lục thần thông. Tam học cũng là một cách gọi khác của Bát Chánh Đạo, khi thành Thánh nhân thì gọi là Bát Thánh Đạo.

    Con đường Giới Định Tuệ hay là Bát Thánh Đạo là con đường hướng tới chứng ngộ Tứ Diệu Đế mà Đức Phật Thích Ca đã chỉ dạy cách đây hơn 2500 năm qua, và vẫn đang được nhiều nhiều thế hệ Đệ tử Phật trùng tuyên và hoằng pháp để đưa chúng sanh hữu duyên tới bờ Bên Kia.

    + Trì chú & quán tưởng Mandala là tu theo Phật giáo Bắc truyền - hệ phái Mật tông (trong đó có nhiều truyền thống như Mật tông Tây Tạng - gọi là Tạng Mật, Mật tông Nhật Bản - gọi là Đông Mật , Mật tông Trung Hoa, Mật tông Thiên đình - hay là Mật tông Thầy Già, Mật tông Việt Nam có rất nhiều nhánh với nhiều danh xưng khác nhau, Mật tông Nam tông - nhiều nhánh tu luyện Mật pháp của các nước theo Phật giáo Nam truyền như Lào, Thái, Campuchia, dân tộc Chămpa ở miền Trung nước ta...)

    + Tu thiền Công án là tu theo Thiền tông Trung Hoa hoặc Thiền tông Việt Nam. Lưu ý: nhiều bạn lẫn lộn giữa 2 khái niệm khi nói tới 'tu thiền' là Thiền Tông là 1 hệ phái của Phật giáo Bắc tông có truyền thống tu tập, chứng ngộ theo cách của các Tổ sư thiền từ Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma truyền xuống tới các Tổ sư mà chúng ta biết tên các Ngài. Truyền thống này tu tập theo lối đốn ngộ dựa trên các Công án thiền, rất khác với bộ môn Thiền định và Thiền tuệ của truyền thống Phật giáo Nam tông vốn lưu giữ hầu như trọn vẹn những bài học căn bản tới nâng cao của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Thánh Tăng. Cùng là danh từ 'Thiền' nhưng một bên là tu theo Thiền Tông gọi là Thiền của Tổ Sư, hay là Tổ Sư Thiền; một bên là tu tập pháp môn Thiền định và Thiền tuệ của Đức Phật, nên còn gọi là Như Lai Thiền hay là Thiền của Phật.

    + Niệm Phật A Di Đà cầu vãng sanh Tây phương Cực Lạc là tu theo hệ phái Tịnh độ tông lấy tông chỉ Tín, Nguyện, Hạnh đi theo hướng khai sáng của chư Tổ Sư của Tịnh độ tông, cách tu này phải được hướng dẫn sâu xa vì bên cạnh pháp tu niệm Phật căn bản được dạy trong Kinh A Di Đà là niệm Phật tới trình độ Nhất tâm bất loạn hay còn gọi là Niệm Phật Tam muội, tức là cảnh giới tương đương các bậc Thiền định từ Sơ thiền trở lên, có nhiều cách quán tưởng tương tự như tu thiền định của Phật giáo Nam tông dựa trên kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy cách quán tưởng Toà sen của Đức Phật Di Đà (Hoa toà quán), Kim thân Tam Thánh, Hình ảnh của cõi Cực Lạc, Hạt Minh Châu trong ao nước Tám công đức ở cõi Tây phương, Mặt trời chói sáng khi hoàng hôn (Nhật quán), Mặt nước trong sạch như ngọc pha lê (Thuỷ quán)... Niệm Phật tuy dễ ai cũng có thể thực hành được nhưng để đi tới trình độ yêu cầu để chắc chắn được vãng sanh phải là Niệm Phật Tam muội thì không phải ai cũng đạt tới nổi.


    3- NHỮNG THÀNH TỰU + NGỘ NHẬN TRONG TU TẬP CỦA NGƯỜI TẠI GIA KHÔNG CÓ THẦY TRỰC TIẾP HƯỚNG DẪN & CÁC TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN + CÁCH KHẮC PHỤC CÁC VẤN ĐỀ ẤY TRONG TU TẬP THIỀN ĐỊNH VÀ TRÌ CHÚ KHÔNG CÓ THẦY HƯỚNG DẪN

    Thời gian đầu khi HS trì tụng chú Đại Bi thì thường hay thấy bóng ma ám (bóng đè) vào giấc ngủ trưa và những lúc ấy phải cố gắng vận dụng sức mạnh tâm trí để đọc chú Đại Bi trong tâm thức mà vượt qua được tình trạng này, có lần thấy ai đó nhập vào thân thể đưa hồn mình bay bổng lên chạm trần nhà, nhìn xuống thấy được toàn thân của mình đang nằm trong tư thế nào thì khi tỉnh dậy thấy nằm trong đúng tư thế đó. Một lúc khác đi đến đám ma hoặc nhà hài cốt (tháp hài cốt) ở các nhà thờ hoặc các chùa thì bị chóng mặt, nhức đầu, toát mồ hôi lạnh dù trong đó rất nóng nực và bên ngoài là buổi trưa, hiện tượng như bị trúng gió và thần kinh trán rất nhức đau đớn, toàn thân ê ẩm mệt mỏi, những lúc ấy phải cố gắng niệm Phật thì mới bình thường trở lại. Có một lần đi thăm viếng nghĩa trang liệt sĩ Quảng Trị thì bị ma giấu, tức là tình trạng 'ám nhãn' làm cho người trong đoàn tưởng là HS đã lên xe ngồi với họ rồi nên họ chạy đi mà HS chạy theo đập cửa xe mà họ không hay biết gì hết, họ không thấy HS còn ở dưới đường, phải vừa chạy theo đập cửa xe vừa niệm Phật trong tâm thức rồi chạy ra khỏi khu vực nghĩa trang thì tài xế mới nghe thấy và dừng lại, khi lên xe mọi người nói là không phải HS đã ngồi trên xe nãy giờ sao bây giờ còn ở dưới đường??? Một lúc khác, khi HS tụng chú Đại Bi khi đi đường cho bình an thì thường gặp hiện tượng xe bể bánh, bị xe khác đụng phải dù là mình đi đúng đường, đi bộ trên lề thì bị xe đi ngang văng nước tạt vào mình, bị cành cây rơi xuống trúng mình...

    Sau này HS mới biết là một phần những sự việc như thế là trả quả ác nghiệp đã gieo trong quá khứ, nay do oai lực diệt ác nghiệp (chú Đại Bi có một tên khác là Diệt Tội Chướng Đà La Ni) của chú Đại Bi mà khiến xảy ra tình trạng như vậy, thường thì khi bị những tai nạn bất ngờ đó HS không bị tình trạng nghiêm trọng, tuy có thiệt hại nhưng không quá nặng nề. Một lẽ nữa, khi đến những nơi có nhiều âm khí như bệnh viện lớn, nghĩa trang liệt sĩ, các nhà hài cốt, đám ma, đường phố thì không nên đọc chú Đại Bi nhiều biến, mà có đọc thì phải hồi hướng công đức ngay cho các âm linh ở những nơi đó được an vui và siêu thoát, tốt nhất là nên niệm Phật trong khi ở những nơi đó vì khi niệm Phật thì do sức mạnh của Ân đức Phật mà toàn thân tâm của bạn sẽ biến thành một Bảo tháp chứa Xá lợi Phật, nên chư vị linh thiêng trong nhiều cung cõi vô hình sẽ hộ vệ cho người niệm Phật, họ cung kính người niệm Phật nhưng bạn cung kính Bảo tháp Xá lợi Phật vậy do đó những tai nạn xui xẻo, bất ngờ không xảy ra cho người niệm Phật trừ những trường hợp quả của cực ác nghiệp xảy ra cắt đứt mạng sống chúng sanh, nhưng do nhờ oai lực của Ân đức Phật mà người đó đang niệm tưởng sẽ cho quả tái sanh vào các cõi trời an vui sau khi tâm cận tử khởi lên, đảm bảo cho một kiếp sống tương lai an vui hạnh phúc hơn rất nhiều lần kiếp sống này. Hơn nữa với những khi HS tác ý tụng chú Đại BI để hồi hướng cho các âm linh, vong linh còn lẩn quẩn đâu đó ở những nơi HS kể thì phải giữ gìn 5 giới nghiêm chỉnh không đứt đoạn, rồi đọc tụng Ân đức Phật (hoặc niệm Phật) trước sau mới tụng chú Đại bi, vừa tụng vừa quán tưởng từ trường từ bi bao phủ xung quanh mình và lan toả đến những chúng sanh ấy, với mong muốn cho chúng sanh ấy được an vui và siêu thoát. Do sức mạnh của Giới trong sạch, Định tâm miên mật và oai lực thần diệu của chú Đại Bi nên bạn sẽ không bị mệt, không bị hút dương khí, không bị vỡ hào quang mà còn làm công đức cho bạn vì bố thí sự an lạc cho chúng sanh đó nữa.

    Vấn đề tu tập thiền định, HS thấy rằng tuỳ khả năng của từng người khác nhau mà sự hấp thụ những kinh nghiệm cũng như hiểu biết của những vị đi trước có khác nhau, HS tự thực hành thiền định niệm Hơi thở thì chứng và trú được trong ấn tướng (nimitta) ánh sáng màu trắng tràn ngập như ngồi trong một căn phòng ánh sáng trắng, tâm trạng rất hoan hỷ, mát mẻ, thích thú, HS ngồi đó trong một hai tiếng đồng hồ mà không bị mất ấn tướng nên HS cho rằng đó là Sơ thiền và tình trạng này kéo dài được khoảng 1 năm. Sau này khi HS tham dự khoá thiền 10 ngày ở thiền viện Nguyên Thuỷ ở phường Cát Lái, Quận 2 thì được sự chỉ dạy của vị thiền sư người Myanmar (Miến Điện) tên là U Tenajida giúp HS thu gọn ấn tướng từ 'căn phòng ánh sáng' gom tụ lại thành một 'quả cầu ánh sáng' kích thước như quả chanh và đứng trước mũi mình (tức là ở điểm mà mình định tâm nhìn vào), kế đó là càng chú tâm vào hơi thở cho tới khi quả cầu ánh sáng ấy dính vào hơi thở ra vào, HS có cảm giác như là HS hít thở ánh sáng của quả cầu đó tức là khi HS hít thở ra vào thì quả cầu ánh sáng ấy cũng chạy theo ra vào y như hơi thở vậy, nói cách khác giai đoạn này hơi thở và ánh sáng đã hoà nhập thành một. HS an trú tâm định vào tướng ánh sáng (còn gọi là Quang tướng) này trong các thời thiền sau đó và thời gian an trú vào đó kéo dài khoảng một hai tiếng đồng hồ, trong khi đó mọi khái niệm về thời giờ, ngày tháng , tên tuổi, nơi chốn đang ngồi, nhất là âm thanh xung quanh... đã không xuất hiện trong tâm thức của HS, một tình trạng quên mình quên người, quên tất cả diễn ra trong suốt một hai tiếng ấy mà chỉ có mỗi việc nhìn ngắm ánh sáng ra vào mình mà thôi ngay cả ý nghĩ hay biết là mình đang hít thở cũng không có trong tâm thức HS, thiền sư hoan hỷ nghe trình pháp và Ngài nói rằng nếu HS đã hài lòng với mức độ này thì nên quán sát 5 chi thiền sau khi xã thiền là Tầm (sự hướng tâm tới Hơi thở), Tứ (sự chú ý Hơi thở), Hỷ (sự hân hoan vui thích với Hơi thở và ấn tướng), Lạc (sự an ổn, không mệt mỏi trong suốt thời thiền), Định (sự chú ý tập trung trọn vẹn trên ánh sáng của đề mục) thì khi thấy rõ 5 chi thiền này thì biết chắc chắn rằng đó là trình độ Sơ thiền mà không còn lầm lẫn nữa. Tình trạng căn phòng ánh sáng cho tới quả cầu ánh sáng là giai đoạn Cận định, vì lúc này tâm định chưa vững mạnh, chưa an trú sâu xa trong quang tướng mà vẫn còn bị âm thanh xung quanh tác động (trong trình độ Cận định do các giác quan trở nên rất nhạy bén nên dù có một âm thanh bé nhỏ như chiếc lá khô rơi xuống đất, vị ấy nghe như tiếng bom nổ sát bên tai...) do đó trong kinh tạng có nói Âm thanh là Gai nhọn của Sơ thiền, nếu vị nào không thể vượt qua chướng ngại âm thanh thì vị ấy không thể đắc Sơ thiền, và nếu âm thanh quá ồn thì vị ấy có thể bị văng ra khỏi 3 tầng thiền Sơ, Nhị, Tam thiền nhưng ở tầng Tứ thiền thì tâm vị ấy vững mạnh như cột đình không bị ảnh hưởng do âm thanh ồn ào như sấm sét, động đất, bom nổ nữa.

    Tóm lại trong phần này HS thấy rằng những ai tu tại nhà mà không có Thầy hướng dẫn thì khi có những thành tựu hay những hiện tượng bất thường xảy ra cho mình thì hãy thật bình tĩnh, sáng suốt: - Quan sát tâm tư của mình lúc đó là tâm thiện hay bất thiện, tâm chơn chánh hay tâm không chơn chánh

    - Tìm xem trở lại công phu của mình từ trước khi xảy ra những hiện tượng ấy, là như thế nào, đúng sai ra làm sao, nhất là công phu tu tập có đúng theo tài liệu hướng dẫn hay không

    - Sau khi đã tự xem xét cho mình, với ý thức không tự hào, không tự mãn, không cho là mình đúng hoặc không đúng thì nên tìm đến chư Tăng Ni để trình bày vấn đề của mình, xem coi các vị trả lời thế nào và tự thân xem xét đối chiếu lại coi những gì các vị nói về mình đúng hay không đúng mà áp dụng hay không áp dụng. HS hỏi nhiều vị Tăng và đối chiếu xem xét kỹ càng với kinh điển rồi mới tin theo, chứ không vội vàng cho là HS đúng người khác sai, và không cho người khác đúng HS sai trong khi chưa phân tích những khía cạnh tích cực cũng như không tích cực của vấn đề đang gặp.

    Lưu ý:

    + Nếu người tại gia chứng và trú thành công một trong các bậc thiền định cũng như thiền tuệ quán thì có thể nói cho người khác là người tại gia hoặc xuất gia biết tình trạng của mình mà không phạm tội khoe pháp bậc cao nhân, ngay cả thần thông cũng có thể biểu diễn cho người khác xem. Tuy vậy nhưng nếu nói cho người khác biết với mục đích khoe khoang tức là có tâm ngã mạn, 'chảnh chẹ' thì lần sau khi ngồi thiền vị ấy sẽ bị mất tầng thiền đó và sẽ rất vất vả để chứng đắc trở lại. Nếu nói với mục đích muốn chia sẻ và học hỏi thêm thì mới không bị mất mà còn rực rỡ thêm. Một lẽ nữa là người tại gia không nên hỏi người xuất gia câu hỏi: Thầy (Cô) chứng Sơ thiền như con hay chưa? Đừng nên hỏi câu tương tự vì sẽ gây ra bất thiện nghiệp cho bạn vì làm Chướng ngại pháp cho người xuất gia, bởi lẽ luật của chư Tăng ghi rõ vị nào dù chứng đắc hay không chứng đắc mà nói ra cho người khác biết là phạm giới của chư Tăng, cho nên chư Tăng không khi nào được phép nói rõ tình trạng tu tiến của các ngài cho người khác biết mà chỉ có thể gợi ý, giảng giải cho người khác biết tính chất của trỉnh độ thiền nào đó để người đó biết mà tu tập tốt hơn mà thôi.

    + Nếu chưa chứng Sơ thiền hoặc các bậc thiền cao hơn thì đừng cho là mình đã chứng rồi đem khoe khoang cho thiên hạ biết để hãnh diện, tự mãn thì sẽ phạm vào tội khoe pháp bậc cao nhân, vì các tầng thiền dù được định danh là Sơ thiền, Nhị thiền... nhưng những khái niệm ấy có bản tính Thực tánh pháp tức là có thật một hiện tượng đó chứ không phải là danh từ đặt để cho cái hư nguỵ, và như vậy thiền có Ân đức Thiền tác thành bậc cao quý trong Giáo pháp của Đức Như Lai. Người chứng Sơ thiền trở thành bậc có phạm hạnh tương đương chư vị Phạm thiên của cõi trời Sắc giới hoặc Vô Sắc giới, có ân đức Giới Định Tuệ trong sạch, tuy là các tầng thiền Hiệp thế nếu người chứng thiền chưa chứng Thánh quả, nhưng tầng thiền sẽ tạo nền tảng cho chứng đắc Thánh thiền về sau, còn gọi là Thiền Siêu thế - thiền chứng của bậc Thánh nhân. Cho nên tầng thiền và thần thông là những năng lực có Thực tánh pháp tác thành ân đức của bậc cao nhân, không nên tưởng rằng tầm thường ai cũng có thể khoe khoang mà mang bất thiện nghiệp cho mình, sau này khi tu thiền sẽ rất khó thành tựu các bậc thiền cũng như khó chứng đắc thần thông.




    (còn viết tiếp...)

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  2. #2

    Mặc định

    Theo Phật Giáo Nguyên Thủy thì Tự Tu , Tự Độ , không lo sợ mong cầu tha lực . Ví như vị tướng quân tự tin chỉ huy quân đội mà không e ngại điều gì .
    Do vậy không có các tư tưởng " bùa chú , và cầu xin vảng sanh"

    Thêm nữa bạn có nói về Vô Dư Y và Hữu Dư Y Niết Bàn . Cà 2 đều đã là Niết Bàn chẳng khác nhau . Bậc Thánh Hữu Học không chứng Niết Bàn nên chẳng thể gọi là VÔ Dư Y .
    Hữu Dư Y dành cho Đức Phật và các bậc Thánh Alahan khi còn sống và tại thể , còn Vô Dư Y là các vị đã viên tịch rồi .
    Không biết rõ ( sắc,sắc tập khởi, sắc đoạn diệt, con đường đưa đến sắc đoạn diệt, thọ... tưởng... các hành...con đường đưa đến thức đoạn diệt). Đây gọi là vô minh .

  3. #3

    Mặc định

    Nếu có trai lành gái thiện tu hạnh vô trước, tuy chưa lên địa vị Bồ tát, nhưng lòng đã vững vàng, chẳng bỏ đạo tâm, tuy xa Ta trăm ngàn vạn do tuần, mà rất gần nơi Ta vậy.

    Kinh Bồ Tát Anh Lạc

    chân giải thoát nhất trần bất nhiễm
    diệu trang nghiêm vạn pháp giai không

    A DI ĐÀ PHẬT



    Xem thêm: http://www.thienlam.org/news/KINH/Ki...#ixzz22dRX9t8X

  4. #4

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nhanhoa123 Xem Bài Gởi
    Nếu có trai lành gái thiện tu hạnh vô trước, tuy chưa lên địa vị Bồ tát, nhưng lòng đã vững vàng, chẳng bỏ đạo tâm, tuy xa Ta trăm ngàn vạn do tuần, mà rất gần nơi Ta vậy.

    Kinh Bồ Tát Anh Lạc

    chân giải thoát nhất trần bất nhiễm
    diệu trang nghiêm vạn pháp giai không

    A DI ĐÀ PHẬT



    Xem thêm: http://www.thienlam.org/news/KINH/Ki...#ixzz22dRX9t8X
    nói thì dễ lắm ..nhưng thực hành thì sao ????
    .....................................
    hic hic
    đầu mồm nói suốt trăm phần diệu
    dưới gót chưa ly 1 điễm trần
    .....................
    huhuhuhuhuuhuhu

  5. #5

    Mặc định

    HOA SEN

    Đọc qua bài viết của đệ tỷ biết đệ đã có công phu dầy ,quá trình tu tập ,người tu tập tụng kinh tham thiền giữ giới ,và các pháp môn để hành trì nhưng vẫn phải có một thứ rất quan trọng ,đó là gì???
    Chính là trí tuệ ,người tu phải biết vận dụng trí tuệ của mình ,khi nói ra là chỉ chia sẽ kinh nghiệm của mình cho người ,đây cũng là tấm lòng vị tha vì mọi người mà chia sẽ .
    Trong hết thảy người tu họ rất nhiều từng lớp khác nhau ,có người từng trãi qua tu học sẽ hiểu những gì do đệ nói ,cũng có người chưa trãi qua sẽ nói : đây quá cao siêu khó hiểu .
    Hoặc họ hiểu như võ bọc khơi khơi ,vì cảnh đời còn nhiều tạp nhiễm ,nghiệp lực còn bao quanh họ không đủ thời gian tu tập như đệ ,muốn có thành tựu thì phải có nhiều thuận tiện ,và có phương tiện ,không phải ai thuận chiều như mong muốn .
    Dù sao đây là tấm lòng cao cả tỷ tán thán công đức vô lượng của đệ vì mọi người mà chia sẽ những kinh nghiệm của bản thân .
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  6. #6

    Mặc định

    ây da .... hỗng biết viết nhiều như thế mà có tinh tấn thêm được gì hay không đây .... hay lại bị cái nghiệp gia đình kia nó ràng buộc ..... có vượt qua nổi không đây ..... thử thách đó nhỉ .... ây da
    Vô Thường Mà Thường
    Thường Mà Vô Thường

  7. #7

    Mặc định

    ây za ây za ... HOA SEN sẽ còn đi dài dài ... hề hề hề .....!!!!!

    Nam Mô Như Lai Huyền Tổ Thông Quán Pháp Tạng Thần Quang Binh Lực Phật .

  8. #8

    Mặc định

    4- NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÔNG PHÙ HỢP GIỮA NGƯỜI TU TẠI GIA VỚI NHAU, KHI SO SÁNH VỚI GIỚI LUẬT CỦA BẬC XUẤT GIA

    * Về giới luật: Người tại gia có cái bệnh là hay so sánh với người xuất gia về giới luật, công phu tu tập và sự thể hiện bên ngoài nhưng bản thân lại không mấy người hiểu hết những ý nghĩa sâu xa của những giới luật đó, thậm chí giới luật căn bản của người tại gia còn không nắm vững nữa là các giới khác cao hơn. HS biết có nhiều người hiểu không đúng về giới Cấm Tà dâm là không được quan hệ tình dục, không được thủ dâm, không được có tình cảm với người khác giới hay đồng giới mỗi khi có những trường hợp như vầy thì gọi là bị phạm giới, làm cho người đó tâm tư sầu thảm rất là tội nghiệp vì mặc cảm tội lỗi của họ. HS thấy lạ là tại sao thời buổi bây giờ kinh sách băng dĩa đầy rẫy trên internet, một cú gõ là bao nhiêu thông tin đều được hiển lộ thế mà họ lại rất ngu ngơ trong những vấn đề tưởng chừng ai cũng biết này. Phật chế giới Cấm Tà dâm theo nguyên nghĩa của văn phạm Pali là Không được thực hiện các thú vui bất chính trong hoan lạc, nhưng nếu xét theo nghĩa này thì sẽ gây nhiều sự khó khăn cho người tại gia vốn xuất thân từ nhiều môi trường sống khác nhau, nên quý Sư chỉ giới hạn ở mức độ Không Tà dâm. Sự không Tà dâm được hiểu là không được quan hệ tình dục một cách bất chính giữa người nam (nữ) với người nữ (nam) đã có gia đình, đã có chỗ gởi gắm, đang bị tù tội, đang ở trong độ tuổi pháp luật không cho phép, đang là bậc xuất gia, là thú đực (cái)... nhưng không cấm quan hệ tình dục với vợ chồng, người tình, hoặc những người chưa có sự ràng buộc hôn nhân mà có sự thoả thuận, đồng ý của chính họ. Nếu quan hệ tình dục giữa vợ và chồng thì không gọi là Tà dâm, nhất là đối với những người tại gia thì Đức Phật đâu có cấm đoán mà hầu hết 90% người tại gia cứ đinh ninh trong đầu rằng hễ có quan hệ tình dục là phạm giới Tà dâm ! Tệ hại hơn nữa là những người tu tập theo một pháp tu nào đó như tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tu thiền mà ngoài những ngày trai giới (Bát quan trai giới) ra họ cũng có tâm trạng hoang mang lo lắng là bị Phật quở, chư hộ pháp trừng phạt vì tối qua họ ăn nằm với chính vợ chồng của mình, cái suy nghĩ ảnh hưởng chuyện phong the là không thanh tịnh của nề nếp xưa đã tác động không nhỏ một cách tiêu cực lên suy nghĩ của những người thiếu hiểu biết này; hoặc là do họ tự áp đặt luật xuất gia cho họ vì rằng chư vị tỳ khưu không được quan hệ tình dục hoặc là thủ dâm làm cho tinh dịch xuất ra từ bộ phận sinh dục, nhưng đó là chuyện của bậc xuất gia, tại sao cứ phải ám ảnh những luật nghi đó làm gì cho cuộc sống của mình bị chướng ngại? Trong những pháp tu đòi hỏi sự tinh nghiêm thì chính các bậc Tổ sư hoặc bậc Truyền giới Sư đã nói rõ yêu cầu, tiêu chuẩn cho pháp tu nào đó và người tu phải tự xem xét coi mình có đủ khả năng dự tu theo hay không, nếu không thì đừng tham gia, tham gia rồi thì đừng chỉ trích người khác không thanh tịnh như mình, người ta có tu giống mình đâu mà đi chỉ trích ?

    * Về lý thuyết: Người tại gia do quá trình tự tìm học nên không phải ai cũng có một nền tảng kiến thức Phật học nhất định và cũng không có bài bản như hàng xuất gia được đào tâo trường lớp chính quy, một phần thì tự nghiên cứu theo nhiều nguồn thu nhặt trên internet, sách vở chủ yếu là so sự yêu thích của bản thân mà tự học tự đọc lấy, một phần khác thì có được do nghe giảng từ những vị Thầy của các người đó nên nhiều khi chỉ thu nhận được chỉ có một ít từ bài giảng của vị đó nên cũng hạn chế bấy nhiêu thôi, có rất nhiều người tại gia ỷ lại vào vị Thầy của mình và thần tượng hoá tuyệt đối vị Thầy của mình là khuôn vàng thước ngọc mà không để tâm suy xét xem coi vị Thầy đó dạy mình những gì, có đúng đắn hay không mà cứ nhắm mắt tin theo cho đến khi vị Thầy đó bộc lộ ra những hạn chế về tư cách, về giới hạnh, về những nhu cầu tiền bạc phi pháp thì mới ngã ngửa ra than trời rồi từ đó hình thành thành kiến báng bổ trời phật, không còn tin tưởng ai nữa, dẹp bỏ kinh tượng, thậm chí đi qua tôn giáo khác và quay lại đạp đổ niềm tin tôn giáo trước đây mình từng sùng bái. Vị thầy ấy đã là chúng sanh phàm phu còn nhiều tập khí phàm tục mà người theo học cũng không thể xác định được giới hạnh hay tư cách của vị thầy đó đáng cho mình theo hộ độ hay không, cho nên cả thầy lẫn trò đều sa chân vào chốn đoạ lạc. Ngày xưa cũng đã có những trường hợp tương tự như trường hợp của Vua A Xà Thế nghe lời xúi dại của Thầy mình là Đề Bà Đạt Đa, ông vua con đi giết ông vua cha dù không có một chút oán hận nào với con của mình, hơn nữa ông vua cha là Vua Tần Bà Sa La (Bình Sa Vương) còn đồng ý nhường ngôi cho con là thái tử A Xà Thế lên ngai vàng, một người cha hết lòng thương yêu con và hết lòng phụng sự đất nước, và là một bậc thánh Nhập Lưu - thế mà người con chỉ vì ham mê quyền lực mà đi giết chết cha của mình, đáng tiếc thay một người con có tài năng và có khả năng Giác ngộ thành bậc thánh Nhập Lưu, nhưng vì ác nghiệp giết cha đã thiêu huỷ đạo quả ấy và dẫn đưa ông rớt xuống địa ngục; trong khi đó Đề Bà Đạt Đa muốn giết Đức Phật để toàn quyền thống lãnh Giáo hội - muốn làm Vua trong Đạo, còn A Xà Thế muốn làm Vua trong Đời, tham vọng của 2 người này là kết hợp làm chúa tể một cõi. Tội giết cha, làm Phật chảy máu là 2 tội trọng đưa xuống địa ngục A Tỳ. Nếu vua A Xà Thế sáng suốt biết dùng trí tuệ của mình để xem xét những lời dạy bảo của Đề Bà Đạt Đa thì đâu đến nỗi làm cháy mất phước báo sẽ chứng đắc quả thánh Nhập Lưu. Do đó một trong những yếu tố cấu thành một bậc Đa Văn tức là nghe nhiều học rộng, là vị ấy có rất nhiều vị Thầy và nhiều nguồn kiến thức tham khảo cũng như vị ấy có nhiều kinh nghiệm tu tập trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiều sự đối chiếu so sánh khác nhau để cho kiến thức và trí tuệ của vị ấy sâu rộng rất nhiều, người đó tu tập nhiều pháp môn nhưng không pháp môn nào bị trùng lắp hay rối loạn vì có trí tuệ bén nhạy, người ấy không bám chấp vào một vị thầy nào nhưng cũng không trở thành kẻ lệ thuộc tư tưởng của những vị Thầy mà người đó theo học, kiến thức của người đó đa dạng, đa chiều và sâu rộng. Với công trình tu học đó khi chứng đắc thánh quả thì người ấy sẽ là bậc Đa Văn, lại có Tứ tuệ phân tích, Lục thông và Bát thiền, là bậc Tâm giải thoát hoặc là bậc Thánh Đại đệ tử, Thánh Đệ tử Tối thượng của chư Phật. Nếu vị ấy tu thành Chánh Giác thì vị Phật ấy sẽ là vị Phật có nhiều kinh nghiệm tu tập và có khả năng giải toả rất nhiều mối nghi nan của chúng sanh nào hữu duyên với vị Phật ấy, hơn nữa chư Phật là đồng đẳng với nhau trong các phương diện: trí tuệ, đa văn, thần lực... mà chúng ta thấy kinh điển gom lại thành Nhất Thiết Chủng Trí, tức là Phật Trí của một vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác. Bởi vậy, khả năng học nhiều nghe rộng của một người có hạnh Đa văn sẽ làm nhân cho quả lành sẽ trổ trong ngày tương lai rất là cao quý như thế.


    Một lẽ khác nữa là do kiến thức thu nhặt của người tại gia có nhiều khiếm khuyết, lại chỉ nhìn theo một khía cạnh nào đó theo chủ quan của mình nên thường thích gán ghép hay áp đặt suy tưởng của mình theo một bộ kinh nào đó lên những hành động của người khác, tự tạo ra cho người khác một cái khuôn mẫu và buộc người khác phải làm đúng theo cái khuôn đó, nếu ai mà không nằm trong khuôn đó thì hết lòng chê bai phỉ báng người đó hết lời. HS gặp nhiều người học theo tư tưởng Thiền tông của chư Tổ sư mà áp đặt lối suy nghĩ đó cho những người tu thiền, mà bản thân họ không hiểu hết Thiền Tông khác xa thiền định, Thiền tông là tên của một hệ phái vốn thuộc về truyền thống Phật giáo Bắc tông, tu tập theo phương pháp hướng tới sự Giác ngộ bản chất vấn đề Chân Lý Cùng Tột theo cách hiểu và xiển dương của chư Tổ sư, còn gọi pháp tu của hệ phái này là Tổ Sư Thiền. Còn bộ môn Thiền định của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lưu truyền cho hậu thế và được chư thánh tăng từ thời Đức Phật còn tại thế bảo lưu tới nay qua con đường hoằng pháp của hệ thống Phật giáo Nam tông còn gọi là Nguyên Thuỷ, bộ môn thiền định gồm có 2 phần là thiền chỉ tịnh còn gọi là thiền vắng lặng tu tập định tâm theo 40 đề mục định tâm; thiền quán hay là thiền minh sát, thiền tuệ tu tập theo hướng dẫn của bài kinh Tứ Niệm Xứ, kinh Đại Niệm Xứ hướng tới thấu suốt Tam tướng của thế gian: Vô Thường, Khổ não, Vô Ngã và nhờ đó chứng đắc được 4 đạo 4 quả và 1 niết bàn (xin xem lại phần trên về khái niệm thiền định và thiền tuệ). Những người không am hiểu kiến thức và quan niệm của Thiền tông khác xa Thiền của Phật giáo Nam tông nên cứ tha hồ gán ghép, áp đặt theo tiêu chuẩn của các vị Tổ sư ấy cho những trạng thái chứng đắc của những người tu tập thiền định, rốt cuộc chẳng đi tới con đường dẫn tới Giác ngộ đạo quả thánh nào mà chỉ dẫn tới mâu thuẫn, mất đoàn kết, chia rẻ và thù oán của những tư tưởng đối nghịch, họ đã rời xa cốt tuỷ lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư mà không hay không biết. Cái vô lý của những người nhiệt tình mà thiếu hiểu biết này đã gây ra nhiều sự tai hại cho những quan hệ xã hội đáng lẽ là sẽ mở rộng ra nhưng đằng này cái Tôi va chạm với cái Ta trở thành Tà kiến nặng nề, và như thế cả hai phía chẳng có ai vượt ra khỏi sức mạnh trói buộc của kiết sử Thân kiến, nên hậu quả dù muốn hay không thì vẫn cứ luân hồi trong 31 cõi thế gian này mà không sao thoát ra được. Sức mạnh tà kiến của người tu tập mạnh mẽ và vững chắc gấp trăm ngàn lần tà kiến của người chưa tu tập và chưa học hỏi kinh điển, bởi vì những người đã học thì họ sẽ hình thành một kết cấu chặt chẽ về lý luận và thực hành theo cách mà họ bảo thủ cho là đúng và được những người thân quen của họ cỗ xuý cho sự thấy đúng thấy rõ đó của họ, nên bản ngã của họ ngày càng chất chồng to lớn thêm hơn.

    * Về thực hành: Người tại gia thực hành pháp môn nào thì thường có tâm lý so sánh với bậc xuất gia và cố gắng thực hành theo bậc xuất gia mà quên mất vị trí của mình đang ở xã hội hay ở chốn thiền môn, trong những khoá tu thiền tích cực hoặc khoá tu vài ngày ở các chùa thì người tại gia được khuyến khích giữ gìn những giới luật và phương pháp tu tập theo chư Tăng Ni, lúc đó là mình đang tập tu theo lối sống xuất gia thì mình phải tuân theo phương cách xuất gia tức là tập tu chuyên nghiệp, còn khi ở môi trường xã hội thì mình phải ý thức được sự khác biệt với môi trường thiền môn của các bậc xuất gia nên không áp dụng các tiêu chuẩn của chốn tu hành cho môi trường của người thế tục, chính sự gán ghép áp đặt ấy đã gây ra những cản trở cho bản thân và gia đình, rồi tạo ra chướng ngại mà mình không hiểu ra rồi đổ thừa cho gia đình là ma chướng cản trở đường tu của mình, thiệt là ngớ ngẩn làm sao! HS có biết nhiều người phát tâm ăn chay trường rồi mặc áo lam nhưng đầu vẫn để tóc, vẫn đeo vòng vàng, vẫn se sua như người thường nhưng họ nấu cơm riêng cho họ và cho gia đình không ăn chay, nhìn cách thể hiện đó người ta thấy chướng mắt vì tu không ra tu, tục không ra tục, nhìn rất kỳ dị. Đức Phật dạy tu hành là pgải hướng tới sự xả ly tài sản (nên dạy pháp Bố thí), xả ly danh dự danh tiếng (nên dạy ngăn ngừa tâm Ngã mạn), cao thượng nhất là Ngài dạy Ba la mật Xuất gia, nhưng hễ vừa tu vừa tục theo kiểu cách không giống ai đó thì chỉ làm cho bản thân họ và những người xung quanh thêm chướng ngại mà thôi. Còn về phần gia đình của họ, lúc đầu thì còn được được nhưng lúc sau gia đình họ bực mình vì vừa hao tốn vừa mất cân đối dinh dưỡng và không khí bữa cơm gia đình bị ảnh hưởng do 2 chế độ ăn uống đối nghịch nhau, người Vn chúng ta có truyền thống bữa cơm gia đình cùng ăn cùng trò chuyện, chia sẻ nhưng vợ ăn một kiểu chồng ăn một ngã thế thì không sớm thì muộn vợ chồng cũng lục đục bất hoà, bởi vậy có nhiều người than thở sao hồi trước chưa biết ăn chay tụng kinh thì gia đình ít xáo trộn sao bây giờ biết ăn chay, tụng kinh rồi thì gia đình ngày nào cũng cãi nhau, cũng bất hoà thôi tôi không tu nữa cho được an lành, tu vầy khổ quá! Những người đó không thấy được cái nhân trước mắt mà đi đổ thừa cho vợ chồng con cái mình là ma quỷ hiện hình cản trở đường tu của mình, thiệt là gây tội lỗi nghiệp chướng biết bao. Tu là phải sửa mình cho đúng đắn, làm cho thế gian thành cực lạc chứ không phải làm cho thành cực khổ, tu như vậy là tu sai đường rồi. Có nhiều trường hợp khác khi họ đi ăn tiệc chung với gia đình, bạn bè thì mọi người cứ phải tâm niệm trong đầu là phải chuẩn bị riêng cho người này thực phẩm chay, nếu lỡ quên thì mất vui cho cả hai bên, ăn thì ăn thức ăn riêng thậm chí phải xách túi thức ăn chay riêng đi theo bên mình, ai mời gì cũng lấy tay che chén lại và nói mãi một câu không chán: tôi ăn chay không ăn đồ mặn được, không biết tu hành tới đâu nhưng ngay cái chuyện ăn uống đã là một chướng ngại cho bản thân và những người xung quanh rồi. HS có một người bạn tổ chức đám cưới nhưng lại không mời một người anh bạn đạo, hỏi tại sao thì chủ tiệc nói anh ấy ăn chay chẳng lẽ mình mời rồi phải làm riêng đồ chay nữa, hơn nữa bạn bè khách khứa của mình đâu có ai không nhậu nhẹt, đám cưới mà đâu thể tránh được những chầu rượu mừng đâu, hơn nữa nhà hàng tiệc cưới thì ít có nấu chay nên không thể mời anh ấy, mình không thể để anh ấy không thoải mái vì thức ăn mặn và vì địa vị anh ấy lớn nhất trong nhóm của tụi mình nên càng không thể để anh ấy ăn thức ăn không phù hợp được, nên suy nghĩ kỹ là không mời thì tốt hơn. Người ăn chay trong trường hợp này vô tình vì sự thanh tịnh của mình lại làm chướng duyên cho người khác, bởi lẽ người khác sẽ nói lời khen thì còn hay nhưng lỡ chê bai, phỉ báng thì lại tạo duyên cho những người đó tạo bất thiện nghiệp vô cùng, cho nên những trường hợp như vầy thì tự mình phải biết mình chớ để cho những người xung quanh phải khổ vì mình là điều không nằm trong lời dạy của Phật, Bồ tát hoặc chư Tổ sư. Đức Phật dạy nên làm điều gì lợi mình lợi người, không nên làm gì hại người lợi mình.

    (còn viết tiếp...)

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  9. #9

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hoasenngancanh Xem Bài Gởi
    4- NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÔNG PHÙ HỢP GIỮA NGƯỜI TU TẠI GIA VỚI NHAU, KHI SO SÁNH VỚI GIỚI LUẬT CỦA BẬC XUẤT GIA

    * Về giới luật: Người tại gia có cái bệnh là hay so sánh với người xuất gia về giới luật, công phu tu tập và sự thể hiện bên ngoài nhưng bản thân lại không mấy người hiểu hết những ý nghĩa sâu xa của những giới luật đó, thậm chí giới luật căn bản của người tại gia còn không nắm vững nữa là các giới khác cao hơn. HS biết có nhiều người hiểu không đúng về giới Cấm Tà dâm là không được quan hệ tình dục, không được thủ dâm, không được có tình cảm với người khác giới hay đồng giới mỗi khi có những trường hợp như vầy thì gọi là bị phạm giới, làm cho người đó tâm tư sầu thảm rất là tội nghiệp vì mặc cảm tội lỗi của họ. HS thấy lạ là tại sao thời buổi bây giờ kinh sách băng dĩa đầy rẫy trên internet, một cú gõ là bao nhiêu thông tin đều được hiển lộ thế mà họ lại rất ngu ngơ trong những vấn đề tưởng chừng ai cũng biết này. Phật chế giới Cấm Tà dâm theo nguyên nghĩa của văn phạm Pali là Không được thực hiện các thú vui bất chính trong hoan lạc, nhưng nếu xét theo nghĩa này thì sẽ gây nhiều sự khó khăn cho người tại gia vốn xuất thân từ nhiều môi trường sống khác nhau, nên quý Sư chỉ giới hạn ở mức độ Không Tà dâm. Sự không Tà dâm được hiểu là không được quan hệ tình dục một cách bất chính giữa người nam (nữ) với người nữ (nam) đã có gia đình, đã có chỗ gởi gắm, đang bị tù tội, đang ở trong độ tuổi pháp luật không cho phép, đang là bậc xuất gia, là thú đực (cái)... nhưng không cấm quan hệ tình dục với vợ chồng, người tình, hoặc những người chưa có sự ràng buộc hôn nhân mà có sự thoả thuận, đồng ý của chính họ. Nếu quan hệ tình dục giữa vợ và chồng thì không gọi là Tà dâm, nhất là đối với những người tại gia thì Đức Phật đâu có cấm đoán mà hầu hết 90% người tại gia cứ đinh ninh trong đầu rằng hễ có quan hệ tình dục là phạm giới Tà dâm ! Tệ hại hơn nữa là những người tu tập theo một pháp tu nào đó như tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tu thiền mà ngoài những ngày trai giới (Bát quan trai giới) ra họ cũng có tâm trạng hoang mang lo lắng là bị Phật quở, chư hộ pháp trừng phạt vì tối qua họ ăn nằm với chính vợ chồng của mình, cái suy nghĩ ảnh hưởng chuyện phong the là không thanh tịnh của nề nếp xưa đã tác động không nhỏ một cách tiêu cực lên suy nghĩ của những người thiếu hiểu biết này; hoặc là do họ tự áp đặt luật xuất gia cho họ vì rằng chư vị tỳ khưu không được quan hệ tình dục hoặc là thủ dâm làm cho tinh dịch xuất ra từ bộ phận sinh dục, nhưng đó là chuyện của bậc xuất gia, tại sao cứ phải ám ảnh những luật nghi đó làm gì cho cuộc sống của mình bị chướng ngại? Trong những pháp tu đòi hỏi sự tinh nghiêm thì chính các bậc Tổ sư hoặc bậc Truyền giới Sư đã nói rõ yêu cầu, tiêu chuẩn cho pháp tu nào đó và người tu phải tự xem xét coi mình có đủ khả năng dự tu theo hay không, nếu không thì đừng tham gia, tham gia rồi thì đừng chỉ trích người khác không thanh tịnh như mình, người ta có tu giống mình đâu mà đi chỉ trích ?
    Phần này cho tỷ xin góp ý giới và luật đó là ngừa ,là phòng bịnh mà thôi ,người sợ luật thì sẽ vào nề nếp ,trong hành trì người phật tử quan trọng là ý thức để phân biệt ,khi giới đưa ra phải suy nghỉ vì sao mình phải tuân thủ ,các giới đó có lợi ích gì cho tu tập ,nhất là chuyện nam ,nữ ,
    Trong thế gian sanh ra là đã có NAM và NỮ ,có sự phân biệt sắc diện và dục vong ,tham cầu rồi ,tu hành đó là lòng tự nguyện vậy tu là để làm gì? đó là đưa TÂM vào nơi thanh tịnh .
    Người tu tịnh độ miễn là TÂM tịnh mà thôi ,chuyện vợ chồng ân ái đó là tự nhiên khi bước ra TÂM vẫn tịnh ,vậy tịnh là gì?
    Tịnh là trạng thái vui vẻ không tạp nhiễm mà thôi ,cho nên chuyện nam nữ không hề ảnh hưởng đến thân tâm ,nhưng giống như lắng đọng bề mặt ,người cư sĩ tại gia thì bình thường lắm ,còn người xuất gia là ảnh hưởng về nội TÂM giao động ,sự ham muốn họ còn nên dễ bị tác động nên phải có giới kềm hãm ,trách nhiệm của người xuất gia rất cao nên tuân thủ giới rất nhiều khắt khe hơn người cư sĩ.
    Nhưng với người tu bên thiền là rất khó ,tịnh họ đi đứng niệm để TÂM không sanh khởi nhưng không lặng sâu thẩm của nội TÂM ,người tu thiền khi im lặng tất cả dục vọng tham cầu hay bất cứ một cặn bã nào dù nhỏ nhất cũng khuấy động bung lên ,chính đều này người tu thiền đòi hỏi phải ý thức ,giới luật tinh nghiêm hơn nhiều
    Cho nên mình thấy người tu thiền dễ bị loạn vì họ không kềm hãm được dục vọng của bản thân ,nhất là chuyện nam nữ là dễ khùng .
    Giới và luật phải tùy theo từng hoàng cảnh và tùy theo hành trì mà biết ý thức giới ,quả là rất khó khi tuân thủ giới một cách có hiệu quả
    rose4rose4 Chúc mọi người vạn sự bình an

  10. #10

    Mặc định

    Giới và luật phải tùy theo từng hoàn cảnh và tùy theo hành trì mà biết ý thức giới...

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  11. #11

    Mặc định

    4- NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÔNG PHÙ HỢP GIỮA NGƯỜI TU TẠI GIA VỚI NHAU, KHI SO SÁNH VỚI GIỚI LUẬT CỦA BẬC XUẤT GIA

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  12. #12

    Mặc định

    chưa có điều kiện để chỉ cho hoa sen hihi
    Vô Thường Mà Thường
    Thường Mà Vô Thường

  13. #13

    Mặc định

    chưa có điều kiện để chỉ cho hoa sen hihi >> vậy khi nào có thì chỉ ha !

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  14. #14

    Mặc định

    hic hic ..... vậy là người ấy lại phải đi dài dài ..... hic hic
    Vô Thường Mà Thường
    Thường Mà Vô Thường

  15. #15

    Mặc định

    hihihi... vậy bạn hết đi dài dài chưa mà biết mình còn đi dài dài ? thời nay có nhiều người mắc bệnh hoang tưởng, tu hành chẳng ra sao hết mà cứ tưởng là quá giỏi rồi, đánh giá người này ng khác theo ý mình, hỏi thẳng bạn Mysterious tu tới tầng thiền nào òi, tới Phi tưởng chưa hả? chứng được mấy thần thông rồi ? đạt Thần túc thông chưa? chứng quả A La Hán chưa mà biết HS còn đi dài dài... bản thân bạn còn chưa giải quyết được "cái túi không đáy" thì đừng ngồi nói chuyện tào lao mía lau nữa nha. Bài của HS viết là để chia sẻ với những ai thấy HS nói phù hợp, chứ không phải tui rãnh mà post lên đây cho mấy ông ngồi bàn ra chọt vô nghe chưa? nói cho mà biết, bản thân các ông mà ra cơm cháo gì thì thân - ý - ngữ của mấy ông không có duyên mà phát khởi ra những thứ để ng ta đọc vô là có thể chửi lại như vầy, mấy ông tu kiểu gì không biết nhưng lộ ra những thứ để ng ta có thể chửi là chẳng có được công phu nào đâu !

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  16. #16

    Mặc định

    hihi thật thú vị ... coi bộ đắng dữ àh nha ... cái cục bông gòn bé tẹo tèo teo mà đòi leo dây leo .... hihi ... hỗng biết tu là gì ... chỉ biết mở mắt ra toàn màu trắng ..... nhắm mắt lại toàn màu vàng ....
    Vô Thường Mà Thường
    Thường Mà Vô Thường

  17. #17
    Nhị Đẳng Avatar của pucaquynhnga
    Gia nhập
    Sep 2010
    Nơi cư ngụ
    Ở một cõi cách Tây Phương Cực Lạc 10 muôn ức cõi Phật về hướng Đông
    Bài gởi
    2,849

    Mặc định

    Nếu đúng như huynh Hoasenngancanh nói, thì huynh thiệt là có phước đức, nhân duyên, thiện căn sâu dày.

    Chúc huynh thành tựu nơi pháp tu mình chọn như sở nguyện.
    Adidaphat.
    Diễn Đàn Đại Tạng Kinh Việt Nam => http://diendan.daitangkinhvietnam.org
    Nam Mô A Di Đà Phật. Adidaphat...Adidaphat...

  18. #18

    Mặc định

    @Mysterious: coi bộ cũng rãnh quá ha, nói cho dữ vô đi, rồi coi mồm ai rách trước ??? nhắc cho ông và tui nhớ, cái nghiệp quả nó đi kè kè sát đít nhá, nói cho dữ vô có ngày đít lác, mồm rách cho mà ham hố nhá !!!
    Last edited by hoasenngancanh; 13-08-2012 at 09:51 PM.

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  19. #19

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi pucaquynhnga Xem Bài Gởi
    Nếu đúng như huynh Hoasenngancanh nói, thì huynh thiệt là có phước đức, nhân duyên, thiện căn sâu dày.

    Chúc huynh thành tựu nơi pháp tu mình chọn như sở nguyện.
    Adidaphat.
    Không đâu, Ms.Quỳnh Nga, những gì HS nói chỉ là những sự suy nghĩ của bản thân thôi chứ không phải là một tiêu chuẩn gì hết, mình cũng chẳng biết mình có được như Nga nói không nữa, thấy sân si còn nhiều mà. Càng tu càng thấy mình ngớ ngẩn... ái chà chà... Cám ơn Nga nhiều, hy vọng Nga cũng được như ý thành tựu nguyện ước trong sự nghiệp tu học nha !

    *
    Hoa Sen Ngàn Cánh*

  20. #20

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi hoasenngancanh Xem Bài Gởi
    NỘI DUNG:

    1- ĐỊNH HƯỚNG CON ĐƯỜNG TU TẬP THÔNG QUA GIỚI ĐỊNH TUỆ + SỰ AM HIỂU KẾT QUẢ CẦN HƯỚNG TỚI: TỨ DIỆU ĐẾ

    2- CÁC PHÁP MÔN THÔNG DỤNG (NIỆM PHẬT, TỤNG KINH, TRÌ CHÚ) & CÁC PHÁP MÔN CHUYÊN SÂU (TU THIỀN, TRÌ CHÚ + QUÁN TƯỞNG MANDALA, TU THIỀN CÔNG ÁN, NIỆM PHẬT CẦU VÃNG SANH)

    3- NHỮNG THÀNH TỰU + NGỘ NHẬN TRONG TU TẬP CỦA NGƯỜI TẠI GIA KHÔNG CÓ THẦY TRỰC TIẾP HƯỚNG DẪN & CÁC TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN + CÁCH KHẮC PHỤC CÁC VẤN ĐỀ ẤY TRONG TU TẬP THIỀN ĐỊNH VÀ TRÌ CHÚ KHÔNG CÓ THẦY HƯỚNG DẪN

    4- NHỮNG QUAN ĐIỂM KHÔNG PHÙ HỢP GIỮA NGƯỜI TU TẠI GIA VỚI NHAU, KHI SO SÁNH VỚI GIỚI LUẬT CỦA BẬC XUẤT GIA

    5- NHỮNG ƯỚC NGUYỆN CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ: NÊN HAY KHÔNG NÊN CÓ?

    6- NHỮNG HIỂU BIẾT CHƯA ĐẦY ĐỦ CỦA NGƯỜI TẠI GIA VỀ VẤN ĐỀ: CÓ HAY KHÔNG SỰ TỒN TẠI CỦA MỘT THẾ LỰC VONG LINH HAY ĐEO BÁM NGƯỜI TU?

    7- TỔNG KẾT



    Hoa Sen Ngàn Cánh (HS) tu học Phật Pháp từ năm 11 tuổi không qua trường lớp hàn lâm nào của Giáo hội tổ chức, thời gian dài hơn 15 năm là thời gian để góp nhặt những kiến thức từ nhiều nguồn tham khảo của các tông phái, thông qua những cuốn sách kinh, truyện của Phật giáo mà đa phần là Phật giáo Bắc tông. Nhờ năng khiếu (có căn) và đức tin có từ trước nên HS dễ dàng tiếp thu và ghi nhớ lâu dài những gì đã đọc được và nghe được, sau này khi trưởng thành hơn thì HS gặp được nhiều duyên may tiếp xúc với những bậc thiện trí thức đã từ bi giảng dạy theo cách hiểu biết của các vị ấy, nhờ đó mà kiến thức Phật học của HS được dần mở mang thêm. HS cũng tập tành ăn chay, niệm Phật, tụng kinh, trì chú và tham gia các khoá lễ ở những ngôi chùa gần nhà và từ đó đã hiểu hơn các nghi thức lễ bái tụng kinh căn bản theo Phật giáo Bắc truyền, HS đã thực hành trì chú Đại Bi suốt thời gian hơn 15 năm và cũng thu nhặt những kinh nghiệm thú vị từ oai lực của Đại Bi chú, phải nói rằng HS có niềm tin và quý mến Quan Âm Bồ Tát rất lớn, nghe ở đâu có kinh sách, truyện tích về Ngài thì liền tìm đọc, tìm xem nhờ đó mà trong cuộc sống gặp rất nhiều thuận lợi và bình an. Sau này khi lớn hơn thì va chạm với cuộc sống thực tế nhất là thời kỳ thanh thiếu niên chuyển qua thanh niên là thời kỳ mà HS va vấp nhiều nhất, đó là quãng thời gian tồi tệ nhất mà HS đã nói và làm những điều cực kỳ tồi tệ với bạn bè, thân tộc của HS đó là giai đoạn 10 năm thất bại đầy cay đắng, thương đau mà điều tồi tệ nhất là trong suốt thời gian đó HS đã không hề ý thức ra được tình trạng bi đát của mình mà cứ vác cái mặt dương dương tự đắc lên trời, coi thường thiên hạ và hậu quả là duyên cho những nhân bất thiện trong quá khứ bộc phát và trổ quả thê thảm cho HS cho tới thời điểm này vẫn còn rỉ rả... Tuy vậy nhưng HS có sự may mắn là tuy đi sai đường nhưng lại không trở thành Ác Ma mà còn được nhiều bạn lành giúp HS tu hành nghiêm chỉnh, đó là những người vô tình hữu duyên HS gặp được họ là những người tại gia, những bậc xuất gia và những người khác niềm tin tôn giáo, điểm lý thú ở những người đó là đa phần họ đều lớn tuổi hơn HS rất nhiều, có những người tuổi tác ngang ngửa ba mẹ, ông bà của HS nhưng họ đối với HS như một người bạn đạo vong niên, nhiều khi ngẫm lại mà thấy cười cho sự ngô nghê của HS: HS gọi họ là anh, chị, tỷ, huynh, thậm chí gọi tên xem ngang hàng với HS nhưng khi biết ra là tuổi tác của mình cỡ con cháu người ta mà thôi ! thế mới kỳ lạ, HS thấy ngượng quá nên thay đổi cách xưng hô cho phù hợp thì những người bạn vong niên ấy từ chối và nói rằng trong tu tập tâm linh không nên chấp nhất địa vị, danh dự mà ngày nào HS còn có ông Phật trong lòng thì hãy xem họ là bạn, là huynh tỷ của HS... những cung cách đối xử đó của những vị ấy đã thức tỉnh HS rất nhiều, thú thật là HS ít được thân tộc đối xử tốt vỉ chuyện HS lầm lỗi (như đã nói trên) nhưng HS nhận được rất nhiều, nhiều lắm những món quà từ vật chất tiền bạc tới thức ăn, quần áo, kinh sách, và cả những phương tiện miễn phí từ A-Z chỉ với một yêu cầu duy nhất là HS hãy tu tập cho thật tích cực mà thôi ! HS từng hỏi một người anh bạn đạo là anh cho em miễn phí hoài sao em đền ơn anh nổi đây ? anh trả lời: HS cứ yên tâm nhận lấy và nếu muốn trả ơn thì hãy cho lại những người bạn hữu duyên với cùng một phương cách như HS đã được nhận. Chính vì vậy mà bây giờ những ai HS cảm thấy có thể giúp được cho họ trong tu tập thì HS hết lòng giúp đỡ mà không đòi hỏi một chi phí hay cái gì phản hồi trở lại cả, trừ những điều mà HS thấy cần thiết và ngỏ lời xin cho mà thôi, còn trong những lúc khác thì hoàn toàn cho không biếu không.


    1- ĐỊNH HƯỚNG CON ĐƯỜNG TU TẬP THÔNG QUA GIỚI ĐỊNH TUỆ + SỰ AM HIỂU KẾT QUẢ CẦN HƯỚNG TỚI: TỨ DIỆU ĐẾ

    Trong những pháp môn HS từng thực hành qua như Niệm Phật, Tụng kinh và Trì chú. Các kinh đã tụng qua như Phẩm Phổ Môn, Diệu Pháp Liên Hoa, Lăng Nghiêm, Hồng Danh Bửu Sám, Lương Hoàng Sám, Từ Bi Thuỷ Sám Pháp, Đại Bi Sám Pháp, A Di Đà, Địa Tạng, Dược Sư. Các chú đã tụng qua như: Bạch Y Thần Chú, Đại Bi Chú (15 năm), Lăng Nghiêm Chú, Thập Chú, Lục Tự Đại Minh Chú, Ngũ Bộ Chú. HS có những thành tựu nhất định trong thời gian tu tập ấy. Nhưng cho tới một ngày HS chứng kiến hiện tượng tá nhập xác xảy ra cho những người bạn trong một nhóm tu quen biết trên mạng, chỉ có mỗi mình HS là không bị nhập chỉ vì HS quá sợ hãi nên tập trung tụng chú Đại Bi liên tục nên suốt thời gian xảy ra hiện tượng tá xác đó HS bình yên vô sự, tuy vậy đã để lại cho HS một sự suy tư sâu xa về con đường HS đang đi liệu có đúng Chánh pháp của Đức Phật đã giáo truyền ? HS tự kiểm tra lại tại sao trong những lúc nguy hiểm nhất mà thân tâm mình có thể an toàn, thì sau này được học kỹ hơn về Phật pháp căn bản của hệ phái Phật giáo Nam truyền - vốn là truyền thống từ trước của ông bà ngoại, HS đã tự hiểu ra rằng do Hs thường thực hành giữ gìn Ngũ giới (Trì giới) trong sạch: Không sát sanh, Không lấy của không cho, Không tà dâm, Không nói dối, Không uống rượu và các chất say nên thân tâm của HS luôn được bình an và không bị hiện tượng tá nhập của những thế lực vô hình nào khác ngoài Phật giáo. Nhờ có Giới thanh tịnh, dẫn tới Định vững vàng nên khi tụng kinh, trì chú tâm của HS không bị nhảy lung tung ra ngoài, không bị vọng tưởng lôi kéo nên đã có sức mạnh Giới đức + Định lực nên nhờ vậy mà các thế lực vô hình không xâm nhập được, HS cũng được học rằng trong Phật giáo không có hiện tượng tá nhập như các tín ngưỡng dân gian hoặc các niềm tin tôn giáo khác. Sau sự kiện này, HS đã tìm hiểu sâu hơn lý thuyết Phật học của Phật giáo Nam truyền và học Abhidhamma (Vi Diệu Pháp, Vô Tỷ Pháp, Thắng Pháp) đó chính là Tạng Luận - một trong Tam Tạng Kinh điển của Phật giáo, nói cách khác ấy là bộ môn Tâm lý - Vật lý - Triết lý và Siêu hình học của Phật giáo, nói cách khác ấy là tinh hoa của Giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lưu truyền cho hậu thế tu học. Một vị chân tu được gọi là Thánh nhân trong Phật giáo mà không biết chút gì về Vi Diệu Pháp này thì không xứng đáng gọi là Thánh trong Giáo pháp này, tất cả chư Bồ tát đều phải am hiểu Vi Diệu Pháp vì đấy là một phần quan yếu trong quá trỉnh tu tập từ phàm phu lên thánh nhân, lý giải các quá trình chứng đắc các tầng thiền định, thiền quán, tâm dục giới, tâm sắc giới, tâm hiệp thế, tâm siêu thế, hiểu về niết bàn như thế nào là đúng đắn và có cơ sở, không mơ hồ, không lắp lững giữa cái Không và Có, rất rõ ràng, chi tiết, cụ thể tới từng sát na tâm. Nếu ai có duyên học và áp dụng vào quá trình tu thiền quán minh sát (Vipassana) thì sẽ hiểu được vì sao mà người Phật tử Nam truyền tin kính vào Đấng mà được cung kỉnh đảnh lễ là bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác vì trí tuệ sâu sắc của Ngài, hình dung ra thế nào là Phật trí Nhất Thiết Chủng Trí của Đức Phật thậm thâm vi diệu tới cỡ nào khi Ngài phân tích, chia chẽ các pháp thành những đơn vị nhỏ nhặt nhất mà không ai có thể chia nhỏ hơn nữa. Những khái niệm Thân xác Tứ đại, Ngũ Uẩn, Vô Thường, Vô Ngã, Khổ não, Ba la mật, Tuệ giác, Tầng thiền, Đạo quả, Tham, Sân, Si... tất cả đều được mô tả cụ thể trong Vi Diệu Pháp.


    2- CÁC PHÁP MÔN THÔNG DỤNG + CÁC PHÁP MÔN CHUYÊN SÂU:

    - CÁC PHÁP MÔN THÔNG DỤNG: NIỆM PHẬT, TỤNG KINH, TRÌ CHÚ: theo HS thì bên cạnh vấn đề người tại gia học tu theo quý Sư trong các thời khoá tụng kinh niệm Phật tại chùa thì phải tự thực hành các thời khoá kinh nhật tụng tại nhà theo từng thời gian phù hợp với lịch sinh hoạt của từng người, người tại gia cần phải chú ý tới chất lượng hiệu quả hơn là số lượng tụng đọc. Có nhiều bạn hỏi HS là mình tụng bao nhiêu biến (lần) bài chú này, bài kinh nọ, danh hiệu Phật này... thì có được những năng lực thù diệu nào hay không, HS trả lời là nếu với cái tâm mong cầu những thành tựu này nọ nhưng bạn không có nền tảng thành tâm nghiêm trang thân tâm, tức là không nghiêm chỉnh trong Trì 5 giới của người Phật tử và trong thời tụng kinh tu tập không hết lòng hết tâm thì chả được một chút gì cả, chưa nói tới là tụng nhiều niệm nhiều chỉ tội cho cái miệng mau mỏi, cái họng mau đau mà thôi. Ở một người có sự giữ gìn 5 giới nghiêm trang trong cuộc sống, ví dụ: như nói sao làm vậy làm sao nói vậy, không nói lời mâu thuẫn với việc làm thì thành tựu được việc giữ thành công Giới không nói dối tức là nói lời chân thật, thì lời chân thật sẽ là chân ngôn (chân= thật, ngôn = lời nói), do đó khi người đó tụng kinh trì chú là trùng tuyên lại Giáo pháp của Đức Phật cũng như lời nói chân ngôn của chư Bồ tát, chư Thánh nhân nên dĩ nhiên là mau thành tựu những linh ứng kỳ diệu dù chỉ cần 1 biến trì tụng thành tâm của người đó mà thôi, trong trường hợp này có 2 loại chân ngôn cùng một lúc hỗ trợ cho nhau mà tác thành những năng lực ấy là chân ngôn của chính người tụng và oai lực chân ngôn của Phật, Bồ tát, Thánh nhân mà người đó tụng. Do sức mạnh của Giới, Đức tin, Định tâm nên tạo thành sức mạnh không thể nghĩ bàn tác động tới những cung cõi vô hình, nên có nhiều vị nhà không thắp hương nhưng vẫn nghe hương thơm kỳ lạ, nhà bị bí gió nhưng vẫn có nhiều cơn gió mát dịu thổi vào trong suốt buổi tụng kinh trì chú...


    - CÁC PHÁP MÔN CHUYÊN SÂU: TU THIỀN, TRÌ CHÚ + QUÁN TƯỞNG MANDALA, TU THIỀN CÔNG ÁN, NIỆM PHẬT CẦU VÃNG SANH: Khi đã tu tập chuyên sâu một pháp nôn nào đó như là :

    + Tu thiền định, thiền tuệ là tu theo Phật giáo Nam truyền. Có 2 loại thiền định được dạy trong truyền thống Phật giáo Nam tông là Thiền định (Samadha) hay là thiền Chỉ tức là Thiền Vắng lặng, tập trung tâm tưởng vào 1 trong 40 đề mục do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ dạy, có lưu trong kinh tạng Pali. Kết quả của tu tập thiền định sẽ là 1 trong 8 tầng thiền, còn gọi là Tứ thiền và Tứ không. Loại thiền này đỉnh cao là đạt tới Năm năng lực thần thông còn gọi là Ngũ thông: thiên nhãn (mắt thần hay như mắt của chư thiên), thiên nhĩ (tai thần hay như tai của chư thiên), tha tâm (khả năng hiểu được tâm tư người khác), túc mạng (khả năng thấy rõ các tiền kiếp của mình và người khác), thần túc (khả năng tự tại biến hoá, thăng thiên độn thổ...). Thiền định này cho quả tái sanh vào 16 cõi Sắc giới Phạm thiên (theo trình độ Tứ Thiền) và 4 cõi Vô Sắc Giới Phạm thiên (theo trình độ Tứ Không).

    Tứ Thiền là: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền Tứ Không là: Hư không vô biên xứ thiền, Thức vô biên xứ thiền, Vô sở hữu xứ thiền, Phi tưởng Phi Phi tưởng xứ thiền.

    Loại thiền thứ hai là Thiền tuệ hay còn gọi là Thiền Quán Minh sát (Vipassana) trãi qua 16 tầng Tuệ giác dẫn tới chứng 4 đạo quả là :

    - Sơ quả Nhập Lưu Tu đà hoàn tiêu diệt 3 dây trói buộc vào luân hồi là Thân kiến, Hoài nghi ân đức Tam Bảo, Giới cấm thủ - tin tưởng vào các cách tu tập không thông qua Giới Định Tuệ để thấy rõ Tứ Diệu Đế mà cầu chứng quả Giải thoát Niết bàn. Bậc thánh này chỉ còn luân hồi trong tam giới 7 kiếp sẽ chứng quả Giải thoát Vô Dư Y, bậc này không bao giờ suy thoái xuống phàm nhân dù có tái sanh nhiều cõi nhưng chỉ là 2 thế giới Chư thiên và Nhân loại. 4 đường ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la) vĩnh viễn đóng lại với bậc thánh này.

    - Nhị quả Nhất Lai Tư đà hàm làm suy giảm sức trói buộc của 2 dây phiền não nữa là Sân hận và Ái dục (tình dục). bậc này còn quay lại tam giới 1 lần rồi sẽ chứng đắc quả Vô Dư Y.

    - Tam quả Bất Lai A na hàm cắt đứt trọn vẹn 5 dây trói buộc phiền não, còn gọi là 5 Hạ phần kiết sử: Thân kiến, Hoài nghi, Giới cấm thủ, Sân hận, Tình dục. Bậc thánh này không còn tái sinh vào 6 cõi trời Dục giới và 1 cõi Nhân loại chúng ta, bậc thánh này tái sanh vào 16 cõi Sắc giới Phạm thiên và 4 cõi Vô Sắc Phạm thiên rồi chứng quả Vô Dư Y ở kiếp cuối cùng.

    - Tứ quả Vô Sanh Bất Diệt A La Hán cắt đứt trọn vẹn 5 dây trói buộc tinh vi buộc chúng sanh vào luân hồi trong tam giới là 5 thượng phần kiết sử: Ngã mạn, Phóng dật, Vô minh (không thấu triệt Tứ diệu đế và Bát Chánh đạo), tham muốn tái sanh vào cõi Sắc giới, tham muốn tái sanh vào cõi Vô sắc giới. Đây là bậc thánh chứng đắc quả vị Vô Dư Y, thấu suốt Niết Bàn trọn vẹn, không còn trở lại tam giới như lò lửa này nữa, vĩnh viễn an trú trong trạng thái Vô Sanh Bất Tử.

    Niết Bàn mà 3 bậc thánh Hữu học chứng ngộ gọi là Hữu Dư Niết Bàn, tức là tuy thấy Niết Bàn nhưng vẫn chưa thấu triệt Niết Bàn và còn phiền não vương vấn, dư sót trong tâm tư các bậc Thánh ấy. Hữu học là còn phải tu học lên thêm nữa. Niết Bàn mà bậc thánh Tứ quả chứng ngộ gọi là Vô Dư Niết Bàn tức là không còn dư sót chút nào ô nhiễm hay phiền não còn trong tâm vị thánh ấy nữa. Đây là bậc thánh mà Đức Phật gọi là Vô học, tức không còn gì để phải tu học hơn nữa, phận sự đã xong, phạm hạnh đã tròn, thành tựu tròn vẹn Ân Đức Tăng Bảo - còn gọi là bậc Ứng Cúng (Arahata).

    * Thiền định (Samadha) dẫn tới chứng đắc Tứ thiền, Tứ không và 5 phép thần thông nhưng không dẫn tới Giải thoát sinh tử luân hồi nên gọi là thiền Hiệp thế.

    * Thiền tuệ (Vipassana) dẫn tới chứng đắc Tứ thánh quả tức là thành tựu Lậu tận thông - trí tuệ thông suốt sự chấm dứt các phiền não ô nhiễm (lậu tận) nên gọi là thiền Siêu thế. Hiệp thế là còn theo thế gian, Siêu thế là siêu thoát ra khỏi thế gian. Nếu thiền nào dẫn tới ra khỏi thế gian thì gọi là Siêu thế, còn ngược lại là Hiệp thế. Ở thiền tuệ có 2 loại Hiệp thế và Siêu thế vì 11 tầng tuệ đầu từ Danh Sắc Phân tích tuệ tới Hành Xả tuệ là thiền Hiệp thế, từ tuệ Thuận thứ cho tới Phản khán tuệ là thiền Siêu thế.

    * Tam học giải thoát là Giới Định Tuệ thì Thiền định làm viên mãn Định học và Giới học, Thiền tuệ làm viên mãn Tuệ học, nói cách khác Giới hỗ trợ cho Định, Định hỗ trợ cho Tuệ, Giới Định Tuệ hổ trợ cho nhau tác thành Tứ thánh quả cùng Lục thần thông. Tam học cũng là một cách gọi khác của Bát Chánh Đạo, khi thành Thánh nhân thì gọi là Bát Thánh Đạo.

    Con đường Giới Định Tuệ hay là Bát Thánh Đạo là con đường hướng tới chứng ngộ Tứ Diệu Đế mà Đức Phật Thích Ca đã chỉ dạy cách đây hơn 2500 năm qua, và vẫn đang được nhiều nhiều thế hệ Đệ tử Phật trùng tuyên và hoằng pháp để đưa chúng sanh hữu duyên tới bờ Bên Kia.

    + Trì chú & quán tưởng Mandala là tu theo Phật giáo Bắc truyền - hệ phái Mật tông (trong đó có nhiều truyền thống như Mật tông Tây Tạng - gọi là Tạng Mật, Mật tông Nhật Bản - gọi là Đông Mật , Mật tông Trung Hoa, Mật tông Thiên đình - hay là Mật tông Thầy Già, Mật tông Việt Nam có rất nhiều nhánh với nhiều danh xưng khác nhau, Mật tông Nam tông - nhiều nhánh tu luyện Mật pháp của các nước theo Phật giáo Nam truyền như Lào, Thái, Campuchia, dân tộc Chămpa ở miền Trung nước ta...)

    + Tu thiền Công án là tu theo Thiền tông Trung Hoa hoặc Thiền tông Việt Nam. Lưu ý: nhiều bạn lẫn lộn giữa 2 khái niệm khi nói tới 'tu thiền' là Thiền Tông là 1 hệ phái của Phật giáo Bắc tông có truyền thống tu tập, chứng ngộ theo cách của các Tổ sư thiền từ Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma truyền xuống tới các Tổ sư mà chúng ta biết tên các Ngài. Truyền thống này tu tập theo lối đốn ngộ dựa trên các Công án thiền, rất khác với bộ môn Thiền định và Thiền tuệ của truyền thống Phật giáo Nam tông vốn lưu giữ hầu như trọn vẹn những bài học căn bản tới nâng cao của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Thánh Tăng. Cùng là danh từ 'Thiền' nhưng một bên là tu theo Thiền Tông gọi là Thiền của Tổ Sư, hay là Tổ Sư Thiền; một bên là tu tập pháp môn Thiền định và Thiền tuệ của Đức Phật, nên còn gọi là Như Lai Thiền hay là Thiền của Phật.

    + Niệm Phật A Di Đà cầu vãng sanh Tây phương Cực Lạc là tu theo hệ phái Tịnh độ tông lấy tông chỉ Tín, Nguyện, Hạnh đi theo hướng khai sáng của chư Tổ Sư của Tịnh độ tông, cách tu này phải được hướng dẫn sâu xa vì bên cạnh pháp tu niệm Phật căn bản được dạy trong Kinh A Di Đà là niệm Phật tới trình độ Nhất tâm bất loạn hay còn gọi là Niệm Phật Tam muội, tức là cảnh giới tương đương các bậc Thiền định từ Sơ thiền trở lên, có nhiều cách quán tưởng tương tự như tu thiền định của Phật giáo Nam tông dựa trên kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy cách quán tưởng Toà sen của Đức Phật Di Đà (Hoa toà quán), Kim thân Tam Thánh, Hình ảnh của cõi Cực Lạc, Hạt Minh Châu trong ao nước Tám công đức ở cõi Tây phương, Mặt trời chói sáng khi hoàng hôn (Nhật quán), Mặt nước trong sạch như ngọc pha lê (Thuỷ quán)... Niệm Phật tuy dễ ai cũng có thể thực hành được nhưng để đi tới trình độ yêu cầu để chắc chắn được vãng sanh phải là Niệm Phật Tam muội thì không phải ai cũng đạt tới nổi.


    3- NHỮNG THÀNH TỰU + NGỘ NHẬN TRONG TU TẬP CỦA NGƯỜI TẠI GIA KHÔNG CÓ THẦY TRỰC TIẾP HƯỚNG DẪN & CÁC TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN + CÁCH KHẮC PHỤC CÁC VẤN ĐỀ ẤY TRONG TU TẬP THIỀN ĐỊNH VÀ TRÌ CHÚ KHÔNG CÓ THẦY HƯỚNG DẪN

    Thời gian đầu khi HS trì tụng chú Đại Bi thì thường hay thấy bóng ma ám (bóng đè) vào giấc ngủ trưa và những lúc ấy phải cố gắng vận dụng sức mạnh tâm trí để đọc chú Đại Bi trong tâm thức mà vượt qua được tình trạng này, có lần thấy ai đó nhập vào thân thể đưa hồn mình bay bổng lên chạm trần nhà, nhìn xuống thấy được toàn thân của mình đang nằm trong tư thế nào thì khi tỉnh dậy thấy nằm trong đúng tư thế đó. Một lúc khác đi đến đám ma hoặc nhà hài cốt (tháp hài cốt) ở các nhà thờ hoặc các chùa thì bị chóng mặt, nhức đầu, toát mồ hôi lạnh dù trong đó rất nóng nực và bên ngoài là buổi trưa, hiện tượng như bị trúng gió và thần kinh trán rất nhức đau đớn, toàn thân ê ẩm mệt mỏi, những lúc ấy phải cố gắng niệm Phật thì mới bình thường trở lại. Có một lần đi thăm viếng nghĩa trang liệt sĩ Quảng Trị thì bị ma giấu, tức là tình trạng 'ám nhãn' làm cho người trong đoàn tưởng là HS đã lên xe ngồi với họ rồi nên họ chạy đi mà HS chạy theo đập cửa xe mà họ không hay biết gì hết, họ không thấy HS còn ở dưới đường, phải vừa chạy theo đập cửa xe vừa niệm Phật trong tâm thức rồi chạy ra khỏi khu vực nghĩa trang thì tài xế mới nghe thấy và dừng lại, khi lên xe mọi người nói là không phải HS đã ngồi trên xe nãy giờ sao bây giờ còn ở dưới đường??? Một lúc khác, khi HS tụng chú Đại Bi khi đi đường cho bình an thì thường gặp hiện tượng xe bể bánh, bị xe khác đụng phải dù là mình đi đúng đường, đi bộ trên lề thì bị xe đi ngang văng nước tạt vào mình, bị cành cây rơi xuống trúng mình...

    Sau này HS mới biết là một phần những sự việc như thế là trả quả ác nghiệp đã gieo trong quá khứ, nay do oai lực diệt ác nghiệp (chú Đại Bi có một tên khác là Diệt Tội Chướng Đà La Ni) của chú Đại Bi mà khiến xảy ra tình trạng như vậy, thường thì khi bị những tai nạn bất ngờ đó HS không bị tình trạng nghiêm trọng, tuy có thiệt hại nhưng không quá nặng nề. Một lẽ nữa, khi đến những nơi có nhiều âm khí như bệnh viện lớn, nghĩa trang liệt sĩ, các nhà hài cốt, đám ma, đường phố thì không nên đọc chú Đại Bi nhiều biến, mà có đọc thì phải hồi hướng công đức ngay cho các âm linh ở những nơi đó được an vui và siêu thoát, tốt nhất là nên niệm Phật trong khi ở những nơi đó vì khi niệm Phật thì do sức mạnh của Ân đức Phật mà toàn thân tâm của bạn sẽ biến thành một Bảo tháp chứa Xá lợi Phật, nên chư vị linh thiêng trong nhiều cung cõi vô hình sẽ hộ vệ cho người niệm Phật, họ cung kính người niệm Phật nhưng bạn cung kính Bảo tháp Xá lợi Phật vậy do đó những tai nạn xui xẻo, bất ngờ không xảy ra cho người niệm Phật trừ những trường hợp quả của cực ác nghiệp xảy ra cắt đứt mạng sống chúng sanh, nhưng do nhờ oai lực của Ân đức Phật mà người đó đang niệm tưởng sẽ cho quả tái sanh vào các cõi trời an vui sau khi tâm cận tử khởi lên, đảm bảo cho một kiếp sống tương lai an vui hạnh phúc hơn rất nhiều lần kiếp sống này. Hơn nữa với những khi HS tác ý tụng chú Đại BI để hồi hướng cho các âm linh, vong linh còn lẩn quẩn đâu đó ở những nơi HS kể thì phải giữ gìn 5 giới nghiêm chỉnh không đứt đoạn, rồi đọc tụng Ân đức Phật (hoặc niệm Phật) trước sau mới tụng chú Đại bi, vừa tụng vừa quán tưởng từ trường từ bi bao phủ xung quanh mình và lan toả đến những chúng sanh ấy, với mong muốn cho chúng sanh ấy được an vui và siêu thoát. Do sức mạnh của Giới trong sạch, Định tâm miên mật và oai lực thần diệu của chú Đại Bi nên bạn sẽ không bị mệt, không bị hút dương khí, không bị vỡ hào quang mà còn làm công đức cho bạn vì bố thí sự an lạc cho chúng sanh đó nữa.

    Vấn đề tu tập thiền định, HS thấy rằng tuỳ khả năng của từng người khác nhau mà sự hấp thụ những kinh nghiệm cũng như hiểu biết của những vị đi trước có khác nhau, HS tự thực hành thiền định niệm Hơi thở thì chứng và trú được trong ấn tướng (nimitta) ánh sáng màu trắng tràn ngập như ngồi trong một căn phòng ánh sáng trắng, tâm trạng rất hoan hỷ, mát mẻ, thích thú, HS ngồi đó trong một hai tiếng đồng hồ mà không bị mất ấn tướng nên HS cho rằng đó là Sơ thiền và tình trạng này kéo dài được khoảng 1 năm. Sau này khi HS tham dự khoá thiền 10 ngày ở thiền viện Nguyên Thuỷ ở phường Cát Lái, Quận 2 thì được sự chỉ dạy của vị thiền sư người Myanmar (Miến Điện) tên là U Tenajida giúp HS thu gọn ấn tướng từ 'căn phòng ánh sáng' gom tụ lại thành một 'quả cầu ánh sáng' kích thước như quả chanh và đứng trước mũi mình (tức là ở điểm mà mình định tâm nhìn vào), kế đó là càng chú tâm vào hơi thở cho tới khi quả cầu ánh sáng ấy dính vào hơi thở ra vào, HS có cảm giác như là HS hít thở ánh sáng của quả cầu đó tức là khi HS hít thở ra vào thì quả cầu ánh sáng ấy cũng chạy theo ra vào y như hơi thở vậy, nói cách khác giai đoạn này hơi thở và ánh sáng đã hoà nhập thành một. HS an trú tâm định vào tướng ánh sáng (còn gọi là Quang tướng) này trong các thời thiền sau đó và thời gian an trú vào đó kéo dài khoảng một hai tiếng đồng hồ, trong khi đó mọi khái niệm về thời giờ, ngày tháng , tên tuổi, nơi chốn đang ngồi, nhất là âm thanh xung quanh... đã không xuất hiện trong tâm thức của HS, một tình trạng quên mình quên người, quên tất cả diễn ra trong suốt một hai tiếng ấy mà chỉ có mỗi việc nhìn ngắm ánh sáng ra vào mình mà thôi ngay cả ý nghĩ hay biết là mình đang hít thở cũng không có trong tâm thức HS, thiền sư hoan hỷ nghe trình pháp và Ngài nói rằng nếu HS đã hài lòng với mức độ này thì nên quán sát 5 chi thiền sau khi xã thiền là Tầm (sự hướng tâm tới Hơi thở), Tứ (sự chú ý Hơi thở), Hỷ (sự hân hoan vui thích với Hơi thở và ấn tướng), Lạc (sự an ổn, không mệt mỏi trong suốt thời thiền), Định (sự chú ý tập trung trọn vẹn trên ánh sáng của đề mục) thì khi thấy rõ 5 chi thiền này thì biết chắc chắn rằng đó là trình độ Sơ thiền mà không còn lầm lẫn nữa. Tình trạng căn phòng ánh sáng cho tới quả cầu ánh sáng là giai đoạn Cận định, vì lúc này tâm định chưa vững mạnh, chưa an trú sâu xa trong quang tướng mà vẫn còn bị âm thanh xung quanh tác động (trong trình độ Cận định do các giác quan trở nên rất nhạy bén nên dù có một âm thanh bé nhỏ như chiếc lá khô rơi xuống đất, vị ấy nghe như tiếng bom nổ sát bên tai...) do đó trong kinh tạng có nói Âm thanh là Gai nhọn của Sơ thiền, nếu vị nào không thể vượt qua chướng ngại âm thanh thì vị ấy không thể đắc Sơ thiền, và nếu âm thanh quá ồn thì vị ấy có thể bị văng ra khỏi 3 tầng thiền Sơ, Nhị, Tam thiền nhưng ở tầng Tứ thiền thì tâm vị ấy vững mạnh như cột đình không bị ảnh hưởng do âm thanh ồn ào như sấm sét, động đất, bom nổ nữa.

    Tóm lại trong phần này HS thấy rằng những ai tu tại nhà mà không có Thầy hướng dẫn thì khi có những thành tựu hay những hiện tượng bất thường xảy ra cho mình thì hãy thật bình tĩnh, sáng suốt: - Quan sát tâm tư của mình lúc đó là tâm thiện hay bất thiện, tâm chơn chánh hay tâm không chơn chánh

    - Tìm xem trở lại công phu của mình từ trước khi xảy ra những hiện tượng ấy, là như thế nào, đúng sai ra làm sao, nhất là công phu tu tập có đúng theo tài liệu hướng dẫn hay không

    - Sau khi đã tự xem xét cho mình, với ý thức không tự hào, không tự mãn, không cho là mình đúng hoặc không đúng thì nên tìm đến chư Tăng Ni để trình bày vấn đề của mình, xem coi các vị trả lời thế nào và tự thân xem xét đối chiếu lại coi những gì các vị nói về mình đúng hay không đúng mà áp dụng hay không áp dụng. HS hỏi nhiều vị Tăng và đối chiếu xem xét kỹ càng với kinh điển rồi mới tin theo, chứ không vội vàng cho là HS đúng người khác sai, và không cho người khác đúng HS sai trong khi chưa phân tích những khía cạnh tích cực cũng như không tích cực của vấn đề đang gặp.

    Lưu ý:

    + Nếu người tại gia chứng và trú thành công một trong các bậc thiền định cũng như thiền tuệ quán thì có thể nói cho người khác là người tại gia hoặc xuất gia biết tình trạng của mình mà không phạm tội khoe pháp bậc cao nhân, ngay cả thần thông cũng có thể biểu diễn cho người khác xem. Tuy vậy nhưng nếu nói cho người khác biết với mục đích khoe khoang tức là có tâm ngã mạn, 'chảnh chẹ' thì lần sau khi ngồi thiền vị ấy sẽ bị mất tầng thiền đó và sẽ rất vất vả để chứng đắc trở lại. Nếu nói với mục đích muốn chia sẻ và học hỏi thêm thì mới không bị mất mà còn rực rỡ thêm. Một lẽ nữa là người tại gia không nên hỏi người xuất gia câu hỏi: Thầy (Cô) chứng Sơ thiền như con hay chưa? Đừng nên hỏi câu tương tự vì sẽ gây ra bất thiện nghiệp cho bạn vì làm Chướng ngại pháp cho người xuất gia, bởi lẽ luật của chư Tăng ghi rõ vị nào dù chứng đắc hay không chứng đắc mà nói ra cho người khác biết là phạm giới của chư Tăng, cho nên chư Tăng không khi nào được phép nói rõ tình trạng tu tiến của các ngài cho người khác biết mà chỉ có thể gợi ý, giảng giải cho người khác biết tính chất của trỉnh độ thiền nào đó để người đó biết mà tu tập tốt hơn mà thôi.

    + Nếu chưa chứng Sơ thiền hoặc các bậc thiền cao hơn thì đừng cho là mình đã chứng rồi đem khoe khoang cho thiên hạ biết để hãnh diện, tự mãn thì sẽ phạm vào tội khoe pháp bậc cao nhân, vì các tầng thiền dù được định danh là Sơ thiền, Nhị thiền... nhưng những khái niệm ấy có bản tính Thực tánh pháp tức là có thật một hiện tượng đó chứ không phải là danh từ đặt để cho cái hư nguỵ, và như vậy thiền có Ân đức Thiền tác thành bậc cao quý trong Giáo pháp của Đức Như Lai. Người chứng Sơ thiền trở thành bậc có phạm hạnh tương đương chư vị Phạm thiên của cõi trời Sắc giới hoặc Vô Sắc giới, có ân đức Giới Định Tuệ trong sạch, tuy là các tầng thiền Hiệp thế nếu người chứng thiền chưa chứng Thánh quả, nhưng tầng thiền sẽ tạo nền tảng cho chứng đắc Thánh thiền về sau, còn gọi là Thiền Siêu thế - thiền chứng của bậc Thánh nhân. Cho nên tầng thiền và thần thông là những năng lực có Thực tánh pháp tác thành ân đức của bậc cao nhân, không nên tưởng rằng tầm thường ai cũng có thể khoe khoang mà mang bất thiện nghiệp cho mình, sau này khi tu thiền sẽ rất khó thành tựu các bậc thiền cũng như khó chứng đắc thần thông.




    (còn viết tiếp...)
    hay thay ..lành thay ..
    công đức vô lượng
    xin chúc mừng HSNC
    chúc thiện hữu thành tựu viên mản
    thân

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 223
    Bài mới gởi: 01-06-2012, 10:29 PM
  2. Kinh Vô Lượng Thọ Phật !
    By kinhdich in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 31-05-2012, 04:26 PM
  3. Thượng đế là ai ?
    By kiennguyen in forum Đạo Cao Đài
    Trả lời: 371
    Bài mới gởi: 09-01-2012, 09:31 PM
  4. Thiền học
    By The_Sun in forum Thiền Tông
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 03-09-2011, 08:52 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •