Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 23

Ðề tài: Phá giới ắt đọa địa ngục

  1. #1

    Mặc định Phá giới ắt đọa địa ngục

    Người trì trai niệm Phật nhiều, xét đến hiệu quả thì người khiến cho pháp đạo được hưng thịnh, phong tục thuần thiện chỉ sợ không nhiều, chứ càng nhiều càng tốt. Còn như kẻ xuất gia làm Tăng hòng giữ gìn đạo pháp Như Lai và lập bày cách để lưu thông đạo pháp; nếu người ấy lập chí hướng thượng, phát đại Bồ Đề, nghiên cứu Phật pháp, triệt ngộ tự tánh, hoằng dương Tam Học nhưng riêng khen ngợi Tịnh Độ thì trong một đời sẽ mau thoát khỏi khổ luân, người như vậy cũng chỉ sợ không nhiều, chứ càng nhiều càng tốt.

    Nếu là kẻ hơi có tín tâm, không có đại chí, muốn dựa vào cái danh làm Tăng để ăn không ngồi rồi, sống bám Phật pháp, mang danh Phật tử, chứ thật sự chỉ là gã trọc đầu. Dẫu không tạo ác nghiệp nhưng đã là hạt giống hư hoại nơi pháp, là phế nhân của đất nước. Nếu còn phá giới tạo nghiệp, khiến Phật pháp nhục lây, dẫu sống trốn được phép nước, lúc chết quyết định đọa địa ngục. Đối với pháp, đối với bản thân, cả hai vô ích. Một kẻ như thế còn chẳng được, huống chi là nhiều!

    Nam Mô Ấn Quang Đại Sư
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  2. #2

    Mặc định

    Cổ nhân nói: “Xuất gia là chuyện của bậc đại trượng phu, kẻ quan cao lộc cả không thể làm được” đấy là chân ngữ, thật ngữ, chứ không phải là ức chế kẻ quan cao lộc cả đề cao Tăng Già đâu! Là vì gánh vác gia nghiệp của Phật, nối tiếp huệ mạng của Phật, hoằng dương đạo pháp hòng lợi lạc chúng sanh...

    Từ rày về sau người cầu xuất gia, thứ nhất phải là thật sự phát tâm đại Bồ Đề lợi mình, lợi người, thứ hai là phải có thiên tư hơn người thì mới được xuống tóc. Nếu không, không được! Nếu là nữ nhân có tín tâm, nên bảo họ tu hành tại gia, muôn vàn chẳng cho xuất gia. E rằng có chuyện sai xảy ra, đến nỗi ô uế, bại hoại Phật môn chẳng nhẹ vậy!

    Người nam nếu là chân tu, xuất gia càng dễ, vì có thể tham phỏng tri thức, y chỉ tùng lâm. Nữ dẫu chân tu xuất gia vẫn khó, bởi hành động dễ chuốc lấy miệng đời dèm báng, mọi việc thường khó lòng tùy ý được. Chọn lựa thế độ như trên, chẳng độ ni chúng chính là hộ trì Phật pháp trong đời Mạt, là yếu nghĩa bậc nhất để chỉnh lý pháp môn vậy

    ...

    * Pháp trì chú chỉ có thể dùng làm Trợ Hạnh, chẳng được coi pháp Niệm Phật là hạnh tu kèm, coi Trì Chú là Chánh Hạnh. Tuy pháp môn Trì Chú cũng chẳng thể nghĩ bàn, nhưng phàm phu vãng sanh hoàn toàn do tín nguyện chân thành, khẩn thiết, cảm ứng đạo giao với hoằng thệ đại nguyện của A Di Đà Phật, nên được tiếp dẫn. Nếu chẳng biết ý này, thì do pháp nào, hạnh nào cũng đều chẳng thể nghĩ bàn, sẽ ngỡ rằng không cần bận tâm đến căn tánh, tùy ý tu pháp nào cũng được, bèn thành “không Thiền, không Tịnh Độ; giường sắt và cột đồng, vạn kiếp lẫn ngàn đời, không một ai nương tựa!”.

    Nếu tự biết mình là phàm phu đầy dẫy phiền não, nghiệp lực đầy thân, không dựa vào hoằng thệ nguyện lực của Như Lai, quyết khó thể trong đời này thoát khỏi luân hồi, mới biết lực dụng của giáo pháp cả một đời [đức Phật] đều chẳng thể sánh với một pháp Tịnh Độ. Trì chú, tụng kinh để trồng phước huệ, tiêu tội nghiệp thì được! Nếu sanh tâm lầm lạc, muốn cầu thần thông thì có thể nói là bỏ gốc theo ngọn, chẳng khéo dụng tâm. Nếu tâm ấy cố kết, lại còn chẳng thông hiểu Lý, giới lực không vững, tâm Bồ Đề chẳng sanh, tâm ta - người càng thạnh, ắt sẽ có ngày bị ma dựa phát cuồng.

    Phàm muốn đắc thần thông, trước hết phải đắc đạo; hễ đắc đạo sẽ tự có thần thông. Nếu chẳng dốc sức nơi đạo, chỉ cầu thần thông, đừng nói chi thần thông chẳng đắc, dẫu có đắc cũng trở thành chướng đạo. Vì thế, chư Phật, chư Tổ đều nghiêm cấm chẳng cho người tu học theo vậy.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  3. #3

    Mặc định

    Người chân thành mới vãng sanh

    Người chân thành mới vãng sanh

    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  4. #4

    Mặc định

    bạn tuyenhoa1985 a. tớ rất rất muốn xuất gia quy y cửa phật để làm cho phật pháp lớn mạnh. nhưng bây giờ tớ xuất gia thì mẹ tớ lại rất buồn, bởi vì trước khi sinh mình ra mẹ con mình chịu rất nhiều "khổ nhục" cho đến ngày hôm nay. năm nay tớ 26 tuổi rồi mà công ăn việc làm chẳng đâu ra đâu, sau này có lấy vợ thì cũng làm khổ liên lụy cho người khác. tớ chỉ muốn xuất gia để nhờ oai lực phật và chí thành của mình khiến cho nghiệp được tiêu trừ. giả sử nếu tớ xuất gia trong thân tâm tớ sẽ chọn như cách " nhất bộ nhất bái" của thầy Tâm Mẫn để đến nơi mình xin thọ giới để họ thấy được Chí Nguyện xuất gia của mình và coi đó nhu là một thử thách. bạn cho lời tư vấn

  5. #5

    Mặc định

    Kinh Phạm Võng Bồ tát giới giảng lược



    Vào ngày 25-26-27-28 tháng 4 năm 2012, chư tôn Thiền đức Tăng già Chùa Phụng Ân, tọa lạc tại 73 Samseong-dong, quận Gangnam-gu, Tp.Seoul, Korea đã tổ chức giới đàn Truyền giới Bồ tát Vô Sanh Pháp Nhẫn cho hàng Phật tử tại gia.

    KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI GIẢNG LƯỢC


    -Giới Thanh Văn là giới tiệm thứ, tức là theo thứ lớp, từ giới từ giới mà thọ; như người nam thọ 5 giới, rồi thọ 10 giới, sau nữa là thọ 250 giới.

    -Giới Bồ Tát là đốn lập giới, tức là trước kia chưa có thọ giới nào cũng được thọ giới Bồ Tát. Trong kinh Phạm Võng nói: “Chư thiên, thái giám, ma, quỷ, thần,… đều được thọ giới, nếu nghe được tiếng của Pháp sư”.

    Giới Thanh Văn: Sa Di, Sa Di Ni, Thức Xoa, Tỳ Kheo Ni, phải có hình tướng rõ ràng; nam là nam, nữ là nữ, chứ không được nửa nam nửa nữ; nam không thành nam, nữ không thành nữ; như Thái Giám bị cắt mất nam căn, hay súc sanh, ma quỷ, tuy biến thành người cũng không được thọ.

    Giới Thanh Văn là chỉ trì, tức là không làm là trì. Giới Bồ Tát có cái không làm là trì, có cái không làm là phạm. Giới Thanh Văn thân làm thì phạm, còn giới Bồ Tát có khởi niệm mới phạm, gọi là Tâm Địa giới. Giới Thanh Văn làm lợi mình, giới Bồ Tát làm lợi người.

    Nếu không cho người chưa thọ giới Bồ Tát nghe những giới điều này thì sai lầm. Vì tất cả quỷ, thần, huỳnh môn, tôi tớ… đều được nghe và thọ, huống chi là loài người. Giới Thanh Văn khi thọ giới rồi mới cho biết giới điều, còn giới Bồ Tát phải giải thích cho biết trước, nếu đồng ý thì thọ giới; giới Thanh Văn phải thọ, khỏi cần giải thích giới điều trước.

    -Phạm 10 điều trọng gọi là phạm Ba la di; Ba la di là cực ác, tức là tội cấp thứ nhất, theo Thanh Văn là tội tử hình thì Tỳ Kheo đó phải mất Tỳ Kheo; Tỳ Kheo Ni phạm Ba la di là mất Tỳ Kheo ni, tức kiếp này không còn, muốn thọ lại, phải đợi kiếp sau. Theo pháp Tỳ Kheo hoàn tục, rồi xuất gia lại được 7 lần; còn Tỳ Kheo Ni hoàn tục, rồi không được xuất gia lại.

    -Nếu giết người thì giới Thanh Văn phạm giới Ba la di, còn giết súc sanh thì có thể phạm giới cấp 3 hay cấp 4. Tội giết người của giới Thanh Văn phải đủ 4 nhân duyên:

    1/ Là đúng người.


    2/ Nó không phải người cho nó là người.


    3/ Có cố ý giết.


    4/ Giết đã chết.

    -Tội trộm cắp cũng có đủ 5 nhân duyên, mới thành tội Ba la di, 5 nhân duyên đó là:

    1/ Vật có chủ.


    2/ Tưởng là có chủ.


    3/ Giá trị của vật phải 5 chỉ (thời kỳ Phật, nếu trộm vật có giá trị 5 chỉ vàng thì bị tử hình theo luật nhà nước Ấn Độ, vật đó giá trị dưới 5 chỉ thì tội giảm bớt. Bây giờ lại khác, tội trộm cắp không bị tử hình).


    4/ Có ý muốn trộm cắp.


    5/ Lấy vật rời khỏi chỗ.

    Đủ 5 nhân duyên này thành tội Ba la di, nếu không đủ 5 nhân duyên thì không thành tội.

    -Tội dâm dục cũng phải có đủ 4 nhân duyên thành tội Ba la di, 4 nhân duyên đó là:


    1/ Có tâm dâm dục.


    2/ Có hoàn cảnh đầy đủ.


    3/ Nhập đạo (nam căn và nữ căn giao hợp).


    4/ Thọ vui sướng.

    Nếu thiếu 1 trong 4 nhân duyên này thì không thành tội Ba la di.

    -Vọng ngữ gồm có: Đại vọng ngữ và tiểu vọng ngữ.

    * Đại vọng ngữ là chưa chứng mà nói đã chứng, chưa có minh mà nói đã minh, cũng có 6 nhân duyên mới thành tội Ba la di, 6 nhân duyên đó là:

    1/ Thật không biết gì cả.


    2/ Nói chứng quả rồi.


    3/ Cố ý vọng ngữ.


    4/ Cố ý gạt người.


    5/ Mình cho nó là người.


    6/ Người đó nghe phải hiểu.

    *Tiểu vọng ngữ là vọng ngữ thường, cấp thứ 4, như chuyện có nói không, chuyện không nói có.

    -Tỳ Kheo phạm tội Ba la di thì không cho sám hối. Nếu có chỗ cho sám hối thì phải săn sóc phụng sự 20 vị Tỳ Kheo thanh tịnh trong nửa tháng. Trong 20 vị Tỳ Kheo này, đều hoan hỷ thì cho đồng ý xuất tội; nếu 1 trong 20 vị Tỳ Kheo này không đồng ý thì không được xuất tội. Xuất tội là xuất tội địa ngục, chứ tướng Tỳ Kheo phải mất, địa ngục của tội Ba la di là 921 ức năm.

    -Tỳ Kheo Ni phạm Ba la di cho sám hối, phải phụng sự săn sóc 20 Tỳ Kheo thanh tịnh và 20 Tỳ Kheo Ni thanh tịnh trong nửa tháng. Nếu 1 người trong 40 người này không đồng ý, thì không được sám hối xuất tội. Đây là giới luật Thanh Văn.

  6. #6

    Mặc định

    10 GIỚI TRỌNG

    Chánh văn:

    Đức Phật bảo các Phật tử rằng: Có 10 giới trọng, nếu người thọ giới Bồ Tát mà không tụng điều giới này, thời người ấy không phải Bồ Tát, không phải là Phật tử, chính ta cũng tụng như vậy.

    Tất cả Bồ Tát đã học, sẽ học và đương học! Đã lược giảng xong tướng trạng của giới Bồ Tát cần nên học, hết lòng kính trọng phụng trì.


    Đức Phật dạy:

    1- GIỚI SÁT SANH

    Nếu Phật tử, hoặc tự mình giết, bảo người giết, khen tặng sự giết, thấy giết mà tùy hỷ, nhẫn đến dùng bùa chú để giết: Nhơn giết, duyên giết, cách thức giết, nghiệp giết.

    Phàm tất cả loài hữu tình có mạng sống đều không được cố ý giết. Là Phật tử, lẽ ra luôn luôn có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, lập thế cứu giúp tất cả chúng sanh, mà trái lại tự phóng tâm nỡ lòng sát sanh, Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.

    Giảng giải:

    Phật nói: Phật tử tự giết tức là tự tử, cũng như giết người. Tự mình giết, dạy người giết, dùng các phương tiện giết, thấy người ta giết mình tán thán, dùng thần chú để giết, tạo nhân để giết, tạo trợ duyên để giết, nghĩ ra cách giết, hay chỉ nổi tâm tạo nghiệp giết người. Cho đến tất cả chúng sanh có thân mạng đều không được cố ý giết.

    Theo giới Bồ Tát là hành đạo Bồ Tát cứu độ tất cả chúng sanh. Hai chữ “Bồ Tát” là tiếng phạn, dịch ra là giác hữu tình, tức là cứu độ chúng sanh, cũng là tâm từ bi. Tôi thường nói “tâm giác ngộ là bồ đề tâm, độ chúng sanh là từ bi tâm”. Từ bi tâm và bồ đề tâm là không phải hai thứ; bồ đề tâm lên 50 độ thì từ bi tâm cũng lên 50 độ, bồ đề tâm lên 100 độ thì từ bi tâm cũng lên 100 độ.

    Giải thích thì thấy có hai thứ, nhưng kỳ thật không phải hai thứ. Nói đến thể dụng, bồ đề tâm là thể, từ bi tâm là dụng. Có từ bi tâm mới gọi là Bồ Tát cứu độ chúng sanh.

    Nhưng hai chữ Ttừ bi” khác xa với hai chữ “Bác ái”của ngoại đạo.

    “Bác ái” của ngoại đạo là chấp ngã, trước hết phải có ta, như việc bố thí là của ta, rồi có ta thương xót rộng khắp đại chúng, gọi là bác ái.

    “Từ” là Vô duyên từ, tức là không có đối đãi, không có ta, không có người; không có ta làm từ bi cho ngươi, không có ngươi lãnh thọ từ bi của ta. Nếu có của ta của ngươi thì không phải từ bi.

    “Bi” là đồng thể bi, tức là thể của ngươi cũng là thể ta; cái khổ của ngươi tức cái khổ của ta là cùng một thể. Cho nên, không có đối đãi mới là từ bi.

    Từ bi không có sự chấp ngã, còn bác ái thì có chấp ngã, nên cách xa như trời với đất vậy. Chấp ngã không được giải thoát luân hồi sanh tử, còn phá chấp ngã thì được giải thoát luân hồi sanh tử.

    Mình đã thọ giới Bồ Tát thì phải hành đạo Bồ Tát luôn có tâm từ bi, không có ngã để độ chúng sanh. Từ là ban vui cho chúng sanh, bi là cứu cái khổ cho chúng sanh.

    Tâm hiếu thuận là luôn luôn không có ngã tướng, theo thế gian gian hiểu nghĩa ‘hiếu thuận’ lại khác, không được rộng khắp; còn hiếu thuận của Bồ Tát thì nghĩa rộng vô cùng, không có hạn chế. Trong Phật pháp có nói: “Tứ ân là ân Phật, ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân chúng sanh”. Trong giới Bồ Tát nói “mình phải hiếu thuận báo đáp 4 ân này”.

    Kỳ thật, chỉ báo ân chúng sanh là báo ân luôn cả 3 ân kia, luôn luôn hiếu thuận cho tất cả chúng sanh, chứ không phải báo ân hiện tại cha mẹ của mình. Người thế gian chỉ có báo ân cha mẹ riêng của mình hay sư trưởng của mình.

    Cho nên, mình phải nghĩ cách cứu độ chúng sanh, không những không cứu giúp chúng sanh, mà lại giết hại chúng sanh thì Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.

    2- GIỚI TRỘM CƯỚP

    Chánh văn:

    Nếu Phật tử tự mình trộm cướp, bảo người trộm cướp, phương tiện trộm cướp, nhẫn đến dùng bùa chú trộm cướp, nhân trộm cướp, duyên trộm cướp, cách thức trộm cướp, nghiệp trộm cướp. Tất cả tài vật có chủ, dầu là của quỷ thần hay của giặc cướp, nhẫn đến một cây kim, một ngọn cỏ đều không đặng trộm cướp. Là Phật tử lẽ ra luôn luôn có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, thường giúp cho mọi người được phước, được vui, mà trái lại trộm tài vật của người. Phật tử này phạm "Bồ Tát Ba la di tội".

    Giảng giải:


    Điều thứ 2 là trộm cướp, tại sao Phật tử tự trộm cướp? Tự mình nghĩ đem món đồ của mình cho người khác, nhưng sau nghĩ lại không cho, nên phạm tội trộm cướp. Vì giới Bồ Tát là giới Tâm địa, giới Thanh Văn thì không phạm; giới Bồ Tát có khởi tâm là phạm, đây gọi là tự trộm cướp.

    Hay tự mình lấy đồ của người, cũng gọi là tự trộm cướp; làm phương tiện cho người trộm cướp, niệm thần chú khiến cho người trộm cướp; làm trợ duyên để cho người trộm cướp, nghĩ ra cách rồi chỉ cho người trộm cướp. Tất cả khi có nổi tâm tức là có nghiệp.

    Ở đây nói “cho đến của quỷ thần, của có chủ một cây kim một cọng cỏ, không được cố ý ăn cướp”. Điều giới Bồ Tát thường có chữ “cố ý”, cố ý mới thành tội. Nếu không cố ý ăn cướp thì không thành tội, như đồ trong nhà của mình đã dùng quen, lấy dùng cũng không thành tội, hay đồ của bạn thân dùng qua dùng lại cũng không phạm, chứ không phải mỗi cái mà phạm. Nếu đồ của cha mẹ mình cất kín không cho mình biết, mà cố ý lấy thì phạm tội trộm cướp.

    Mình hành đạo Bồ Tát là hiếu thuận tứ ân, trong đó từ chúng sanh đến chư Phật; hành đạo không nên có ngã, chỉ giúp cho chúng sanh được phước an vui thoát khổ. Trái lại, không làm như vậy mà trộm cướp tài vật của người khác, làm cho người buồn rầu đau khổ; Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.



    3- GIỚI DÂM

    Chánh văn:

    Nếu Phật tử tự mình dâm dục, bảo người dâm dục, với tất cả phụ nữ, các loài cái, loài mái, cho đến thiên nữ, quỷ nữ, thần nữ cùng phi đạo mà hành dâm dục. Là Phật tử đối với tất cả không được cố dâm dục. Lẽ ra phải có lòng hiếu thuận cứu độ tất cả chúng sanh, đem pháp thanh tịnh dạy người, mà trái lại không có tâm từ bi, làm mọi người sanh việc dâm dục, không lựa súc sanh, cho đến hành dâm với mẹ, con, chị, em trong lục thân; Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.

    Giảng giải:


    “Nếu Phật tử tự dâm”, tự dâm này, nam và nữ tự có. Người nam có thủ dâm, người nữ có thủ dâm nhưng ít hơn, hay lấy dụng cụ để làm dâm cho xuất tinh. Dạy người dâm, người nam đến với người nữ, hay người nữ đến với người nam, làm trợ duyên cho người dâm dục, nghĩ phương cách cho người thực hành, hay là nổi tâm dâm dục thì thành cái nghiệp dâm dục.

    Không phải đối với người thôi, mà đối với súc sanh quỷ thần cũng vậy, cùng với phi đạo (phi đạo là không phải nam căn, chẳng phải nữ căn), hành độmg nơi nào ở trên thân đều là phạm dâm.

    Theo hạnh Bồ Tát, tâm hiếu thuận cứu độ chúng sanh thì phải bố thí sự thanh tịnh cho người. Việc dâm dục là việc bất tịnh. Những điều sám hối có câu: “phá phạm hạnh người khác”, chữ phạm là thanh tịnh. Giới luật nói “phá phạm hạnh” là phá giới lần thứ nhất, như Tỳ kheo cùng với người nữ dâm dục lần thứ nhất, tức là phá phạm hạnh. Nếu phạm giới dâm lần thứ nhì, lần thứ ba,…thì không phải là phá phạm hạnh, vì trước khi lần thứ hai lần thứ ba thì không còn thanh tịnh.

    Phật tử thọ giới luôn giữ thanh tịnh cho người, mà trở lại phá phạm hạnh của người, làm cho người không được thanh tịnh, bất cứ là người, hay là súc sanh, mẹ, chị, em ở trong lục thân, nếu phạm dâm dục thì tội càng nặng thêm. Khi bắt đầu thọ giới, lúc hỏi giá nạn, nếu có phạm giới dâm trong lục thân thì không cho người ấy thọ giới. Cho nên, phạm giới dâm là không có từ bi, Phật tử ấy phạm giới Ba la di của Bồ Tát.

    4- GIỚI VỌNG

    Chánh văn:

    Nếu Phật tử, mình nói vọng ngữ, bảo người vọng ngữ, phương tiện vọng ngữ, cách thức vọng ngữ, nghiệp vọng ngữ. Nhẫn đến không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, hoặc thân vọng ngữ, tâm vọng ngữ. Là Phật tử, lẽ ra luôn luôn phải chánh ngữ, chánh kiến, và cũng làm cho tất cả chúng sanh có chánh ngữ, chánh kiến, mà trái lại làm cho mọi người tà ngữ, tà kiến, tà nghiệp, Phật tử này phạm “Bồ tát Ba la di tội”.

    Giảng giải:


    Vọng ngữ gồm có 4 thứ: Vọng ngôn, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt.

    -Vọng ngôn: Là có nói không, không nói có, nói dối gạt người.

    -Ỷ ngữ: Là nói những lời nói có liên quan dâm dục của nam nữ, hay nói những lời hoa nguyệt.

    -Ác khẩu: Chửi mắng người hay nói lời độc ác.

    -Lưỡng thiệt: Nói lưỡi 2 chiều, đem chuyện người này nói với người kia, đem chuyện người kia nói với người này.

    Tự mình vọng ngữ hay dạy người vọng ngữ. Giới Thanh văn có tiểu vọng ngữ và đại vọng ngữ, trong này bao gồm hết. Đại vọng ngữ và tiểu vọng ngữ đều ở trong 10 điều trọng. Vì hạnh Bồ Tát phải lợi tha, muốn lợi tha thì tự mình phải gương mẫu cho người, nếu mình vọng ngữ làm sao độ người không vọng ngữ được!

    Cho nên, đại vọng ngữ và tiểu vọng ngữ đều không được. Tự vọng ngữ hay dạy người vọng ngữ, dạy người có phương tiện vọng ngữ, tạo cái nhân để cho người vọng ngữ, làm cái duyên giúp cho người vọng ngữ, hay là nghĩ cách gì để cho người vọng ngữ để gạt người, có nổi tâm vọng ngữ thành cái nghiệp vọng ngữ.

    Theo hạnh Bồ Tát phải chánh ngữ, nói năng phải đàng hoàng, đúng đắn, có chánh kiến. Chánh kiến đối với tà kiến, trong Phật pháp phải có chánh kiến. Đại thừa phải phá ngã chấp, giới Bồ Tát là tập cho mình phá ngã chấp mới được giải thoát. Có lòng từ bi độ chúng sanh thì không có ngã, không được nghĩ là ta độ chúng sanh và có chúng sanh của ta được độ. Nếu thấy có chúng sanh để độ thì có ngã chấp, nên không được, như thế là chánh kiến; nếu còn có ngã chấp không gọi là chánh kiến.

    Mình có chánh ngữ chánh kiến làm cho chúng sanh có chánh ngữ chánh kiến. Vì chánh ngữ chánh kiến được giải thoát cái khổ sanh tử luân hồi, đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn. Trái lại, mình không làm như thế mà dạy cho chúng sanh tà ngữ, tà kiến, vọng ngữ đủ thứ, làm tà nghiệp. Bồ Tát là muốn chúng sanh thoát khổ, lại tự mình làm khổ và chúng sanh thêm khổ, thì phạm tội Ba la di của Bồ Tát.

    5- GIỚI BÁN RƯỢU

    Chánh văn:

    Nếu Phật tử, tự mình bán rượu, bảo người bán rượu: Nhân bán rượu, duyên bán rượu, cánh thức bán rượu nghiệp bán rượu, tất cả rượu không được bán, rượu là nhơn duyên sanh tội lỗi. Là Phật tử, lẽ ra phải làm cho tất cả chúng sanh có trí huệ sáng suốt, mà trái lại đem sự mê say điên đảo cho tất cả chúng sanh, Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.

    Giảng giải:

    Ngũ giới của giới Thanh văn, uống rượu thì phạm, còn bán rượu không phạm, vì không cho uống rượu. Giới Bồ Tát uống rượu là tội nhẹ, vì giới Bồ Tát là lợi tha, uống rượu chỉ hại tự mình chứ không hại đến người. Đáng lẽ, mình phải làm gương mẫu không uống rượu, mà dạy người ống rượu vậy làm sao được! Và bán rượu là hại người bị tội nặng.

    Tự mình bán hay dạy người bán, làm cái nhân giúp cho người bán, hoặc làm trợ duyên giúp cho người bán; như không có chỗ, mình giúp cho người có chỗ để bán; không có vốn lại giúp vốn, đó là trợ duyên; hay là nghĩ cách bán làm sao cho đắc, nỗi tâm bán rượu để kiếm tiền cho nhiều cũng là tạo nghiệp bán rượu.

    Tất cả rượu mình không được bán. Đáng lẽ, rượu không có tội, vì uống rượu làm say; nên phạm vào những tội: “sát, đạo, dâm, vọng”. Vì vậy, rượu làm cái nhân để người phạm tội nặng. Theo hạnh Bồ Tát là muốn cho chúng sanh được trí huệ sáng suốt, còn bán rượu cho người uống làm say mê thêm thì phạm giới cực ác của Bồ Tát.



    6- GIỚI RAO LỖI CỦA TỨ CHÚNG

    Chánh văn:

    Nếu Phật tử, tự miệng rao nói tội lỗi của Bồ Tát xuất gia và Bồ Tát tại gia, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, hoặc bảo rao nói những tội lỗi ấy: Nhân rao nói tội lỗi, duyên rao nói tội lỗi, cách thức rao nói tội lỗi, nghiệp rao nói tội lỗi. Là Phật tử, khi nghe những lời ác, ngoại đạo cùng người Nhị thừa nói những điều phi pháp, trái luật trong Phật pháp, thời phải luôn luôn có lòng từ bi giáo hóa những kẻ ác ấy cho họ sanh tín tâm lành đối với Đại thừa, mà trái lại Phật tử tự mình rao nói tội lỗi trong Phật pháp. Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.

    Giảng giải:


    Nếu Phật tử thọ giới Bồ Tát nói tội lỗi của tứ chúng: Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di; hoặc là dạy người khác nói, hay làm cái nhân cho người nói, làm trợ duyên cho người nói, nghĩ cách sắp đặt cho người nói, nếu có nổi tâm muốn nói thành cái nghiệp. Nói lỗi này là cố ý muốn phỉ báng.

    Trong giới luật, ngày bố tát người nữ có thể chứng tỏ Tỳ Kheo hay Tỳ Kheo Ni phạm giới gì, việc ấy không phải phỉ báng, mà muốn bảo vệ luật. Bây giờ, nói giới và luật không có phân biệt; đáng lẽ giới là giới, luật là luật. Giới là giúp ích cho cá nhân, còn luật là giúp ích cho đoàn thể. Thí dụ giới là bảo hiểm cho cá nhân, còn luật là bảo hiểm cho đoàn thể; mà luật là bảo hiểm cái giới, nếu không có luật thì giới ấy không thi hành được. Hiện nay chỉ có giới, chứ không có luật; nên người Trụ trì phạm tội Ba la di không có ai can thiệp.

    Theo giới luật thì phải có Tăng đoàn, nửa tháng để Bố tát. Bố tát không phải chỉ tụng giới, mà làm việc, thọ giới,… cũng ở trong Bố tát. Trước khi Bố tát phải kiểm thảo, Chủ sự nói với đại chúng “ai có lỗi phải ra trước đại chúng phát lồ sám hối”. Nếu tự mình không nói ra, mà người khác biết phải nói ra trong chúng cử tội. Nếu biết không cử tội cũng phạm giới, tức là phú tàng (ngăn che).

    Tỳ Kheo Ni ngăn che tội Ba la di của bạn mình thì Tỳ Kheo Ni ấy cũng phạm Ba la di.

    Nếu có người nữ được mọi người tin tưởng, đến báo với Tăng đoàn rằng: Tôi đã thấy một Tỳ Kheo phạm tội gì đó… có thể phạm Ba la di, có thể phạm tội cấp 2, cấp 3,… người nữ ấy không có lỗi với tứ chúng mà lại có công. Bởi vì giúp cho luật bảo vệ giới được tốt.

    Nếu nói lỗi của tứ chúng, mục đích để phỉ báng mới phạm tội. Còn mình đã biết người kia phạm tội, rồi nhắc nhở người kia không nên phạm nữa, thì mình không phạm tội nói lỗi của tứ chúng. Vì đó là thiện ý chứ không phải ác ý, không phải nói lỗi là phạm giới.

    Đệ tử của Phật nghe kẻ ngoại đạo và Nhị thừa phỉ báng Đại thừa còn không được, huống chi mình hành đạo Bồ Tát lại hủy báng nói lỗi của tứ chúng; vậy làm sao giáo hóa chúng sanh? Vì trách nhiệm của Bồ Tát là giáo hóa chúng sanh, làm cho chúng sanh giác ngộ được tự do tự tại. Nếu nói tội lỗi của tứ chúng thì phạm tội ba la di của Bồ Tát.



    7- GIỚI KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI

    Chánh văn:

    Nếu Phật tử tự khen mình chê người, cũng bảo người khác khen ngợi mình chê người: Nhân chê người, duyên chê người, cách thức chê người, nghiệp chê người. Là Phật tử, lẽ phải thay thế những sự khinh chê khổ nhục cho tất cả chúng sanh, mình nhận lấy việc xấu, nhường cho người việc tốt. Nếu Phật tử tự phô dương tài đức của mình mà dìm che điều hay tốt của người, làm cho người bị khinh chê; Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.

    Giảng giải:

    Giới Bồ Tát là lợi tha, chính mình phải phá ngã chấp; nếu tự khen mình chê người là tăng thêm ngã chấp. Lợi tha là muốn chúng sanh giải thoát, nếu tự mình có ngã chấp thì không được giải thoát, làm sao độ chúng sanh được giải thoát?

    Làm hạnh Bồ Tát thì mình phải hy sinh để độ chúng sanh, tức là thay cho chúng sanh chịu những điều cực khổ, việc tốt nhường cho người, việc xấu mình chịu. Nhưng trái lại, nếu làm nhân, làm duyên, hay làm phương cách… như trên đã nói, khen mình chê người, lại tăng thêm ngã chấp, nghịch với hạnh Bồ Tát thì thành tội Ba la di.

    8- GIỚI BỎN SẺN THÊM MẮNG ĐUỔI

    Chánh văn:

    Nếu Phật tử, tự mình bỏn sẻn, bảo người bỏn sẻn: Nhân bỏn sẻn, duyên bỏn sẻn, cách thức bỏn sẻn, nghiệp bỏn sẻn. Phật tử khi thấy những người bần cùng đến cầu xin, phải cấp cho theo chỗ cần dùng của họ; mà Phật tử lại đem lòng giận ghét, cho đến không cho một mảy, có người cầu học giáo pháp, cũng chẳng nói một kệ một câu, lại còn xua đuổi quở mắng. Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.

    Giảng giải:


    Trong này gồm có 2 thứ: Bỏn sẻn Tài hay bỏn sẻn Pháp đều là phạm tội.

    Bồ Tát phải phá ngã chấp, rồi giáo hóa chúng sanh được phá ngã chấp. Bồ Tát có Lục Độ và Tứ Nhiếp Pháp, trong này đều có điều thứ nhất là Bố thí: Bố thí tài và bố thí pháp.

    Thấy người nghèo đến xin, mà mình bỏn sẻn không cho, lại sanh tâm sân ghét, đuổi người ta đi thì phạm điều này, hay người ta đến cầu pháp cũng như vậy. Bố thí pháp thì công đức lớn hơn bố thí tài pháp rất nhiều, bỏn sẻn pháp nên tội cũng lớn.

    Nếu hành đạo Bồ Tát, người ta xin thứ gì đều cho theo tinh thần vô ngã. Nhưng bây giờ mình thọ giới Bồ Tát là đang học hạnh Bồ Tát, có sức tới đâu thì làm tới đó; như người ta xin tiền thì tùy theo sức mình mà cho, đừng để người xin về tay không; hay mình không có cái gì để cho thì phải phát tâm tùy hỷ, nên không có phạm giới. Nếu mình không cho mà lại mắng đuổi người ta, thì phạm điều giới Ba la di này.

    9- GIỚI GIẬN HỜN KHÔNG NGUÔI

    Chánh văn:

    Nếu Phật tử, tự mình giận, bảo người giận: Nhân giận, duyên giận, cách thức giận, nghiệp giận. Người Phật tử lẽ ra làm cho tất cả chúng sanh được những căn lành không gây gỗ; thường có lòng từ bi, lòng hiếu thuận. Mà trái lại, đối với trong tất cả chúng sanh, cho đến trong loài phi chúng sanh, đem lời ác mạ nhục, còn thêm dùng tay, chân, dao, gậy để đánh đập mà vẫn chưa hả dạ, cho đến nạn nhân kia lấy lời xin lỗi, cầu sám hối tạ tội, nhưng vẫn không hết giận; Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.

    Giảng giải:


    Nói đến Phật pháp, luôn luôn phải phá ngã chấp; nhất là giới Bồ Tát chuyên phá ngã chấp, nếu mình nổi sân thì đã có ngã chấp. Tất cả chúng sanh đều phá ngã chấp, thì không có việc tranh luận để đưa đến sân hận đấu tranh. Nếu có nổi tâm sân hận, phải biết lỗi của mình để sám hối. Đã có lỗi sân, mà mình không chịu nghe người ta khuyên, để sám hối thì phạm tội này.

    Tâm từ bi và tâm hiếu thuận đều phá ngã chấp, tức là phụng sự cho tất cả chúng sanh; mình đã không phụng sự cho tất cả chúng sanh, lại nổi tâm hờn giận chúng sanh, còn có thêm ác khẩu chửi mắng, đánh đập,… người ta cầu xin lỗi, lại mình không cho xin lỗi, mình cứ giận hờn không nguôi thì phạm giới Ba la di này.

    10- GIỚI HỦY BÁNG TAM BẢO

    Chánh văn:

    Nếu Phật tử, tự mình hủy báng Tam bảo, xúi người hủy báng Tam bảo: Nhân hủy báng, duyên hủy báng, cách thức hủy báng, nghiệp hủy báng. Phật tử nghe một lời hủy báng Tam bảo của ngoại đạo và kẻ ác, còn đau lòng như ba trăm cây nhọn đâm vào tim mình, huống là tự mình hủy báng! Không có đức tin và lòng hiếu thuận đối với Tam bảo, lại còn giúp sức cho kẻ ác, kẻ tà kiến hủy báng nữa; Phật tử này phạm “Bồ Tát Ba la di tội”.

    Giảng giải:


    Tam bảo gồm hai thứ: Thường trụ Tam bảo và Tự tánh Tam bảo.

    -Người quy Tam bảo gọi là quy y thường trụ Tam bảo, theo sự giáo hóa của Thường trụ Tam bảo, rồi thực hành theo để ngộ Tự tánh Tam bảo, cũng gọi là ngộ Tự tánh chính mình, giải thoát tất cả khổ, được tự do tự tại vĩnh viễn.

    -Tại sao gọi là Thường trụ Tam bảo? Tam bảo gồm có: Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo.

    Phật tiếng Ấn Độ là Phật Đà, dịch ra là giác giả (giác ngộ), trong đó gồm có: Tự giác, Giác tha, Giác hạnh viên mãn; tức là mình giải thoát tự do tự tại, cũng giải thoát cho người được tự do tự tại, nên gọi là Giác hạnh viên mãn, nhưng bao gồm có quá khứ, hiện tại, vị lai. Bây giờ, mình quy y phải có hình tượng Phật để tượng trưng cho Phật bảo.

    Mình muốn giác ngộ thì phải có phương pháp, pháp của Phật dạy gồm có 84.000 pháp môn, tùy theo căn cơ trình độ thích ứng của mọi chúng sanh, quy nạp có 4 pháp môn: “Tham thiền, Niệm Phật, Trì chú, Quán tưởng”, đó là phương pháp tu hành gọi là Pháp bảo. Nhưng lấy gì để tượng trưng? Lấy Kinh của Phật để tượng trưng cho Pháp bảo.
    Tăng tiếng Ấn Độ là Tăng Già dịch là hòa hợp chúng, tức là nhiều người thanh tịnh hòa hợp lại thành Tăng; theo quy định là 4 người trở lên mới thành Tăng, còn 3 người trở xuống không gọi là Tăng.

    Hoàng Nhất luật sư nói: “Gần đây, mọi người chỉ quy y nhị bảo và giao thiệp với một Đại đức”. Bởi vì, họ quy y rồi chỉ nhìn nhận một thầy của mình, chứ không nhìn nhận cả chúng Tăng là thầy của mình. Tất cả Tăng chúng thay thế cho Tăng bảo, nhưng thầy của mình quy y đại diện cho Tăng bảo để chứng minh; người này đã quy y Tam bảo là đệ tử của Tam bảo, chứ không phải đệ tử riêng của một vị thầy.

    Tăng ở trong Tam bảo cần nhất, nếu có Phật bảo, có Pháp bảo, mà không có Tăng bảo thì Phật pháp tiêu diệt. Như Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, nếu không có Tăng từ mỗi đời tiếp nối thì Phật pháp tiêu diệt từ lâu; có Tăng bảo mới có Phật bảo và Pháp bảo, nhưng bây giờ người ta không chú trọng Tăng bảo, ấy là sai lầm.

    Trách nhiệm của Tăng, như Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, có trách nhiệm giáo hóa chúng sanh. Cho nên, giới luật có quy định: Tỳ kheo chưa đủ 10 tuổi hạ không được rời thầy, Tỳ Kheo Ni chưa đủ 12 tuổi hạ không được rời thầy. Thầy Bổn sư có trách nhiệm dạy người đó, nếu không biết dạy người đó thì phải bị tội. Bởi vì, xuất gia rồi không biết gì để dạy chúng sanh, nên có thể phá hoại Tam bảo. Vậy làm sao đứng trong hàng ngũ Tăng bảo? Cho nên, quy định Tỳ Kheo phải biết giới Tỳ Kheo, giới Tỳ Kheo Ni và có Chánh ngữ Chánh kiến về Phật pháp.

    Cái tệ bây giờ, có người xuất gia được nửa năm, một năm, rồi lạc quyên tiền xây chùa, tự mình làm Trụ trì; cũng có người chưa xuất gia, làm chùa xong, rồi mời thầy cạo đầu mình, làm lễ xuất gia và Trụ trì luôn. Việc ấy trái ngược giới luật, phá hoại Tam bảo.

    Cho nên, nghĩa hủy báng Tam bảo rất rộng. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Hư tiêu Tín thí, lạm nhận cung kính là tội địa ngục”. Nếu mình không chân thật tu hành, nhận sự cúng dường của Tín thí là hư tiêu Tín thí. Người ta cung kính mình, không phải vì mình cạo đầu, mặc áo cà sa; người ta cung kính Tam bảo là muốn sự giáo hóa của Tam bảo, cho mình và chúng sanh được giải thoát.

    Phật pháp làm lợi ích cho chúng sanh được tu chánh pháp, đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn giải thoát, ấy là mục đích của Tam bảo. Nếu mình không chân thật tu hành, tự độ mình chưa được, làm sao độ chúng sanh! Tức là hư tiêu Tín thí. Còn mình lạm dụng hình tướng Tăng để nhận sự cúng dường của người, đều phải bị đọa địa ngục, chưa nói đến việc phá giới.

    Cho nên, giới hủy báng Tam bảo, không phải chỉ miệng nói hủy báng mà cái nghĩa nó rất rộng. Ở đây nói, nếu Bồ Tát nghe kẻ ngoại đạo và người ác dùng lời ác hủy báng Tam bảo, như 300 mũi giáo đâm chỉa vào tim mình. Trái lại, tự mình hủy báng Tam bảo thì mắc tội Ba la di của Bồ Tát.

    Hiện nay, nhiều Phật tử không hiểu Phật pháp là do Tu sĩ không có trách nhiệm, vì lạm thu đệ tử xuất gia, đã tự mình không biết giới luật, không có Chánh kiến Phật pháp, lấy gì để dạy đệ tử? Cũng như ban đầu sữa nguyên chất, rồi sau pha thêm nước, sau nữa hoàn toàn là nước không có sữa. Bây giờ, muốn khôi phục Phật giáo như xưa thì phải xây xựng Tăng bảo, mà hiện nay không có Tăng đoàn, tự mình làm chùa nhỏ để Trụ trì, có phạm Ba la di tội cũng không có ai can thiệp được. Nhưng người ta vẫn cung kính cúng dường, vậy Phật pháp làm sao khỏi bị tiêu diệt!

    Nếu thường trụ Tam bảo bị hủy hoại thì không thể hy vọng ngộ nhập được Tự tánh Tam bảo. Nếu không ngộ nhập được Tự tánh Tam bảo thì không được giải thoát. Được người tôn xưng là Tăng bảo, người xuất gia chúng ta hãy tự kiểm điểm chính mình, có xứng đáng là Tăng bảo hay chưa?

    Nếu có nhân duyên tổ chức thành Tăng đoàn, rồi Tăng đoàn tổ chức thành luật của Tăng đoàn mới bảo vệ được giới. Luật là bảo vệ giới, giới là bảo vệ mình; ở trong luật gồm có giới, mà giới không thể gồm có luật.

    Hỏi:

    Trước khi thọ giới Bồ Tát thì phải nghe giảng giới Bồ Tát. Tại sao khi tụng giới lại không cho người chưa thọ giới Bồ Tát nghe?


    Đáp:

    Phải cho nghe hết. Tụng giới Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni không cho nghe đối với người chưa thọ giới này. Còn giới Bồ Tát thì tất cả mọi người đều được nghe. Kinh Phạm Võng nói: “Tất cả ma, quỷ, huỳnh môn, súc sanh,… nghe được lời Pháp sư mà lãnh thọ”, huống chi là người! Nếu thọ được thì phải được nghe.

    Hỏi:

    Ở trong Tăng vấn hòa có hỏi: “Trong đây có ai chưa thọ giới Bồ Tát và không thanh tịnh ra chưa? Trả lời: Trong đây chưa ai thọ giới Bồ Tát, hoặc đã ra rồi”. Như vậy, chứng tỏ người chưa thọ giới Bồ Tát không được nghe giới Bồ Tát?


    Đáp:

    Đó là việc sai lầm, lúc bạch tứ Yết ma tức là tác pháp để làm việc. Lúc Yết ma có thể người không có quan hệ thì không cho nghe. Vì Yết ma có thể trị tội Tăng sĩ, tức là theo tội để phán tội Tăng sĩ; không cho những người có quan hệ, như cư sĩ để biết tội của Tăng sĩ do Tăng đoàn xử. Cho nên, mới hỏi những người không có quan hệ ra trước, chứ không phải tụng giới không cho nghe.

    Bây giờ, cũng có nhiều cư sĩ thọ giới Bồ Tát xuất gia, thọ được thì nghe được, làm sao không được nghe? Giới Bồ Tát là đốn lập giới, tức là trước kia chưa thọ giới gì cũng được thọ.

    Giới Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, nếu có trường hợp nào, cư sĩ cũng có thể nghe biết; chứ không phải nhất định là không cho cư sĩ nghe biết. Vì sợ cư sĩ biết chư Tăng phạm giới luật, nổi tâm khinh mạn Tam bảo nên cấm không cho nghe.

    Còn giới Bồ Tát thì người xuất gia hay tại gia đều được nghe, làm sao không cho nghe? Thành ra mâu thuẫn, không cho nghe là pháp Yết ma, chứ tụng giới sao không cho nghe!

    Người chưa thọ giới Bồ Tát đều được nghe giảng giới Bồ Tát. Giới Bồ Tát là phá ngã chấp, muốn giúp đỡ chúng sanh. Người nào có tâm là có tư cách thọ giới Bồ Tát, chứ không phải như giới Thanh Văn phải đúng người mới được thọ; không phải người, ma quỷ, súc sanh thì không được thọ. Còn giới Bồ Tát, ma quỷ, súc sanh đều được thọ, mà trước kia chưa thọ giới gì; trước kia chưa quy y Tam bảo thì quy y Tam bảo thì thọ liền, vì thọ giới nào cũng có Tam quy hết. Cho nên, gọi là đốn lập giới, không phải tiệm thứ của giới Thanh Văn.

    Tam tạng là Kinh, Luật, Luận; người thông suốt Kinh gọi là Kinh sư, người thông suốt Luật gọi là Luật sư, người thông suốt Luận gọi là Luận sư. Bây giờ, Tăng bảo thiếu Luật sư, ít có người phát tâm học luật. Theo Tăng đoàn, người nào thọ giới rồi thì phải sống trong Tăng đoàn. Khi Phật giáo sang Trung Quốc có sáng lập phái Luật tông. Muốn làm luật sư thì phải học giới luật.

    Sau này, ít có người phát tâm học luật, mà người hoằng luật thì người ta ít kính trọng vì họ không thích. Các vị thuyết pháp, người nghe lại đông; còn giảng giới luật thì ít có người đến nghe. Nhưng nếu không có luật thì không có pháp, Phật pháp bị tiêu diệt; vì khi Phật nhập Niết Bàn, trước đó có dặn dò đệ tử phải lấy giới luật là thầy; mà bây giờ không chú trọng đến luật, nên Phật pháp dần dần tiêu mất.

    Hiện nay, chỉ có phần giới, không có phần luật. Theo Tăng đoàn có việc gì phải qua pháp Yết ma, pháp Yết ma là ở bên phần luật. Nếu Tỳ Kheo không biết giới luật Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni không biết giới luật của Tỳ Kheo Ni; vậy làm sao giữ giới? Vì người thầy lạm nhận đệ tử xuất gia không dạy đệ tử, nên thầy đó phải bị tội; cũng là phá hoại Phật pháp, hủy báng Tam bảo. Đó là phá hoại cái gốc, còn dùng miệng để hủy báng là hủy báng bên ngoài.

    48 ĐIỀU GIỚI KHINH

    Chánh văn:

    Đức Phật bảo các vị Bồ Tát rằng: Đã giảng 10 giới trọng rồi, nay tôi sẽ nói 48 giới khinh:

    1- GIỚI KHÔNG KÍNH THẦY BẠN

    Nếu Phật tử, lúc sắp lãnh ngôi Quốc Vương, ngôi Chuyển Luân Vương hay sắp lãnh chức quan, trước nên thọ giới Bồ Tát. Như thế tất cả quỷ thần cứu hộ thân vua và thân các quan, chư Phật đều hoan hỷ.

    Đã đắc giới rồi, Phật tử nên có lòng hiếu thuận và cung kính. Nếu thấy có bực Thượng tọa, Hòa thượng, A xà lê, những bậc Đại đức đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đến nhà, phải đứng dậy tiếp rước lạy chào, hỏi thăm. Mỗi sự đều đúng như pháp mà cúng dường, hoặc tự bán thân quốc thành con cái, cùng bảy báu trăm vật để cung cấp các bực ấy. Nếu Phật tử sanh lòng kêu mạn, sân hận ngu si, không chịu tiếp rước lạy chào, cho đến không chịu y pháp mà cúng dường, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.

    Giảng giải:


    Chuyển Luân Vương có 4 cấp:


    -Kim Luân Vương cai trị hết 4 Đại bộ châu (1 tiểu thế giới có 4 đại bộ châu).
    -Ngân Luân vương cai trị 3 Bộ châu.

    -Đồng Luân Vương cai trị 2 Bộ châu.

    -Thiên Luân vương cái trị 1 Bộ châu.

    Chuyển Luân Vương là phi hành (biết bay), mắt của mình không thấy được.
    Quốc Vương là vua của loài người trong một nước. Chuyển Luân vương là mình chỉ nghe thấy chứ không thấy.

    Hai chữ “Bồ Tát” là tiếng Ấn Độ, nói cho đủ là “Bồ đề tát đỏa”, dịch ra là Gác hữu tình, tức là Giác ngộ chúng sanh. Giác này gồm tự giác, giác ngộ chúng sanh là giác tha. Hành đạo Bồ Tát là làm cái nhân để thành Phật. Nếu làm cho chúng sanh được giác ngộ cũng là tăng phước đức của mình, giúp cho người được giác ngộ.

    Cho nên, tất cả chúng sanh muốn thành Phật, đều phải hành đạo Bồ Tát. Chuyển Luân Vương, Quốc Vương, bá quan, kiếp trước đã gieo trồng thiện căn, nên được làm vua làm quan, học có sẵn phước đức, muốn thành Phật thì dễ hơn.

    Tại sao muốn thành Phật? Vì thành Phật thì vĩnh viễn hết tất cả khổ, nếu không thành Phật thì cái khổ không thể dứt được. Vì vậy, ở đây nói “khi được ngôi vua hay ngôi quan, trước hết phải thọ giới Bồ Tát”. Bởi vì, người nào cũng muốn được tự do tự tại giải thoát cho mình và giải thoát cho người; hai cái tương nhân với nhau, mình tự giác rồi lại giác tha. Giác tha cũng giúp cho mình được giác ngộ; tự giác là tự lợi, giác tha là lợi tha. Kỳ thật, lợi tha cũng là tự lợi, tự lợi cũng là lợi tha.

    Giới Bồ Tát là tập cho mình phá ngã chấp, phá được ngã chấp thì hết cái khổ sanh tử luân hồi. Hành đạo Bồ Tát là tự lợi cũng là lợi tha, 48 điều khinh phần nhiều nói về lợi tha. Nếu mình thọ giới Bồ Tát thì quỷ thần, hộ pháp ủng hộ, chư Phật cũng hoan hỷ. Đã được giới rồi thì phải có tâm hiếu thuận.

    Tâm hiếu thuận và tâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian. Hiếu thuận thế gian chỉ hiếu thuận cha mẹ và sư trưởng, còn Phật pháp là hiếu thuận tứ ân (ân Phật, ân cha mẹ, ân sư trưởng và ân chúng sanh).

    Hiếu thuận cha mẹ là chỉ một ân trong tứ ân, hiếu thuận chúng sanh gồm tứ ân; vì cha mẹ, sư trưởng và Phật đều ở trong chúng sanh. Tâm hiếu thuận là mình phát tâm độ chúng sanh được giác ngộ, nên đối với cha mẹ và sư trưởng đều phải cung kính.

    Vậy, gặp Hòa thượng, Thượng tọa, A xà lê (Thượng sư), bạn thân, người đồng kiến, đồng hạnh (như tham thiền với nhau gọi là đồng tham, tức là đồng hạnh), mình gặp phải đứng dậy nghinh tiếp; các vị lớn hơn, như: Hòa Thượng, Thượng tọa gặp thì phải lễ bái hỏi thăm. Trong thời của Phật, có người gặp vị Thượng tọa lễ bái, chấp tay hỏi thăm “Thượng tọa có ít bệnh, ít phiền não, an lạc không”? Ở bên người Hoa chỉ có xá chào, chứ không có hỏi. Đáng lẽ ra phải vấn tín (hỏi thăm).

    Trong này nói: “Bán thân, bán con trai, bán con gái,…” là có ý tận sức cúng dường, tùy theo sức mình cúng dường Tam bảo, vì mình đã quy y Tam bảo, cần sự giáo hóa của Tam bảo, theo đó mà thực hành đạt đến tự do tự tại vĩnh viễn, giải thoát tất cả khổ. Cái ân đó rất lớn, nên mình tận sức mà cúng dường. Nếu không biểu thị cung kính, mà sanh tâm ngã mạn, hoặc còn nổi sân lên, không theo pháp cúng dường thì phạm tội khinh này.

    2- GIỚI UỐNG RƯỢU

    Chánh văn:

    Nếu Phật tử cố uống rượu, mà rượu là thứ làm cho người uống hay sanh ra vô lượng tội lỗi. Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống, sẽ mang ác báo: Năm trăm đời không tay, uống là tự uống. Cũng chẳng đặng bảo người và tất cả chúng sanh uống rượu, uống là tự mình uống! Tất cả thứ rượu, Phật tử không được uống. Nếu mình cố uống cũng bảo người uống, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.

    Giảng giải:


    Cư sĩ thọ 5 giới, trong đó có một giới uống rượu, không có giới bán rượu, tức là uống rượu thì phạm và bán rượu thì không phạm.

    Giới Bồ Tát lại khác, bán rượu tội nặng, uống rượu tội nhẹ, vì uống rượu chỉ hại mình, còn bán rượu thì hại người. Giới Bồ Tát là lợi tha, mà nghịch lại hại người khác, cho nên tội nặng. Ở trong 10 điều trọng không được bán rượu, còn ở đây uống là tội khinh.

    Phật tử thọ giới Bồ Tát không được uống rượu. Rượu không có tội lỗi, nhưng uống rượu say rồi có thể phá giới trước làm ra tội lỗi, nên trong Phật giáo cấm uống rượu. Nếu đưa chén rược cho người uống, phải mắc quả báo 500 đời không tay, huống chi mình uống, cũng không được dạy người uống, không đượcc dạy tất cả chúng sanh uống, tức là tất cả rượu không được uống.



    Theo giới uống rượu thành tội, cũng có 4 nhân duyên:

    1- Rượu đó uống say.

    2- Mình cho nó là rượu.

    3- Cố ý uống rượu.

    4- Uống rượu vào cổ họng.

    Có khi người ta dùng rượu để làm trong đồ ăn, nhưng ăn đồ thì không phạm hay là cơm rượu để ăn uống không say thì không phạm. Nếu mình lấy các thứ để uống, lại uống nhầm rượu, không cho nó là rượu cũng không phạm. Uống rượu thiếu 1 trong 4 nhân duyên thì không phạm.

    Nếu tự mình uống rượu hoặc đưa rượu cho người uống thì phạm giới khinh này.

    3- GIỚI ĂN THỊT

    Chánh văn:

    Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thời mất lòng từ bi, dứt giống Phật tánh; tất cả chúng sanh thấy đều tránh xa người này. Người ăn thịt mắc vô lượng tội lỗi. Vì thế, nên tất cả Phật tử không được ăn thịt mọi loài chúng sanh. Nếu cố ăn thịt, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.

    Giảng giải:


    Giới Bồ Tát là muốn lợi ích cho chúng sanh. Nếu mình phát tâm hành đạo Bồ Tát, mà còn ăn thịt chúng sanh, làm sao độ chúng sanh được? Theo nhân quả thì giết một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt phải trả một cục thịt, mới là đúng nhân quả.

    Nếu mình cố ý ăn thịt chúng sanh thì không có lòng từ bi. Vì lòng từ bi là muốn độ chúng sanh. Như vậy, thọ giới Bồ Tát phải ăn chay trường, còn thọ ngũ giới không có quy định ăn chay trường. Cho nên, thọ giới Bồ Tát không được ăn thịt.

    Nếu mình ăn thịt gà thì sau này đầu thai thành gà, gà đầu thai thành người, rồi nó ăn lại. Ấy là việc nhân quả; còn tội phá giới thì lại khác, tội phá giới có thể sám hối diệt tội, nhưng tội nhân quả không được sám hối diệt tội, vì nhân nào quả nấy.

    4- GIỚI ĂN NGŨ TÂN

    Chánh văn:

    Nếu Phật tử, chẳng được ăn loại ngũ tân là hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ. Loại ngũ tân này, gia vào trong các thứ thực phẩm đều không được ăn. Nêu cố ăn, Phật tử này phạm “khinh cấu tội”.

    Giảng giải:


    Kinh Lăng Nghiêm nói: “Không được ăn ngũ tân”. Người Hoa có để ý cử ăn ngũ tân, người Việt ít để ý cử ăn ngũ tân; như củ kiệu mà người Việt vẫn ăn. Ngũ tân gồm có: “Tỏi, nén, hành, hẹ, hưng cừ”. Hưng cừ chỉ Ấn Độ mới có, ở đây có 4 thứ kia.

    Tại sao cấm ăn ngũ tân? Vì ăn sống thì sân hận, ăn chín thì kích thích dâm dục. Cho nên, người tu hành phải cấm, và tánh chất khi ăn thấy hôi. Nếu mình ăn ngũ tân, hộ pháp thần thấy hôi nên không ủng hộ, ma quỷ thì liếm môi mình. Vì vậy, Phật cấm người tu hành không được ăn ngũ tân, người ăn ngũ tân rất chướng ngại việc tu hành.

    Thích Vân Phong biên tập

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi vanhuynh Xem Bài Gởi
    bạn tuyenhoa1985 a. tớ rất rất muốn xuất gia quy y cửa phật để làm cho phật pháp lớn mạnh. nhưng bây giờ tớ xuất gia thì mẹ tớ lại rất buồn, bởi vì trước khi sinh mình ra mẹ con mình chịu rất nhiều "khổ nhục" cho đến ngày hôm nay. năm nay tớ 26 tuổi rồi mà công ăn việc làm chẳng đâu ra đâu, sau này có lấy vợ thì cũng làm khổ liên lụy cho người khác. tớ chỉ muốn xuất gia để nhờ oai lực phật và chí thành của mình khiến cho nghiệp được tiêu trừ. giả sử nếu tớ xuất gia trong thân tâm tớ sẽ chọn như cách " nhất bộ nhất bái" của thầy Tâm Mẫn để đến nơi mình xin thọ giới để họ thấy được Chí Nguyện xuất gia của mình và coi đó nhu là một thử thách. bạn cho lời tư vấn
    Trích dẫn Nguyên văn bởi vanhuynh Xem Bài Gởi
    bạn tuyenhoa1985 a. tớ rất rất muốn xuất gia quy y cửa phật để làm cho phật pháp lớn mạnh. nhưng bây giờ tớ xuất gia thì mẹ tớ lại rất buồn, bởi vì trước khi sinh mình ra mẹ con mình chịu rất nhiều "khổ nhục" cho đến ngày hôm nay. năm nay tớ 26 tuổi rồi mà công ăn việc làm chẳng đâu ra đâu, sau này có lấy vợ thì cũng làm khổ liên lụy cho người khác. tớ chỉ muốn xuất gia để nhờ oai lực phật và chí thành của mình khiến cho nghiệp được tiêu trừ. giả sử nếu tớ xuất gia trong thân tâm tớ sẽ chọn như cách " nhất bộ nhất bái" của thầy Tâm Mẫn để đến nơi mình xin thọ giới để họ thấy được Chí Nguyện xuất gia của mình và coi đó nhu là một thử thách. bạn cho lời tư vấn
    Bạn nên khuyên mẹ cho xuất gia, vì điều này sẽ làm cho không chỉ riêng mình mà cả gia đình đều được an lạc trong tam bảo. Bạn nên đọc Kinh Công Đức Xuất Gia cho kỹ nhé.


    Phật thuyết kinh công đức xuất gia
    Viết bởi Thích Tâm Nhãn

    Dẫn nhập:

    Thuở xưa tại xứ Ấn, có một người vương tử quên mình đang tuổi thanh xuân, từ bỏ ngai vàng điện ngọc, quay lưng với quyền uy, danh vọng, thoát tục ly hương, ẩn sâu trong rừng già, sáu năm khổ hạnh… Rồi một hôm, ánh sao mai mờ hẳn trước bình minh bừng dậy, dưới cội Bồ-đề, người vương tử ấy đã tìm ra con đường hạnh phúc miên viễn cho chư thiên và thế giới loài người. Có quyết chí xuất gia người vương tử ấy mới làm được như vậy!?

    Nhân ngày khánh đản đức Phật Thích-ca Mâu-ni, chúng tôi xin giới thiệu đến qúy Phật tử kinh “Công đức xuất gia” 1 quyển, không rõ tên người dịch, phụ lục thời Đông Tấn (Tam Tần), Đại Chánh 16, số hiệu 707, trang 813.

    Toát yếu nội dung kinh:
    Kinh kể về một vương tử tên là Dũng Quân (tên phiên âm Tỳ-la-tiễn-na) thuộc giai cấp qúy tộc Lê-xa, cư ngụ tại thành Tỳ-xá-ly. Ví như ở cõi trời, chư thiên và thiên nữ vui chơi thì đời sống chàng vương tử này cũng vậy, ngày đêm sống hưởng lạc, vui chơi đam mê sắc dục cùng các mỹ nữ.

    Nhân một hôm đến giờ thọ trai, đức Phật vào thành khất thực, Ngài dùng Nhất thiết trí mà nghe được âm thanh vui đùa của vương tử Dũng Quân và các mỹ nữ đang vui chơi trên lầu. Đức Phật biết vương tử Dũng Quân sau bảy ngày nữa thì mạng chung sẽ đọa địa ngục. Ngài mới dạy A-nan đến nhà Dũng Quân khuyên bảo nên sớm giác ngộ xuất gia để lúc mạng chung tránh sự đọa lạc. Vâng lời chỉ dạy của Phật, A-nan đến gặp vương tử Dũng Quân khuyên: “Này bạn! Sau bảy ngày nữa bạn sẽ chết. Nếu bạn ở trong ngũ dục không giác ngộ, không xuất gia, thì lúc mạng chung bạn sẽ đọa địa ngục. Phật là bậc Nhất thiết trí, chánh ngữ chánh thuyết đã nói về bạn như thế. Ví như ngọn lửa thiêu đốt mọi vật, thảy đều không sai. Bạn nên suy nghĩ cho kỹ.” Vương tử Dũng Quân nghe nói vậy quá lo sợ, buồn rầu, sầu muộn không vui rồi nói: “Theo lời chỉ dạy của Tôn giả, tôi phải xuất gia nhưng tôi muốn thọ hưởng khoái lạc thêm 6 ngày nữa, đến ngày thứ 7 tôi sẽ giã từ người thân, quyết định xuất gia.”

    Đến ngày thứ 7, vương tử Dũng Quân xin Phật xuất gia. Qua một ngày một đêm Dũng Quân tu trì tịnh giới rồi mạng chung. Sau khi hỏa thiêu hương khói xong, A-nan cùng thân quyến của Dũng Quân đến hỏi Phật, thần thức của vương tử Dũng Quân đi về đâu? Phật dạy: vương tử Dũng Quân trong một ngày một đêm tu trì tịnh giới xả bỏ cõi đời này sinh về trời Tứ thiên vương… vui chơi thọ 500 tuổi, rồi mạng chung sinh về cõi trời Ba mươi ba… tuổi thọ kéo dài 1000 tuổi; số tận sinh về Diệm thiên… thọ 2 ngàn tuổi... sinh về cung trời Đâu-suất… thọ 4 ngàn tuổi. Sinh lên Tự tại thiên… thọ 8 ngàn tuổi. Hết 8 ngàn tuổi mạng chung sinh về trời Tha hóa tự tại… thọ một vạn sáu ngàn tuổi. Thọ lạc như vậy qua lại 7 lần trong 6 cõi trời dục. Do một ngày một đêm xuất gia nên mãn 20 kiếp, không đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; thường sinh thiên, nhơn, thọ phước tự nhiên. Trong loài người kiếp cuối cùng sinh vào nhà giàu có sung sướng, tài sản phong phú, chân bảo đầy đủ… song Dũng Quân nhàm chán ở đời, xuất gia cạo bỏ râu tóc, thân khoác pháp phục, siêng tu tinh tấn, giữ 4 oai nghi, thường hành chánh niệm, quán ngũ ấm, khổ, không, vô ngã, hiểu pháp nhân duyên, thành Bích-chi Phật, hiệu là Tỳ-lưu-đế; lúc ấy Ngài phóng hào quang lớn có nhiều người, chư thiên được thiện căn và giúp các loài chúng sanh trong ba thừa được giải thoát.

    A-nan lại thưa hỏi đức Phật, nếu có người độ người xuất gia, người ấy xuất gia gánh vác mọi việc thì được bao nhiêu phước đức? Và nếu có người gây trở ngại người khác xuất gia thì thọ tội báo gì?


    Phật dạy, công đức của người xuất gia không thể nói hết, nếu họ sinh thiên, hay trong loài người thường làm quốc vương, thọ hưởng hạnh phúc nhơn, thiên. Nếu ai giúp người xuất gia vào trong pháp Sa-môn thì dù ở trong sinh tử người ấy vẫn hưởng an lạc, hạnh phúc… Còn nếu gây trở ngại phương hại chuyện người khác xuất gia thì người đó bị cướp mất kho tàng vô tận thiện tài phước báu… thọ vô lượng tội.

    Phật lại bảo A-nan:

    Nếu có các bậc A-la-hán trong 4 cõi nhiều như lúa cỏ, rừng rậm, rồi có người nào ở trong đó đủ 100 tuổi tận tâm cúng dường những vị A-la-hán này những thứ như: y phục, thức ăn, nước uống, thuốc thang… cho đến sau khi các vị ấy niết-bàn, lại xây dựng tháp miếu, dùng đủ loại chân bảo, hoa hương, châu ngọc… cúng dường, và dùng kệ tụng tán thán, thì công đức này không bằng người xuất gia thọ giới dù chỉ một ngày một đêm tu trì. Công đức xuất gia được 16 phần, công đức trước chỉ một phần.

    Khi ấy, cả đại chúng nghe Phật thuyết pháp không ai mà không nhàm chán cảnh đời; họ xuất gia trì giới, có người đắc Tu-đà-hoàn, thậm chí có người đắc quả vị A-la-hán, có người gieo hạt giống Bích-chi Phật, có người phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Mọi người rất vui mừng đảnh lễ phụng hành.


    Lời kết:
    Về công hạnh xuất gia, đức Phật khen ngợi, tán thán bàng bạc khắp trong Kinh tạng, như kinh Hiền ngu: “Công đức của sự xuất gia cao hơn Tu-di, sâu hơn biển cả, rộng hơn hư không. Tại sao như vậy? Vì xuất gia quyết định thành Phật”. Kinh Úc-già trưởng giả: “Tại gia thì ô nhiễm, xuất gia thì thanh tịnh; tại gia neo buộc, xuất gia giải thoát…” Kinh Văn-thù-sư-lợi vấn: “Tại gia thì tăng thêm phiền não, xuất gia thì giải thoát. Tại gia là vào trong rừng chông gai gươm giáo, xuất gia là ra khỏi rừng chông gai gươm giáo…”

    Những lời ấy từ kim khẩu Thế Tôn nói ra thì chúng ta không còn gì để luận bàn. Nhưng chúng ta nên hiểu, ở đây đức Phật không phủ nhận đời sống tại gia tu không giải thoát, chỉ có điều người tại gia tu dưỡng vô dục, vô ngã là một việc khó khăn, và quả vị chứng đắc đến quả Bất hoàn mà thôi, không thể đạt được Hiện pháp niết-bàn. Đồng thời đứng trên quan niệm “triết học xuất gia”, đức Phật muốn chứng minh cho chúng ta thấy rằng, ái ân, tiền của, quyền lực, danh vọng… khó vĩnh hằng trước định luật vô thường; cho nên Ngài đã dạy A-nan khuyên vương tử Dũng Quân xuất gia.

    Vương tử Dũng Quân xuất gia tu hành một ngày một đêm, rồi mạng chung sanh về các cõi trời, tuổi thọ kéo dài, mãn 20 kiếp không đọa địa ngục, ngạ quỷ… Vì sao vương tử Dũng Quân được phước báo như vậy? Vì vương tử Dũng Quân giữ giới trọn vẹn trong một ngày một đêm. Kinh Tâm địa quán nói: “Sự xuất gia khó nhất là giữ giới. Giữ giới được mới gọi là xuất gia.” Luật Thiện kiến cũng nói: “Giới luật là thọ mạng của Phật pháp. Giới luật còn thì Phật pháp còn.” Giới là cửa ngõ đi đến giải thoát, là năng lượng duy trì, bảo vệ cộng đồng Tăng-già. Một vị xuất gia giới hạnh thanh cao là hình ảnh, là tín hiệu cho sự sống còn của Giáo đoàn dù bất cứ nơi đâu, hay ở xứ sở nào.

    Song, tâm nguyện của người xuất không phải dừng ở đó mà “Thế giới độc ác đầy cả ngũ trược con thề bước vào trước hết; nếu còn một chúng sanh chưa thành Phật, thì con thề không bao giờ hưởng lấy niết-bàn.” Vì thế, kiếp cuối cùng của vương tử Dũng Quân nói lên tâm đại bi của người xuất gia “thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh”, nên Dũng Quân tu hành thành Phật Bích-chi, hiệu Tỳ-lưu-đế, phóng hào quang cứu độ chúng sanh trong ba thừa.

    Luận bàn công đức một vị xuất gia chân chính tức luận bàn công đức một vị Phật tương lai, công đức ấy không thể nghĩ bàn, trí phàm nhân không thể thẩm thấu. Chúng tôi xin mượn lời Thế Tôn diễn đạt lại:

    “Người xuất gia là người tôn quý cao nhất, là người vô thượng, người không ai sánh bằng, người không ai ngang vai: người ấy là bậc đại hùng lực giữa thế gian, độc bộ vô lữ.” (Kinh Diễn đạo tục nghiệp).■

    Thích Tâm Nhãn
    (nguồn: TS Pháp Luân 50)





    PHẬT THUYẾT KINH CÔNG ĐỨC XUẤT GIA

    Hán dịch: Vô danh, phụ lục thời Tam Tần.
    Việt dịch: Thích Tâm Nhãn
    Trường Cơ Bản Phật Học Khánh Hoà.


    Tôi nghe như vầy:

    Một thời đức Phật ở trong nước Tỳ-xá-ly, đến giờ thọ trai đức Phật vào thành khất thực.

    Bấy giờ, trong thành Tỳ-xá-ly có một Lê-xa tên Tỳ-la-tiễn-na (ý dịch Dũng quân); ví dụ như trời và các tiên nữ đồng nô đùa, thì vương tử này và các thể nữ ở trên lầu vui chơi, đắm đuối trong sắc dục cũng như vậy. Khi ấy, đức Thế Tôn dùng Nhất thiết trí nghe âm thanh ấy rồi bảo A-nan:

    - Ta biết người này tham đắm ngũ dục lạc, sau bảy ngày nữa thì mạng chung. Như vậy, anh ta sẽ xa lìa hạnh phúc bên người thân, nhất định phải chết. A-nan! Nếu người này không bỏ dục lạc, không xuất gia thì khi mạng chung có thể bị đọa địa ngục.

    Bấy giờ, vâng lời chỉ dạy của Phật, muốn lợi ích cho vương tử này, nên A-nan đi đến nhà anh ta. Vương tử nghe A-nan ở bên ngoài liền đi ra nghinh đoán, với lòng tôn kính thỉnh A-nan vào nhà an tọa. A-nan vừa an tọa thì vương tử khởi tâm cung kính thưa với A-nan:

    - Quí thay, người bạn tốt đã đến đây! Hôm nay, thật đúng lúc, tôi gặp được tôn giả hết sức vui mừng. Nếu tôn giả hoan hỷ có thể dạy bảo cho tôi về giáo pháp của Phật, giúp cho tôi được an lạc.

    Vương tử thưa thỉnh như vậy ba lần. A-nan muốn vương tử được nhiều lợi ích nên im lặng không nói. Vương tử lại thưa:

    Tỳ-na-a-mâu-ni-đại-tiên, lợi ích cho tất cả chúng sanh, có hiềm hận gì mà mặc nhiên không nói? Không thấy nói gì đến lần thứ ba. Thầy là người giữ Phật Pháp lợi ích cho thế gian.

    A-nan đau buồn nói:

    - Hãy lắng nghe đây, sau bảy ngày nữa bạn sẽ chết. Nếu bạn ở trong ngũ dục không giác ngộ, không xuất gia, thì mạng chung bạn sẽ đọa địa ngục. Phật là bậc Nhất thiết trí, chánh ngữ chánh thuyết đã nói về bạn như thế. Ví như ngọn lửa thiêu đốt mọi vật, thảy đều không sai. Bạn nên suy nghĩ cho kỹ.

    Vương tử nghe nói vậy quá lo sợ, buồn rầu, sầu muộn không vui nói: “Theo lời chỉ dạy của A-nan tôi phải xuất gia nhưng tôi muốn thọ hưởng khoái lạc thêm 6 ngày nữa, đến ngày thứ 7 tôi sẽ giã từ người thân quyết định xuất gia”. A-nan hài lòng. Đến ngày thứ 7 Tỳ-la-tiễn-na sợ sinh tử cầu Phật xuất gia, đức Phật liền đồng ý. Qua một ngày một đêm Tiển-na tu trì tịnh giới rồi mạng chung. Sau khi hỏa thiêu hương khói xong, A-nan cùng họ hàng của Tiển-na đến hỏi Phật:

    - Kính thưa Thế Tôn! Tỳ-kheo Tỳ-la-tiễn-na ấy nay đã mạng chung thần thức sinh về đâu?

    Đức Phật Thế Tôn thầy của chư thiên, nhân loại, bậc Nhất-thiết-trí dùng đại phạm-âm vang dội hơn tiếng trống sấm, hơn âm thanh vi-diệu chúng chim Ca-lăng-tần-già. Ngài đem tám loại âm thanh bảo A-nan:

    - Này A-nan! Tỳ-kheo Tỳ-la-tiễn-na ấy sợ chết sinh vào địa ngục khổ nên đã xả dục xuất gia, trong một ngày một đêm trì tịnh giới xả bỏ cõi đời này sinh về trời Tứ thiên vương, làm con Tỳ-sa môn Thiên-vương ở phương Bắc. Tâm phóng túng thọ ngũ dục khoái lạc, tham thọ ngũ dục với các thể nữ, cùng chung vui chơi thọ 500 tuổi; khi Tiển-na hết 500 tuổi mạng chung sinh về cõi trời 33 làm con Đế-thích hưởng thụ đầy đủ ngũ dục, sung sướng nhất cõi trời. Tiển-na cùng thể nữ đẹp trên trời tuổi thọ kéo dài 1000 tuổi, tận số sinh về Diệm-thiên làm vương tử Diệm-thiên, tự phóng túng thọ hưởng sắc, thanh, hương, vị, xúc trên trời, tâm khoái dục lạc, thọ 2 ngàn tuổi trên trời, mạng chung sinh về cung trời Đâu-suất làm vương tử. Tâm thoải mái thọ ngũ dục khi mắt thấy tướng dục, tâm tự nhàm chán, thường nói pháp ngữ, trí tuệ giải thoát. Ở trong cõi trời tuổi thọ hơn hết, mãn 4 ngàn tuổi mạng chung sinh lên Tự-tại-thiên làm con Thiên-vương, thọ hưởng đủ loại ngũ dục khoái lạc ở trong các thể nữ, ứng hóa kéo dài 8 ngàn tuổi thọ. Hết 8 ngàn tuổi mạng chung sinh về trời Tha-hóa-tự tại, làm con Thiên-vương. Cõi trời thứ 6 này, dục lạc trong đó năm tầng trời phía dưới không thể so sánh. Sinh vào trong đó rồi, trong những cái vui thọ cái vui tối diệu. Khi thọ dục lạc ở đó tâm quá say mê, hưởng đầy đủ dục lạc thắng diệu thọ một vạn sáu ngàn tuổi. Thọ lạc như vậy qua lại 7 lần trong 6 cõi trời dục. Tỳ-la-tiễn-na này do một ngày một đêm xuất gia nên mãn 20 kiếp, không đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh; thường sinh thiên, nhơn, thọ phước tự nhiên. Trong loài người kiếp cuối cùng sinh vào nhà giàu có sung sướng, tài sản phong phú, chân bảo đầy đủ. Khi tuổi tráng niên đã qua, các căn đau yếu lo sợ họa hoạn sinh lão bệnh tử nên Tiển-na nhàm chán ở đời, xuất gia cạo bỏ râu tóc, thân khoác pháp phục, siêng tu tinh tấn, giữ 4 oai nghi, thường hành chánh niệm, quán ngũ-âm, Khổ, Không, Vô ngã, hiểu pháp nhân duyên, thành Bích-chi Phật hiệu là Tỳ-lưu-đế, lúc ấy Ngài phóng hào quang lớn có nhiều chư thiên, nhân loại sinh thiện căn và giúp các loài chúng sanh trong ba thừa được giải thoát.

    Bấy giờ, A-nan chắp tay bạch Phật:

    Kính thưa Thế Tôn! Nếu có người độ người xuất gia, người ấy xuất gia gánh vác mọi việc thì được bao nhiêu phước đức? Nếu lại có người hủy phá chuyện người khác xuất gia thì thọ tội báo gì? Xin thỉnh Thế Tôn chỉ bảo cho con được tường tận.

    Phật bảo:

    Này A-nan! Nếu ông có sống đủ 100 tuổi để hỏi Ta việc này, thì Ta cũng lấy trí tuệ vô tận vì ông nói rộng theo đúng 100 năm, trừ giờ ăn uống. Người này công đức không thể nói hết, họ hằng sinh thiên, hay trong loài người thường làm quốc vương, thọ hưởng hạnh phúc nhơn, thiên. Nếu họ giúp người xuất gia vào trong pháp Sa-môn này, vì chuyện giúp đỡ cuộc sống xuất gia đó, thì họ dù ở trong sinh tử cũng hưởng khoái lạc. Dù Ta có đủ 100 tuổi để nói công đức người đó cũng không hết được. Như vậy, A-nan! Ông có mãn trăm tuổi kéo dài tuổi thọ để hỏi Ta, còn ta sống đến khi Niết-bàn, nói công đức này không bao giờ hết.

    Phật lại bảo A-nan:

    - Nếu lại có người phá hoại chuyện người khác xuất gia thì người đó bị cướp mất kho tàn vô tận thiện tài phước báu, và hủy hoại nhân 37 trợ Bồ-đề Niết-bàn. Nếu có ý muốn phá hoại nhân duyên xuất gia phải khéo quán sát chuyện như vậy. Vì sao, vì tội báo đó sẽ đọa địa ngục, thường bị mù mắt, thọ khổ cùng cực. Nếu làm súc sinh, khi sinh ra cũng bị mù mắt bẫm sinh.

    Nếu sinh trong ngạ quỉ, sinh ra cũng mù bẩm sinh, đọa trong 3 đường ác khổ không biết bao giờ giải thoát. Nếu sanh làm người, ở trong bụng mẹ thọ thai lại bị mù. Ông có sống một trăm tuổi thường hỏi nghĩa đó, còn Ta có đủ một trăm tuổi lấy trí tuệ vô tận giải thích tội báo cũng không thể hết. Người ấy ở trong tứ đạo sinh ra thường mù mắt. Ta cũng không biết được người này bao giờ mới giải thoát được. Vì sao, vì do phá hủy người xuất gia đã thành tựu vô lượng vô biên công đức. Do phá thiện duyên ngăn cản người xuất gia như vậy, nên thọ vô lượng tội. Nếu họ ở trong “kính trí tuệ” thanh tịnh này thì giúp họ được thiện pháp giải thoát vậy. Nếu thấy người xuất gia tu trì tịnh giới hướng đến chỗ giải thoát, phá công việc xuất gia của người ấy, làm việc ngăn cản, có nhân duyên đó sinh ra bị mù, không thấy Niết-bàn là do hủy hoại người xuất gia.

    Như quán vô-minh…12 nhân duyên sẽ được giải thoát. Do phá người xuất gia, hủy hoại con mắt trí tuệ của họ nên mắt tuệ của mình bị che mờ, từ đời này qua đời khác sinh ra bị mù mắt, không thấy tam-giới là do ngăn cản người xuất gia vậy. Người xuất gia đã thấy ngũ-ấm, 20 ngã-kiến, nhân gian, chánh-đạo, mà cái nhân phá xuất gia như là hủy hoại chánh-kiến, do đó sinh ra thường mù mắt, không thấy chánh-đạo. Người xuất gia đã thấy tất cả pháp tu thiện, pháp trú xứ, đã thấy pháp thân thanh tịnh chư Phật, mà phá chuyện người khác xuất gia nên sinh ra bị mù mắt, không thể trông thấy pháp thân Phật. Do người xuất gia đã đầy đủ tướng mạo Sa-môn, hạt giống Phước điền Phật đạo, và giữ gìn giới thanh tịnh, nên nguyên nhân phá người xuất gia thì ở trong thiện pháp bị đoạn tất cả hy vọng. Do tội duyên phá hủy người xuất gia, đời đời thường mù mắt.

    Người xuất gia đã khéo quán sát tất cả thân tâm đều khổ, vô-thường, vô-ngã, bất-tịnh, mà phá người xuất gia ấy, làm việc ngăn cản, thì như phá con mắt của người đó, phá con mắt ấy thì mình không thấy Tứ-đạo, Tứ-niệm-xứ, Tứ-chánh-cần, Tứ-như-ý-túc, Ngũ-căn, Ngũ-lực, Thất-giác-phần, Bát-chánh-đạo, và đường đến cung thành Niết-bàn, do tội duyên như vậy sinh ra thường bị mù, cho đến không thất Không, Vô-tướng, Vô-tác thanh tịnh, thiện pháp hướng đến cung thành Niết-bàn. Người có trí tuệ là biết người xuất gia sẽ thành tựu thiện pháp như thế, không nên phá hoại nhân duyên thiện pháp đó, như vậy sẽ không bị tội. Ai hủy phá chuyện người khác xuất gia là vị Sa-môn chánh kiến, thì mãi mãi không thấy cung thành Niết-bàn, sinh ra thường bị mù.

    Nếu có người nào trong một cõi khác xuất gia tu trì tịnh giới hơn 100 kiếp; lại có người khác ở trong cõi Diêm-phù-đề xuất gia trì giới một ngày một đêm, dù khoảnh khắc, thì được 16 phần. Còn người xuất gia trì giới kia chỉ bằng 1 phần 16 người xuất gia ở Diêm-phù-đề. Người nào điên đảo hành dâm chị em nữ, không phải chỗ hành dâm, bị chống cự rồi sinh ra căm ghét, thì tội báo đó không thể tính hết. Nếu lại có người tư duy đúng, có tâm xuất gia, có người khác phá hoại chuyện xuất gia người này không để họ mãn nguyện, thì nhân duyên tội báo đó bắt đầu tăng trưởng cho đến trăm kiếp.

    A-nan bạch Phật:

    Kính thưa Thế Tôn! Tỳ-la-tiễn-na này nhờ hạt giống thiện căn sinh chỗ tôn quí, thọ hưởng phước lạc vì quá khứ cũng có hành thiện. Hôm nay chỉ nhờ công đức xuất gia một ngày một đêm mà thọ hưởng nhiều phước như thế.

    Phật bảo A-nan:

    - Ông không cần quan sát nhân duyên quá khứ, đối với một ngày một đêm ấy thanh tịnh xuất gia được thiện căn, trong 6 cõi trời dục bảy lần qua lại thọ phước. Trong 20 kiếp thường chịu cảnh sanh tử. Trong loài người sau cùng ở thế gian hưởng cảnh hạnh phúc nhất, sinh trong nhà giàu có. Khi tuổi tráng niên qua, các căn yếu dần, thì sợ cái khổ sinh lão bệnh tử nên Tỳ-la-tiễn-na xuất gia trì giới thành Bích-chi Phật.

    Phật lại bảo A-nan:

    Ta sẽ nói ví dụ ông khéo lắng nghe. Thí như thiên hạ: Đông-phất-bà-đề, Nam-diêm-phù-đề, Tây-cù-da-ni, Bắc-uất-đan-việt, các bậc A-la-hán trong 4 cõi ấy nhiều như lúa cỏ rừng rậm. Nếu có người nào ở trong đó đủ 100 tuổi tận tâm cúng dường những vị A-la-hán này những thứ như: y phục, thức ăn, nước uống, thuốc thang trị bệnh, phòng xá, ngọa cụ; cho đến sau khi các vị ấy Niết-bàn, lại xây dựng tháp miếu, đủ loại chân bảo, hoa hương anh lạc, tràng phan, bảo cái, treo các loại chuông báu, quét rưới nước hương, dùng những câu kệ tụng tán thán, cúng dường thì đắc được công đức. Còn người nào vì Niết-bàn mà xuất gia thọ giới, chỉ một ngày một đêm tạo công đức, thì công đức này được 16 phần, công đức trước chỉ một phần. Theo nhân duyên như vậy, thiện nam tử nên xuất gia tu trì tịnh giới.

    - Này các thiện nam tử! Những người cần công đức, cầu thiện pháp, tự thọ pháp thì không được ngăn cản chuyện người xuất gia ấy phải cầu phương tiện khuyến khích giúp họ thành tựu.

    Khi ấy, cả đại chúng nghe Phật thuyết pháp không ai mà không nhàm chán cảnh đời. Họ xuất gia trì giới, có người đắc Tu-đà-hoàn, thậm chí có người đắc quả vị A-la-hán, có người gieo hạt giống Bích-chi Phật, có người phát tâm Vô-thượng Bồ-đề. Mọi người rất vui mừng đảnh lễ phụng hành.

    Kinh Công Đức Xuất Gia
    Last edited by Tu pháp chánh; 06-08-2012 at 04:31 PM.

  8. #8

    Mặc định

    Như đấng Đại Phước rất cao kia, chẳng bằng phần mười sáu Đạo tâm; nếu muốn cầu phước như Tu Di, như cát sông Hằng ở cõi Phật, thảy đều tạo chúa, xây các tháp chẳng bằng Đạo tâm mười sáu phần.

    Kinh Xuất Sanh Bồ Đề Tâm

    A DI ĐÀ PHẬT



    Xem thêm: http://www.thienlam.org/news/KINH/Ki...#ixzz22xlXPP9S

  9. #9

    Mặc định

    Các thầy ơi ! bây giờ con thấy các sư tăng phá giới nhiều quá . Con cũng đi một số chùa thấy các sư tăng xem bói , chăn nuôi gia cầm ....... ( cũng có một số nơi họ chữa bệnh nhưng chưa có cái tâm của người thầy ) mà so với giới của Đức Phật thì thật là ..... Có phải đã đến lúc pháp diệt
    mà trong kinh pháp diệt tận :


    Tôi nghe như vầy:

    Một thuở nọ, Đức Phật ở tại thành Câu-thi-na. Như Lai trong ba tháng nữa sẽ nhập Niết-bàn. Lúc đó các vị Tỳ-kheo, chư Bồ-Tát, cùng vô số chúng sanh đến chỗ Phật và họ đảnh lễ sát đất.

    Đức Thế Tôn tĩnh lặng. Ngài không nói một lời, ánh hào quang cũng không hiện. Bấy giờ Hiền giả A-Nan đảnh lễ và thưa hỏi Phật:

    "Bạch Thế Tôn! Từ trước đến nay, bất kỳ lúc nào Thế Tôn thuyết Pháp cũng đều có vầng hào quang oai nghi tự nhiên xuất hiện. Nhưng nay trong đại chúng, ánh hào quang ấy không hiển hiện nữa. Chắc hẳn đây phải là do nhân duyên gì? Chúng con mong muốn được nghe nghĩa ý."

    Đức Phật vẫn lặng yên không trả lời. Như thế cho đến khi thỉnh cầu đến ba lần, lúc đó Đức Phật mới bảo ngài A-Nan:

    "Sau khi Ta nhập Niết-bàn, lúc Pháp bắt đầu diệt mất ở trong đời ngũ trược ác thế, ma đạo sẽ rất hưng thịnh. Ma quỷ sẽ giả làm Sa-môn để phá hoại Đạo của Ta. Chúng mặc quần áo của người thế tục, ưa thích y phục năm màu, mặc áo cà-sa sặc sỡ. Chúng uống rượu ăn thịt, giết hại chúng sanh, tham đắm mùi vị, không có lòng từ bi, lại thêm sân hận đố kỵ.

    Lúc bấy giờ sẽ có các bậc Bồ-Tát, Bích-chi-phật, và A-la-hán, họ tinh tấn tu đức và tôn kính hết thảy. Các ngài lấy nhân ái làm tông hướng, giáo hóa bình đẳng, thương mến người nghèo, lo lắng người già yếu, giúp kẻ khốn cùng. Họ luôn khuyên bảo mọi người hộ trì Kinh tượng. Với tấm lòng hiền lành, các ngài làm mọi công đức, không làm hại người khác, luôn hy sinh giúp đỡ, không tự lợi, nhẫn nhục và hòa nhã.

    Nếu có những vị như thế thì chúng ác ma Tỳ-kheo đều sanh lòng ganh ghét, phỉ báng bôi nhọ, xua đuổi, rồi trục xuất họ. Sau đó, do những ác ma này không tu đạo lập đức nên chùa tháp bỏ hoang vắng, không người sửa sang, rồi sẽ bị hư hoại. Chúng chỉ tham lam tích chứa tiền tài, không chịu phân phát, và không sử dụng vào việc để tạo phước đức. Chúng sẽ mua bán nô tỳ để trồng trọt, đốt rừng, giết hại chúng sanh; một chút lòng từ bi cũng chẳng có.

    Sau đó, những nam nô sẽ thành Tỳ-kheo; những nữ tỳ sẽ thành Tỳ-kheo-ni. Chúng không có đạo đức, dâm loạn ô uế, nam nữ không cách biệt. Chính những kẻ này sẽ làm Đạo suy yếu phai mờ đi.

    Hoặc có kẻ chạy trốn luật pháp, chúng sẽ nương dựa vào Đạo của Ta và xin làm Sa-môn nhưng không tu giới luật. Giữa tháng và cuối tháng tuy có tụng giới nhưng chỉ là trên danh nghĩa. Do vì chán ghét và lười biếng nên chẳng còn muốn nghe nữa.

    Chúng không muốn tụng toàn bản văn mà chỉ tóm lược phần đầu và đoạn cuối. Chẳng bao lâu, việc học Kinh với tụng niệm cũng sẽ chấm dứt. Cho dù còn có người đọc tụng, nhưng họ không hiểu nghĩa của câu văn rồi miễn cưỡng cho đó là đúng. Lại không hỏi các bậc minh sư, cống cao ngã mạng, cầu danh cầu lợi, và làm ra vẻ tao nhã vẻ vang để mong được người cúng dường.

    Khi chúng ma tăng này mạng chung, thần thức của những kẻ ấy liền đọa vào Địa Ngục Vô Gián. Bởi đã phạm năm tội ngỗ nghịch, nên chúng sẽ trải qua Hằng Hà sa số kiếp để sinh làm ngạ quỷ và súc sanh. Khi tội báo đã hết, lại sanh ra ở vùng biên địa--nơi không có Tam Bảo.

    Khi Pháp sắp bị diệt, người nữ sẽ trở nên tinh tấn. Họ luôn làm các việc công đức. Ngược lại thì người nam lười biếng và không còn giảng Pháp nữa. Những vị Sa-môn sẽ bị xem như phân như đất và chẳng còn ai tin tưởng nơi các ngài.

    Khi Pháp sắp bị mất, chư thiên khóc lóc, bão lụt hạn hán thất thường, năm loại ngũ cốc sẽ không còn chín. Bệnh dịch lây lan và giết đi vô số sinh mạng. Dân chúng lầm than, còn quan chức mưu toan tính lợi. Ai nấy đều không thuận theo đạo lý, ưa thích nhiễu loạn. Kẻ xấu ác gia tăng nhiều như cát trong biển. Người thiện rất hiếm hoi, hầu như chỉ được một hoặc hai người.

    Khi kiếp sắp hết, vòng quay của mặt trời và mặt trăng trở nên ngắn hơn. Thọ mạng của loài người lại giảm đi, 40 tuổi thì đầu bạc. Người nam dâm dục quá độ, tinh dịch cạn kiệt nên chết sớm, hoặc chỉ sống đến 60 tuổi. Trong khi tuổi thọ của người nam giảm thì tuổi thọ của người nữ gia tăng đến 70, 80, 90, hoặc đến 100 tuổi.

    Lúc bấy giờ, nước lớn sẽ hốt nhiên khởi lên và kéo dài đến vô hạn kỳ, nhưng người đời không tin mà lại xem là việc bình thường. Các loại chúng sanh hỗn tạp, không phân sang hèn quý tiện, chúng chết đuối, chìm đắm nổi trôi, và bị cá rùa ăn nuốt.

    Khi đó các bậc Bồ-Tát, Bích-chi-phật, và A-la-hán sẽ bị chúng ma xua đuổi, trục xuất và không còn tham dự trong hội chúng nữa. Giáo Pháp của tam thừa sẽ lánh vào nơi núi rừng phước đức. Trong yên tĩnh, họ sẽ tìm được sự an vui, tuổi thọ thêm lâu dài. Khi ấy chư thiên hộ vệ cho Nguyệt Quang Bồ-Tát xuất thế. Các ngài lại gặp nhau và cùng chấn hưng Đạo của Ta.

    Nhưng 52 năm sau đó, Kinh Thủ Lăng Nghiêm và Kinh Bát-chu Tam-muội sẽ bị sửa đổi trước tiên rồi sau đó diệt mất. 12 bộ Kinh cũng từ từ biến mất và không bao giờ còn xuất hiện lại, văn tự cũng không còn thấy nữa. Áo cà-sa của Sa-môn sẽ tự nhiên biến thành màu trắng.

    Khi Pháp của Ta sắp diệt, nó sẽ như ngọn đèn dầu bừng sáng lên trong chốc lát rồi tắt mất. Khi Pháp của Ta đã diệt, thì nó cũng như ngọn đèn đã tắt. Từ đó về sau, thật khó mà nói chắc điều gì sẽ xảy ra.

    Và như thế cho đến mười triệu năm sau, lúc Đức Di-lặc sắp hạ sanh ở thế gian để làm Phật, thiên hạ sẽ thái bình, độc khí tiêu trừ, mưa thấm nhuần điều hòa, năm loại ngũ cốc tươi tốt, cây cối to lớn. Loài người sẽ cao đến tám trượng và sống đến 84.000 năm. Chúng sanh được độ thoát nhiều không thể tính đếm kể."

    Lúc bấy giờ, Hiền giả A-Nan đảnh lễ và thưa hỏi Phật.

    "Bạch Thế Tôn! Kinh này tên gọi là gì, và chúng con phụng trì như thế nào?"

    Đức Phật bảo:

    "Này A-Nan, Kinh này tên là Pháp Diệt Tận. Hãy lưu truyền rộng rãi, công đức có được sẽ nhiều vô lượng không thể tính kể."

    Khi bốn chúng đệ tử nghe Kinh này xong, lòng buồn bã và thương xót thảm thiết. Tất cả đều phát tâm tu Thánh Đạo Vô Thượng, họ đảnh lễ Đức Phật rồi lui ra.

    Phật Thuyết Kinh Pháp Diệt Tận


    Con so sánh lời trong kinh nói rất đúng về thực tế hiện tại !
    Các thầy là người đức cao đã tu tập được tinh tấn , trí tuệ , thiền định ........ con nghĩ đã là người phật tử , đọc kinh phật , thực hành theo giáo lý của đức phật mà đứng trước thời kì nhiễu loạn , pháp bị suy yếu vậy mà mình không làm gì thì thật không xứng là một người đệ tử của Đức Phật Tôn Kính . Vậy Con mong các thầy đã tu tập và đạt được tinh tấn , trí tuệ , đức cao ............ thành lập ra hội để có những việc làm cụ thể để chấn hưng Đạo Phật như trong kinh có đoạn " Khi ấy chư thiên hộ vệ cho Nguyệt Quang Bồ-Tát xuất thế. Các ngài lại gặp nhau và cùng chấn hưng Đạo của Ta. "
    Con xin ủng hộ các thầy trước !
    Vài lời tâm sự của con có gì mong các thầy suy nghĩ !

  10. #10

    Mặc định

    :icon027: I love Lion .
    Năng lực ý chí sẽ mạnh mẽ hơn lên bằng việc kềm nén lại và không cho phép sự biểu lộ những tư tưởng, cảm xúc, hành động và phản ứng không quan trọng, không cần thiết, và không lành mạnh. Nếu điều tiết kiệm năng lượng này là không cho phép biểu lộ, nó được lưu trử trong thân tâm chúng ta như một bình điện, và nó trở nên sẳn sàng khi chúng ta cần đến. Bằng việc thực hành những bài tập thích hợp, chúng ta phát triển những năng lực của chúng ta bằng cách tương tựa như thế, như một người rèn luyện cơ bắp nhằm để tăng cường sức khỏe của họ.

    Phát Triển Năng Lực Ý Chí Và Kỷ Luật Tự Giác

    Một phương pháp hữu hiệu cho việc phát triển và cải thiện những khả năng này là tiến hành những tác động hay hành vi nào đấy, mà chúng ta tốt hơn là tránh qua việc lười biếng, chần chừ, yếu đuối, ngại ngùng, v.v… Bằng việc thực hiện những gì mà chúng ta không thích làm là quá lười để làm, chúng ta chiến thắng sự đối kháng tiềm thức của chúng ta, rèn luyện tâm thức chúng ta vâng lời chúng ta, làm mạnh năng lực nội tại và đạt đến sức mạnh nội tại. Cơ bắp mạnh mẽ hơn do việc nâng những quả tạ. Sức mạnh nội tại đạt được qua việc chiến thắng những đề kháng nội tại.

    Hãy nhớ rằng, làm mạnh một trong những năng lực này, tự động sẽ làm mạnh những năng lực khác.

    Đây là một số bài tập:

    1.- Bạn đang ngồi trên xe buýt hay xe lửa, và một ông già hay bà lão, hay một người mang thai bước lên. Hãy đứng lên và nhường chỗ ngồi của bạn ngay cả bạn thích ngồi. Hãy làm điều này không chỉ vì lịch sự, những bởi vì bạn chúng ta đang làm điều gì đấy mà chúng ta không muốn làm. Trong cách này chúng ta đang chiến thắng sự đối kháng của thân thể, tâm thức và cảm giác của chúng ta.

    2.- Có những chén dĩa trong bồn cần rửa, và chúng ta dự định sẽ rửa sau này. Hãy ngồi dậy và rửa chúng ngay bây giờ. Đừng để sự lười biếng của chúng ta chiến thắng chúng ta. Khi chúng ta biết rằng trong cách này chúng ta đang phát triển năng lực ý chí của mình, và nếu chúng ta tin chắc tầm quan trọng của năng lực ý chí trong đời sống của chúng ta, sẽ dễ dàng hơn cho chúng ta làm bất cứ việc gì chúng ta phải làm.

    3.- Chúng ta về nhà mệt mỏi từ sở làm và ngồi trước truyền hình, bởi vì chúng ta cảm thấy lười biếng và mệt mỏi để đi và rửa. Đừng vâng lời sự thèm khát để chỉ ngồi, mà hãy bước đi và tắm.

    4.- Chúng ta có thể biết thân thể chúng ta cần một loại luyện tập vật lý nào đấy, nhưng thay vì ngồi đấy và không làm gì hay xem truyền hình. Hãy đứng lên và bước đi, chạy hay làm một thực tập thân thể gì đấy.

    5.- Quý vị có thích cà phê với đường chứ? Thế thì cả một tuần hãy quyết định uống nó mà không có đường? Nếu quý vị muốn uống bốn ly cà phê một ngày? Trong một tuần hãy uống ba ly thôi.

    6.- Thỉnh thoảng, khi chúng ta muốn nói điều gì đấy không quan trọng, hãy quyết định đừng nói.

    7.- Đừng đọc những gì không quan trọng tán gẫu trong báo chí, ngay cả nếu chúng ta muốn.

    8.- Chúng ta có một thèm khát ăn món gì đấy không quá bổ dưỡng. Vì sự thực tập hãy từ chối sự thèm muốn ấy.

    9.- Nếu chúng ta thấy mình suy nghĩ những điều không quan trọng, không cần thiết, những tư tưởng tiêu cực, hãy cố gắng để phát triển sự trống rỗng hấp dẫn trong chúng, bằng việc suy nghĩ về sự vô ích của chúng.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  11. #11

    Mặc định

    Mahamudra (Chag gya chenpo) có nghĩa là gì? Từ đầu tiên là “chag.” Nó tượng trưng cho những phẩm tính vô song của Phật. Phật ở đâu? Bạn không thể tìm thấy Phật ở bên ngoài mà chỉ tìm thấy ở bên trong. Đó là sự hợp nhất của quang minh và tánh Không của tâm. Ta cho tâm này tên gọi là Phật. “Chag” có nghĩa là lòng kính ngưỡng đối với tâm ta, là cái có bản tánh Phật. “Gya chenpo” nghĩa là bao la và không có trung tâm hay biên bờ. Tự mình phải nhận ra điều đó. Ta không thể diễn tả được nó, giống như một người câm ăn mật đường. Không thể diễn tả bản tánh của tâm. “Gya chenpo” có nghĩa là nó bao gồm mọi hiện tượng của sinh tử và niết bàn. Có vô số chư Phật và chúng sinh. Thậm chí chỉ xem xét hệ thống thế giới này không thôi thì số lượng những hạt bụi trong đó thật không thể tính đếm. Tất cả những điều này chỉ là tâm.

    Tâm đến từ tánh Không và tan hòa trở lại vào tánh Không, giống như nước đông lại thành băng và lại tan chảy ra. Khi đã nhận ra ý nghĩa của mahamudra, ta giải thoát khỏi sinh tử. Mọi hiện tượng không có tự tánh. Khi nhận ra điều này, ta không bám chấp vào chúng. Ta không bám chấp vào băng tan chảy khi nhận ra nó chẳng là gì ngoài nước. Mọi hiện tượng đều không có tự tánh, an trụ như không gian. Khi nhận ra bản tánh của tâm, ta sẽ giải thoát khỏi sinh tử.

    Nyama Paldarbum hỏi Milarepa: “Điều gì sinh khởi trong tâm ngài?”

    Milarepa dùng một hình ảnh tương đồng là mặt trời chiếu sáng trong bầu trời không mây.

    Cô hỏi Milarepa: “Khi ngài thiền định, kết quả tối hậu là gì?”

    Ngài trả lời rằng ta nhận ra mọi hiện tượng của sinh tử không có thực tại nội tại và ta không bám chấp vào sinh tử hay niết bàn. Trong trạng thái không xao lãng đó không có sự quy chiếu. Cái thấy (kiến) thì không hy vọng hay sợ hãi. Ước muốn duy nhất là tất cả chúng sinh có thể đạt được Phật quả. Không có sự sợ hãi khổ đau bởi mọi hiện tượng được nhận ra thì trống không.

    Milarepa hỏi Nyama Paldarbum: “Con có muốn thực hành pháp này không?”

    Cô gái phát khởi lòng kính ngưỡng đối với Đức Milarepa và xin ngài làm vị Thầy của cô.

    Chúng sinh bình thường không nhận thức được lỗi lầm của các ác hạnh và không biết đến lợi lạc của các thiện hạnh. Họ thấy những gì đưa tới đau khổ thật đáng khao khát và những gì mang lại hạnh phúc thì không đáng ưa thích. Đây là một quan niệm sai lầm. Cũng giống như một ngày nhiều mây, bạn không thể nhìn thấy mặt trời chiếu rọi, hay vào mùa đông tuyết phủ bạn không thể nhìn thấy những bông hoa trong đồng cỏ. Tương tự như thế, tâm bị ngăn che và ta không nhận ra nó.

    Nyama Paldarbum sám hối hành vi sai trái của mình và nói: “Kết quả của hành vi sai trái trong những đời trước là con bị sinh làm một đứa con gái không khá gì hơn một kẻ đầy tớ. Con chưa từng nghĩ đến sự vô thường và cái chết. Vì thế giờ đây con sẽ chuẩn bị cho cái chết và trở thành đệ tử của ngài.”

    Milarepa trả lời: “Ta sẽ dạy Pháp cho con. Nhưng điều đó thật khó khăn. Nếu được ngợi khen, con trở nên kiêu ngạo, và nếu bị phê bình, con trở nên giận dữ.. Nhưng bởi con khẩn cầu nên ta sẽ dạy cho con.” Vì thế thông điệp gởi đến các bạn là đừng mất quá nhiều thời gian trong việc trang điểm và tắm gội. Thay vào đó, bạn nên tịnh hóa tâm bạn. Milarepa nói rằng đừng hướng tâm đến những bằng hữu sinh tử, hãy hướng tâm đến vị Thầy của bạn. Đừng chấp bám vào cuộc đời này, đừng quan tâm đến thân thể bạn. Thay vì bủn xỉn, hãy rộng rãi khi sử dụng của cải của bạn. Khi bạn còn trẻ, thật khó thực hành Pháp. Người trẻ như những con công tuyệt đẹp. Họ kiêu ngạo về bề ngoài của mình và không muốn thực hành. Với sự kiêu ngạo này, lòng từ và bi không thể phát khởi. Ta cần phải áp dụng một cách đối trị cho tánh kiêu ngạo và phương cách đối trị đó là lòng kính ngưỡng.

    Nyama Paldarbum nói: “Xin đừng quở trách con. Con thực sự muốn thực hành Pháp nhưng chẳng bao giờ có cơ hội.”

    Milarepa đáp: “Có thể con không có thời giờ để tu tập, nhưng con sẽ có thời giờ để chết không? So với những đời tương lai của con thì cuộc đời này thật ngắn ngủi. Con phải chuẩn bị cho tất cả những đời sau của con. Con có biết con sẽ ăn gì vào lúc đó?” Việc bố thí trong đời hiện tại là sự chuẩn bị cho mọi đời sau của bạn. Tánh bủn xỉn là kẻ thù đích thực của bạn và bạn nên tiệt trừ nó. Ta thường chỉ nghĩ đến bản thân mình và kết quả là ta sẽ tái sinh làm một ngạ quỷ. Vì thế ta cần thực thành bố thí để chuẩn bị cho những đời sau.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  12. #12

    Mặc định

    Trong đời này có ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Nhưng trong bardo (trạng thái trung ấm) thì không có. Hãy thiền định về sự sáng ngời như một chuẩn bị cho bardo. Một số người có thể nghĩ rằng họ không có gì để bố thí nhưng điều đó không đúng. Nếu ta có nhiều, ta nên bố thí. Nhưng nếu ta không có gì hết, ta có thể hiến tặng sự che chở sinh mạng và bố thí Pháp bằng cách tụng "om mani padme hum." Thầy quay bánh xe cầu nguyện liên tục là để nguyện cầu cho tất cả chúng sinh. Vì thế lúc nào ta cũng có thể bố thí.

    Khi ta đi tới đời sau, ta sẽ không mang theo bầu bạn hay bằng hữu. Ta sẽ mang ai đi theo khi ta một mình đi tới cõi bardo? Khi ta thực hành Bổn Tôn, Bổn Tôn sẽ đi cùng ta trong bardo. Người gây trở ngại cho ta là những người hiện đang thân thiết với ta. Họ tạo ra những vấn đề khi ta còn sống và không thể giúp đỡ ta khi ta chết. Dĩ nhiên là ta nên tử tế với họ. Nhưng chỉ có Bổn Tôn yidam mà ta thiền định mới đi cùng ta trong bardo.

    Thiền định về Bổn Tôn yidam cũng làm lợi lạc cho ta trong đời này. Tôi đã nhận được nhiều lời kêu cứu về những vấn đề của con người. Tôi luôn luôn bảo mọi người thiền định về Đức Tara. Khi tâm đau khổ, nó bị ngăn che bởi sự chấp ngã. Vào lúc này ta cần quán tưởng Bổn Tôn rõ ràng như một hình ảnh trong gương. Nếu ta làm điều này, tâm ta sẽ trở nên trong trẻo và thanh tịnh. Nếu bạn tụng mật chú mà không có lòng từ và bi thì điều đó chỉ mang lại chút ít lợi lạc. Nhưng ta nên biến toàn bộ bản thân ta thành Bổn Tôn, bao gồm cả lòng từ và bi của các ngài. Nếu ta làm được điều này thì sẽ thật lợi lạc cho đời này cũng như những đời sau.

    Đời sau dường như rất xa. Ta nên chuẩn bị cho nó ra sao? Ta nên tự chuẩn bị cho đời sau bằng sự tinh tấn. Khi có một lúc rảnh rỗi, ta nên thực hành quán tưởng Bổn Tôn. Điều đó giống như một ngọn đèn bơ. Khi bơ cạn thì đèn không cháy được nữa. Nếu ta thực hành, khi nghiệp của ta cạn kiệt, ta sẽ không đau khổ và đi tới cõi tịnh độ. Vì thế ta nên cưỡi trên lưng con tuấn mã tinh tấn.

    Kẻ thù của tinh tấn là sự lười biếng. Lười biếng làm hại ta ngay cả trong đời này. Nếu ta không tu tập ngày hôm nay thì ta sẽ làm gì vào ngày mai khi ta chết?

    Khi Milarepa nói xong, Nyama Paldarbum suy nghĩ và nói: “Con không chuẩn bị gì cho đời sau của con. Từ nay trở đi con phải cam kết thực hành Pháp.”

    Milarepa nói: “Nếu thực hành, con không cần phải từ bỏ gia đình, nhưng con cần thiền định trong mọi lúc. Con không cần đi vào sơn thất. Nếu con làm điều này, con có thể sống với gia đình.”

    Vì thế cô hỏi: “Con nên thiền định ra sao?”

    Milarepa đáp: “Hãy để tâm con nghỉ ngơi và nhìn vào nó, không có trung tâm hay biên bờ.”

    Một hình ảnh tương đồng với bản tánh của tâm là bầu trời. Khi ta nhìn tâm như nó là, không có trung tâm hay biên bờ, ta nhận ra là nó an trụ giống như không gian. Hình ảnh tương đồng thứ hai là mặt trời và mặt trăng. Tâm có thể bị ngăn che bởi những cảm xúc phiền não, giống như mặt trời và mặt trăng bị những đám mây che khuất. Nhưng khi ta chánh niệm và tỉnh giác, mỗi khi cảm xúc phiền não phát khởi, nó bị tiệt trừ ngay nơi nó sinh khởi. Điều đó cũng giống như khi ta nhìn thấy một đóa hoa đẹp. Không có sự tỉnh giác, ta muốn mua nó. Với sự tỉnh giác, ta nhận ra rằng nó như một ảo ảnh. Vì thế giống như mặt trời, tâm luôn luôn chiếu rọi mặc dù nó có thể bị ngăn che trong chốc lát.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  13. #13

    Mặc định

    Nếu tâm là Phật thì tại sao ta cần phải thiền định? Đó là bởi ta cần phải phát triển một trạng thái quang minh khi ta luôn luôn chánh niệm và tỉnh giác. Nếu ta làm được như thế thì khi cảm xúc phiền não sinh khởi, chúng không thể tác hại ta. Có bốn loại che chướng (1). Che chướng thứ nhất là không nhận ra tâm như nó là. Kết quả của việc này là khi các cảm xúc phiền não phát khởi, những hành động thuộc về nghiệp (hành nghiệp) xuất hiện và những hành nghiệp này tạo thành những dấu vết về nghiệp. Những dấu vết này tạo nên thân thể nhất thời của chúng ta và thân này không còn tồn tại khi nghiệp bị cạn kiệt. Vì thế đây là bốn che chướng.

    Ta luôn luôn nghe nói rằng những cảm xúc phiền não của chúng ta là cội nguồn của khổ đau nhưng ta không biết cách tiệt trừ chúng. Để làm được điều này, ta cần phải thiền định. Để nhận ra cái thấy (kiến), ta cần tập cho tâm quen thuộc với nó. Là những hành giả sơ cơ, trí tuệ nhỏ bé của ta chính là lý do khiến ta không thể tiệt trừ những cảm xúc phiền não. Trí tuệ nguyên sơ, hay yeshe, thì luôn luôn ở đó và trí tuệ này nhận thức mọi sự như chúng là. Ta có yeshe này, nhưng nó như một ngọn lửa nhỏ. Nó không đủ sức để thiêu đốt những ý niệm và cảm xúc của ta. Nhưng bởi càng lúc trí tuệ đó càng mạnh mẽ hơn, nó sẽ có sức mạnh để thiêu rụi những ý niệm và cảm xúc. Đây là thiền định mà Đức Milarepa đã dạy. Milarepa nổi danh về việc hành xử với quỷ ma và chướng ngại. Đó là kết quả của sự thiền định mạnh mẽ của ngài, ngài đã không bám chấp vào chúng như điều gì thật có.

    Milarepa giảng về cách an lập tâm thức trong thiền định với ba hình ảnh tương đồng: tâm như ngọn núi, tâm như đại dương, và tâm như không gian. Ngọn núi không thể bị gió lay chuyển. Khi tâm như một ngọn núi, nó sẽ không bị lay chuyển bởi những ý niệm. Khi tâm như một đại dương, đáy sâu của nó không bị xáo động mặc dù trên mặt nước có thể có sóng. Bản văn đưa ra một hình ảnh tương đồng khác: hãy canh giữ tâm bạn như canh giữ một viên ngọc để không bị kẻ trộm lấy đi. Sự tương đồng cuối cùng là đừng nghi ngờ rằng tâm như thế này hay thế kia, giống như không gian không có những tính chất.

    Sau đó Nyama Paldarbum được truyền dạy về bảy tư thế của Tỳ lô giá na. Khi bạn thiền định, điều quan trọng là xương sống phải thẳng để các kinh mạch và khí được thẳng thắn. Khi đó ta sẽ có thể di chuyển các khí vào kinh mạch trung ương. Cũng có những giáo huấn về tâm đi cùng với giáo huấn về tư thế vật lý này. Nyama Paldarbum đã thiền định như thế trong một thời gian nhưng sau đó cô có những câu hỏi. Cô đã dùng những ví dụ như bụi cây trên núi và những vì sao quanh mặt trăng để tượng trưng cho những ý niệm nhỏ bé sinh khởi trong thiền định. Vì thế cô hỏi Milarepa về điều này.

    Milarepa nói rằng khi bạn thiền định về tâm như không gian, những đám mây sẽ xuất hiện. Nhưng chúng sẽ biến mất vào bầu trời. Khi bạn thiền định về tâm như ngọn núi, đừng bám chấp vào các bụi cây. Khi bạn thiền định tâm như đại dương, dường như sóng rất mạnh mẽ, nhưng những con sóng ấy có cùng bản tánh như đại dương và tan hòa trở lại vào đại dương. Tương tự như thế, khi một cảm xúc sinh khởi, hãy nhận ra bản tánh của nó và nó sẽ biến mất vào tâm. Đôi khi những xúc cảm hay cảm nhận về hỉ lạc phát khởi và chúng rất mạnh mẽ. Khi sân hận phát khởi, đừng nói năng trong sự giận dữ. Chỉ nhận ra nó và sân hận sẽ bớt dần đi. Một ngày kia bạn sẽ có thể giải thoát khỏi những cảm xúc phiền não khi chúng phát khởi.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  14. #14

    Mặc định

    Thực hành theo cách này, Nyama Paldarbum đã không đi vào ẩn thất trong núi non hay cạo đầu. Cô vẫn là một gia chủ và đã đạt được thân cầu vồng. Vì thế chúng ta nên nghiên cứu tiểu sử của cô.

    Một đệ tử khác của Milarepa tên là Ngigum Repa. Ông được gọi là repa bởi ông đã thành tựu pháp tummo (nội hỏa) và chỉ cần khoác một chiếc áo vải. Ông hỏi Milarepa về cách tu tập tâm thức. Milarepa đáp lại rằng ông cần phải nhìn vào bản tánh của tâm. Bản chất của nó không bị tạo tác giống như không gian, không hiện hữu mà cũng chẳng phải là không hiện hữu. Không có gì cần phải làm với nó, nó chỉ an trụ. Đây là cách ta thực hành. Bản chất của tâm không bị tạo tác giống như không gian. Khi ta để mặc nó như nó là, ta nhận ra bản tánh của mọi hiện tượng (của vạn pháp). Các sự việc (vạn pháp) vẫn xuất hiện nhưng ta không bám chấp vào chúng và nhận ra rằng chúng không thể gây tác hại cho ta. Thật khó nhận ra rằng mọi hiện tượng đều trống không. Trước tiên ta phải nương tựa vào việc học tập, nghiên cứu và đọc tụng Kinh điển. Lúc đầu ta phụ thuộc vào sự hiểu biết nhờ việc lắng nghe và ta vẫn còn ý thức về ta và người. Nhưng khi ta nhìn vào bản tánh của tâm, ta nhận ra rằng nó không có sự hiện hữu chân thực. Khi đó bạn nhận ra rằng bám chấp của bạn không có nền tảng.

    Những hành giả sơ cơ khó có thể hiểu được điều này. Khi bạn nói một người không có tự tánh, họ sẽ bảo là bạn ngu đần. Nhưng khi bạn hiểu được bản tánh của một người, bạn sẽ thấu hiểu bản tánh của tất cả chúng sinh. Khi bạn hỏi họ người nào đó có phải là con người không, họ sẽ nói “phải”. Nhưng khi bạn hỏi rằng một xác chết có phải là con người không, họ sẽ nói “không”, tâm là con người. Nhưng khi bạn nghiên cứu về tâm thì nó là gì? Đức Phật nói rằng nó như một giấc mộng. Khi ta đi ngủ, ta thức dậy và nói giấc mộng không có thực. Cuộc đời hiện tại này hiện hữu như một giấc mộng. Sau khi ta chết, khi ta nhận biết, ta sẽ ở trong trạng thái bardo. Như thế nếu ta hiểu rằng những hiện tượng bên ngoài sẽ bị hủy diệt bởi vì tất cả chúng đều là những hiện tượng duyên hợp và vô thường, và những hiện tượng bên trong cũng vô thường, tâm sẽ trở nên an tĩnh và thanh thản. Các khoa học gia biết rằng các hiện tượng bên ngoài sẽ bị hủy diệt. Nhưng tâm sẽ không bao giờ thôi hiện hữu. Nếu ta nhận ra mọi hiện tượng đều vô thường, ta sẽ không có sự bám chấp hay sợ hãi. Vì thế Milarepa đã dạy rằng không có khác biệt giữa hạnh phúc và khổ đau. Khi ta không bám chấp vào các hiện tượng, tâm sẽ an trụ trong trẻo và không bị hoen ố. Khi ta nhận ra điều này, ước muốn thiền định cũng biến mất. Tâm ta vẫn như nó là, an trụ như không gian. Ta nhận ra tâm là tâm Phật và ta siêu vượt các niệm tưởng thực hành hay không thực hành. Nước là một ví dụ cho việc tất cả chúng sinh là Phật. Khi nước được dùng để giặt quần áo, nó trở nên dơ bẩn. Nhưng mặc dù dơ bẩn, nó vẫn là nước. Ta có thể lọc nước để làm cho nó trong sạch trở lại. Nhờ thực hành, tâm ta có thể được tịnh hóa và trở lại thành tâm Phật.

    Khi có ai nói rằng tôi không phải là một Phật tử và không cần giáo lý này, hãy giải thích cho họ rằng theo quan điểm của Phật giáo thì Phật vốn sẵn có trong tâm tất cả chúng sinh. Nếu ai đó nói rằng tôi không thể đạt được giác ngộ, thì suy nghĩ đó là không đúng bởi nguyên nhân của giác ngộ nằm trong tâm của tất cả chúng sinh. Ngay cả các hiện tượng bên ngoài cũng là Phật bởi chúng trống không.

    Garchen Rinpoche
    7 tháng Giêng 2007
    Trung tâm Thiền định Tây Tạng

    http://medicinebuddhasangha.org/teachings/milarepa.html
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  15. #15

    Mặc định

    Bốn che chướng:

    - Che chướng do vô minh (vô minh chướng): Tập quán bám chấp vào các sự việc như thật có, không nhận ra chân tánh của tâm, không nhận ra rằng các hành động và khổ đau không có tự tánh.

    - Che chướng do nhận thức (sở tri chướng): Sự bám chấp nhị nguyên, thấy có ta và người. Bởi ta đã sống vô lượng kiếp nên bám chấp này trở thành một tập khí, thành những dấu vết.

    - Che chướng do các cảm xúc phiền não (phiền não chướng).

    - Che chướng do nghiệp (nghiệp chướng): Những hành động được đặt nền trên các cảm xúc phiền não. Điều này tạo nên thân nghiệp.

    Tu hành thời mạt pháp thì ‘pháp nhược ma cường’, vì vậy chúng ta phải có khả năng để phân biệt được chánh tà. Ma chướng là gì ? Thật ra, ma chướng không phải nằm ở bên ngoài, ma chướng chính là những phiền não, tập khí ở trong tâm của chúng ta.

    Trong Kinh Bát đại nhân giác, Đức Phật cho biết có bốn loại ma. Thứ nhất là ma ngũ ấm. Ngũ ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Thứ hai là ma phiền não. Thứ ba là ma chết. Ma chết là chỉ cho con ma cướp mất mạng sống của một người tu học chưa thành tựu đạo quả. Nói đại khái là, đời nay tu học chưa thành tựu gì cả. Lúc tái sanh thì còn mê muội khi đầu thai, vả lại thân người khó được, đời sau không biết có được làm người hay không, được làm người không biết có được nghe Phật pháp hay không, cho nên con ma chết là một trong những con ma gây chướng ngại rất nghiêm trọng. Thứ tư là ma ba-tuần, tức là thiên ma. Nếu nói theo ngôn ngữ thời nay thì thiên ma chính là hoàn cảnh xã hội mà chúng ta đang sống.

    Bốn loại ma thì có hết ba loại là chủ tể thân tâm của chính mình. Do đây mà biết, nếu trong tâm chúng ta không có vọng niệm phân biệt, chấp trước thì cho dù con ma bên ngoài có mạnh cách mấy cũng không thể làm gì được. Ngoại cảnh bên ngoài nếu có thể gây chướng ngại cho chúng ta thì thật ra, nguyên nhân chính là do trong tâm của chúng ta có phiền não. Vọng tưởng phiền não là nội gián, là những con ma bên trong, nó làm gián điệp, khi gặp ngoại duyên nhiễm ô, thì trong ngoài hợp tác với nhau, từ đó con ma bên ngoài mới có cơ hội phát huy tác dụng. Nếu như nội tâm của mình thanh tịnh thì thế lực của con ma bên ngoài có mạnh cách mấy cũng không thể nào phát huy được tác dụng. Do đó, hàng phục ma chướng, điều quan trọng nhất là khắc phục phiền não, tập khí của mình. Điều cần phải chú ý là, chúng ta học Phật, tương lai sẽ thành Phật, thành Bồ-tát, chứ không phải thành yêu ma quỷ quái ! Điều này mọi người phải thời thời khắc chắc ghi nhớ, phải để vào trong tâm, luôn luôn cảnh tỉnh để tự mình chân chính giác ngộ ; người học Phật ngàn vạn lần ghi nhớ là để thành Phật, không phải để thành ma !

    Tại sao tôi phải nhấn mạnh điểm này ? Quý vị hãy bình tĩnh quan sát cái xã hội này đi, biết bao nhiêu người bạn đồng tu học Phật không hay không biết mình đang rơi vào đường ma. Những người ấy cũng có thiện tâm, cũng là người tốt, đáng tiếc là không hiểu được giáo nghĩa của Phật-đà, không có khả năng phân biết chánh tà, đúng sai, lại thêm không có được nhân duyên thù thắng, không gặp được chánh pháp ; hoặc có gặp được chánh pháp nhưng không có thiện tri thức, hiểu sai lệch nghĩa kinh điển, phiền não tập khí vẫn còn y nguyên như cũ, cho nên học Phật như vậy thì học đến trọn đời vẫn bị lạc vào đường ma. Đây là một việc vô cùng đáng tiếc, cho nên chúng ta không thể không lưu tâm, để ý, không thể không thận trọng. Muốn tu hành nhất định phải bắt đầu hạ thủ công phu từ chỗ đoạn trừ phiền não tập khí, tức là phải khắc phục những thói quan không tốt của mình, phải bồi dưỡng cái tâm thanh tịnh, bình đẳng, từ bi. Nếu lấy sự tu học này làm phương hướng, mục tiêu thì không dễ gì bị đoạ lạc vào đường ma.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  16. #16

    Mặc định

    Chúng ta tu học không thể thành tựu, và trong cuộc sống hằng ngày chúng ta không có được những lợi ích chân thật, nguyên nhân chủ là do ‘tình chấp’ của chúng ta quá nặng. ‘Tình’ là vọng tưởng, ‘chấp’ là chấp trước. Cho nên, nguồn gốc của mọi khổ đau vẫn là vọng tưởng, chấp trước. Trong kinh điển Đại thừa dạy chúng ta làm sao để hoá giải được ‘tình chấp’ ? Phương pháp hữu hiệu nhất là ‘phát tâm bồ-đề’. Chỉ có cách chân chính phát tâm bồ-đề thì mới hoá giải được ‘tình chấp’. Người ‘tình chấp’ nặng thì khởi tâm động niệm đều nghĩ đến lợi ích của bản thân mình, phàm những gì có lợi cho bản thân mình thì nghĩ hết cách, tận hết sức để chiếm đoạt, đối với những gì không có lợi ích cho bản thân mình thì nghĩ cách trốn tránh. Như vậy, vọng tưởng, tình chấp trong cuộc sống hằng ngày, không những chướng ngại sự tu học của bản thân mình mà còn chướng ngại phát triển trí tuệ của mình, làm cho mình không thể lãnh ngộ được ý nghĩa chân thật của Phật pháp. Đây chính là ‘nghiệp chướng’.

    Người phát tâm bồ-đề rộng lớn thì khởi tâm động niệm đều nghĩ ‘chúng sanh vô biên thệ nguyện độ’ ; nghĩ phải làm sao để giúp đỡ chúng sanh khai ngộ, giúp chúng sanh tu hành, giúp chúng sanh chứng quả. Giữ được cái tâm này thường xuyên thì ‘tình chấp’ tự nhiên giảm dần. Chúng ta có tâm từ bi rộng lớn muốn cứu độ chúng sanh thì phiền não vô tận cũng tự nhiên tiêu mất. Từ đó chúng ta sẽ có khả năng lãnh hội được ý nghĩa trong kinh đã dạy : ‘hoàn cảnh thay đổi theo tâm’. Trước đây cái tâm của mình là cái tâm tự tư tự lợi, bây giờ mình đem nó biến đổi, biến thành một cái tâm hoàn toàn vì lợi ích cho chúng sanh.

    Nếu cái tâm tự tư tự lợi còn tồn tại thì trong cuộc sống hằng ngày chắc chắn chúng ta sẽ còn đối đầu với nhiều oan gia trái chủ. Hơn nữa, trong vô lượng kiếp quá khứ chúng ta cũng đã gây thù chuốc oán với vô lượng vô biên chúng sanh, cho nên trong cuộc sống hiện tại, mỗi cử chỉ hành động đều gặp chướng duyên trắc trở với người này việc kia, những chướng duyên ấy chính là quả báo. Có quả đương nhiên phải có nhân. Bây giờ, chúng ta thay đổi tâm niệm, mỗi niệm mỗi niệm thay vì nghĩ đến lợi ích của bản thân, thì mình nghĩ đến lợi ích của chúng sanh, tức là mình thay đổi cái nguyên nhân từ gốc rễ. Thay đổi cái tâm niệm được rồi thì bao nhiêu oan gia trái chủ từ vô lượng kiếp đến nay đều hoá giải hết, từ đó mình có được công đức của tâm bồ-đề không thể nghĩ bàn. Nếu như mình có khả năng kiên trì tu tập, giữ gìn chánh niệm, lâu ngày thuần thục thì sẽ đạt đến cảnh giới mà người xưa thường nói : ‘sanh xứ chuyển thục, thục xứ chuyển sanh’ (chuyển chỗ sống thành chính, chuyển chỗ chín thành sống – ý nói chuyển những chủng tử, những hạt giống tốt trong tâm chưa chính thành hiện hành).

    Trước đây, khi chưa phát tâm bồ-đề, những phiền não, tập khí, tình chấp trong tâm chúng ta là chỗ chín, khi đó, chúng ta chưa cần tác ý, chỉ mới khởi tâm động niệm thì tình chấp lập tức xuất hiện. ‘Bồ-đề tâm’ tức là tâm của chúng sanh, cái tâm này rất bạc nhược, thường xuyên thay đổi. Công phu tu tập của Bồ-tát không có gì khác biệt, chính là đem cái tâm chúng sanh này chuyển biến cho thành thục, cho chín muồi ; đem cái tâm tự kỷ từ vô lượng kiếp đến nay chuyển thành cái tâm ban sơ (chưa có tình chấp). Nếu có thể dùng phương pháp này để quán tưởng thì đó chính là sự giác ngộ chân chính, sự tu hành chân chính. Sự tu tập này tự nhiên làm cho tình thức tiêu trừ và đạt đến cảnh giới như trong Kinh Kim cương đã nói, là ‘phá bốn tướng, phá bốn kiến’. Bốn tường là phân biệt, chấp trước. Bốn kiến là mê tình, vọng tưởng.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  17. #17

    Mặc định

    Trong Kinh Hoa nghiêm có nói : ‘Tất cả mọi chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng, trí tuệ của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng, chấp trước nên không thể chứng đắc’. Vọng tưởng tức là ‘bốn kiến’, chấp trước tức là ‘bốn tướng’. Chúng ta có thể phát đại tâm, tu đại hạnh, thì bốn tướng, bốn kiến tự nhiên tiêu trừ lúc nào không hay biết, và tự nhiên khế nhập được cảnh giới của chư Phật, Bồ-tát, tức là thể nhập ‘nhất chân pháp giới’. Nếu lấy công hạnh này để niệm Phật cầu sanh Tịnh độ thì đương nhiên được vãng sanh lên bậc thượng phẩm thượng sanh, sự thành tựu thật không thể nghĩ bàn. Sự thành tựu này giúp chúng ta, ngay trước khi vãng sanh, ngay trong cuộc sống hiện tại này, hưởng được một cuộc sống hạnh phúc mỹ mãn, với một thái độ thong dong, nhìn sâu, buông xả, tự tại, tuỳ duyên, hạnh phúc, đồng thời khiến cho nhiều người nhìn thấy đều ngưỡng mộ, cung kính, giác ngộ và phát tâm tâm tu học theo chúng ta. Sự phát đại tâm, tu đại hạnh như vậy thì đồng với chư Phật và Bồ-tát thị hiện ở cõi đời này để tự mình tu tập và giáo hoá người khác tu tập, không có gì khác biệt.

    28



    Thuở tôi còn công tác trong nhà trường, trước đây là do tiên sinh Chu Bang Đạo làm hiệu trưởng, ông từng lấy thân phận của một đốc học của bộ giáo dục quay trở lại trường hai lần. Trong hai lần ấy tôi đều thấy mặt ông hiệu trưởng. Nhưng sau này, tôi được thân giáo với ông một thời gian khá dài tại Đài Loan. Đó là năm 1958, tôi từ bỏ công tác, đến Đài Trung để thân cận và học Phật với cư sỹ Lý Bỉnh Nam. Bấy giờ ông hiệu trưởng cũng ở tại Đài Trung, đảm nhiệm khoa Nông học. Ông ta cũng học Phật, vậy là chúng tôi gặp nhau và mối quan hệ trở nên thân thiết.

    Tại Đài Trung, cư sỹ Lý sáng lập Từ Quang Đồ Thư Quán, ông hiệu trưởng cũng là một người đồng sự. Sau khi xuất gia, tôi trở lại Đài Trung cầu học, ông hiệu trưởng khích lệ tôi rất nhiều. Ông nói việc học chưa thành thì quyết không rời khỏi bậc thiện tri thức, việc học đạo quan trọng nhất là phải có kiên nhẫn, thầy Lý là một đại thiện tri thức hiếm có trong thời đại này, chúng ta có duyên được thân cận, thật là một đại hạnh !

    Tại Từ Quang Đồ Thư Quán mỗi tuần có ba buổi giảng kinh, ông hiệu trưởng đến nghe giảng không vắng một buổi, ông nghe giảng kinh không những rất chú tâm mà còn ghi chép cẩn thận, thật tại mà nói, đối với chúng tôi, ông là một tâm gương học tập vĩ đại. Khó khăn lắm thầy Lý mới mở được một ban Phật pháp, bồi dưỡng nhân tài giảng kinh tại Liên Xã, Đài Trung. Khi tôi đến Đài Trung thì cơ duyên đã rất tốt, cũng được tham gia vào ban này. Các bạn đồng học trong ban đều là những người mới có trình độ sơ đẳng Phật học, đương nhiên cũng là lần đầu tiên học giảng kinh. Khi ấy, tất cả chúng tôi có khoảng hơn 20 người, tuổi tác đều đã lớn mà chương trình học lại rất thấp, trong đó nội dung cơ hồ hết một phần ba là trình độ tiểu học. Người tuổi lớn nhất là cư sỹ Lâm Khán Trị, bấy giờ tuổi đã ngoài 60, cũng phải học trình độ tiểu học.

    Thầy Lý chia nam, nữ thành hai chúng để tập luyện giảng kinh. Chúng nam thì luyện giảng vào ngày thứ hai tại chùa Linh Sơn, Đài Trung. Chúng nữ thì luyện giảng vào ngày thứ sáu tại Liên Xã, Đài Trung. Lúc các học sinh luyện giảng, ông hiệu trưởng cũng đến nghe giảng mỗi ngày, và cũng rất chú tâm, cũng cùng một thái độ như khi nghe thầy Lý giảng kinh.

    Phát bồ đề tâm tức tự biến mình thành Người hoàn toàn khác , không còn là chúng sinh mà là một vị thừa nguyện tái lai , mọi thứ đều vì chúng sinh cho nên mọi hạt giống bất thiện hay nghiệp duyên bất thiện đều trở thành hạt giống Bồ Đề và thành Pháp duyên đạo bạn.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  18. #18

    Mặc định

    Kinh nói : ‘Tất cả các pháp hữu vi đều như một giấc mộng, như trò ảo thuật, như bong bóng nước, như ảo ảnh’. Những câu kinh này đã giúp chúng ta lãnh ngộ sâu xa ý nghĩa của Phật pháp. Chỉ cần y theo lời dạy đó mà thực hành, y theo kinh đã nói mà ‘thọ trì, đọc tụng, giảng dạy cho người khác nghe’ thì chúng ta mới hoàn thành sứ mạng, và đó cũng là sanh mạng của chúng ta. Chỉ có làm như vậy mới có thể báo đáp được ân đức của chư Phật và thầy Tổ, mới có thể báo đáp được thâm tình của bạn hữu đồng tu. Đồng thời, tôi cũng nhân sự kiện này mà khích lệ các bạn đồng tu đang hiện diện ở đây, rằng mạng sống của con người xác thật chỉ có trong một hơi thở, vạn sự vạn vật đều chuyển biến vô thường, cho nên phải thời thời khắc chắc cảnh giác, nhận chân sự thật để nỗ lực tu học, trước mắt thì có thể tiếp nối tuệ mạng Phật pháp, sau này thì có thể vãng sanh Tịnh độ. Làm được như vậy mới không uổng phí một kiếp người mà phải có nhân duyên lớn lắm, hy hữu lắm mới có được.

    những lời cảnh cáo về những nguy cơ tiêu cực của xã hội hiện tại, với mục đích là hy vọng xã hội loài người đề cao cảnh giác, sáng suốt tìm ra nguyên nhân để tiêu trừ tai nạn, kỳ vọng có thể cứu vãn nhân loại thoát qua khỏi kiếp nạn, hoặc chí ít cũng có thể làm cho thời gian xảy ra kiếp nạn này chậm lại một chút, hoặc làm cho kiếp nạn giảm nhẹ lại đôi ba phần. Đây có thể nói là những nhân sỹ, trí thức có tấm lòng thương nghĩ đến nhân loại, biết rõ có những việc không thể làm mà vẫn cứ làm, cũng có thể nói họ có tâm bồ-đề, tâm bồ-tát rất vững mạnh, thật khiến cho người ta kính phục. Tuy nhiên, sự thật khách quan đã phơi bày ra trước mắt, là nguy cơ của kiếp nạn này, chính như cư sỹ Lý Bỉnh Nam trước khi vãng sanh đã có nói, ‘ngay cả chư Phật, Bồ-tát, thần tiên có hạ phàm cũng không có cách gì để cứu vãn được’.

    Chúng ta muốn thoát khỏi kiếp nạn này cần phải chuyển hoá nó từ căn bản. Căn bản hay cái nguyên nhân của kiếp nạn này là do chúng sanh đã nhận thức sai lầm về vũ trụ nhân sanh nên dẫn đến mê hoặc điên đảo, hình thành nên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước nghiêm trọng. Đây chính là nguyên nhân tạo thành nguy cơ kiếp nạn ngày nay. Vậy làm thế nào để có thể khiến cho tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ ? Chỉ có cách làm cho tất cả mọi chúng sanh giác ngộ, hiểu rõ nhân quả, bỏ thói thị phi, sửa đổi lỗi lầm, bỏ ác tu thiện thì mới có thể vãn trừ được kiếp nạn. Do đây mà biết, giáo dục của Phật-đà là một thứ lương dược tuyệt đối hữu hiệu. Không những tự bản thân chúng ta cần phải tận lực thọ trì, đọc tụng, vì người khác diễn thuyết, mà còn phải tập hợp những người cùng chung chí hướng, những bạn đồng tu hợp sức với chúng ta để tận lực phát huy giáo lý Phật giáo Đại thừa, thì hy vọng có thể có chuyển biến hiệu quả. Tại Đài Loan đã có không ít những bạn đồng tu có nhiệt tâm rất lớn, đã huy động mọi người cùng góp sức truyền bá chánh pháp, đặc biệt là lợi dụng phương tiện truyền thông, mạng lưới toàn cầu để truyền bá cho nhanh chóng và hữu hiệu.

    Một địa phương có nhiều người tiếp nhận sự giáo dục của Phật-đà thì chắc chắn xã hội ở đó được hoà bình, vì tâm lý phân biệt chấp trước cùng với những vọng tưởng điên đảo của mọi người đều được giảm thiểu. Trong kinh Phật thường dạy : ‘Y báo sẽ thay đổi theo chánh báo’. Điều này là sự thật. Nếu như chúng ta để tâm yên tĩnh quán sát sẽ thấy rằng, trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, trong mọi việc xử thế, đối người, tiếp vật, chúng ta đều có thể hiểu rõ và chứng thật những lời dạy của Đức Phật đều đúng với sự thật. Ngày nay, nhân loại trên toàn thế giới đều có chung một vận mệnh. Trong quá khứ, tại nạn chỉ có tính chất cục bộ, trong phạm vi nhỏ. Còn bây giờ, tai nạn đã có tính chất toàn cầu. Do đó, đối tượng hoằng pháp của chúng ta không thể tiếp tục hạn cục trong một địa phương nữa, mà đòi hỏi chúng ta phải có tư tưởng đột phá ra khỏi giới hạn của địa phương, đột phá ra khỏi phạm vi quốc gia, chủng tộc, tôn giáo, tín ngưỡng… cần phải có tinh thần niệm tưởng đến tất cả mọi chúng sanh. Dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm đại từ đại bi để giúp đỡ tất cả mọi chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui ; cần phải đem sứ mạng này biến thành sanh mạng của chúng ta. Sanh mạng và sứ mạng kết hợp thành một thể, quyết không tách lìa. Cần có thái độ và nhận chân được sứ mạng Đức Phật đã dạy cho chúng ta để nỗ lực thực hành. Giống như Kinh Kim Cương đã nói : ‘Không nắm bắt các tướng, như như bất động’, và ‘nên ở nơi không có chỗ trụ mà phát khởi tâm’. Làm được như vậy chúng ta mới có hy vọng thay đổi được hoàn cảnh hiệu quả, mới không trở ngại công việc niệm Phật vãng sanh Tịnh độ, và đây là việc làm chân chinh tự lợi lợi tha viên mãn.

    Chúng ta nếu có những lý giải như vậy, khẳng định như vậy, y theo lời Phật dạy mà phụng hành thì con đường phía trước tự nhiên sáng tỏ, quả báo tự nhiên được thù thắng, hạnh phúc nhất định mỹ mãn. Đây là những lời dạy chân thật của chư Phật và Bồ-tát giành cho chúng ta, nếu chúng ta có thể tin sâu vào những lời dạy này không chút nghi ngờ, y theo lời dạy mà thực hành thì có thể thay đổi được mệnh vận, cải tạo được thể chất, thay đổi được hoàn cảnh sanh hoạt. Hoàn cảnh sanh hoạt tức là phong thuỷ, nó đều nằm trong một ý niệm của chúng ta mà thôi. ‘Chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi’ lưu lộ từ đức tánh của chúng ta. Từ tự tánh biến hiện ra cảnh giới, đó là cảnh giới mà chư Phật và Đại Bồ-tát đã thân chứng. Do đây có thể biết, vào trong cảnh giới của chư Phật không phải là việc khó không thể làm được, điều quan trọng là phải hiểu rõ đạo lý và chân tướng sự thật, y theo lời dạy mà tu hành, thì không có việc gì là không thành tựu. Nguyện tất cả mọi người đồng học đều được thành tựu vậy !
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  19. #19

    Mặc định

    Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra.

    1- Thức biến

    Duy Thức tông, y cứ vào kinh, nói: Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức.

    Chúng ta hãy lấy một thí dụ cụ thể và đơn giản. Tôi đang thấy một cây dừa. Tại sao nói cây dừa này là do thức biến ?

    Trước hết là năm thức của giác quan (tiền ngũ thức). Nhãn thức do sự tiếp xúc, tương tác của căn (giác quan mắt) và trần (đối tượng hiện diện với con mắt) mà sanh khởi. Đây là một liên hệ duyên sanh. Căn trần thức là một bộ ba duyên sanh, nương dựa vào nhau mà có. Thiếu một cái thì chẳng thành cái gì cả, một cái biến đổi thì hai cái kia biến đổi theo. Nhãn thức như thế này của tôi là do nhãn căn (con mắt) được cấu tạo theo kiểu loài người mà có, và trần (đối tượng để thấy và được thấy) cũng tùy thuộc vào nhãn căn của tôi. Trần là trần của một loại nhãn căn nào đó, không có một cái trần khách quan tuyệt đối, như cây dừa, con chó chỉ thấy hai màu đen trắng, con rắn thì thấy bằng hơi nóng (như chúng ta nhìn qua ống nhòm hồng ngoại tuyến), con dơi thì thấy bằng sóng điện như ra đa… Giác quan mắt của mỗi loài khác nhau nên đối tượng được thấy cũng khác nhau.

    Trần là trần đối với một loại giác quan nào đó, không có một trần khách quan tuyệt đối. Và Thức cũng lả thức của một loại giác quan và một loại trần nào đó do hệ thống cấu tạo của giác quan quy định.

    Như vậy cấp độ biến thứ nhất là sự khác biệt của các nhãn căn của các loài khác nhau, đưa đến nhãn thức khác nhau. Nhưng năm thức giác quan chỉ là những dữ liệu nguyên sơ, phải có ý thức để đối tượng được định hình rõ hơn. Ý thức là nhận thức bằng phân biệt, so sánh dựa vào trí nhớ và cả trí tưởng tượng. Ý thức này cũng phân biệt chủ thể và đối tượng, ngã và pháp.

    Bắt đầu ở ý thức này mà có thương ghét, có thiện ác, xấu tốt, có phiền não, có ý chí, có hôn trầm, có niệm, có định… Chức năng của ý thức là suy nghĩ, tập trung và tưởng tượng. Ý thức là chức năng chính yếu của con người. Thế giới ngày nay có một góc nào mà không có sự sắp đặt, sáng tạo ý thức con người ?

    Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi nhiều hơn gây ra méo mó khác biệt hơn, nhiều “ô nhiễm” cho tâm thức hơn. Chẳng hạn, cũng lấy ví dụ cây dừa, nếu hồi nhỏ tôi trèo lên gặp rắn rồi té Lớn lên uống nước dừa thường đau bụng. Thế nên, hình ảnh cây dừa gây cho tôi một ngại ngùng so với các cây khác. Sự bất bình đẳng, sự méo mó, đậm nhạt trong ý thức của tôi đã có từ những kinh nghiệm rất riêng tư của tôi đối với đời sống. Cây dừa không còn là cây dừa khách quan nữa. Nó đã bị biến đổi theo kinh nghiệm chủ quan của tôi. Và cứ thế, tất cả mọi sự vật của cuộc đời này đều bị biến đổi theo kinh nghiệm chủ quan của tôi.

    Thế giới trở thành “toàn là gò đống, hầm hố, chông gai sõi đá, núi non, dơ bẩn đầy dẫy”, như ngài Xá-lợi phất đã nói trong phẩm Phật quốc, mở đầu cho kinh Duy- ma- cật. Cách giải quyết vấn đề là: “ Đấy là do tâm ý của ngài có cao có thấp, không nương theo trí tuệ Phật mà thấy cõi này vốn là thanh tịnh. Thưa ngài Bồ-tát đói với tất cả chúng sanh thảy đều bình đẳng, thâm tâm thanh tịnh y theo trí tuệ Phật,nên thấy cõi Phật này là thanh tịnh”. Đức Phật kết luận “ Bồ-tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh, phải làm cho tâm thanh tịnh, tùy theo tâm thanh tịnh đến đâu thì cõi Phật thanh tịnh hiện ra đến đó”.

    Như vậy, năm thức giác quan và ý thức – sáu thức luận này Thành Duy Thức gọi là liễu biệt cảnh – đã biến đổi thực tại thành không gian và thời gian riêng của chúng, thành một cái tôi chủ quan và một thế giới chủ quan mà chúng lầm tưởng là bên ngoài chúng.

    Cũng chính ý thức là tác nhân chủ yếu biến đổi trở lại thế giới méo mó của nó thành thế giới thực tại. Đó là con đường phân bổn hoàn nguyên, con đường của đạo Phật, con đường giải thoát khỏi ngã và pháp vọng tưởng để thấy ra thực tại không có ngã và pháp. Nói theo Duy thức học, đó là con đường xa lìa biến kế sở chấp cánh để trở lại Viên thành thật tánh.

    Thức biến thứ bảy là Mạt-na thức còn gọi là Ý. Thức này là sự phân biệt vi tế – mà luận Thành Duy Thức gọi là tư lương – phân biệt không cần có ý thức, phân biệt một cách vô thức – Mạt –na là sự chấp ngã vi tế, theo luận Thành Duy Thức thì thức này “Tương ưng bốn phiền não, là ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái”.

    Sinh ra đời cảm nhận có tôi (mạt-na thức) rồi với thời gian, với sự hổ trợ của ý thức và năm thức giác quan, cái tôi càng ngày càng rõ nét, càng cứng đặc, phân biệt gay gắt, tạo thành những bức tường ngăn cách tôi với thế giới, với người khác. Nhưng dù tôi không cố tình phân biệt (ý thức), thì cái mạt-na này vẫn liên tục âm thầm hoạt động kể cả trong giấc mộng hay trong thiền định.

    Thức biến thứ tám là A-lai-da, thức căn bản, thức nền tảng của bảy thức trước. Nó bao gồm, chứa đựng bảy thức trước. Nó dược gọi là hàm tàng thức, chứa đựng giử gìn tất cả mọi kinh nghiệm, mọi hành động (nghiệp), mọi khuynh hướng, ước muốn, mọi hoạt động tốt xấu đã gieo trong tất cả mọi kiếp sống. Nó được gọi là “dị thục”, vì nó giữ gìn nhân để chín muồi (dị thực) thành quả. Nó còn được gọi là “nhất thiết chủng” vì nó thu nhận và giữ gìn tất cả các hạt giống.

    A-lại-da là vô phú và vô ký. Phú nghĩa là nhiễm ô, bất tịnh. Nó không nhất định là nhiễm ô, bất tịnh vì nó có thể mang giữ hạt giống thnh tịnh, không nhiễm ô. Nó là vô ký vì nó không nhất định là thiện hay bất thiện. Vì hai tính chất này, nó như một kho chứa vô thức, không chọn lựa, mà các tức trước muốn bỏ vào đó thứ gì cũng được, nó chỉ việc mang giữ để chờ chín thành quả. Thỉnh thoảng không vì lý do gì, không có sự kích động của ý thức và năm thứ giác quan, một hình ảnh xa xôi nào đó lại khởi lên. Đó là sự biểu lộ của những hạt giống khuất xa đâu đó trồi lên trên bề mặt của ý thức.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  20. #20

    Mặc định

    những phương pháp thực hành của Phật giáo đều đề: “chuyển sanh tử thành Niết –bàn”. Chuyển thấy lầm con rắn “trở thành” thấy đúng sợi dây thừng”. Chuyển cái thấy phân biệt “tất cả chỉ là sóng xung đột nhau” thành cái thấy “tất cả sóng đều là nước đại dương một vị ”Chuyển tâm thức đóng băng cứng đặc trở lại thành nước, chuyển muôn ngàn bóng thương ghét trở lại thành gương. Thấy hoa đốm loạn xạ giữa hư không cũng chính là hư không … chuyển tướng thành tánh, thấy tất cả tướng thành tánh.

    Như một kỷ năng để nhận diện bản chất tự nhiên của tâm, đầu tiên dừng suy nghĩ về những gì đã xảy ra trong quá khứ, rồi thì dừng suy nghĩ về những gì có thể xảy ra trong tương lai, hãy để tâm tuôn chảy phù hợp với chính nó mà không có sự phủ lên của tư duy. Hãy để tâm ngừng lại trong thể trạng tự nhiên của nó và quán xét nó trong một lúc.

    Khi, thí dụ, quý vị nghĩ một tiếng động, giữa lúc nghe nó và nhận thức nguồn gốc của nó, chúng ta có thể cảm nhận thể trạng của tâm trống rỗng tư tưởng nhưng không phải ngủ, trong điều mà đối tượng là một sự phản chiếu của sự rực rở và tri nhận của tâm. Tự nhiên căn bản của tâm có thể được nắm bắt tại một điểm như vậy. Vào lúc bắt đầu, khi chúng ta không quen với sự thực tập này, thì thật là khó khăn, nhưng đúng lúc tâm sẽ xuất hiện như nước trong vắt. Hãy cố gắng để trụ với thể trạng này của tâm mà không bị xao lãng bởi những tư tưởng nhận thức và tập cho quen thuộc với nó.

    Thiền tập đề mục này vào buổi sáng sớm, khi tâm chúng ta đã tỉnh giấc và trong sáng, nhưng những giác quan của chúng ta chưa hoạt dộng hoàn toàn. Cũng lợi ích nếu không ăn quá nhiều tối đêm qua, cũng không ngủ quá nhiều: giấc ngủ của chúng ta sẽ nhẹ nhàng hơn và điều này làm cho tâm thư thái hơn cũng như sắc bén hơn vào sáng hôm sau. Nếu ăn quá nhiều, giấc ngũ sẽ dày và nặng, gần giống như thây ma. Trong việc tu tập hằng ngày, tôi ăn no nê vào lúc điềm tâm và buổi trưa nhưng chỉ ăn chút ít vào buổi tối - ít hơn nửa chén hạt dẻ hay bánh quy dòn; rồi tôi lên giường sớm và thức dậy lúc năm giờ ba mươi vào buổi sáng để bắt đầu thiền tập.

    Thấy đấy nếu chú ý đến bản chất của tâm vào buổi sáng sớm tâm chúng ta sẽ tỉnh giác hơn suốt ngày. Tư tưởng chúng ta chắc chắn sẽ tĩnh lặng hơn. Trí nhớ của chúng ta sẽ cải thiện nếu chúng ta có thể thực tập một ít thiền quán mỗi ngày, rút lui khỏi tâm phân tán. Tâm nhận thức quanh quẩn trong việc suy nghĩ những chuyện tốt, những chuyện xấu, v.v... sẽ được ngơi nghĩ. Một chút không phân biệt có thể cung ứng một sự ngơi nghĩ cần thiết rất nhiều.

    Thiền Quán

    1- Không nghĩ về những gì đã xảy ra trong quá khứ hay những gì có thể xảy ra trong tương lai.

    2- Hãy để tâm tuôn chảy thích hợp với nó mà không suy nghĩ.

    3- Quán chiếu bản chất rực rở trong sáng của tâm.

    4- Trụ với kinh nghiệm này trong một lúc.

    Chúng ta có thể thực tập những đề mục này trong khi nằm trên giường vào buổi sáng, tâm chúng ta tỉnh thức nhưng những giác quan của chúng ta chưa hoạt động hoàn toàn.

    ĐỐI KHÁNG NHỮNG RẮC RỐI

    Bây giờ chúng ta hãy nhìn vào những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng chẳng hạn như thèm khát, thù hận, và ganh tỵ. Tất cả bọn chúng tùy thuộc trên sự tin tưởng sai lầm ban đầu rằng những đối tượng tồn tại như những thực thể độc lập, trái lại trong thực tế chúng không như thế. Qua năng lực của si mê như vậy, tất cả những cảm xúc buồn khổ này sinh khởi. Nhưng như chúng ta đã thấy, khi chúng ta phân tích thì có phải nổi si mê này và những rắc rối tháp tùng của nó là bản chất bên trong của chính bản tâm không, chúng ta thấy, như đại luận sư Ấn Độ Dharmakirti đã nói, "Bản chất của tâm là ánh sáng trong suốt, Tịnh Quang, hay linh quang. Những nhiễm ô là bề ngoài (khách trần phiền não)." Bản chất của thức vi tế sâu xa nhất là tinh khiết. Giận dữ, dính mắc, v.v... thuộc ngoại biên và không tồn tại trong căn bản của tâm. Chúng ta gọi điều này, nền tảng bẩm sinh của tâm là ánh sáng trong suốt, Tịnh Quang, hay linh quang. Bởi vì nó làm cho giác ngộ hiện thực, nó cũng được gọi là Phật tính. Nó hiện hữu tại gốc rể của tất cả thức. Cũng thế, tất cả chúng ta có một trình độ nào của bi mẫn, mặc cho những sự khác biệt trong sự phát triển và kiến thức, và tất cả chúng ta có một sự thông tuệ phân biệt giữa tốt và xấu. Đây là tất cả những điều kiện cho giác ngộ.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. DU GIÀ BỒ TÁT GIỚI BỔN
    By maihoa in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 29-07-2011, 08:57 AM
  2. BÍ MẬT THÚ VỊ VỀ LINH HỒN LUYỆN NGỤC
    By satyaa in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 28-04-2011, 10:26 PM
  3. Tranh nhân quả
    By jmmy198x in forum Đạo Phật
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 05-02-2011, 04:21 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •